Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Đời Ngắn Ngủi Và Lạ Kỳ Của Oscar Wao

Mọi chuyện chẳng bao giờ dễ dàng đối với Oscar, một anh chàng dễ thương nhưng thừa cân kinh khủng sống ở khu người Do Thái, một người New Jersey lãng mạn với giấc mơ trở thành nhà văn J.R.R Tolkien của Dominica và trên hết là giấc mơ tìm thấy tình yêu. Thế nhưng, Oscar không bao giờ nhận được điều mình mong muốn, bởi fukú chiếu vào cung tình duyên. Đó là một lời nguyền cổ xa đeo bám gia đình Oscar suốt nhiều thế hệ, khiến họ phải chịu cảnh tù tội, tra tấn, những tai ương thảm khốc và nhất là bệnh tật. Oscar, người không ngừng mơ tưởng đến nụ hôn đầu đời chỉ là nạn nhân mới nhất của lời nguyền đó - cho đến mùa hè định mệnh ấy, Oscar quyết định sẽ trở thành nạn nhân cuối cùng của lời nguyền. Với nguồn sinh lực và vốn hiểu biết đáng nể, tác giả Junot Diaz đưa chúng ta chìm đắm vào cuộc đời náo động của vị anh hùng Oscar, cô chị gái Lola, bà mẹ Belicia xinh đẹp dữ tợn của họ, đồng thời tham gia chuyến hành trình sử thi của gia đình đó từ Santo Domingo đến Washington Heights rồi tới Bergenline ở New Jersey, sau đó quay trở về. *** Review:   Cho dù những khổ đau đến cùng cực, nhưng cái còn lại trong 'Cuộc đời ngắn ngủi và lạ kỳ của Oscar Wao' vẫn là tình yêu, chỉ tình yêu. Đọc những dòng đầu tiên trong cuốn Cuộc đời ngắn ngủi và lạ kỳ của Oscar Wao, tưởng đâu một lần nữa lạc vào thế giới của Trăm năm cô đơn, khó hiểu và xáo động. Tác giả Junot Diáz đã dẫn người đọc đến thế giới của fukú, thế giới của những lời nguyền nhưng tôi thích gọi đó là định mệnh.   Bởi, con người ai sinh ra cũng có số mệnh cho mình hết, khổ đau hay sung sướng, giàu có hay nghèo hèn... và sau đó có bị vùi chết bởi tình yêu cũng là số phận. Nhưng ở đây, Junot cho ta thấy, con người có thể chiến thắng fukú và vượt lên nó bằng sức sống mãnh liệt như thế nào, chỉ bằng một thứ thôi: Tình yêu. Mở đầu với câu chuyện của một chàng Dominic tên Oscar - người đáng lẽ ra phải thật đào hoa và có hàng tá cô nàng theo bên cạnh - nhưng lại xuất hiện với bộ dạng mập, tròn ú và chẳng cô gái nào theo đuổi cả. Rồi là những chán nản đời thường, những chán nản rất trẻ thơ, chàng trai lao vào thế giới của truyện tranh và ảo tưởng, ngồi hàng giờ, hàng ngày để viết một câu chuyện không thật vào một thế giới xa xôi nào đó. Chỉ bởi, anh chàng tin chắc mình bị dính fukú truyền 3 đời. Cả bốn thế hệ từ ông ngoại - bác sĩ Abeland, mẹ - Beli, chị gái - Lola và bản thân Oscar đều có cuộc đời bất trắc và phiêu dạt. Sự mạnh mẽ và dữ dằn như những tố chất di truyền ẩn nấp sẵn trong dòng máu giúp họ chống lại số phận. Nhưng chính trong số phận của mình, họ luôn tin tưởng tuyệt đối vào tình yêu. Ông ngoại che chở cho gia đình của mình bằng tình yêu của một người chồng, một người cha để cuối cùng tàn tạ nơi chốn ngục tù của tên độc tài Trujillo. Beli cho đến tận mối tình thứ ba mới thực sự tin tình yêu của cuộc đời mình không hề may mắn. Nhưng trước đó, tình yêu với Gangster mãi mãi với cô là tình yêu đẹp nhất, dù chờ đợi một cuộc giải cứu không bao giờ tới từ người tình, cô vẫn vẽ nên bức tranh tương lai rực rỡ.   Lola sống đầy mâu thuẫn và dằn vặt. Còn Oscar, cuộc sống dù không may mắn nhưng cuối cùng cũng thấy tình yêu đích thực của bản thân mình, để rồi sau đó bị trả bằng cái giá quá đắt. Có thể, ngoài tình yêu và sức mạnh của nó, bạn sẽ bắt gặp mình trong chính những con người, nhân vật ấy ở một thời điểm nào đó. Một Beli và Lola nổi loạn, dám làm mọi thứ khi bị cha mẹ gò ép, một Oscar sống khép mình với thế giới xung quanh nhưng lại đắm mình trong những thứ gần như ảo tưởng, một nhân vật "tôi" yêu thiết tha một người con gái nhưng lại có sự lựa chọn làm tổn thương người con gái ấy. Những cảm xúc và cung bậc của tuổi mới lớn được Junot thổi hồn vào, đem đến những tiếng nói của teen rất thực. Càng đọc càng thấy hút sâu vào thế giới của những con người khác nhau. Giọng kể của từng người, theo thời gian quá khứ - hiện tại đan xen vào nhau làm nên cách nói đa dạng, bộc lộ cá tính của từng nhân vật. Cuộc đời ngắn ngủi và kỳ lạ của Oscar Wao được tạp chí Time bầu chọn là tiểu thuyết hay nhất năm 2007 và nhận được Pulitzer năm 2008 là minh chứng rõ ràng nhất cho tiếng nói của thế hệ trẻ ngày hôm nay. Nhưng trước hết, thực sự, vẫn là tình yêu, hy sinh vì tình yêu, chờ đợi cũng bởi hai chữ tình yêu. *** Oscar, nhân vật chính, không phải là một người Dominic danh tiếng chúng ta thường nghe nhắc đến, hắn không phải là một người có biệt tài về thể thao hay khiêu vũ bay bướm, cũng không phải là một anh chàng nổi tiếng đào hoa.   Ngoại trừ một khoảng thời gian rất ngắn trong đời, hắn chẳng bao giờ có may mắn với phụ nữ, và chuyện này thật trái ngược với bản chất của đàn ông Dominic.   Năm ấy hắn lên bảy tuổi.   