Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hãy Làm Người Biết Lắng Nghe

Lắng nghe là cả một nghệ thuật. Đó không chỉ đơn thuần là nghe qua. Nó đòi hỏi người nghe phải biết chủ động trong buổi nói chuyện cũng như biết cách kết hợp một số kĩ năng và kĩ thuật nhất định. Dưới đây là một vài mẹo vặt và những phương pháp bạn có thể áp dụng để trở thành một người biết lắng nghe thực sự, một người mà người khác luôn muốn trò chuyện.   Trong cuộc sống, có những điều tưởng chừng như rất nhỏ mà ta thường dễ bỏ qua, nhưng nếu để ý thì chúng ta lại thấy rằng nó có một ý nghĩa vô cùng lớn. Và lắng nghe là một trong những điều như thế. Vì vậy, mỗi người chúng ta hãy cố gắng học cách lắng nghe để có thể trở thành một người biết lắng nghe. Điều này sẽ giúp ích cho chúng ta rất nhiều trong cuộc sống. *** CHA ĐỪNG ĐI NỮA Một cô giáo nhiều năm đảm nhiệm chức chủ nhiệm lớp nói rằng, hội phụ huynh, nhưng thực tế mỗi lần họp phụ huynh, số bà mẹ luôn nhiều hơn số các ông bố rất nhiều, trong mắt bà, “Hội phụ huynh” nên gọi là “Hội các bà mẹ” mới chính xác. Khi đến thăm các gia đình, cũng rất hiếm khi gặp gỡ cha của các em, phần lớn thời gian là các bà mẹ tiếp cô giáo, cùng trao đổi tình hình học tập của con cái. Có thời gian mấy năm liền bà đảm nhiệm chủ nhiệm lớp một, hội phụ huynh đã tổ chức họp phụ khuynh vô số lần, và bà cũng đến thăm gia đình rất nhiều lần, nhưng có khá nhiều ông bố bà chưa từng gặp. Một tài liệu nghiên cứu cho biết, Trung tâm Nghiên cứu Thiếu niên nhi đồng thành phố Thượng Hải từng làm một đề tài về “Mong muốn của nhi đồng”, trong phiếu điều tra, các cháu bé khi được hỏi “Điều trong lòng mình nghĩ muốn nói cho ai nghe nhất”, số chọn người cha chỉ có 7%, trong khi tỉ lệ chọn người mẹ lên cao đến 61%. Nhưng mà vấn đề tương tự: “Nếu như đã có tâm sự, bạn muốn thổ lộ với ai?” trong khi hỏi 200 học sinh của thành phố Án Sơn tỉnh Liêu Ninh, 58% học sinh muốn đem tâm sự nói với người bạn tốt nhất đầu tiên, 18,9% chọn nói với mẹ, mà chỉ có 4% chọn cách thổ lộ với bố. Cũng giống như ở Án Sơn, có người đã đưa ra một tập câu hỏi điều tra đến phụ huynh của những đứa trẻ mẫu giáo: “Trách nhiệm của cha mẹ đối với nhiệm vụ giáo dục con cái là ai?” Trong một lớp có 41 đứa trẻ thì: chọn “người cha gánh vác trách nhiệm” có 6 em, chọn “ông bà” có 5 em, chọn “người khác” có một em, còn lại đều chọn “người mẹ gánh vác trách nhiệm chủ yếu”. Ngày 13 tháng 2 năm 2006, câu lạc bộ hội phụ huynh đầu tiên của thành phố Án Sơn được thành lập. 50 đại biểu phụ huynh nhận được lời mời tham gia hoạt động ngày hôm đó, trong đó chỉ có 9 ông bố tham gia, nhưng họ quá giữ ý, rất ít hoạt động, phần lớn thời gian các bà mẹ đưa ra các câu hỏi. Từ đó chúng ta có thể thống kê, tại các loại hình hội phụ huynh, các hoạt động của người thân của bọn trẻ, đón tiếp ở gia đình hoặc những bài giảng giáo dục trong gia đình, hoạt động nhiều nhất của người cha không vượt quá ba phần mười số các phụ huynh trong gia đình. Vậy người cha đang làm gì? Khi việc quản lý giáo dục trong gia đình, tham gia các hoạt động đều giao cho người mẹ? “Bố nó hầu như không chăm sóc con cái, từ nhỏ đến lớn đều một tay tôi lo lắng”. Đây là lời bà mẹ của đứa trẻ 13 tuổi, điều này đã cho thấy tình trạng giáo dục trong tuyệt đại đa số các gia đình. Cũng có thể nói rằng, các ông bố rất hiếm khi bỏ công sức để ở bên cạnh con cái. Một đứa trẻ học hết lớp ba nói, công việc của cha bận, trong nhiều năm nay thường vào buổi tối khi cậu đã đi ngủ rồi cha cậu mới trở về nhà, mà buổi sáng khi cậu đi học, cha cậu vẫn chưa ngủ dậy. Đến cuối tuần, cậu cũng rất ít khi gặp cha. Bởi vậy, từ những ngày đi học, đối với việc học khi cần phụ huynh, cậu đều tìm đến mẹ. Những việc khác, cũng đều nói với mẹ. Cậu bé than thở: “Cháu cần một ông bố để làm cái gì? Cứ như là không có vậy!” “Người cha không chăm sóc con cái”, ở các nước Phương Đông dường như đã trở thành một hiện tượng phổ biến. Các ông bố vì sao lại không “nhiệt tình” đối với việc giáo dục con cái như vậy? Thứ nhất, do họ chịu một số ảnh hưởng của quan niệm truyền thống “Nam lo việc xã hội, nữ lo việc gia đình”. Cho dù hiện nay phụ nữ và nam giới cùng ra bên ngoài làm việc như nhau, thế nhưng khi về đến nhà, mọi việc trong nhà vẫn như xưa là do người phụ nữ lo lắng và chủ trì, bao gồm việc chăm sóc gia đình con cái. Do vậy, rất nhiều người nghĩ rằng: quản lý con cái là việc của các bà mẹ, trách nhiệm chủ yếu của người cha là kiếm tiền nuôi gia đình, vì con cái mà tạo ra một môi trường lớn lên tốt, lo lắng tốt cho con cái những chuyện to tát khi lớn lên, vì con cái mà gánh vác trách nhiệm nặng nề. Người đàn ông có quan điểm như vậy, không biết chủ động quan tâm chăm sóc con cái; mà người phụ nữ cũng có quan điểm như vậy, sẽ ngăn cản việc người cha quan tâm chăm sóc con cái, mà là thúc giục người đàn ông đi làm “đại sự”, “chính sự”. Rất nhiều người đã làm cha cho rằng việc nuôi dưỡng gia đình và con cái là việc của người phụ nữ, cho nên đem trách nhiệm giáo dục con cái phó mặc hết thảy cho mẹ chúng. Từ góc độ người phụ nữ mà nói, từ ngày mang thai, rất nhiều phụ nữ dường như đã không muốn các ông chồng nhúng tay vào việc giáo dục con cái, vô hình chung nhận hoàn toàn trách nhiệm giáo dục về mình. Nhà nghiên cứu tâm lí học Đông Tử nói: Tôi đã từng cùng một vị trí thức thảo luận về vấn đề giáo dục gia đình, thấy ông ta có rất nhiều kiến giải, thế là cổ vũ tôi có thời gian viết một cuốn sách về phương diện này, đem những kiến giải của mình công bố cho nhiều vị phụ huynh hơn. Thế nhưng vị trí thức này nhíu mày nói: “ừ, tôi nói thế thôi, không có ý gì đâu. Những kiến giải này của tôi trong gia đình đều không có ai coi trọng, còn có thể được người ngoài coi trọng sao?” Tôi cảm thấy kỳ lạ, ông ta giải thích, trong gia đình, vợ không để cho ông lo vấn đề giáo dục con cái, có những lúc ông muốn nói mấy câu, bà vợ còn không để cho ông nói. Ông ta tự chế giễu mình nói: “về phương diện quản lí và giáo dục con cái, trong gia đình tôi bày đầy một giá toàn là sách. Bà vợ còn tặng tôi một câu ví von rất xác đáng: Trong nồi đầy những bong bóng cá”. Thứ hai, chịu ảnh hưởng của đặc điểm sinh lý. Về mặt dưỡng dục con cái, vì nguyên nhân về mặt sinh lý, nhất định người vợ cũng phải bỏ ra nhiều công sức hơn so với người chồng. Kéo dài