Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bay Đêm

Ngay khi ra mắt độc giả vào năm 1931, Bay đêm - được Antoine de Saint-Exupéry viết trong những ngày lưu lại Argentina - đã được công chúng hào hứng đón nhận và giành được nhiều giải thưởng của giới phê bình ở cả Pháp và Mỹ, trong đó có Giải thưởng Fémina uy tín. Với Saint-Exupéry, Bay đêm trên hết là một khúc tráng ca về màn đêm và những con người dũng cảm đi tiên phong trong ngành hàng không. Ở tác phẩm này, lại một lần nữa, vốn kinh nghiệm của một phi công lão luyện đã giúp ông vẽ nên những khung cảnh hùng vĩ đầy sắc màu, đầy thơ mộng nhưng cũng ẩn giấu những nguy hiểm khôn lường dưới đôi cánh bay. Tác phẩm đã được xuất bản ở Anh và Mỹ ngay từ năm 1932 và một năm sau đó, được hãng Metro Goldwyn Mayer chuyển thể thành phim, đưa tên tuổi của Saint-Exupéry đến toàn thế giới. “Bên dưới đôi cánh bay, những quả đồi đã rạch sâu thành đường xé nước thẫm màu trong ánh vàng ban chiều. Đồng nội rạng rỡ ánh sáng, sáng kéo dài đến bất tận: ở đất nước này đồng nội không khi nào ngừng hắt lên ánh vàng, cũng như vào lúc tàn đông, chúng không khi nào ngừng hắt lên màu trắng tuyết. Đôi khi, sau trăm kilômét thảo nguyên còn hoang vắng hơn cả biển cả, anh bay ngang một nông trại hẻo lánh, anh chợt thấy như nó chở nặng những kiếp người lui lại phía sau, giữa những sóng cồn đồng cỏ, và thế là anh đã nghiêng cánh chào con tàu thủy ấy.” *** BAY ĐÊM – ANTOINE DE SAINT EXUPÉRY #Thái Trung Tín #14CVH1 Là câu chuyện về một thế giới riêng tư, chỉ có những con người sống trong thế giới ấy mới cảm thấy mình được thảnh thơi và thoải mái, Bay đêm của Saint – Exupéry đại diện cho tiếng nói của thời đại vào những năm thập niên 30 của thế kỷ XX, đặc biệt là những người hoạt động trong ngành hàng không. Cuốn sách được viết nên sau một vụ tai nạn máy bay vào năm 1923, Saint – Exupéry bị giải ngũ, ông không còn lái máy bay tại trung đoàn Không quân ở Strasbourg và Casablanca. Bay đêm chuyên chở những giá trị về số phận của con người trước sự khắc nghiệt của thiên nhiên, của thời đại. Nó như một thông điệp đẹp đẽ nhất, mang trọn ý nghĩa sống mãnh liệt về sự dũng cảm kiểu mới trong thời đại công nghiệp. Toàn bộ Bay đêm là sự tương tác “hài hòa” giữa những phi công như Fabien, những giám đốc cấp trên như Revière hay những Kiểm soát viên không lưu, những thợ máy và cả vợ của Fabien là Simone Fabien. Và hơn hết, dưới cánh bay là một chuỗi câu chuyện dài cho những số phận bi tráng, nghiệt ngã: “Đôi khi, sau trăm kilômét thảo nguyên còn hoang vắng hơn cả biển cả, anh bay ngang một nông trại hẻo lánh, anh chợt thấy như nó chở nặng những kiếp người lui lại phía sau, giữa những sóng cồn đồng cỏ, và thế là anh đã nghiêng cánh chào con tàu thủy ấy”. Cứ ngỡ Fabien sẽ may mắn trở về bình an như những chuyến tàu chuyên chở thư tín khác, nhưng cuối cùng mọi thứ đều vùi trong sự chờ đợi mỏi mòn. Hôm ấy là lúc nửa đêm trong lúc chợp mắt với vợ mình, Fabien nhận được cuộc gọi theo lệnh của Revière sẽ đảm