Trong những ngày thơ ấu hạnh phúc, Oscar có đôi chút giống một nhân vật trong phim Casanova. Từ khi còn học mẫu giáo chú bé này luôn tìm cách hôn các cô bạn học, luôn lén đến phía sau các cô lúc nhảy điệu merengue để ngoáy mông mình đụng vào mông các cô bé, là người đầu tiên học perrito và nhảy điệu này bất cứ cơ hội nào hắn vớ được. Bởi vì những ngày ấy, hắn là một chú bé Dominic “bình thường” được nuôi lớn trong một gia đình Dominic bình thường như mọi gia đình Dominic khác, bản tính “si tình” của hắn đang thời kỳ phát triển, lại được gia đình và bạn bè khuyến khích. Mỗi khi có tiệc - và có rất nhiều tiệc tùng - trong những năm bảy mươi, trước khi Washington Heights là Washington Heights, trước khi tuyến đường xe lửa Bergen với chiều dài chừng trăm con phố, chỉ toàn dân Spanish cư ngụ - một vài thân nhân trong lúc ngà ngà say đã đẩy Oscar vào một cô bé nào đó rồi cả đám cười phá lên, như thể một bé trai và một bé gái là đại diện tiêu biểu cho chân lý yêu đương, chuyện chung đụng xác thịt của người lớn.   Giá mà quý vị có thể gặp cháu lúc ấy, mẹ hắn đã thở dài trong những ngày cuối đời của bà. Cháu là Porfirio Rubirosa của chúng tôi.   Các bé trai cùng tuổi hắn trốn tránh bọn con gái như thể các cô bé là một thứ vi khuẩn độc hại có tên là Đại Úy Trips. Nhưng Oscar thì không. Chú bé này rất si tình và có rất nhiều “người yêu”. (Hắn khá bụ bẫm, trong tương lai sẽ trở nên béo phì, nhưng mẹ hắn giúp hắn có được vẻ xinh xắn nhờ mái tóc cắt khéo và quần áo tươm tất. Trước khi cái đầu hắn thay đổi hình dáng mất đi vẻ cân đối, hắn có cặp mắt sáng lấp lánh và đôi má tròn phúng phính thật đáng... yêu. Điều này rất hiển nhiên trong tất cả hình ảnh của hắn). Đám con gái - bạn của chị Lola, bạn của mẹ, ngay cả người hàng xóm, Mari Colón, nhân viên bưu điện chừng ba mươi tuổi, tô môi son đỏ choét và dáng đi ngúng nguẩy như thể cô ta đeo dây nịt ngang mông - đều yêu hắn, hắn tin như thế. Thằng bé đó trông hay lắm![12] (Hắn rất thật thà và thèm được chú ý, như thế, có hại gì cho hắn không? Chắc chắn là không!) Ở Dominic, những ngày hè được đến thăm Baní, nơi ngày xưa gia đình hắn cư ngụ, hắn làm rất nhiều trò quái đản, thí dụ như đứng trước cửa nhà của Nena Inca và nói to với những phụ nữ đi ngang nhà: Cô đẹp quá! Cô đẹp quá! cho đến khi một người nghiêm trang ngoan đạo than phiền với bà của hắn và bà dập tắt cuộc tán gái lộ liễu này. Thằng quỷ nhỏ! Đây không phải là nhà hàng hay quán rượu!   Lúc ấy thật sự là thời kỳ vàng son của Oscar, cao điểm là mùa thu năm hắn lên bảy tuổi, khi hắn có hai cô bồ xinh xắn cùng một lúc, lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất trong đời hắn tham dự một cuộc tình tay ba. Với Maritza Chacón và Olga Polanco.   Maritza là bạn của Lola. Tóc dài, rất đỏm dáng và đẹp đến mức con bé có thể đóng vai Dejah Thoris[13]. Olga, thì khác, nó không phải là bạn của gia đình. Nó sống trong một căn nhà ở cuối phố chỗ mà mẹ Oscar hay chê bai, vì rất nhiều người Puerto Rico thường hay tụ tập, ngồi ngoài hiên nhà uống bia. (Cái gì, bọn chúng không thể nhậu nhẹt ở Cuamo hay sao chứ? Mẹ của Oscar hỏi một cách hằn học.) Olga có đâu chừng chín chục người là anh em họ, hình như hầu hết họ đều có cùng tên Hector, Luis, hay Wanda. Và bởi vì mẹ của Olga là một mụ nghiện rượu hay say bí tỉ không săn sóc con cái kỹ lưỡng (theo lời mẹ của Oscar), có lắm khi con bé có mùi khai ngấy, vì thế bọn trẻ con đặt cho nó cái tên Bà Khai.   Olga có là Bà Khai hay không thì Oscar vẫn thích cái tính im lặng của nó, và bởi vì nó chịu để cho hắn vật lộn, và còn chú ý khen mấy tượng đồ chơi Star Trek của hắn. Maritza thì quá đẹp, nên không cần phải có lý do, và cô cũng luôn luôn ở bên cạnh hắn. Rất khôn ngoan, hắn tìm cách bắt cá hai tay. Đầu tiên hắn giả vờ là có một nhân vật quan trọng mà hắn rất ngưỡng mộ tên là Shazam[14], muốn được làm quen với hai cô bé này. Nhưng đó không phải là Shazam, mà là Oscar.   Ngày ấy chúng rất ngây thơ, vì thế “tình yêu” của chúng chỉ đến mức độ đứng gần nhau ở trạm đón xe buýt, lén lút nắm tay nhau, và hai lần được hôn lên má một cách long trọng, trước là Maritza, xong rồi đến Olga, khi chúng khuất sau những bụi cây trên đường phố. (Nhìn cái thằng bé đầy nam tính kìa, bạn của mẹ hắn nói. Thật đúng là đàn ông.)   Cuộc tình tay ba này kéo dài được một tuần tuyệt đẹp. Một hôm sau khi tan học, Maritza chặn hắn lại ở đằng sau bộ ghế xích đu rồi ra điều kiện, hoặc là nó hoặc là em. Oscar nắm tay Maritza thuyết phục thật nghiêm trang tình yêu của hắn dành cho cô bé, cố nhắc cô bé là chúng nó đã đồng ý chia sẻ với nhau, nhưng cô bé chẳng chịu nghe. Maritza có ba người chị và vì thế cô bé biết rất rõ chuyện chia sẻ. Đừng có nói chuyện với tôi trừ khi anh đã bỏ con nhỏ kia! Maritza, với làn da màu sôcôla và đôi mắt hẹp, đã toát ra phép thuật của Ogún và cô bé có thể suốt đời dùng quyền phép này để giam cầm tất cả mọi người. Oscar buồn bã về nhà với bộ phim hoạt hình của hắn, bộ phim Herculoids and Space Ghost (Herculoids và Ma không gian), có trước khi những bộ phim dài tập ướt át của Hàn Quốc ra đời. Con có chuyện gì buồn phải không? Mẹ hắn hỏi. Bà đang chuẩn bị đi làm công việc thứ nhì, cái chỗ ngứa trên tay bà đỏ ửng loang lỗ. Khi Oscar than thở, Bọn con gái..., Mẹ Léon nổi đoá. Mày than khóc vì một đứa con gái nhiều quá. Bà xoắn lỗ tai của hắn đến độ suýt nữa có thể nhấc hắn lên khỏi mặt đất.   Mẹ. Ngừng lại, chị hắn hét to, ngừng lại!   