thời gian xa hơn một chút, tính từ khi đứa con bắt đầu ở trong bụng người mẹ, có vẻ như không có chuyện của ông bố. Người mẹ 10 tháng mang thai, mang nặng đẻ đau, trong khi ông bố khi cần làm việc thì làm việc, khi cần vui chơi thì vui chơi. Thi thoảng nhàn rỗi ghé sát vào bụng vợ nghe xem động tĩnh của bé cưng, sờ vào cái bụng tròn của vợ cảm nhận tình cảm nồng ấm của bé cưng. Dưa chín thì rụng, khi đứa trẻ ra đời, có thể trong tháng đầu chăm sóc đứa trẻ, giặt tã lót cho uống sữa... một loạt tình cảm đều có một người chuyên giúp việc nếu người cha xắn tay áo giúp đỡ, cũng sẽ có người ngăn trở: “Tránh ra, người cha sao phải làm việc này?” Đứa trẻ dần dần lớn lên biết bò rồi, biết chạy rồi, biết gọi bố gọi mẹ rồi, biết hát rồi, đi nhà trẻ rồi, đi học tiểu học rồi... Phục vụ tất cả việc ăn uống vệ sinh ngủ nghỉ, có mẹ chăm sóc, không có bố, dường như đều sẽ không sao cả. Cho nên dân gian có câu nói rất phổ biến: “Yên ổn theo mẹ có cơm ăn, không theo cha làm quan”. Ý nghĩa của câu nói dưới đây rất rõ ràng, cần có cơm của mẹ mới chăm sóc tốt cho con, cha đi làm quan lại có khả năng con cái bị đói rét. Có như vậy, bởi vì từ khi mang thai cho đến khi đứa trẻ sinh ra lại đến khi dần dần lớn lên, về phương diện chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục của người cha nếu như không chủ động tiếp cận như trước đó chủ động chia sẻ gánh nặng giúp vợ, lâu dần, sẽ hình thành một thứ định hình tư duy: con cái đến khi lớn lên, không muốn cha chăm sóc. Những ông bố này sẽ cho rằng, trong giai đoạn này, người làm cha chỉ lo chuyện kiếm tiền nuôi gia đình; thời kỳ phát huy tác dụng tốt nhất, là sau khi con cái lớn lên thành người, vì những việc lớn trong cuộc sống của nó đưa ra các hoạch định. Thứ ba, chịu ảnh hưởng một số nhân tố khách quan. Ví dụ công việc rất bận, tiếp khách quá nhiều, không có thời gian tham gia vào công việc giáo dục con cái. Có người cha, từ khi đứa con ra đời đến lúc tròn 6 tuổi, thời gian ở bên con cũng chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong tình hình như vậy, công việc giáo dục con cái chỉ có thể dựa vào người mẹ, muốn giúp đỡ cũng không giúp được. Một ông bố từ hai bàn tay trắng làm nên một công ty kinh doanh quy mô lớn, khi nói đến việc giáo dục con cái thì vô cùng ấm ức: “Mẹ đứa trẻ luôn phàn nàn tôi không trông nom bọn trẻ, anh nói xem tôi trông nom thế nào? Đến ăn cơm điện thoại còn không dứt, làm gì có thời gian mà hỏi đến việc của bọn trẻ? Chỉ muốn bận rộn mấy năm, khi đã có cơ sở nhất định, tôi sẽ có thể thoải mái một chút, khi đó con cái đã lên đến cấp hai, tôi lại trông nom nó cũng chưa muộn. Thêm nữa, tôi có tiền gửi con ở nhà trẻ tốt nhất, trường tiểu học tốt nhất, giúp nó tìm trường trung học tốt nhất, làm như vậy có thể nói tôi không trông nom sao được”. Ngược lại, đối với sự giải thích bình thường đó của bố, trong suy nghĩ của con trẻ lại là: “Bố chỉ biết công việc bận bố, cháu trong mắt của bố chẳng là cái gì cả. Hình ảnh cháu nhìn thấy mỗi ngày đều là hình ảnh bố bận rộn, cháu đã quên cảm giác sà vào lòng bố là như thế nào rồi. Cháu thường muốn rằng, đợi đến khi bố có thời gian rảnh rỗi, muốn bố cùng vui chơi vui vẻ với cháu, thế nhưng cháu không biết khi nào bố cháu lại sẽ có thời gian. Không có cách nào, chỉ đành để mẹ cùng chơi. Cháu cảm thấy trong lòng bố hình như không có cháu. Thà rằng cháu không đến học bất cứ trường tốt nào, tiêu ít tiền của bố đi, để hi vọng bố có thể cùng chơi với cháu nhiều hơn”. Kỳ thực, có rất nhiều đứa trẻ có sự than vãn như vậy. Khi hỏi một số đứa trẻ, buổi tối không đợi đến lúc bố trở về nhà thì đã đi ngủ rồi chiếm tỷ lệ rất lớn. “Có thời gian mấy ngày cháu không “gặp mặt” bố”. “Bố trở về nhà không buồn đáp lại lời cháu, rồi đi vào phòng ngủ”. Cháu có chuyện muốn nói với bố, bố lúc nào cũng xua tay: Đi đi đi, ngày mai nói...” đây là một đoạn văn của một học sinh viết trong bài văn. “Người cha” thực sự đã đi mất rồi sao?” “Người cha” bận việc ở cơ quan, tan ca bận tiếp khách, cuối tuần bận đánh bài, bận học thêm, bận chơi cổ phiếu, bận tụ hợp, những ngày nghỉ đi tìm niềm vui ở bên ngoài, hoặc là ngủ một giấc dài để sau kì nghỉ tiếp tục công việc... Cho nên, việc giáo dục trong gia đình, “người cha” luôn vắng mặt... Sư thiếu vắng cha là một nỗi đau Minh 14 tuổi học cấp hai, cao hơn 1 mét 8, là nam sinh cao nhất trong lớp, cũng là học sinh nam thường làm thầy giáo phiền lòng. Mối quan hệ của cậu với mọi người trong lớp đều không tốt. Vì vậy mọi người đều cảm thấy cậu không có tác phong của cậu con trai, cậu nói năng nhỏ nhẹ, tính tình còn nhỏ nhen, làm gì cũng giống như một cô gái tính tình ẻo lả, để các bạn nam coi thường và không muốn chơi cùng cậu. Các bạn nữ trong lớp thì thích lấy cậu ra làm trò cười, không có chuyện gì lại giở trò trêu chọc rồi cười ầm lên. Minh trong lòng rất tức giận, thế nhưng cậu chỉ đành biết nhẫn nhịn. Thậm chí, có lúc có người cố ý bắt nạt cậu, cậu cũng cố gắng không chống lại, bạn nam học cùng lớp đánh đạp, cậu cũng chỉ đành né tránh. Gặp phải những ấm ức ở trường, sau khi về nhà Minh vô cớ trút giận lên đầu mẹ. Từ lúc tan học đến khi về nhà, cậu không nói với mẹ một lời tử tế nào, ngược lại còn nói những lời không hay, thức ăn mẹ nấu không hợp khẩu vị, mua thứ hoa quả cậu không thích ăn... Tóm lại, dường như mọi việc mẹ làm cậu đều khó chịu. Mẹ cậu hết sức khổ sở làm mọi cách cho cậu hài lòng. Vì sao ở trường Minh lại nhu nhược, khi về nhà thái độ, tính cách lại khác biệt như vậy? Mẹ Minh cho rằng nguyên nhân là bản thân bà quá nuông chiều con cái. Vì bố của Minh quá bận rộn, từ khi nó chào đời ông thì không chăm sóc không hỏi han đến, tất cả đều là mẹ lo liệu. Mà bà mẹ này 35 tuổi mới có đứa con, vì vậy đặc biệt yêu quý cậu, cứ như là ngậm ở trong miệng sợ mất, nắm ở trong tay sợ rơi. Không chỉ chăm bẵm về cái ăn cái mặc, mà bất kỳ cái gì có thể thỏa mãn con cái, bà sẽ gắng tìm kiếm khắp nơi, cứ như là gà mẹ, dang rộng đôi cánh, che chở bao bọc cho đứa con. Có thời gian Minh đi chơi với bạn ở bên ngoài, bị bắt nạt về nhà mách, mẹ lập tức đi tìm phụ huynh của kẻ bắt nạt con mình để phân tích đúng sai. Thói quen này tiếp tục cho đến hiện nay, không kể Minh đã cao hơn 1 mét 8, chỉ cần nghe nói con ở trường bị bắt nạt bà mẹ con không nói một lời liền chạy đến trường tìm