nhiệm chuyến bay đêm đi châu Âu, trên con tàu Patagonia. Trước những nỗi lo lắng của vợ Fabien, chàng phi công điềm tĩnh trả lời những câu hỏi từ phía vợ mình với một nụ cười mỉm: “Thành phố này... anh sẽ xa nó nhanh lắm. Ra đi vào lúc đêm thật tuyệt. Anh yêu ngôi nhà của anh. Anh có trời đẹp và đường anh đi lát đầy sao”. Fabien đại diện cho kiểu người dũng cảm nhất trong xã hội Pháp lúc bấy giờ. Đối với anh, công việc bay đêm chưa bao giờ làm anh chán nản. Anh âm thầm vượt qua bóng tối, vượt qua những cơn dông hãi hùng, vượt qua biển đêm sâu thẳm hay chinh phục dãy núi Andes bằng đôi bàn tay vững chắc, quyết đoán. Anh chinh phục chúng bằng những kinh nghiệm của riêng anh, bằng sự tin đoán và trí tuệ của một người phi công. Fabien dường như biết được mình khó có thể quay trở về, khó có thể sống sót vì mọi thứ với Fabien đã tắt lịm, chỉ còn mình Fabien trong buồng lái và xung quanh anh là bầu trời tĩnh mịch. Anh bị tách bạch vào một thế giới mới, anh không thể nhận bất cứ nguồn thông tin nào từ các trạm điều khiển Không lưu: Trelew, Commodoro, San Antonio, Bahia Blanca, Buenos – Aires: “Đối với người phi công, đó là một đêm không bờ bến, vì nó không dẫn tới một bến đậu (dường như mọi bến cảng đều không thể tới nổi) cũng chẳng dẫn tới bình minh: trong vòng một giờ bốn mươi phút nữa sẽ hết xăng. Vì sớm hay muộn cũng bắt buộc phải đắm chìm mù mịt trong cái dày đặt này”. “Anh thấy như thể vật chất cũng nổi lên phản kháng. Mỗi lần lao xuống, động cơ lại rung mạnh khiến cho chiếc máy bay cả toàn khối rung lên như nổi giận. Fabien kiệt sức để chế ngự con tàu, đầu anh chúi sâu trong buồng lái, trước mặt là đường chân trời xoay tròn chuyển vần, vì ở bên ngoài anh không phân biệt nổi giữa khối trời và khối đất, lạc lõng trong bóng đêm hỗn độn, một bóng đêm thời hoang sơ của muôn loài”. Dù bản thân có giỏi đến đâu, đứng trước cơn phẫn nộ của thiên nhiên, con người ta đều cảm thấy mình bé nhỏ: “Anh lẽ ra có thể đấu tranh thêm nữa, cố tìm một cơ may: không có cái định mệnh bên ngoài con người. Nhưng có một cái định mệnh bên trong con người: sẽ tới cái phút giây con người thấy mình vô cùng nhỏ yếu; khi ấy các sai lầm cuốn hút ta như con choáng váng”. Và dẫu Fabien đối diện với ranh giới giữa sự sống – cái chết, anh vẫn giữ thái độ lạc quan, anh cố gắng từng phút một để tìm kiếm bầu trời của chính mình, tìm kiếm ánh sáng. Nơi đó chỉ có mình anh cảm nhận được mọi khoảnh khắc của đời người, chỉ có mình anh hiểu được niềm tin yêu cái đẹp và những hoài niệm quan trọng cỡ nào, và hơn bao giờ hết “Fabien nghĩ mình đã bay tới những xứ sở huyền hoặc lạ kỳ, vì tất cả bỗng trở nên sáng lòa, cả tay anh, quần áo anh, đôi cánh anh. Vì ánh sáng không tỏa xuống từ các thiên thể mà tỏa ra từ bên dưới anh, chung quanh anh, từ những đám dự trữ màu trắng kia”, “Anh lang thang giữa vô vàn vì sao tích tụ dày đặc như một kho báu, trong một thế giới không có gì khác, tuyệt nhiên không có gì khác đang còn sống ngoài anh”. Fabien đã chiến thắng bản thân