Bà xô hắn xuống nền nhà, cho mày một cái tát vào mặt, bà thở hổn hển, để rồi xem con đĩ mén đó có còn yêu mày nữa không?   Nếu là một đứa con trai nào khác, có thể hắn phản ứng mạnh. Không phải vì hắn chẳng có một người bố để được hướng dẫn cách phản ứng như đàn ông; đơn giản chỉ vì tính hắn hiền lành không có khuynh hướng đánh đấm. (Khác với chị của hắn, từng đánh nhau với con trai và cả một bọn con gái da nâu. Những người này ghét Lola vì cô có mũi thẳng và tóc thẳng.) Oscar, dường như không có chút khả năng chiến đấu nào cả; ngay cả Olga với hai cánh tay gầy như que tăm cũng có thể đạp hắn đến bẹp dí. Tấn công và đe dọa không phải là sở trường của hắn. Vì thế, hắn suy nghĩ. Hắn cũng chẳng phải mất nhiều thì giờ để quyết định. Nói cho cùng, Maritza xinh xắn, Olga không; Olga thỉnh thoảng khai mùi nước tiểu, Maritza không; Maritza được phép đến nhà hắn chơi, còn Olga thì không. (Cho một đứa người Puerto Rico đến đây à? Mẹ hắn gắt. Không bao giờ!). Lý luận của hắn hầu như chỉ có chữ có hay không với những bài toán cộng trừ số côn trùng mà bọn trẻ con được học. Hôm sau ở sân chơi, hắn “nghỉ chơi” với Olga. Maritza đang ở bên cạnh hắn, và con bé Olga khóc ôi thôi là khóc! Run rẩy như một miếng giẻ rách trong mớ quần áo thừa hưởng của người và trong đôi giày lớn gấp bốn lần cỡ chân của nó! Mũi dãi lòng thòng!   Về sau, khi hắn và Olga đều trở nên béo phì xấu xí, thỉnh thoảng hắn nghe dâng lên trong lòng cảm giác tội lỗi mỗi khi nhìn thấy Olga băng qua đường, hay lúc cô ta nhìn bâng quơ gần trạm xe buýt đi New York. Hắn tự hỏi thái độ tàn nhẫn của hắn đã tác hại đến mức nào trong việc đẩy cô vào trạng thái dở dở ương ương như hiện nay. (Nghỉ chơi với con bé ngày ấy, hắn hồi tưởng, hắn chẳng có cảm giác gì hết; ngay cả khi con bé bắt đầu khóc, hắn cũng chẳng thấy cảm động. Hắn còn nói, Đừng có làm như là em bé.)   Hắn chỉ thật sự đau khi Maritza bỏ hắn. Ngày thứ hai sau khi bỏ rơi Olga, hắn đến trạm xe buýt, tay cầm cái hộp đựng thức ăn trưa có hình Planet of the Apes (Hành tinh khỉ) mà hắn rất yêu thích, chỉ để khám phá cô bé xinh đẹp Maritza đang nắm tay thằng Nelson Padro xấu xí. Nelson Padro giống nhân vật Chaka trong Land of the Lost (Đất người lưu lạc)! Nelson Padro ngu đến nỗi nó tưởng mặt trăng là một vết bẩn mà Chúa quên lau sạch đi, (vết bẩn sẽ được lau ngay, hắn hứa với cả lớp.) Nelson Padro trở thành chuyên viên ăn trộm vặt trong xóm trước khi gia nhập lính thủy đánh bộ và bị mất tám ngón chân ở Chiến tranh Vùng Vịnh lần đầu. Thoạt tiên Oscar ngỡ mình nhìn lầm; vì mặt trời rọi vào mắt hắn, và vì hắn đã không ngủ đủ đêm qua. Hắn đứng cạnh hai cô bé và ngắm nghía hộp đựng thức ăn trưa của mình, sao Tiến sĩ Zaius[15] nhìn có vẻ ghê gớm và giống như thật thế. Nhưng Maritza chẳng thèm mỉm cười với hắn! Vờ như không có hắn ở đấy, cô bé nói với Nelson, mình nên cưới nhau, và Nelson mỉm cười một cách ngu độn, rồi nhìn ra đường để tìm xe buýt. Oscar đau lòng đến độ không nói được. Hắn ngồi xuống lề đường và cảm thấy có cái gì đó dâng lên tràn ngập cả ngực hắn, làm hắn sợ quá, và trước khi kịp nhận ra thì hắn đã khóc; khi chị Lola đến gần hỏi hắn có chuyện gì vậy, hắn chỉ lắc đầu. Nhìn cái thằng nhỏ dị hợm kia kìa, có đứa nói mỉa mai. Có đứa nào đó đá cái hộp đựng thức ăn trưa rất cưng của nó, làm xước ngang mặt Đại tướng Urko. Khi leo lên xe buýt, hắn vẫn còn khóc. Anh tài xế, nổi tiếng đã cai nghiện ma túy, nói, Chúa ơi, có phải là em bé đâu mà nhè mãi thế.   Chuyện đoạn tuyệt đã ảnh hưởng đến Olga như thế nào? Thật ra hắn muốn hỏi: Chuyện này đã ảnh hưởng đến Oscar như thế nào?   Với Oscar, dường như từ giây phút Maritza bỏ hắn - Shazam! - đời hắn bắt đầu trôi xuống cống. Trong vòng một vài năm tiếp theo, hắn càng lúc càng béo phị ra. Tuổi dậy thì đặc biệt không nương tay đã ném vào mặt hắn tất cả những thứ không được ưa nhìn, mặt hắn sần sùi vì mụn làm hắn ngượng ngùng mặc cảm; và cái sở thích của hắn - con gái! - trước đó chẳng ai chê bai, bây giờ bỗng bị xem là kỳ cục, mà chữ K phải được trân trọng viết hoa. Hắn không làm bạn với ai, vì hắn kỳ khôi quá, nhút nhát quá, và (nếu người ta có thể tin lời đám trẻ con láng giềng) dị hợm quá (hắn có cái tật thích dùng chữ văn hoa to lớn, những chữ mà hắn chỉ mới học thuộc lòng vài ngày trước đó). Hắn không còn dám đến gần con gái nữa, vì nếu may thì đám con gái sẽ chẳng buồn đoái hoài gì đến hắn, còn nếu rủi thì chúng la hét ỏm tỏi, rồi bảo rằng hắn mập và ghê tởm quá! Hắn không còn nhớ điệu khiêu vũ perrito, quên niềm kiêu hãnh khi đám phụ nữ trong gia đình gọi hắn là “đàn ông”, hắn chẳng được hôn một cô gái nào đã từ lâu lắm. Tựa hồ những gì của hắn có liên quan đến con gái đều bị cháy tiêu trong cái tuần lễ khốn nạn đó.   Mời các bạn đón đọc Cuộc Đời Ngắn Ngủi Và Lạ Kỳ Của Oscar Wao của tác giả Junot Diáz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kiếp Người - W. Somerset Maugham