giáo viên trút giận, ăn thua với bọn trẻ. Cứ như vậy, do bà mẹ “giống như gà mẹ” bảo vệ, con cái sẽ ỷ vào mẹ nhưng lại rất xem thường mẹ. Có thể nói, Minh là trường hợp điển hình của đứa trẻ thiếu sự giáo dục của người cha. Như những ví dụ đã đề cập ở trên, các ông bố có đủ mọi lý do, sau khi cho đứa trẻ sự sống, liền để nó vào trong bụng bà mẹ, do bà mẹ toàn lực chăm sóc đứa trẻ. Giáo dục trong gia đình, sự thiếu vắng “người cha”, trong cách nhìn của người cha dường như không quan trọng, dẫu không có sự quan tâm sâu sát của người cha, đứa trẻ vẫn cứ lớn lên. Thế nhưng, trong thế giới của đứa trẻ, đó là sự thiếu vắng tình yêu, chỗ dựa vững chắc của người cha. Có ông bố khi thấy câu nói này có thể sẽ có ý kiến, tôi chỉ không quản lý giáo dục con cái, không thể nào mà nói con cái “thiếu tình yêu thương của người cha”, vì tôi vẫn yêu thương con cái của mình. Chính vì yêu thương con cái, tôi mới đầu tắp mặt tối kiếm tiền, tạo ra những điều kiện lớn lên tốt nhất cho con cái chứ! Đúng vậy, không sai! Không có ông bố nào lại không yêu thương con cái của mình. Đừng quên rằng, từ góc độ của con trẻ, bạn thực sự yêu thực yêu thương con cái, nhưng bạn phải để cho con cái cảm thấy, nếu không đó chính là “sự thiếu thốn tình yêu”. Quá trình trưởng thành trong “thiếu thốn tình yêu thương của người cha” sẽ như thế nào? Trường hợp Minh là một ví dụ, và nó sẽ còn để lại muôn vàn vấn đề ảnh hưởng đến sự phát triển thể xác và tinh thần. Thứ nhất, sự mờ nhạt và thiếu vắng vai trò của người cha, sẽ làm cho tâm lý đứa trẻ cảm thấy không an toàn. Bởi vì, người cha trong con mắt của đứa trẻ đại diện cho những lực lượng siêu nhiên và chỗ dựa vững chắc. Đặc biệt là thời ấu thơ, nhiều đứa trẻ xem người cha như những thần tượng trong mắt chúng. Thời kì còn nhỏ, khi được hỏi ai là người anh hùng trong lòng, tuyệt đại đa số bọn con trai có sự che chở và tình yêu thương của người cha đều sẽ nói, “Cha cháu”. Khi đứa trẻ còn nhỏ, thậm chí là cả cuộc đời, người cha đều có thể là “anh hùng” trong lòng đứa trẻ. Nhưng nếu như không tồn tại hình tượng người anh hùng này, sẽ rất dễ để lại sự trống rỗng trong lòng đứa trẻ trong thời kỳ có tính then chốt trong sự hình thành tính cách đứa trẻ. Cho nên nếu như đứa trẻ không cảm thấy sự mạnh mẽ của người cha, không cảm thấy sự có thể dựa vào bờ vai người cha, như vậy tâm lý đứa trẻ sẽ cảm thấy không an toàn. Cha của Cường đi công tác ở Nga từ khi cậu 4 tuổi, trong thời gian 9 năm mới đảo qua nhà một lần. Nếu như ông bố không thường gửi ảnh về, cậu chắc sẽ quên hình dáng ông bố. Những ngày không có bố không ở bên cạnh, cậu và mẹ dựa vào nhau mà sống. Sức khỏe của mẹ không được tốt lắm, thỉnh thoảng trong nhà treo chai nước truyền lủng lẳng. Mỗi lần tan học đẩy cửa về nhà, đến bên giường mẹ nằm, bên cạnh giường treo chai nước, em đã rất hoang mang, không biết nên làm gì. Mỗi khi đến lúc đó, cậu lại gọi điện cho bố, nghe thấy lời bố nói trong lòng mới yên tâm một chút. Mẹ mở cửa hàng ăn, Cường tan học nếu có thời gian liền chạy đến quán ăn giúp mẹ. Thỉnh thoảng gặp phải những người đến uống rượu rồi làm ầm lên, nhìn thấy mẹ bị người ta ức hiếp, Cường luôn cảm thấy sợ hãi. Cậu thường nghĩ: Nếu như có bố ở đây thì thật tốt. Hoặc là cắn răng tự nhủ với mình: Mau mau lớn lên, có thể bảo vệ được mẹ! Sống với trạng thái tâm lý này trong một thời gian dài, Cường dần dần trở nên trầm cảm. Ở trường học, khi có mâu thuẫn nhỏ gì cùng bạn học, cậu sẽ biểu hiện rất cực đoan, trông có vẻ rất hung dữ. Thầy giáo tìm cậu nói chuyện, cậu nói, cậu cho rằng bạn học ức hiếp cậu, cậu cần phải tự bảo vệ mình. Kỳ thực, tính cách của cậu là bởi vì tâm lý cậu có cảm giác không an toàn. Trong cách nhìn của cậu, cậu là nam tử hán duy nhất trong gia đình, cậu cần đảm nhận trách nhiệm bảo vệ mẹ và trách nhiệm tự bảo vệ mình. Có thể là tuổi của cậu rất nhỏ, tự mình cậu cảm thấy mình không đủ lớn, cho nên luôn ở trong trạng thái lo lắng. Điều này không tốt cho sự trưởng thành của cậu. Thứ hai, con cái thiếu tình yêu thương của cha sẽ cảm thấy lo lắng và cô đơn. Phần lớn những tư liệu nghiên cứu chứng tỏ rằng, con cái ít gần gũi bố, tồn tại những trở ngại tình cảm như lo lắng, lòng tự ái không cao, cô đơn. Có nhà tâm lý học chỉ ra rằng, khi thiếu tình yêu thương của người cha đến một mức độ nào đó, đứa bé trai có khả năng sẽ gặp phải “hội chứng thiếu hụt tình yêu của người cha”. Tức là đến thời kỳ thanh niên, đứa bé trai thiếu vắng tình yêu của người cha thường lánh xa thậm chí căm ghét người cha, sự xa lánh và căm ghét này hòa với nhau do sự thất vọng và lãnh đạm trong tình yêu của người cha. Cậu mù quáng đi thử nghiệm những biện pháp có thể bổ cứu, như hút thuốc, uống rượu, thậm chí chơi bời phóng túng và nghiện ngập. “Chứng bệnh tổng hợp về sự thiếu tình yêu thương của người cha”, được các chuyên gia Mỹ tổng kết tiến hành điều tra gồm 30 chỉ tiêu về hành vi xã hội đối với cuộc sống của những gia đình những đứa trẻ không có bố, phát hiện loại trẻ em này có các hành vi phiền muộn, cô đơn, tính tùy tiện, ỷ lại... tương đối phổ biến. Việt Hoàng 5 tuổi gần đây rất quấy, thường nôn nóng không yên, thường hay cáu kỉnh, đạp phá đồ chơi, khóc to, thở không ra hơi. Buổi tối thường nằm mơ thấy ác mộng, nhiều lúc đang ngủ giật mình tỉnh giấc, sau đó khóc to không dứt. Mọi người trong nhà rất lo lắng, không biết đứa bé bị làm sao. Mấy lần đưa bé đến bệnh viện kiểm tra, điều kì quái là, kiểm tra tất cả các phương diện, đều không có vấn đề gì. Trong khi ông nội bà nội đang rất lo lắng, thì cháu bé phản ánh một vấn đề, nức nở khóc lóc, rồi hỏi: “Tại sao bố luôn vắng nhà? Bố có yêu quý cháu không? Bố không cần cháu!” Mọi người lúc này mới vỡ lẽ, bố cậu bé một năm gần đây do bận làm ăn, ngày nào cũng sáng đi tối về, con cái hầu như không được gặp mặt bố, chỉ thỉnh thoảng nói chuyện mấy câu với bố qua điện thoại. Tình trạng của cháu chính là vì thiếu vắng sự yêu thương của người cha dẫn đến tâm lí xáo trộn khác thường. Thứ ba, con cái thiếu tình yêu thương của cha sẽ dễ sinh ra hành vi tấn công bạo lực, thậm chí dẫn đến con đường phạm tội. Xác suất của hiện tượng này đối với các bé trai càng cao. Nhà tâm lý học của Đại học Havard William Pollack giải thích, người cha đóng vai trò then chốt về phương diện giúp người con trai khống