mình, anh đã cống hiến hết khả năng của mình trong quãng thời gian được bay và còn bay được. Anh hoàn thành trách nhiệm được giao một cách xuất sắc, cho đến khi “anh lang thang giữa những đá quý lạnh cóng, giàu có đến vô cùng, nhưng cái chết đã kề”. Revière cũng thế, dù cho ông là người phụ trách cả mạng lưới các tuyến bay, song ông vẫn có những lần bị tình cảm, cảm xúc chi phối. Ông yếu đuối ngay trong sự bản lĩnh của chính mình. Ông đã từng nghĩ rằng những người điều khiển máy bay không được phép sai sót, dù đó là những chi tiết nhỏ nhất. Ông kỉ luật những phi công bay về trễ, ông không để tâm mấy đến những chuyến bay đáp cánh trễ giờ, miễn làm sao phải đúng giờ là được. Nhưng mọi thứ với ông chỉ là bề ngoài, ông tỏ vẻ trang nghiêm bởi vì ông biết công việc của ông chẳng hề dễ dàng, chỉ lơ là một chút thì những chuyến tàu thư kia sẽ không có cơ hội trở về. Ông trân trọng thời gian và nhận ra rằng “Tưởng chừng như thật sự vào một lúc nào đó, con người sẽ có thể có thời gian, tưởng chừng như đến đầu mút cuộc đời con người có thể giành giật được cái thanh bình diễm phúc mình vẫn thường mơ tưởng. Nhưng thanh bình là điều không có. Chiến thắng cũng có thể là điều không có. Không có cái bến đậu dứt khoát của tất cả các con tàu thư”. Không khác gì Fabien, Revière cũng có những lúc bị thiên nhiên quật ngã. Tại trạm Không lưu không nhận được tín hiệu nào, mọi máy móc hiện đại cũng trở thành những cổ máy chết hoặc sự chủ quan trong công việc đã vô tình giết chết những tay điều khiển cừ khôi: “Đó là một trận gió xoáy Thái Bình Dương, chúng ta được nhận thông báo quá muộn. Vả lại, những trận gió xoáy đó không khi nào vượt qua dãy Andes. Lúc ấy không thể đoán biết là cơn gió xoáy đó tiếp tục đi về hướng Đông”. Reviève đầy kinh nghiệm sống, ông là mẫu đàn ông quyết đoán. Khi tiếp xúc trực tiếp với những phi công thì sẽ tỏ thái độ khác, khi trực tiếp tiếp xúc với thanh tra Robineau lại với thái độ khác “Những con người ấy hạnh phúc vì họ yêu mến điều họ làm, và họ yêu như vậy, bởi vì tôi cứng rắn”. Có thể ông đã làm cho mọi người đau khổ, nhưng cũng bằng cách đó ông đem lại cho họ những niềm vui mạnh mẽ “Phải đẩy họ tới một cuộc đời mạnh mẽ, một cuộc đời có cả đau khổ lẫn niềm vui nhưng là cuộc đời duy nhất đáng kể”. Reviève tự trách mình tuổi đã cao trong khi công việc thì đầy rẫy ra đó “Biết bao công việc đã làm để đi đến cái bước này! Năm chục tuổi đời; năm mươi năm mình đã sống đủ đầy, đã tự đào tạo, đã đấu tranh, đã làm đổi dòng các biến cố, để bây giờ đây, đó lại là điều mình bận tâm và chất chứa và được coi là quan trọng bậc nhất trên đời... Thật là kỳ cục”. Khuôn mặt của toàn chuyến bay thật đẹp nhưng khắc nghiệt. Nó phải bắt chúng ta phải trả giá bằng nhiều con người, và là những con người trẻ trung nhất – những con người đã từng không biết mình cao đẹp “Ta không biết điều ta làm có phải là tốt hay không. Ta không biết rõ cái giá trị đích xác của kiếp người, của công lý cũng như của nỗi phiền muộn. Ta không biết đích xác niềm vui của con người có nghĩa lý gì. Không biết cả về một bàn tay đang run rẩy. Cả tình thương, cả sự dịu dàng...”