Cuốn tiểu thuyết nửa tự thuật của Somerset Maugham thể hiện tính trung thực đầy hoang dại và tài năng kể chuyện đỉnh cao của tác giả. Trong Aspects of the Novel (tạm dịch: Những mặt của văn chương), EM Foster viết: “Bước kiểm tra cuối cùng cho một tác phẩm là tình cảm của ta dành cho nó, cũng như là cách ta kiểm tra bạn bè, hay bất kì điều gì ta không thể lý giải.” Có lẽ là ông đang viết về kiệt tác của Somerset Maugham, tác phẩm Kiếp người. Đối với các độc giả Anh Quốc, đó là một Bildungsroman1 chúng ta thường bắt gặp khi còn là thiếu niên. Nó nằm trong danh sách này bởi sự cần kiệm đầy sắc sảo những lời tường thuật tối tăm, hay đôi khi là tàn nhẫn hơn bởi phong cách (ở mức bình thường) hoặc bởi tính nhân văn (sự đau khổ). Bức phác họa đáng nhớ của Maugham về Philip Carey là một hình ảnh mà các thiếu niên thông thường sẽ thấm nhuần như bị nghiện, quan trọng bởi Maugham đưa rất nhiều điều về bản thân vào cốt truyện và bởi nhân vật chính mà họ có thể đồng cảm một cách kì lạ. Có lẽ kể từ thời David Copperfield (thứ 15 trong danh sách) mới có một nhà văn người Anh khai thác cuộc sống của bản thân một cách đầy đủ hay một cách liên tục như vậy. Philip Carey là một đứa trẻ mồ côi khao khát tình yêu và trải nghiệm. Cũng như Maugham, một người đồng tính với tật nói lắp tồi tệ, cậu bé là một người tàn tật với bàn chân khoèo. Được nuôi dưỡng bởi một người chú là mục sư, cậu bé bị giam cầm trong cuộc sống tại nhà xứ cuối thời Victoria, mơ ước về việc thoát khỏi ràng buộc và cầu nguyện đến vị chúa trời thờ ơ để mong dị tật của mình được chữa khỏi. Sau khi quan sát kĩ con đường đi qua trường nội trú, Philip trốn đến học tai Heidelberg, tận hưởng một khoảng thời gian ngắn với tư cách một nghệ sĩ khó khăn nhưng thất bại tại Paris, rồi trở về nhà. Tại đây bắt đầu những dòng sầu thảm và đáng nhớ nhất của cuốn tiểu thuyết, quan hệ tình cảm vô vọng của Carey với cô hầu bàn Mildred.      Maugham là một người đồng tính tự ghét bỏ bản thân mình, và bức phác họa Mildred của ông với tư cách là đối tượng yêu của Philip phản ánh những thử nghiệm của một chàng trai đồng tính trẻ tuổi sau hậu quả của trường hợp Oscar Wilde. Mildred giống như một chàng trai, khiếm nhã và coi thường người tình tàn tật của cô. Cô thường phản bội anh, đi chơi với những người bạn trai của anh, ăn trộm của anh, và khinh miệt bản năng giới tính của anh. Mối quan hệ của họ đầy đau buồn và thất thường, là khoảng thời gian cô có thai với người đàn ông khác, khi mà Philip vẫn yêu một cách đầy ám ảnh. Cuối cùng, sau một cơn khủng hoảng vô cùng khi Mildred phá hỏng căn hộ và đập nát tủ đồ của anh, cô rời đi rồi trở thành gái gọi ở đại lộ Shaftesbury. Chỉ khi đó Philip mới nhận ra anh không còn yêu cô nữa. Anh trốn thoát khỏi bùa mê của cô để lấy lại chính bản thân, và cưới một cô gái tên là Sally, một kết thúc đầy tình cảm không làm nổi bật tính trung thực hoang dại thấm sâu vào trái tim cuốn tiểu thuyết. Ghi chú về tác phẩm  Kiếp người ban đầu được gọi là The Artistic Temperament of Stephen Carey (tạm dịch: Khí chất nghệ sĩ của Stephen Carey), sau đó là Beauty from the Ashes (tạm dịch: Vẻ đẹp từ tro bụi), một trích dẫn từ Isaiah. Khi Maugham phát hiện ra rằng tiêu đề đó đã được sử dụng, ông lấy tựa đề cuối cùng từ một trong những cuốn sách trong bộ Ethics của Spinoza. Tiểu thuyết được xuất bản tại Anh bởi William Heinemann vào ngày 13 tháng Tám năm 1915, một năm đáng nhớ của văn học Anh. Danh sách này đã đề cập đến The Good Soldier, The Thirty-Nine Steps và The Rainbow.  Trong danh sách dài những cuốn sách xuất bản năm đó, tôi cũng đã loại trừ một vài tên tuổi lớn: The Voyage Out của Woolf, Psmith Journalist của Wodehouse’s, và Victory của Conrad. Lịch sử của cuốn sách rất thú vị. Maugham lần đầu viết bản thảo cho Kiếp người năm 23 tuổi, khi mới lấy bằng y khoa sau năm năm học tại St Thomas. Ông gửi bản thảo đến Fisher Unwin, nơi mà khi ông vẫn còn là một sinh viên ngành y, đã xuất bản cuốn tiểu tuyết đầu tiên của ông Liza of Lambeth và nhận được một số lời khen ngợi. Maugham yêu cầu được ứng trước 100 Bảng nhưng bị từ chối. “Bị khước từ”, sau đó ông viết, “tôi đã vứt bỏ bản thảo.” Ông chuyển sang viết cho các sân khấu, nơi mà ông có được thành công đáng kể. “Ngay khi được chính thức công nhận là nhà viết kịch nổi tiếng nhất khi đó,” ông viết, “thì tôi một lần nữa lại bắt đầu bị ám ảnh bởi những kỉ niệm đầy ắp trong quá khứ.” Vậy nhưng, Maugham cố gắng nhấn mạnh rằng đó “không phải là một cuốn tự truyện, mà là một cuốn tiểu thuyết có yếu tố tự truyện.”  Nói ngắn gọn, đó là sự kết hợp giữa sự thật và tưởng tượng, được thêm thắt những cảm xúc cá nhân, kể cả khi một vài tình tiết được mượn từ đâu đó. Dù cho quá trình sáng tác thế nào đi nữa thì nó cũng đã làm hài lòng nhà văn. “Tôi thấy bản thân thoát khỏi những nỗi đau và kí ức bất hạnh đã từng dày vò tôi,” ông viết. Maugham luôn tự phê bình bản thân một cách dữ dội. “Tôi biết tôi không có tài năng về ngôn từ,” ông viết. “Tôi có vốn từ vựng eo hẹp và không có nỗ lực nào mà tôi có thể làm để mở rộng nó giúp ích cho tôi. Tôi hầu như không có khả năng ẩn dụ; sự ví von ấn tượng và độc đáo hiếm khi xảy ra với tôi.”  