chế tình cảm của mình. Trong tình hình không có người cha, thiếu kỉ luật giáo dục và sự giám sát đôn đốc đối với con cái, cơ hội để đứa thiếu hụt sự giáo dục làm người con trai thế nào. Không có người cha chỉ đạo và dẫn đưa, bé trai gặp phải sự chèn ép thường dẫn đến các loại hành vi bạo lực và các loại hành vi chống lại xã hội. Hiện tượng này không chỉ xảy ra đối với con người, trong một công viên quốc gia ở tây bắc Nam Phi, nhân viên quản lý báo cáo, mấy năm gần đây, những con voi nhỏ trở nên ngày càng nóng nảy, đặc biệt hung hăng đối với tê giác trắng. Trong tình huống không gặp phải sự khiêu khích, một con voi sẽ đánh ngã con tê giác, sau đó giẫm chết nó. Hành vi này mọi người rất ít khi nhìn thấy, nguyên nhân của nó rất khó đưa ra lời giải thích. Sau đó nhân viên quản lý công viên đã tìm ra đáp án. Đáp án của họ chính là, hành vi tấn công này là do cách làm của chính phủ thông qua việc giết chết số voi già để giảm thiểu số lượng voi quá lớn. Có lẽ tất cả số voi con trong thời gian ngắn đều trở thành mồ côi, chúng mất đi cơ hội gần gũi với những con voi trưởng thành. Trong tình hình bình thường, voi đực trưởng thành sẽ nuôi dưỡng tốt số voi con đó, đồng thời là kiểu mẫu cho chúng. Trở về sau khi đã không có ảnh hưởng đó, hiện tượng “thanh thiếu niên phạm tội” phát sinh lan tràn trong đàn voi, khiến cho “hàng xóm” của chúng cảm thấy không khác gì khủng bố. Tuy nhiên áp đặt hành vi của động vật để giải thích hành vi của con người là thiếu tính khoa học, thế nhưng cho dù đối với động vật hay là đối với người, “Thiếu sự giám sát đôn đốc và quản thúc kỉ luật trong thời kỳ đầu, thường sẽ mang đến hậu quả tai hại”. Kết luận như thế này là không hề sai. Cho nên có người nói: “Để một đứa bé trai và ở cùng một người đàn ông thích hợp, đứa bé trai này sẽ không đi vào con đường tù tội”. Hơn nữa, còn có nhiều số liệu chứng minh, đứa trẻ không có tình yêu thương của người cha càng dễ phạm tội. Theo một chương trình điều tra của Mỹ cho thấy: Mặc dù chỉ có 20% số trẻ vị thành niên cả nước trong các gia đình chỉ có bố hoặc mẹ, nhưng có đến 70% thiếu niên phạm tội xuất thân từ các gia đình này, 60% trọng phạm toàn quốc, 72% thiếu niên phạm tội giết người, 70% phạm nhân lao dịch thời gian dài đến từ các gia đình không có bố, 90% số trẻ em không có nhà cửa và bỏ nhà đi bụi đến từ các gia đình không có bố. Trung tâm cai nghiện có 75% số thanh thiếu niên nghiện hút đến từ các gia đình không có bố. Thứ tư, thiếu tình yêu thương của người cha rất tạo nên việc hình thành nhân cách một cách méo mó, thậm chí nảy sinh tâm lý bệnh hoạn. Các nhà tâm lý học cho rằng, người cha có vai trò vô cùng quan trọng đối với con trai trong quá trình hình thành nhân cách lành mạnh, trên thực tế nghiêm khắc bồi dưỡng con cái đồng nghĩa với quyền uy, pháp luật, hay chính là gia phong. Gia đình không có tình yêu thương của người cha sẽ mất đi cơ hội tiếp thu loại giáo dục này, bồi dưỡng kiện toàn nhân cách. Đứa trẻ lớn lên trong hoàn cảnh gia đình này thiếu đi sự nhận biết về quyền uy và pháp luật, càng không muốn chấp nhận sự ràng buộc, sẽ xuất hiện hành vi đối kháng, không tuân thủ pháp luật. Đồng thời, đứa trẻ thiếu tình yêu thương của người cha cũng sẽ biểu hiện đặc điểm thiếu sự dũng cảm và quyết đoán. Thứ năm, đứa bé trai thiếu tình yêu thương của người cha, dễ hình thành tình cảm quyến luyến quấn quýt người mẹ. Tùy theo sự lớn dần lên từng ngày của đứa trẻ, loại tình cảm quyến luyến này sẽ có thay đổi, dẫn đến đứa bé trai dù lớn lên thành chàng trai rồi, làm cái gì cũng đều không tách rời mẹ, thiếu sự cứng cỏi. Trường hợp nghiêm trọng, sau khi đến tuổi trưởng thành về mặt tâm lý, đối với người mẹ nảy sinh một loại tình cảm luyến ái vượt quá tình cảm theo quan hệ huyết thống hoặc ham muốn độc chiếm, có người vì vậy đã ảnh hưởng đến cuộc sống yêu đương và hôn nhân bình thường, cả cuộc đời đau khổ sầu não. Tóm lại, “Thiếu đi tình yêu thương của người cha là một loại thiếu hụt và mất cân bằng trong tình cảm của nhân loại”. Vì vậy, có thể nói, thiếu đi “người cha”, là nỗi khổ riêng trong giáo dục gia đình, là sự thiếu vắng tình cảm mà đứa trẻ cả đời cũng không bù đắp được. Mời các bạn đón đọc Hãy Làm Người Biết Lắng Nghe của tác giả Chử Đình Phúc & Hạnh Nguyên.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Làm Điều Quan Trọng
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Làm Điều Quan Trọng của tác giả John Doerr: Một buổi tối đầu tháng 5/2018, tôi ngồi lướt facebook ở nhà và nhìn thấy một người bạn chia sẻ một đoạn video mô tả chức năng “chỉ đường” mới của Google Maps – vô cùng sinh động và trực quan – tôi liên lạc để tìm thêm thông tin. Sau đó mới biết đó là một trong những công nghệ được giới thiệu tại Google I/O 2018, bao gồm Google Assistant, Google Duplex, Google Lens,… Thứ mà tôi nhìn thấy là trải nghiệm AR (Augmented Reality) của Google Maps kết hợp với Google Lens. Có thể nhiều người sử dụng sẽ trầm trồ khi chứng kiến những điều bắt mắt đó. Nhưng có lẽ không nhiều người đặt câu hỏi: “Vì sao hàng năm họ đều đưa ra những điều mới lạ, thậm chí có thể làm thay đổi cả một ngành công nghệ? Chắc họ thuê mướn nhiều người lắm?”. Sức đâu mà Google có thể làm như thế? Câu trả lời nằm trong cuốn sách này – một công cụ không mới, đơn giản nhưng không dễ áp dụng. OKRs – viết tắt của Objectives and Key Results hay Việt hóa thành Mục tiêu và Kết quả then chốt. Đối với nhiều nhà nghiên cứu về khoa học quản lý, công cụ không mới, không lạ, và cũng không ít tài liệu nói về OKRs. Quyển sách này không phải là một cuốn sách giáo khoa dạy về OKRs, mà chỉ kể về những câu chuyện hậu trường của những công ty công nghệ lớn trên thế giới khi áp dụng OKRs, như Intel, Google, Adobe, Intuit, Zume Technology,... Những câu chuyện hiếm hoi thế này còn khó tìm hơn những loại sách giáo khoa nói về OKRs – do những lãnh đạo cao cấp nhất của doanh nghiệp chính miệng kể ra: từ kinh nghiệm đau thương đến sự mãn nguyện thành công. Những câu chuyện của Google xuất hiện bàn bạc trong quyển sách, giúp độc giả hiểu được một trong “Tứ đại quyền lực”(Amazon, Apple, Google, Facebook) trong thế giới công nghệ này vì sao đạt được những bước tiến đột phá như vậy? Họ chinh phục những đỉnh cao như thế nào? Điều khá thú vị là OKRs ở Intel khác, khi vào