. Cuộc sống vẫn bấp bênh chất chưởng, con người tìm mọi cách vật lộn giành giật với cuộc sống... Thế nhưng, còn việc tồn tại lâu bền, còn việc sáng tạo, còn việc đổi trao cái thần xác mềm yếu mỏng manh của mình thì lại khác, biết đâu hôm nay ta chiến thắng nhưng hôm sau ta thất bại; biết đâu hôm nay ta còn nhiệt huyết nhưng hôm sau ta dường như muốn dừng lại và buông bỏ mọi việc hay biết đâu hôm nay ta còn sống, còn cười nhưng hôm sau ta đã trở về với bầu trời, với những vì sao, mãi mãi. Bay đêm thật ra là một câu chuyện mà Saint – Exupéry muốn chia sẻ với tất cả những đồng nghiệp làm nghề hàng không, muốn chia sẻ với những con người đang sống trong xã hội công nghiệp. Bề ngoài họ có thể hào nhoáng nhưng tận sâu trong bên trong họ là những người cần được yêu thương và đồng cảm, những con người mà chẳng hề biết mình sẽ đi về đâu. Bay đêm là tiếng nói đại diện cho đất nước Pháp, cho toàn thế giới rằng ở đâu đấy trong cuộc sống này, vẫn còn những con người hy sinh thầm lặng, họ chỉ biết yêu bầu trời và xem bầu trời chính là ngôi nhà đặc biệt của họ. Đã cất cánh rồi thì phải chiến đấu đến cùng. Bay đêm dạy cho ta biết chấp nhận những điều rủi ro mà cuộc đời luôn luôn cho phép xảy đến, đùng một cái người vợ phải co ro vì thiếu chồng, đùng một cái phải nghẹn lời chia tay với “chiến binh” – là người thân của mình. Trơ trọi. Tàn nhẫn. Lạnh tanh. Cho đến hôm nay khi có thời gian nhìn lại, bản thân chúng ta sẽ càng biết trân trọng những con người hoạt động trong nghề hàng không. Và trên mỗi chuyến bay của cuộc đời mình, chúng ta mới thấu hiểu được rằng “Một khi đã vạch xong con đường, con người không thể nào không đi tiếp”. Lúc đó nhìn lại cuộc đời và tìm kiếm cho mình cái đam mê, sự nhiệt huyết và trách nhiệm với bản thân, cộng đồng và đất nước. Thế giới đó không có quá nhiều về sự thịnh vượng của vật chất, tiền tài mà là hòa nhập vào nhịp điệu của sự chia sẻ, hoàn thiện mình từng ngày và trên hết là biết quan sát cuộc sống. Và sau tất cả những giông bão bao quanh, người ở lại phải sống thay phần của người đã khuất, sống một cuộc đời trọn vẹn hơn. Với lối kể đứt quãng, kết cấu phân mảnh cùng giọng điệu chân thực. Bay đêm dựng nên một bức tranh nhiều màu sắc với khoảng trống khác nhau trong thời gian, không gian và khai thác chiều sâu tâm lý của con người thông qua hành động một cách đa sắc thái. Đọc từng câu chữ, ta có thể dễ dàng phát hiện ra chất điện ảnh trong Bay đêm, từ đó dựng nên bộ phim cho riêng mình – bộ phim về một chuyến Bay đêm chinh phục những chặng đường chông gai đang đón đợi. *** [Review 2018] Bay Đêm – Antoine de Saint-Exupéry Chất văn của Antoine de Saint-Exupéry luôn song hành hai mặt đối lập: một là cái thơ mộng, trìu mến, cái đẹp lẩn khuất trong sự vật, mặt còn lại chính là sự thực của cuộc sống vừa bình thản mà chân thật. Khi mà ta đã trót sa vào cái lớp lụa nhung kết từ chữ của