Nhưng ông có khả năng kể chuyện mang tính bản năng. Nhiều người sẽ nói rằng những chuyện ngắn của ông là hiện thân cho những tác phẩm tốt nhất của ông, và ông giữ vai trò là một cây bút quan trọng trong nền văn chương đầu thế kỉ 20. Dù rằng danh tiếng trước đây của Maugham đã có phần mờ dần đi thì Kiếp người vẫn được coi là kiệt tác của ông, một tác phẩm tiếng Anh kinh điển của thế kỉ 20 với những người hết lòng ủng hộ. Ba tác phẩm khác của Somerset Maugham The Moon and Sixpence (1919); Cakes and Ale (1930); The Razor’s Edge (1944). Thảo Hiếu (bookaholic.vn - theo Guardian) *** William Somerset Maugham là nhà văn Anh, sinh năm 1874 và sống ở Pháp cho đến khi lên mười. Học xong đại học ở Anh, ông làm thầy thuốc tại bệnh viện. Có khiếu văn chương, ông sớm bắt đầu viết tiểu thuyết và thành công với vài tác phẩm đầu tay, rồi chuyển hẳn sang sáng tác văn học. Ông nổi tiếng với hai truyện dài Kiếp người (Of Human Bondage) (1914) và Mặt trăng và đồng sáu xu (The Moon and sixpence) (1919). Trong số sách được xuất bản sau đó có: Bức Bình phong (The Painted Veil) (1925), Quý Ngài trong phòng khách (The Gentleman in the Parlour) (1930), Don Fernando (1935), Lưỡi dao cạo (The Razor’s Edge) (1944), Sổ tay nhà văn (A Writer’ Notebook) (1949), Cách nhìn thiên vị (Points of View) (1958), …   W.S. Maugham đồng thời còn là một nhà soạn kịch trứ danh với những sáng tác như: Phu nhân Frederick (Lady Frederick) (1907), Smith (1909), Đất hứa (The Land of Promise) (1913).   Ông cũng là tác giả nhiều truyện ngắn rất được hoan nghênh. Toàn tập truyện ngắn của ông được tái bản nhiều lần với số lượng mấy trăm nghìn bản, ví dụ như Mưa.   Mời các bạn đón đọc Kiếp Người của tác giả W. Somerset Maugham.
Hè Của Cô Bé Mất Gốc - Dương Thụy
Bắt đầu viết văn từ năm mười lăm tuổi, tôi tự nhủ “Mình sẽ trở thành nhà văn kiếm được rất nhiều tiền”. Tuy nhiên, khi truyện ngắn đầu tiên được đăng báo, tôi không còn quan tâm đến tiền bạc nữa. Lúc này, văn chương mang một ý nghĩa khác “cao thượng” hơn giá trị vật chất. Đó là niềm vui được chia sẻ cuộc sống hồn nhiên của mình cùng các bạn đồng trang lứa, là hạnh phúc được độc giả viết thư khen ngợi, là niềm hân hoan thấy truyện của mình làm độc giả có động lực hơn trong cuộc sống. Dù cuộc sống trở nên bận rộn hơn, tôi luôn cố gắng sắp xếp thời gian để tiếp tục viết. Và dù đã qua thời học trò, qua thời cắp sách đến trường, qua thời “sáng nắng chiều mưa” của tuổi teen, tôi nhận ra rằng: tôi thành công nhất khi viết về lứa tuổi đẹp này. Thông qua những truyện ngắn của mình, tôi muốn truyền đến các độc giả nhỏ tuổi một cuộc sống hồn nhiên vô tư lự, một bến bờ hạnh phúc vì được gia đình che chở, một hy vọng lớn lao vì thầy cô luôn ủng hộ. Có thể đâu đó trong những câu chuyện của tôi, vẫn có những nốt nhạc buồn, những ánh mắt thất vọng, những tiếng thở dài day dứt. Nhưng tôi muốn độc giả hiểu rằng cuộc đời là một món quà, chúng ta hãy trân trọng và tận hưởng mọi cơ hội cuộc đời đưa đến. Hoặc nếu ai đó than phiền “Tôi nhận quà không xứng đáng”, hãy tự tạo cơ hội cho chính mình thông qua các hành động tích cực. Truyện của tôi luôn có kết thúc đẹp, và độc giả sẽ nhận ra: chúng ta làm chủ cuộc đời mình. *** Hè Của Cô Bé Mất Gốc gồm có: Con Gái Sài Gòn Mưa Phùn Cắt Đuôi Con Quỷ Nhỏ Hai Người Đến Từ Phương Xa Thực Tập Trường Đời Người Anh Việt Kiều Những Con Cọp Trong Gia Đình Người Mẫu Về Hưu Con Gái Việt Nam Gái Hôm Rằm Hương Đầu Mùa Yêu Và Quý Ông Nhỏ Công Tử Bạc Liêu Lòng Hâm Mộ Hạnh Ngộ Đầu Xuân Viên Đạn Thứ Tư Mây Trắng Colette Củ Khoai Lang Sống Nửa Cuộc Đời Ngôi Sao Của Tôi Một Ca Cấp Cứu Hè Của Cô Bé Mất Gốc *** Dương Thụy có lẽ là một cái tên không còn xa lạ đối với nhiều độc giả trẻ. Nữ nhà văn sinh năm 1975 này được biết đến khá sớm qua những bài viết trên báo Hoa Học Trò và Sinh viên Việt Nam.  Cô tên thật là Dương Thụy Phương Khanh, được coi là một trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ trẻ "100% tp. Hồ Chí Minh" bởi cô sinh ra đúng năm Sài Gòn giải phóng.   Dương Thụy đã từng học qua các trường: Trung học Lê Quý Đôn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.HCM (Cử nhân văn chương Pháp), Trung tâm văn hóa Pháp - Việt đào tạo quản lý (Thạc sĩ Quản trị), Đại học Liège - Vương Quốc Bỉ (Thạc sĩ quản trị kinh doanh).   Công việc hiện nay của cô là làm giám đốc Truyền thông - Đối ngoại của tập đoàn dược phẩm Sanofi - Avenis tại Việt Nam   Dương Thụy có điều kiện tham dự các khóa du học dài hạn và ngắn hạn tại Bỉ, Anh, Pháp bởi vậy cô không chỉ là cây bút trẻ có vốn tri thức dày dặn mà còn đủ vốn sống về mảng đề tài mà các nhà văn trong nước rất khó đụng đen: cuộc sống của giới sinh viên Việt ở châu Âu.   Các cuốn sách đã xuất bản Năm 1997: Dấu lặng trong điệp khúc Năm 1999: Người thổi kèn  Năm 2002: Hai người đến từ phương xa  Năm 2003: Con gái Sài Gòn  Năm 2004: Cắt đuôi Năm 2004: Bồ câu chung mái vòm  Năm 2005: Hành trình của những người trẻ  Năm 2007: Oxford thương yêu  Năm 2008: Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình Năm 2009: Venise và những cuộc tình Gondola  Năm 2010: Nhắm mắt thấy Paris Năm 2010: Hè của cô bé mất gốc Năm 2011: Trả lại nụ hôn  Năm 2011: Oxford thương yêu Mời các bạn đón đọc Hè Của Cô Bé Mất Gốc của tác giả Dương Thụy.