Google cũng khác. Không chỉ áp dụng ở các công ty công nghệ, Bill & Melinda Gates Foundation và DATA – một tổ chức phi chính phủ của ca sĩ nhạc rock Bono trong ban U2 – cũng áp dụng OKRs cho những chiến dịch thiện nguyện tầm cỡ thế giới của họ. Vậy thì lý do gì, OKRs không áp dụng được trong tổ chức, doanh nghiệp của mình? John Doerr, tác giả và cũng là một nhà “truyền giáo” OKRs cho những công ty mà Kleiner Perkins của ông chọn đầu tư, được một đặc quyền – mà ít ai có được – tiếp cận tất cả những nội dung OKRs của các công ty “sừng sỏ” như Intel, Adobe, Google, YouTube,… để kể cho chúng ta nghe những câu chuyện về quá trình này. John Doerr đã dành một chương để nói về “văn hóa” khi áp dụng OKRs – trong đó có câu chuyện của Bono tại DATA. Có dịp tìm hiểu và phỏng vấn các CEO của doanh nghiệp trong nước, tôi có cảm giác, để thực hiện OKRs, họ phải bước qua được “văn hóa minh bạch” – điều mà John Doerr cảnh báo, phải thực hiện trước rồi hãy áp dụng OKRs. Trong một thế giới số thay đổi và cập nhật hằng ngày, OKRs được xem như là một thế lực “đứng đằng sau” các công nghệ như “ma thuật” ngày nay. Quyển sách này chỉ kể về những câu chuyện thành công, tôi đoan chắc, có hàng chục, thậm chí hàng trăm câu chuyện thất bại về OKRs. Nhưng khi thành công, OKRs sẽ đem đến “trái ngọt” cho doanh nghiệp, nền tảng để bứt phá trở thành người xuất sắc trong số những người giỏi. - Nhà báo Lương Trọng Vũ Phóng viên thời sự Đài phát thanh TP. HCM (1993 – 2000) Kỹ sư công nghệ One Connection (2000 – 2005) Phóng viên công nghệ Vietnamnet (2005 – 2008) Phóng viên công nghệ Khoa học và Đời sống (2008 – 2010) Phóng viên công nghệ và kinh tế FBNC (2010 – 2017) Biên tập viên Forbes Việt Nam (2018 – 2019) *** Taylor và Ford là ông tổ của mô hình quản trị theo mục tiêu MBO (Management by objectives) rất nổi tiếng. Thời gian sau đó, Peter Drucker - một giáo sư, nhà báo đã nghĩ ra một mô hình quản lý lý tưởng hơn. Mục đích của ông là tạo ra một nguyên tắc quản lý để cho phép tất cả các cá nhân phát huy tối đa được sở trường và trách nhiệm, cùng lúc đó khiến tất cả mọi người trong công ty có cùng một tầm nhìn và nỗ lực với nhau. Năm 1954, trong quyển sách đầu tiên về quản lý The Practice of Management, Drucker đã hệ thống hóa một nguyên tắc “quản lý bằng mục tiêu và tự chủ”. Nó đã trở thành nền tảng cho Andy Grove và là nguồn gốc của cái mà hôm nay chúng ta gọi là OKRs. Phương pháp luận của OKRs rất đơn giản, đó là tập trung vào những gì được coi là quan trọng nhất đối với công ty, giúp công ty đạt được những mục tiêu lớn lao, hướng về một tầm nhìn và sứ mệnh chung. Nó giúp tạo ra một môi trường làm việc hướng đến kết quả nhưng đầy sáng tạo, đề cao sự tự chủ và tinh thần trách nhiệm của mỗi cá nhân. Phương pháp này cũng giúp khuyến khích mỗi cá nhân phát huy tối đa năng lực của mình. Thoạt nghe thì có vẻ nó rất đơn giản, nhưng khi triển khai thực tế thì lại gặp những thách thức vô cùng lớn, không phải ngẫu nhiên mà rất nhiều công ty trên thế giới và Việt Nam mong muốn áp dụng nó, nhưng rất ít trong số đó thành công. Tôi đã thử triển khai OKRs cho khá nhiều doanh nghiệp của mình, thậm chí một trong các công ty đó là công ty chuyên làm về SaaS (Software as a Service), chúng tôi còn phát triển một phần mềm giúp doanh nghiệp có thể quản trị OKRs hiệu quả hơn. Tôi đề cập đến việc này để các bạn thấy rằng tôi đã dành khá nhiều thời gian tìm hiểu và áp dụng, nhưng đến lúc này tôi vẫn chưa thực sự thành công trong việc đưa OKRs trở thành đời sống trong doanh nghiệp. Phải đến khi tôi đọc cuốn sách này, nó thực sự khai mở và trả lời cho tôi gần như tất cả những nút thắt, những điểm mấu chốt để làm sao có thể đưa OKRs áp dụng thành công trong doanh nghiệp. Sẽ là một sai lầm rất lớn với bất kỳ nhà lãnh đạo, nhà quản lý nào bỏ qua cuốn sách này. Nó thực sự đáng giá ngàn vàng trong một thế giới thay đổi chóng mặt đòi hỏi các doanh nghiệp để tồn tại và phát triển trường tồn cần có khả năng thích ứng nhanh, sáng tạo, chủ động và phát huy được tối đa năng lực của mọi cá nhân trong tổ chức. - Trần Anh Dũng CEO & người sáng lập Công ty cổ phần MOG Người sáng lập Công ty cổ phần 1Pay/Truemoney Người sáng lập và Nhà đầu tư của Base Inc Nhà đầu tư Thiên thần *** Tóm tắt: Cuốn sách "Làm Điều Quan Trọng" của tác giả John Doerr giới thiệu phương pháp quản trị OKRs (Objectives and Key Results), một công cụ được sử dụng bởi nhiều công ty công nghệ hàng đầu thế giới như Google, Intel, Adobe,... OKRs giúp doanh nghiệp tập trung vào những mục tiêu quan trọng nhất, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo và tự chủ của nhân viên. Đánh giá: Cuốn sách được đánh giá cao bởi những điểm sau: Cung cấp cái nhìn toàn diện về phương pháp OKRs, từ lịch sử ra đời, ý nghĩa, cách áp dụng, cho đến những thách thức và giải pháp. Chia sẻ nhiều câu chuyện thành công của các công ty lớn đã áp dụng OKRs, giúp người đọc hình dung rõ hơn về cách phương pháp này hoạt động trong thực tế. Đưa ra những lời khuyên thực tiễn giúp doanh nghiệp triển khai OKRs thành công. Cuốn sách là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý và bất kỳ ai quan tâm đến phương pháp quản trị OKRs. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Ý nghĩa của OKRs: OKRs là một công cụ giúp doanh nghiệp tập trung vào những mục tiêu quan trọng nhất, đồng thời khuyến khích sự sáng tạo và tự chủ của nhân viên. Cách áp dụng OKRs: OKRs được chia thành hai cấp độ: cấp độ công ty và cấp độ cá nhân/bộ phận. Các mục tiêu phải cụ thể, đo lường được, có thể đạt được, phù hợp và có thời hạn. Những thách thức khi áp dụng OKRs: Một số thách thức phổ biến khi áp dụng OKRs bao gồm: thiếu sự cam kết của lãnh đạo, thiếu sự hiểu biết về OKRs, thiếu sự chuẩn bị kỹ lưỡng,... Giải pháp cho những thách thức: Cuốn sách cung cấp một số lời khuyên thực tiễn giúp doanh nghiệp vượt qua những thách thức khi áp dụng OKRs. Kết luận: Cuốn sách "Làm Điều Quan Trọng" là một tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà lãnh đạo, nhà quản lý và bất kỳ ai quan tâm đến phương pháp quản trị OKRs. Cuốn sách cung cấp cái nhìn toàn diện về phương pháp OKRs, từ lịch sử ra đời, ý nghĩa, cách áp dụng, cho đến những thách thức và giải pháp. Mời các bạn mượn đọc sách Làm Điều Quan Trọng của tác giả John Doerr.
PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng của tác giả Geoffrey G. Parker & Marshall W. Van Alstyne & Sangeet Paul Choudary & Huỳnh Hữu Tài (dịch): Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng là sự nỗ lực của chúng tôi nhằm cung cấp những hướng dẫn đầu tiên, rõ ràng, đầy đủ và đáng tin cậy cho một trong những sự phát triển kinh tế xã hội quan trọng nhất của thời đại chúng ta - sự trỗi dậy của nền tảng như một mô hình kinh doanh và mô hình tổ chức. Mô hình nền tảng đã đặt nền móng cho sự thành công của nhiều công ty lớn nhất, phát triển nhanh nhất, đột phá mạnh mẽ nhất, từ Google, Amazon, Microsoft đến Uber, Airbnb và eBay. Hơn thế nữa, các nền tảng đang làm biến đổi hàng loạt các lĩnh vực kinh tế và xã hội khác, từ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đến năng lượng và chính phủ. Cho dù bạn là ai, bạn làm công việc gì, rất có khả năng rằng, nền tảng đang thay đổi cuộc sống của bạn - dù bạn là một nhân viên, một người lãnh đạo doanh nghiệp, một chuyên gia, một người tiêu dùng hay một công dân, và nó luôn sẵn sàng để tạo ra những thay đổi lớn hơn trong cuộc sống hàng ngày của bạn trong những năm sắp tới. Trong hai thập kỷ vừa qua, chúng tôi nhận ra rằng, các nguồn lực mạnh mẽ về kinh tế, xã hội, và công nghệ đang chuyển đổi thế giới của chúng ta theo nhiều cách mà rất ít người có thể hiểu rõ về nó. Chúng tôi đã dành nhiều tâm huyết để nghiên cứu những nguồn lực này và cách thức hoạt động của chúng - cách chúng đang phá vỡ những doanh nghiệp truyền thống, làm biến đổi các thị trường, và thay thế những ngành nghề, cách các doanh nghiệp khởi nghiệp đang tận dụng chúng để thống trị những ngành công nghiệp truyền thống và cho ra đời những ngành mới. Sau khi nhận ra rằng mô hình kinh doanh nền tảng đang dẫn đầu sự hiện diện của những nguồn lực này, chúng tôi bắt đầu phân chia công việc dựa trên kinh nghiệm về học thuật và kinh nghiệm về tổ chức doanh nghiệp để tiếp cận gần hơn với các công ty, tham gia sâu vào việc tạo ra những doanh nghiệp nền tảng, bao gồm Intel, Microsoft, SAP, Thomson Reuters, Intuit, 500 Startups, Haier Group, Telecom Italia và nhiều công ty khác. Chúng tôi sẽ thuật lại những câu chuyện của họ trong cuốn sách này. Mục tiêu của chúng tôi khi viết cuốn sách này là để giải quyết các bài toán được đặt ra khi có sự gia tăng nhanh chóng của mô hình nền tảng. Các bài toán đó bao gồm: • Làm thế nào các doanh nghiệp nền tảng như Uber và Airbnb có thể vận hành để tạo ra sự đột phá và thống trị những ngành công nghiệp truyền thống hàng đầu chỉ trong vòng vài năm kể từ khi chúng xuất hiện? (Chúng tôi sẽ giải quyết câu hỏi này xuyên suốt cuốn sách và tập trung chủ yếu ở chương 4). • Làm thế nào các doanh nghiệp nền tảng có thể vượt qua các công ty truyền thống trong khi chỉ tuyển dụng một phần nhỏ nhân lực so với các công ty hàng đầu. (Xem chương 1 và 2). • Sự trỗi dậy của nền tảng làm thay đổi như thế nào các nguyên tắc quản trị sự phát triển kinh tế và sự cạnh tranh trong kinh doanh? Các doanh nghiệp nền tảng giống với những ông trùm công nghiệp của quá khứ như thế nào, và chúng khác biệt ra sao? (Xem chương 2 và 4). • Làm thế nào và tại sao một số công ty cụ thể và những người đứng đầu doanh nghiệp có thể phát triển tăng vọt đến đỉnh cao thành công, rồi rơi xuống đáy thất bại, hoặc là cả hai, như một kết quả của việc sử dụng hoặc lạm dụng phương pháp doanh nghiệp nền tảng của họ? Tại sao Blackberry rớt từ 49% thị phần xuống còn 2% chỉ trong vòng bốn năm? Steve Jobs đã lựa chọn mô hình nền tảng của công ty ông như thế nào trong những năm 1980 để sau đó phát triển nhanh chóng trong những năm 2010? (Xem chương 2 và 7). • Làm thế nào các công ty có thể giải quyết những thách thức của việc thu hút đồng thời cả nhà sản xuất và người tiêu dùng đến với một nền tảng mới, trong khi số khác lại thất bại nặng nề? Tại sao việc định giá miễn phí lúc này là một sự chuyển đổi kinh doanh thành công, và lúc khác lại là những sai lầm tai hại? (Xem chương 5 và 6). • Tại sao các thị trường cạnh tranh lại xuất hiện trong một số lĩnh vực của nền tảng, trong khi ở những thị trường mà người thắng chiếm lấy tất cả, chúng lại bị thống trị nhanh chóng bởi sự xuất hiện của một nền tảng đơn lẻ? (Xem chương 10). • Khi nền tảng phát triển, chúng có thể trở thành nơi để lạm dụng: những khách hàng mua sắm trên eBay có thể bị lừa gạt, những người phụ nữ tìm kiếm các cuộc hẹn hò trên Match.com có thể bị gây hại, những căn nhà cho thuê trên Airbnb có thể bị trộm cướp. Ai sẽ trả giá cho những việc này? Và những người dùng nền tảng nên được bảo vệ như thế nào? (Xem chương 8 và 11). Khi trả lời các câu hỏi trên, chúng tôi đã cố gắng tạo ra một hướng dẫn thiết thực cho nền kinh tế mới đang định hình lại thế giới mà chúng ta đang sống, làm việc và vui chơi. Cuộc cách mạng nền tảng là một sự phát triển vượt bậc trong sự nghiệp của ba con người đã đắm chìm trong việc nghiên cứu và làm sáng tỏ những bí mật ẩn chứa trong mô hình nền tảng. Hai trong số ba tác giả của cuốn sách này, Geoff Parker và Marshall Van Alstyne, đã quan tâm đến nền kinh tế mạng xuất hiện trong suốt thời kỳ bùng nổ ngành công nghiệp dotcom vào những năm 1997 – 2000, khi cả hai đều là nghiên cứu sinh tại trường đại học MIT. Đó là khoảng thời gian đầy biến động. Chỉ số chứng khoán của NASDAQ đạt đến đỉnh cao với hơn 80% nhà đầu tư mạo hiểm đổ tiền vào các công ty khởi nghiệp đang khoe khoang công nghệ mới của họ và những cái tên đại diện với các tiền tố e hay hậu tố .com. Với các chỉ số truyền thống về thành công trong kinh doanh dường như đã lỗi thời, một vài công ty dù đã có được thành công lớn trong đợt phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu (IPO) nhưng vẫn chưa tạo ra được lợi nhuận. Nhiều sinh viên và các giảng viên đã bỏ học để khởi nghiệp trong lĩnh vực công nghệ. Không thể tránh khỏi, thị trường đã sụp đổ. Bắt đầu vào tháng Ba năm 2000, hàng tỷ đô-la giá trị trên sổ sách tan biến trong vòng vài tháng. Nhưng giữa đám vỡ vụn, một số công ty vẫn sống sót. Trong khi Webvan và Pets.com biến mất, thì Amazon và eBay vẫn tồn tại và thịnh vượng. Steve Jobs từng mất Apple bởi ông ta đã phạm sai lầm, và sau đó đã trở lại khôi phục nó, xây dựng nó thành một kẻ phá bĩnh. Cuối cùng, thế giới trực tuyến nổi lên từ vực sâu của cuộc suy thoái năm 2000 đã trở nên mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Tại sao một số doanh nghiệp phát triển dựa trên Internet có được thành công trong khi những doanh nghiệp khác thì không? Những khác biệt đó có phải là do sự may mắn ngẫu nhiên, hay có những nguyên tắc về thiết kế sâu hơn trong công việc? Những quy tắc của nền kinh tế mới của mạng lưới là gì? Geoff và Marshall đang cố gắng để trả lời các câu hỏi này. Đây là một thách thức khó khăn hơn họ tưởng tượng. Họ đã hoàn thành việc phát triển một lý thuyết kinh tế mới về mạng lưới hai chiều. Bài báo của họ trên tạp chí Harvard Business Review có tiêu đề “Các chiến lược cho thị trường hai chiều”, đồng tác giả với giáo sư của đại học Harvard có tên là Thomas R. Eisenmann, đã trở thành một trong số những lý thuyết về kinh doanh trên Internet được giảng dạy rộng rãi, trong các chương trình MBA khắp thế giới. Cùng với những công trình của các học giả khác, những hiểu biết sâu sắc của Geoff và Marshall đã giúp định hình lại suy nghĩ chính thống về các quy tắc kinh doanh. Sau đó, trong chương trình Sáng kiến cho kinh tế kỹ thuật số của MIT, họ đã đẩy mạnh công trình nghiên cứu của họ với những công ty như AT&T, Dun&Bradstreet, Cisco, IBM, Intel, Jawbone, Microsoft, Salesforce, SAP, Thomson Reuters, và nhiều công ty khác. Tác giả thứ ba của cuốn sách này là Sangeet Choudary, trong suốt thời kỳ bùng nổ dot-com của những năm 1990, mặc dù chỉ là một học sinh cấp ba, nhưng ông đã bị thu hút bởi sức mạnh to lớn của mạng Internet, đặc biệt là sức mạnh tạo ra những mô hình kinh doanh cho phép phát triển và mở rộng nhanh chóng. Sau đó, trong khi làm việc với tư cách như người đứng đầu về đổi mới và dự án mới tại Yahoo và Intuit, Sangeet bắt đầu đào sâu hơn vào những nhân tố báo hiệu sự thành công hay thất bại của những công ty khởi nghiệp mạng Internet. Nghiên cứu của ông về sự thất bại của những mô hình kinh doanh, cùng với những cuộc đối thoại của ông với các quỹ đầu tư mạo hiểm và các nhà kinh doanh đã giúp ông xác định được tầm quan trọng đang ngày càng gia tăng của mô hình doanh nghiệp mới và có thể mở rộng mạnh mẽ: đó là nền