Saint-Exupéry rồi mê mải tận hưởng nó thì ông lại dẫn ta vào cái mặt phẳng phũ phàng của hiện thực. Tôi không thấy cái bi lụy hay khắc nghiệt trong văn của Antoine de Saint-Exupéry, dù cho với những đoạn văn mà nhân vật cận kề sinh tử, thì câu chữ, khung cảnh ông tạo nên vẫn rất đỗi êm dịu, đẹp đẽ như cái vuốt từ ngón tay người thương, hoặc là sự chân thành, hy vọng và nghiêm cẩn đằng sau nỗi suy tư của người ở lại. Tôi đã chẳng biết phải viết tiếp như thế nào sau mấy dòng chữ trên cho đến khi lại có một đêm mất ngủ, nằm thao thức rồi chợt nhớ tới Bay Đêm, liền ngồi dậy bật máy lên gõ thử vài dòng. Cũng xin nói, mấy câu có vẻ màu mè trên là cảm nghĩ của tôi sau khi đọc hai tác phẩm của Antoine de Saint-Exupéry mà thôi, không dám múa rìu qua mắt thợ. Còn lẽ sao bài này lại đổi đại từ nhân xưng thành “tôi”, vì tôi muốn vậy thôi.   Antoine de Saint-Exupéry ngoài việc làm nhà văn thì còn kiêm nghề phi công, nên qua Bay Đêm mà khắc họa lại cho người đọc cái niềm vui, tình yêu, khó khăn, dấu ấn của nghề phi công thuở ngành hàng không còn mới sơ khai. Nhiều người, trong đó có cả tôi đều kêu rằng Bay Đêm khó đọc quá, dù rằng nó chẳng nặng chuyên môn khó hiểu nhưng ta lại bỡ ngỡ với cách viết của Saint-Ex khi ông cứ liên tục đổi góc nhìn giữa các nhân vật với nhau mà viết. Đôi khi dịch giả Châu Diễn lại làm người đọc thêm bối rối bằng vài chỗ dịch như sau: “Như một hành trang, ông luôn luôn mang theo cái vẻ âu sầu ấy.”. Nhưng tôi xin cam đoan với bạn, nếu bạn kiên trì đọc tới trang 59 rồi lật sang số 60, trải nhiệm đọc của bạn bỗng trở nên mượt mà rất nhiều. Nếu chưa được, hãy dành cuốn sách này cho những đêm mất ngủ, bật đèn lật sách, mơ màng vượt biển ngắm sao trên cánh con tàu bay chất đầy thư gửi nơi xa.   Như tôi đã nói, cuốn truyện chừng hai trăm trang này kể về những chuyến bay vận chuyển thư tín diễn ra trong cảnh đêm và qua nhiều góc nhìn khác nhau từ những con người đã gắn mình với công việc ấy: người chỉ huy, người truyền điện tín, phi công, ông thanh tra hay người vợ trẻ của anh phi công. Tôi thích góc nhìn của Rivière – vị thủ trưởng chỉ huy các chuyến bay đêm, một con người vừa nghiêm khắc, gan lì, không nhân nhượng nhưng cũng có lúc mềm lòng để suy tư về những con người làm việc dưới quyền chỉ huy của ông. Đọc những đoạn văn trăn trở của ông mà tôi vừa không đồng ý lẫn nể phục tinh thần quyết đoán của Rivière. Ông rèn luyện cấp dưới của mình để họ nghiêm túc với công việc, không đổ lỗi cho hoàn cảnh và dám chịu trách nhiệm với việc mình làm. Nhưng ngược lại, đôi lúc ta lại thấy Rivière quá xa cách, không biết cảm thông với những người đồng nghiệp. Dầu sao vẫn phải thừa nhận rằng Rivière đúng, trên cương vị của một người thủ lĩnh, ông phải duy trì tỉnh táo, nghiêm khắc, tránh bi lụy để đương đầu với khó khăn và duy trì nhiệm vụ. Tai nạn luôn có thể xảy ra và từ những đau khổ, ta phải rút ra bài học, cải thiện hơn nữa, như chính Rivière nhận định: “Những thất bại tăng thêm sức mạnh cho những kẻ sung sức.” — Rivière