Hai Người Đến Từ Phương Xa - Dương Thụy
“Quê hương mỗi người chỉ một  Như là chỉ một mẹ thôi  Quê hương nếu ai không nhớ  Sẽ không lớn nổi thành người” Vâng! Hai tiếng “quê hương” rất thân thương và gần gũi. Cho nên dù đi đâu, ở đâu và làm gì không một ai có thể quên đi nguồn cội của mình. Mang dòng máu Việt Nam sinh sống và học tập trên khắp các nước trên thế giới, nhưng ngôn ngữ, những phong tục tập quán cùng những nét văn hóa tiêu biểu, đặc sắc không thể xóa nhòa trong trái tim Việt. Việc tôn trọng, lưu giữ qua các thế hệ và giới thiệu cho bè bạn năm châu biết những giá trị tinh thần cao đẹp đó cũng chính là tôn vinh văn hóa cá nhân của mỗi người… Dẫu cách biệt không gian và thời gian, dẫu phải trên đường mưu sinh nơi đất khách nhưng phải làm sao để đất nước Việt Nam mãi là một đất nước với sự thân thiện, hiếu khách. Mỗi câu chuyện như một gói hành trang nhỏ cho những người xa quê hương, nhất là các bạn trẻ. Và, Hai người đến từ phương xa, dù cách xa địa lý nhưng tâm hồn sẽ không còn cách xa… *** Mọi người trong lớp gọi tôi là “bà lớn” chẳng phải vì tôi có tướng tá phì nhiêu hay có chức tước gì quan trọng mà đơn giản họ gọi thế để ghép đôi tôi với “ông lớn”. “Ông lớn” thì quả là lớn về mọi mặt. Đó là thầy Christophe dạy chúng tôi môn Poésie. Thầy bệ vệ cao một mét tám và nặng cỡ ba ông con trai “cò ma” lớp tôi cột lại bỏ lên cân. Vì mỗi lần đọc tên thầy khó khăn quá, phải uốn lưỡi thật cong nên chúng tôi làm biếng gọi là “ông lớn” cho dễ phát âm, lại mang tính tượng hình. Còn việc mọi người xúm lại gọi tôi là “bà lớn” thì cũng chả có gì éo le. Sinh viên! Chỉ cần tôi bưng cho thầy ly nước theo nhiệm vụ lớp trưởng và thầy cười rạng rỡ cảm ơn là họ đã có đủ bằng chứng để chuyện nhỏ xé to, đồn ùm lên và đặt biệt danh cho tôi từ đó. “Ông lớn” hoàn toàn không biết rằng trên đời này tồn tại một “bà lớn” mảnh mai, mỗi buổi học hay tận tụy chăm sóc mình bằng những chai Tribeco. Ông chỉ biết hồn nhiên đón nhận một cách vui vẻ và nhiệt tình uống đến giọt cuối cùng để không phụ lòng cô sinh viên bé nhỏ. Về phần “bà lớn”, dẫu biết rằng mình chỉ “có tiếng” mà không “có miếng”, bà vẫn vui lòng tiếp tục nhiệm vụ cao cả vào mỗi buổi học và kiêu hãnh đem danh “bà lớn” ra hù dọa mấy tên con trai có ý đồ mờ ám. - Ê! Hoài ơi! - Tôi hổn hển gọi với theo - Xách cặp giùm Phương coi. Mệt quá! - Đưa đây! Anh chàng bí thư chi đoàn đưa tay đỡ chiếc cặp to đùng đựng đủ thứ đồ của tôi, cảm thấy hơi xấu hổ vì không tự nguyện hỏi giúp tôi trước khi tôi mở miệng nhờ. Con trai Việt Nam dở ẹc! Tuy vậy, một khi anh ta đã ra tay giúp đỡ rồi thì tôi cũng không tiếc gì một lời cảm ơn. - Cảm ơn nhe! Học chi mà lên tận trời xanh ba bốn tầng lầu. Mệt đứt hơi! - Tội nghiệp Phương - Hoài nghiêng đầu ngó tôi cười thông cảm - Ai biểu xách chi cái cặp nặng dữ vậy? - Tại đựng đủ thứ đồ nghề cho lớp mình nè: phấn, khăn trải bàn, sổ điểm, hai ba xấp bài photo bài tập - Tôi thở ra mệt mỏi rồi tự an ủi - mà tụi mình được vinh hạnh ngồi trên đầu trên cổ thiên hạ nên phải chịu cực leo cầu thang chút đỉnh! - Phương lúc nào cũng nói chuyện nghe phách lối - Hoài cau mày - Làm “bà lớn” riết rồi quen thói! Tôi định xạc anh chàng cao kều cái tội dám lên lớp phu nhân của “ông lớn” như mọi lần có ai làm chọc nọc tôi nhưng chúng tôi đã lên đến nơi và đụng đầu nhiều người trong lớp đang đứng nói chuyện. - Trời ơi! Coi thằng Hoài xách cặp giùm “bà lớn” kìa! ... Mời các bạn đón đọc Hai Người Đến Từ Phương Xa của tác giả Dương Thụy.