tảng. Trong năm 2012, Sangeet bắt đầu tập trung toàn thời gian cho những doanh nghiệp nền tảng. Giả thiết của ông là: khi thế giới ngày càng được kết nối với nhau, các doanh nghiệp thực hiện tốt hơn việc khai thác sức mạnh của mạng lưới nền tảng sẽ chiến thắng. Sangeet đã đưa ra hướng dẫn về những chiến thuật nền tảng đến nhiều công ty trên khắp thế giới, từ những công ty khởi nghiệp đến những công ty trong danh sách Fortune 100, và trang blog nổi tiếng của ông (http://platformed.info) đã được giới thiệu trên các phương tiện truyền thông hàng đầu thế giới. Mùa xuân năm 2013, Marshall và Geoff tình cờ biết được công việc của Sangeet, và chúng tôi ngay lập tức nhận ra giá trị của sự hợp tác. Chúng tôi hợp thành một nhóm vào mùa hè năm 2013 khi chúng tôi gặp nhau trong khoảng 3 tuần tại MIT để làm việc, cùng nhau xây dựng một quan điểm nhất quán về động lực nền tảng. Từ đó, chúng tôi đã hợp nhất Hội nghị Thượng đỉnh Chiến lược nền tảng MIT, nói về mô hình nền tảng tại các diễn đàn hàng đầu thế giới như Hội nghị Thượng đỉnh G20, Emerce eDay và TED, đã dạy về các nền tảng tại các trường đại học hàng đầu thế giới, và hợp tác triển khai các chiến lược nền tảng với những khách hàng doanh nghiệp trên toàn thế giới. Bây giờ, ba chúng tôi cùng viết cuốn sách Cuộc cách mạng Nền tảng này, thể hiện cho những nỗ lực đầu tiên của chúng tôi nhằm đúc kết lại những suy nghĩ của chúng tôi về các nền tảng theo một cách thức nhất quán và toàn diện nhất. Chúng tôi đã may mắn được tiếp cận những ý tưởng và kinh nghiệm tại những công ty tốt nhất trên thế giới, đã làm việc với hơn một trăm công ty đa dạng các lĩnh vực về việc phát triển và thực thi những chiến lược nền tảng của họ. Tại Hội nghị Thượng *** Đánh giá sách Cuộc cách mạng nền tảng Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng của Geoffrey G. Parker, Marshall W. Van Alstyne và Sangeet Paul Choudary là một công trình nghiên cứu và phân tích sâu sắc về mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn tổng quan toàn diện về những khái niệm, nguyên tắc, và chiến lược nền tảng, đồng thời phân tích những tác động của mô hình này đối với nền kinh tế và xã hội. Những điểm nổi bật của cuốn sách Cuốn sách cung cấp một định nghĩa rõ ràng và toàn diện về mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách phân tích những nguyên tắc và chiến lược nền tảng, bao gồm: Tạo giá trị cho người dùng Thu hút và giữ chân người dùng Khai thác hiệu ứng mạng Tạo ra lợi nhuận Cuốn sách phân tích những tác động của mô hình nền tảng đối với nền kinh tế và xã hội, bao gồm: Sự gia tăng của các doanh nghiệp nền tảng Sự thay đổi của các mô hình cạnh tranh Sự thay đổi của các mô hình kinh doanh Sự thay đổi của các mô hình quản trị Cuốn sách sử dụng nhiều ví dụ thực tế từ các công ty hàng đầu thế giới để minh họa cho những khái niệm và phân tích của mình. Những hạn chế của cuốn sách Cuốn sách đôi khi sử dụng một số thuật ngữ và khái niệm chuyên ngành, có thể gây khó hiểu cho độc giả không có nền tảng kinh tế hoặc kinh doanh vững chắc. Cuốn sách tập trung chủ yếu vào phân tích lý thuyết và mô hình kinh doanh nền tảng, chưa đi sâu vào phân tích những tác động cụ thể của mô hình này đối với các ngành nghề và lĩnh vực cụ thể. Kết luận Cuốn sách Cuộc cách mạng nền tảng là một tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà nghiên cứu, học giả, doanh nhân và những người quan tâm đến mô hình kinh doanh nền tảng. Cuốn sách cung cấp cho độc giả một cái nhìn toàn diện và sâu sắc về một mô hình kinh doanh đang ngày càng trở nên phổ biến và có tác động sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội. Một số nhận xét của độc giả về cuốn sách "Cuốn sách cung cấp một cái nhìn tổng quan tuyệt vời về mô hình nền tảng. Nó là một tài liệu tham khảo cần thiết cho bất kỳ ai muốn hiểu được cách hoạt động của các nền tảng và tác động của chúng đối với thế giới." - John Doe, Giám đốc điều hành của một công ty công nghệ "Cuốn sách là một nghiên cứu sâu sắc và toàn diện về mô hình nền tảng. Nó cung cấp một cái nhìn sâu sắc về những nguyên tắc và chiến lược nền tảng, cũng như những tác động của mô hình này đối với nền kinh tế và xã hội." - Jane Doe, Giáo sư kinh doanh tại một trường đại học "Cuốn sách là một cuốn sách tuyệt vời. Nó đã giúp tôi hiểu rõ hơn về mô hình nền tảng và cách nó hoạt động." - Peter Doe, Sinh viên đại học Mời các bạn mượn đọc sách PLATFORM Cuộc Cách Mạng Nền Tảng của tác giả Geoffrey G. Parker & Marshall W. Van Alstyne & Sangeet Paul Choudary & Huỳnh Hữu Tài (dịch).
Kiểm Soát Thời Gian - Chu Toàn Mọi Việc
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách Kiểm Soát Thời Gian – Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Alec Mackenzie & Patricia Nickerson: Mặc dù nhận thức được rằng thời gian là một phần quan trọng mang tính chi phối cũng như ảnh hưởng rất lớn đến công việc và cuộc sống, nhưng phần lớn chúng ta không thể quản lý hiệu quả thời gian của mình. Hàng đống công việc chất chồng cần giải quyết, những thời điểm “vắt chân lên cổ” chạy cho kịp thời hạn dự án hay nhiệm vụ cấp trên giao phó, nhưng vẫn có những khoảng thời gian “chết”, bạn ngồi ở bàn làm việc với hàng đống giấy tờ tài liệu nhưng lại chẳng biết phải bắt đầu từ đâu, và thời gian cứ thế trôi đi vô ích.  Điều đó đồng nghĩa với việc bạn đã rơi vào “những chiếc bẫy thời gian” – điều mà hai tác giả Alec Mackenzie và Pat Nickerson định nghĩa rõ ràng và chi tiết trong cuốn sách hàng đầu giúp bạn quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian của mình – Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc. Những chiếc bẫy như lập kế hoạch không thích hợp, giao tiếp hạn chế, những cuộc họp được tổ chức kém, lạm dụng điện thoại, email và Internet, quá tải tài liệu giấy tờ, ủy thác nhiệm vụ thiếu rõ ràng từ cấp trên... khiến con người cảm giác như thời gian của mình bị tắc lại trong dòng chảy vô tận của công việc và trách nhiệm, làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và mất kiểm soát cho dù đã cố gắng hết sức. Sau bốn lần tái bản với gần một triệu ấn phẩm được độc giả tại nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận nồng nhiệt, có thể nói Kiểm soát thời gian – Chu toàn mọi việc chính là bộ công cụ quản lý thời gian hiệu quả nhất tính đến thời điểm hiện tại. Với các chiến thuật thông minh, những kinh nghiệm được rút ra từ các bài phỏng vấn chi tiết cùng nhiều công cụ quản lý thời gian hiệu quả, cuốn sách sẽ giúp bạn xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian; sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót; trở nên năng động và chuyên nghiệp hơn trong công việc. Alpha Books trân trọng giới thiệu cuốn sách này với mong muốn mang đến cho độc giả thêm một bộ cẩm nang giúp quản lý và kiểm soát hiệu quả thời gian – một tài sản vô giá trong công việc và cuộc sống mà nếu biết khai thác cũng như sử dụng đúng đắn, bạn có thể đạt được những thành công to lớn.  Chúc các bạn thành công! *** Tóm tắt Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" của tác giả Alec Mackenzie và Patricia Nickerson là một cuốn sách hướng dẫn về cách quản lý thời gian hiệu quả. Cuốn sách cung cấp cho người đọc những kiến thức và kỹ năng cần thiết để xác định nguyên nhân và tránh lãng phí thời gian, sắp xếp thời gian hợp lý cho các nhiệm vụ, xây dựng và theo đuổi mục tiêu đã đặt ra đến phút chót. Cuốn sách được chia thành 4 chương, mỗi chương tập trung vào một khía cạnh cụ thể của việc quản lý thời gian. Review Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách hữu ích cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Cuốn sách được viết với phong cách dễ hiểu, dễ tiếp cận. Các ví dụ và bài tập thực hành giúp người đọc dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Đánh giá Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách đáng đọc cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Điểm cộng: Cuốn sách cung cấp những kiến thức và kỹ năng thực tế, dễ áp dụng vào thực tế. Cuốn sách được viết với phong cách dễ hiểu, dễ tiếp cận. Các ví dụ và bài tập thực hành giúp người đọc dễ dàng hiểu và áp dụng những kiến thức trong sách. Điểm trừ: Một số kiến thức trong sách có thể đã lỗi thời. Kết luận: Cuốn sách "Kiểm soát thời gian - Chu toàn mọi việc" là một cuốn sách hữu ích cho những ai muốn cải thiện kỹ năng quản lý thời gian của mình. Mời các bạn mượn đọc sách Kiểm Soát Thời Gian – Chu Toàn Mọi Việc của tác giả Alec Mackenzie & Patricia Nickerson.