Đâu Mái Nhà Xưa - Hermann Hesse
Hình như trong mỗi con người của chúng ta đều có Một mái nhà xưa để mà hướng vọng, quay về sau những phen thăng trầm, điêu đứng. "Mái nhà xưa chưa về nhưng tâm hồn vẫn chảy tuôn về cõi trú, nơi ấy từng đêm đen những tiếng lang thang gào thét nhẹ nhàng".  Mái nhà xưa ở đây, có thể là một hoài niệm xanh xao của tuổi trẻ đã dần dà trôi tuột mà bao nhiều mộng đời, mộng nước chỉ còn thoảng lại một chút dư thanh lăng lắc ở bèn trời lận đận, với một tâm sự bi hùng "đầu tiên bạch"; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một cuộc tình mong manh vội tắt mà hai kẻ yêu nhau chỉ còn biết ngoảnh mặt bước đi để từng đêm nghe âm thầm réo lên biết bao là tiếc nuối; Mái nhà xưa ở đây cũng có nghĩa là một tiếng Đạo đầy tròn viên mãn mà con người băn khoăn thao thức muốn tìm ra để nương náu cho qua mấy cơn phũ phàng gió bụi. Nhưng với Hermann Hess trong tác phẩm này, thì Mái nhà xưa ấy còn có tên là Rosshalde, một ngôi biệt trang lộng lẫy, huy hoàng mà vì mối bất hòa của đôi vợ chồng cho nên cái chốn "Rosshalde tuyệt vời, hạnh phúc, đẹp đẽ... đó đã thành ra một chốn thống khổ và ghê tởm" Dường như dấy là cái bi lụy lớn nhất của con người. Và với Hermann Hesse thì điều đó lại là một điều không sao chịu nổi. Từ đấy viết lách đối với ông là một ghi nhận trung thành cái hệ lụy nhân sinh ấy với một tấm lòng xót xa vô hạn. Do đấy, toàn bộ tác phẩm của ông không phải là một ghi nhận bất cứ tiến trinh kỹ thuật văn chương nào, mà là tiếng nói phát xuất từ con tim, tiếng nói người-rất-người của một tâm hồn đã trải qua mấy mùa ở địa ngục. Cho nên ta không lấy làm lạ gì vào thuở sinh thời Hermann Hesse đã được rất nhiều nam nữ thanh niên ngưỡng mộ, hàng năm họ đã tấp nập hành hương đến "khu vườn nho nhỏ" của ông để thăm hỏi ông và hằng năm ông nhận được không biết bao nhiêu là thư từ cậy nhờ giải đáp những thắc mắc, khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc sống. Hầu hết các tác phẩm của ông đều phần nào phản ảnh cuộc sống của ông một cách nồng nàn và ray rứt. Đâu mái nhà xưa chính là phản ảnh cuộc tan vỡ hôn nhân của ông, (Hesse đã trải qua ba lần kết hôn) và nhân vật chính trong tác phẩm này, nhà danh họa nổi tiếng thế giới Johann Veragutli có phần nào bóng dáng của ông vậy. Đây cũng là tác phẩm cảm thương nhất trong toàn bộ tác phẩm của ông. Ta thử tưởng tượng xem có gì cay đắng và xót xa hơn khi hai vợ chồng cùng sống trong một ngôi nhà, cùng ăn một bàn, lại như là hai kè xa lạ với nhau mà còn có phẩn căm hận với nhau nữa. Và cái gạch nối duy nhất giữa "hai kẻ cô đơn" ấy là một đứa con khôn ngoan dễ thương như một thiên thần, rồi một ngày kia cũng giã từ mặt đất mà đi! Ôi, đất ơi, cái đó có ý nghĩa gì? Về một khía cạnh khác, đây còn là một cáo buộc hùng hồn về sự tranh chấp của người lớn đã làm di hại đến cái thế giới thuần khiết trinh nguyên của tuổi trẻ. Ta còn thấy rõ ẩn dụ ấy ở các cuộc tranh chấp của các Quốc gia, và kết quả là người dân đen vô tội phải gánh chịu hết mọi tai ương. Cho nên ta không lạ gì khi tliấy Hermann Hesse sắp hàng bèn cạnh Romain Rolland (đây cũng là một con người rất người, một á thánh nữa vậy) trong công cuộc pacifits trong cuộc đệ nhất Thế chiến để nhận lãnh bao nhiêu lời thóa mạ nặng nề, nào là "Kẻ đê tiện", "Kẻ phản bội di sản Đức quốc" chỉ vì ông không đồng ý ở cái tinh thần hãnh tiến quốc gia để giết hại bất kỳ ai. ° ° ° Đâu mái nhà xưa kết thúc một cách nửa vời như một Sonate dang dở của Beethoven; (bản Sonate Fa thăng trưởng ấy vẫn còn thiên thu vang vọng nhưng Beethoven biết tìm Nữ Bá tước Theres Brunsvik ở nơi đâu với bức chân dung tự họa của nàng và mấy lời đề tặng rất là "lịch sự": "Xin tặng nhà nghệ sĩ vĩ đại, một thiên tài hiếm có, một người lương thiện") ° ° ° Và sau cùng khi bi kịch đã phóng thích ông, Veraguth đã lên đường sang Đông Phương nơi ông hy vọng "một khung cảnh mới mẻ thuần khiết và tự do từ lỗi lầm và khốn khổ sẽ bao bọc cưu mang ông". Hình như suốt cuộc đời băn khoăn thao thức của Hermann Hesse đã làm nổi bật lèn một bức tranh mầu nhiệm: tác phẩm The Decline of the West của Oswald Spengler nổi bật trên nền lửa đạn của hai cuộc Thế chiến. Và cũng hình như trong những đêm tối máu lửa của Việt Nam, có một câu hỏi âm thầm thảng thốt đặt ra: Chúng ta là người ở Phương Đông, bao giờ thì chúng ta cũng Trở về với Mái Nhà Xưa? - Bao giờ? Bao giờ? Vườn cô liêu giữa mùa hoa Hồng Thảo Hoài Khanh *** Mặt trời chiếu đỏ rực qua những đường viền của những đám mây đã tạnh mưa khi tiểu gia đình về nhà từ đám tang của Pierre. Bà Adele ngồi thẳng đon trong chiếc xe; gương mặt bà đã ráo hoảnh, hình như sáng rỡ và cứng ngắc một cách lạ lùng khi nhìn từ giữa chiếc nón đen và chiếc áo cắt cao. Khóe mắt Albert Sling vù lên và suốt cuộc hành trình cậu nắm chặt tay mẹ cậu. - Thế là ngày mai con sẽ ra đi rồi - Veraguth nói trong cố gắng làm cho họ xao lãng - Đừng có lo lắng về sự việc ấy, ba sẽ theo dõi mọi sự cho xong xuôi. Ngẩng mặt lên đi, con. Tại Rosshalde, khi họ từ chiếc song mã bước xuống những nhánh cây dẻ nhỏ xuống từng giọt lấp lánh dưới ánh sáng. Bị lóa mắt, họ bước vào ngôi nhà im lặng, nơi đây các chị giúp việc, trong y phục tang tóc, đã nói thì thầm khi họ chờ đợi, Veraguth khóa căn phòng của Pierre lại. Cà phê đã sẵn sàng và ba người ngồi vô bàn. - Tôi sẽ lấy phòng cho bà ở Montreux - Veraguth nói - Thấy rằng bà có một cuộc nghỉ ngơi tốt lành. Tôi cũng sẽ ra đi nữa, ngay khi tôi đã hoàn tất tại đây. Robert sẽ ở lại giữ cho nhà cửa được ngăn nắp. Hắn sẽ có địa chỉ của tôi. Không ai nghe ông; một sự trống rỗng hổ thẹn sâu xa đã đè nặng lên tất cả bọn họ như một lớp sương mù. Bà Adele nhìn cố định yào khoảng không và gom lại các mẩu vụn từ chiếc khăn trải bàn. Bà giam mình trong nỗi thống khổ của bà, không muốn đứng dậy, và Albert đã bắt chước bà. Bây giờ bé Pierre đã chết rồi, tất cả sự hợp nhất ngoài mặt trong gia đình đã biến mất, cũng như sự lịch sự được duy trì bởi một nỗ lực của ý chí biến mất khỏi gương mặt một người ngay sau khi một người khách có quyền uy và gây hoảng sợ đã đi mất. Veraguth một mình nổi bật trên những cảnh ngộ đó, thủ cái vai trò của ông và bảo toàn sự che đậy giấu diếm của ông cho đến giây phút cuối cùng. Ông ngại rằng một cái cảnh nhi nữ thường tình có thể làm hư hỏng sự chia tay của ông với Rosshalde, và trong tâm hồn ông, ông đã đợi chờ một cách nồng nhiệt cho cái phút giây khi mà hai người bọn họ sẽ ra đi. Chưa bao giờ ông cô đơn như thế như lúc ngồi trong cái tiểu phòng của ông vào chiều hôm ấy. ở đằng ngôi biệt trang, vợ ông đang thu xếp hành lý. Ông đã viết các bức thư cho Burkhardt, người mà tuy vậy vẫn chưa được kể về cái chết của Pierre, cho biết việc đi đến của ông; viết cho luật sư ông và ngân hàng, giao cho họ những chỉ thị sau cùng của họ. Rồi, khi chiếc bàn của ông đã dọn trống, ông dựng bức hình vẽ bé Pierre lâm chung trước mặt ông. Bây giờ thì em đã nằm dưới lòng đất rồi, và Veraguth tự hỏi không biết sẽ có bao giờ ông lại hiến dâng tâm hồn ông cho bất kỳ ai khác nữa như ông đã có với Pierre hay không, có bao giờ lại sẻ chia một cách sâu đậm với nỗi khốn khổ của bất kỳ ai khác nữa thế kia hay không. Bây giờ thì ông cô đơn trơ trọi. Trong một lúc lâu ông nhìn vào bức họa của ông, đôi má tóp vô, đôi mi mắt khép lại trên cặp mắt sâu trũng xuống, đôi môi mỏng dán dính chặt vào nhau, đôi tay gầy gò một cách tàn nhẫn. Rồi ông bỏ cất họa phẩm của ông vào họa phòng, lấy chiếc áo khoác và đi ra ngoài. Trời đã về đêm trên trang viên và mọi vật đều yên tĩnh. Ở đằng ngôi nhà, một vài cánh cửa sổ đèn đã thắp lên; chúng chẳng có liên quan gì với ông nhưng ở dưới những cây dẻ đen đúa, trong con đường lát sỏi các bóng cây nhỏ đã ướt sũng nước mưa, và trong vườn hoa vẫn còn cái hơi thở của đời sống và kỉ niệm. Tại đây đã có lần Pierre - không phải mới những năm trước đây sao? - chỉ cho ông xem một con chuột nhỏ bị bắt, và ở kia cạnh cây hoa giáp trúc đào em đã nói chuyện với đàn bướm xanh, và em đã đặt ra những cái tên tưởng tượng âu yếm cho các bông hoa. Tại đây, giữa chuồng gà và chuồng chó, trên bồn hoa và trên lối đi dưới những cây quất, em đã hướng dẫn cái đời sống nhỏ bé của em và chơi các trò chơi của em; đây là ánh sáng của em, sự tự do, tiếng cười trẻ thơ và tất cả sự quyến rũ của tính ương ngạnh, bản chất độc lập vôn tự nhiên của em. Tại đây, không được quan sát bởi một người nào cả, em đã tận hưởng những lạc thú như con trẻ của em và sống trong những chuyện thần tiên của em và một đôi khi có lẽ em đã tức giận hay khóc lóc khi em cảm thấy bị phủ nhận hay hiểu lầm. Veraguth đi lang thang đây đó trong bóng tối, thăm viếng mỗi địa điểm mà nó duy trì một hoài niệm về đứa con bé bỏng của ông. Sau cùng ông quỳ bên cạnh đông cát của Pierre và làm mát lạnh tay ông trong cát ẩm. Tay ông gặp phải một cái gì bằng gỗ và nhặt nó lên, ông nhận ra là cái xuổng xúc cát của Pierre, và rồi ông bẽ gãy đi, ý chí của ông đã bỏ mặc ông, và lần đầu tiên trong ba ngày khủng khiếp đó, ông đã khóc mà không kềm chế lại. Ngày hôm sau ông có một cuộc nói chuyện cuối cùng với bà Adele. - Hãy cố vượt qua nó đi - Ông nói - và chớ có quên rằng Pierre thuộc về tôi. Bà sẽ trao nó cho tôi rồi, và tôi cảm ơn về điều đó một lần nữa. Dẫu rằng tôi đã biết là nó sẽ chết, nhưng đó là lòng quảng đạx của bà. Và giờ đây hãy sống đúng như bà ưa thích, và đừng có hối hả về bất cứ điều gì. Hiện tại cứ giữ lại Rosshalde, bà có thể hối tiếc nếu bà bán nó đi quá sớm. Chưởng khế sẽ cho bà biết, ông ta nói rằng đất cát quanh đây chắc chắn lên giá. Tôi chúc bà được may mắn tốt nhất. Chẳng có gì lưu lại đây thuộc về tôi ngoại trừ đồ đạc trong họa phòng, tôi sẽ mang chúng đi sau đó. ... Mời các bạn đón đọc Đâu Mái Nhà Xưa của tác giả Hermann Hesse.