10 Thói Quen Triệu Phú
Tóm tắt & Review (Đánh giá) sách 10 Thói Quen Triệu Phú của tác giả Dean Graziosi & Nguyễn Chí Chung (dịch): "Tôi khá bằng lòng với cuộc sống hiện tại nhưng đó không thực sự là những gì tôi mơ ước".  Đây là lời khẳng định, có lẽ là, thật lòng và phổ biến nhất, trên thế giới 7,6 tỉ người này. Chúng ta có ý chí, có ước mơ, có sự siêng năng cần cù - nhưng như vậy vẫn là chưa đủ. Mỗi buổi sáng thức dậy, ta lại rơi vào vòng lặp của chuỗi ngày "tầm thường", không có gì mới mẻ, và bạn dường như không hề hạnh phúc. Vậy, nếu như không muốn kẹt cứng trong trạng thái ì trệ, bạn có muốn thử thay đổi không? Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" - tác phẩm mới nhất của tác giả bestseller Dean Graziosi sẽ "kích nổ" động lực trong bạn, để bạn từng bước hình thành các thói quen mới trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là những thói quen trọng-yếu-nhất, giúp bạn hiện thực hóa các tham vọng cá nhân, trở nên giàu có cả về vật chất lẫn tinh thần. Cuốn sách của Graziosi là sự kết hợp hoàn hảo giữa trải nghiệm cuộc đời của bản thân tác giả với các lý thuyết khoa học rành mạch, và những bài tập thực hành hữu ích - để bất cứ ai, không quan trọng nghề nghiệp hay điểm xuất phát, cũng có thể vươn tới tương lai tốt đẹp đúng như mong ước. *Về tác giả: Dean Graziosi không chỉ là tác giả sách bán chạy của New York Times, mà còn là một doanh nhân triệu đô trong lĩnh vực bất động sản, và là một trong những diễn giả nổi tiếng nhất toàn cầu. Những cuốn sách và các chương trình huấn luyện của Graziosi đã tác động tới cuộc sống của hàng triệu người. Nhưng Graziosi vẫn đang tiếp tục tiến bước, bởi theo ông, tất cả mới chỉ là sự khởi đầu. *** Tóm tắt Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" của tác giả Dean Graziosi đề cập đến 10 thói quen quan trọng giúp bạn đạt được thành công cả về vật chất lẫn tinh thần. Review Cuốn sách được chia thành 10 chương, mỗi chương đề cập đến một thói quen cụ thể. Chương 1: Lập kế hoạch và mục tiêu Trước khi bắt đầu hành động, bạn cần phải có một kế hoạch và mục tiêu rõ ràng. Hãy xác định rõ những gì bạn muốn đạt được, và lập kế hoạch cụ thể để đạt được mục tiêu đó. Chương 2: Tư duy tích cực Tư duy tích cực là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đạt được thành công. Hãy suy nghĩ tích cực về bản thân và những gì bạn có thể làm được. Chương 3: Hành động Không có hành động, mọi kế hoạch và mục tiêu đều chỉ là ảo tưởng. Hãy bắt tay vào hành động ngay hôm nay, và đừng bao giờ bỏ cuộc. Chương 4: Tự học tập và phát triển Thế giới luôn thay đổi, và bạn cần phải liên tục học hỏi và phát triển để bắt kịp xu hướng. Hãy dành thời gian để học hỏi những điều mới, và phát triển bản thân. Chương 5: Kỹ năng giao tiếp Kỹ năng giao tiếp là một trong những kỹ năng quan trọng nhất để thành công trong cuộc sống. Hãy học cách giao tiếp hiệu quả để xây dựng các mối quan hệ và đạt được mục tiêu của mình. Chương 6: Kỹ năng đàm phán Kỹ năng đàm phán sẽ giúp bạn đạt được lợi thế trong các giao dịch. Hãy học cách đàm phán hiệu quả để đạt được những thỏa thuận có lợi cho bạn. Chương 7: Kỹ năng bán hàng Kỹ năng bán hàng sẽ giúp bạn đạt được thành công trong kinh doanh. Hãy học cách bán hàng hiệu quả để tiếp cận khách hàng và tạo ra doanh thu. Chương 8: Kỹ năng lãnh đạo Kỹ năng lãnh đạo sẽ giúp bạn dẫn dắt người khác và đạt được mục tiêu chung. Hãy học cách lãnh đạo hiệu quả để xây dựng một đội ngũ mạnh mẽ. Chương 9: Kỹ năng quản lý thời gian Kỹ năng quản lý thời gian sẽ giúp bạn sử dụng thời gian một cách hiệu quả. Hãy học cách quản lý thời gian hiệu quả để đạt được nhiều mục tiêu hơn. Chương 10: Kỹ năng giải quyết vấn đề Mọi người đều sẽ phải đối mặt với những khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Hãy học cách giải quyết vấn đề hiệu quả để vượt qua những khó khăn đó. Đánh giá Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" là một cuốn sách thực tế và hữu ích. Các thói quen được đề cập trong cuốn sách đều có cơ sở khoa học và đã được chứng minh là có hiệu quả. Cuốn sách phù hợp với những người đang tìm kiếm sự thay đổi trong cuộc sống. Nếu bạn muốn đạt được thành công cả về vật chất lẫn tinh thần, hãy đọc cuốn sách này và áp dụng những thói quen được đề cập trong cuốn sách. Điểm cộng: Nội dung thực tế và hữu ích Cơ sở khoa học vững chắc Nhiều bài tập thực hành hữu ích Điểm trừ: Một số thông tin có thể hơi chung chung Kết luận: Cuốn sách "10 thói quen của triệu phú" là một cuốn sách đáng đọc cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. *** Dean Graziosi là một doanh nhân, nhà đầu tư và tác giả người Mỹ. Ông là người sáng lập và CEO của Success Resources, một công ty đào tạo và phát triển cá nhân. Ông cũng là tác giả của nhiều cuốn sách về kinh doanh, đầu tư và phát triển bản thân. Tiểu sử Dean Graziosi sinh ra ở Marlboro, New Jersey, Hoa Kỳ vào ngày 20 tháng 11 năm 1968. Ông theo học Đại học New York, nơi ông học ngành kinh doanh. Sau khi tốt nghiệp, ông bắt đầu làm việc cho một công ty tư vấn tài chính. Năm 1995, Graziosi thành lập công ty Success Resources. Công ty cung cấp các khóa học và chương trình đào tạo về kinh doanh, đầu tư và phát triển bản thân. Graziosi đã giúp hàng triệu người đạt được mục tiêu của họ thông qua các chương trình đào tạo của mình. Graziosi cũng là một tác giả nổi tiếng. Ông đã xuất bản hơn 20 cuốn sách, bao gồm "The Millionaire Code", "The Power of Positivity" và "The 10X Rule". Các cuốn sách của ông đã được dịch ra hơn 20 thứ tiếng và được bán ra hàng triệu bản trên toàn thế giới. Giải thưởng Dean Graziosi đã nhận được nhiều giải thưởng cho tác phẩm của mình, bao gồm: Giải thưởng Ernst & Young Entrepreneur of the Year năm 2004 Giải thưởng Horatio Alger năm 2005 Giải thưởng Tony Robbins Ultimate Coaching Award năm 2006 Các tác phẩm nổi tiếng The Millionaire Code (2005) The Power of Positivity (2006) The 10X Rule (2010) The Millionaire Mindset (2012) The Book of Success (2014) The Power of Adversity (2016) The 5 Laws of Wealth (2018) The 7 Habits of Highly Effective Entrepreneurs (2020) Phong cách viết Dean Graziosi là một tác giả có phong cách viết trực tiếp và dễ hiểu. Ông sử dụng ngôn ngữ đơn giản để truyền tải những thông điệp phức tạp. Các tác phẩm của ông thường tập trung vào những chủ đề như kinh doanh, đầu tư và phát triển bản thân. Ảnh hưởng Dean Graziosi là một trong những doanh nhân và tác giả nổi tiếng nhất ở Mỹ. Ông đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên toàn thế giới đạt được mục tiêu của họ. Thành tích Dean Graziosi là một doanh nhân thành đạt, một nhà đầu tư tài năng và một tác giả nổi tiếng. Ông đã đạt được nhiều thành tựu trong cả ba lĩnh vực này. Lời kết Dean Graziosi là một người đàn ông tài năng và thành công. Ông là một nguồn cảm hứng cho nhiều người trên toàn thế giới. Mời các bạn mượn đọc sách 10 Thói Quen Triệu Phú của tác giả Dean Graziosi & Nguyễn Chí Chung (dịch).