Nhưng dù hành động của Rivière có phục vụ cho mục đích cấp tiến nào đi chăng nữa thì sinh mạng, sự an toàn của con người luôn là ưu tiên và phải được pháp luật bảo hộ. Trong một cuốn truyện ngắn thì thôi cũng không nên yêu cầu nhiều. Với Rivière, màn đêm là vô tận, là trách nhiệm không ngừng nghỉ. Thì với Fabien, với những người phi công khác, mặt đất là chốn xa xôi, bầu trời bất tận mà đẹp đẽ, là nỗi chán chường, sự hào hứng, nỗi nhớ đất liền, là sự tự hào về con tàu bay. Tôi thích cả bầu trời sao trăng giữa giông bão của Fabien, thích cả bầu trời của Fabien qua ánh mắt mến mộ của người vợ trẻ: “Anh có trời đẹp, đường anh đi lát đầy sao.” Nay tôi xin dừng bút, vì thực là hết chữ rồi. Có nhiều đoạn văn đẹp trong Bay Đêm tôi sẽ không trích lại, gập cuốn sách này mà phải gật đầu đồng ý với lời bạt ở bìa sách: Bay đêm đẹp, mê hoặc mà đầy nguy hiểm. ***   Rating: 5 out of 5. Saint-Ex vẫn như thế, vẫn cái giọng văn trữ tình đẹp đẽ như thơ ấy mà ta đã mong được gặp lại kể từ Hoàng Tử Bé, dẫu rằng lần này đó là chất thơ trong đanh thép. Trước khi được nói đến điều ta ghi dấu nhất từ cuốn sách, ta xin được cảm thán cách Saint-Ex miêu tả bầu trời đêm với sao, trăng, mây gió và giông tố. Niềm say mê, tình yêu tha thiết với ánh sáng tuyết trắng của trăng và sao trải lên sáng lóa trên dải mây ngàn là điều dễ hiểu, nhưng dường như ta còn thấy trong ông là niềm bao dung, biện hộ cho cả những cơn giông bão dữ dội nuốt chửng đồng đội của ông. Ta đọc và nghe tình yêu ấy ngấm vào mình một cách dịu dàng, từ khi nào ta thôi còn oán trách những khắc nghiệt trên đường đi nữa? Ngày xưa khi học môn Xác suất thống kê, ngụp lặn trong vô vàn công thức tính toán, ta còn nhớ thầy giáo đã bảo rằng: “Các em có thể quên môn học này, có thể quên mớ kiến thức của nó, nhưng đừng quên nguyên tắc Số Lớn khi bước ra đời”. Khi ấy ta chỉ lờ mờ hiểu được cách vận dụng của nó trong các quyết định: Không có gì tuyệt đối cả, nếu phải chọn hãy chọn phần lớn. Nhưng đến khi ta biết đến Rivière, một hình tượng của người lãnh đạo, người mang trên mình sức nặng của Vĩ Đại và Chiến thắng, ta đã sáng rõ hơn về cái được gọi là Số Lớn. Những thất bại, những mất mát đã xảy ra, và sẽ tiếp tục diễn ra nhưng không vì thế mà Rivière chậm trễ, ngưng trệ một chuyến tàu. Ông sẽ không vì một sinh mạng đã tan biến, một hạnh phúc đã ngừng thở mà bỏ cuộc, mà không tiếp tục đưa những con tàu vào đêm tối. Tại sao một chuyến tàu thư cho một thành phố lại quan trọng hơn mạng sống quý giá của một con người, hơn cả hạnh phúc của một gia đình êm ấm? Tại sao cả một dân tộc điêu đứng cho một bức tường mang tên Vạn lí trường thành? Tại sao hàng vạn người chết đánh đổi cho những hòn đá xếp chồng lên nhau mang ý nghĩa Kim tự tháp? Có đáng giá không khi biết bao hạnh phúc để đánh đổi cho những sự vật như thế? Có, “Quyền lợi chung do các quyền lợi riêng hợp thành: nó không biện bạch thêm một tí gì khác.” Có một thứ gì đó còn cao quý hơn cả những mạng sống, những hạnh phúc cá nhân ấy. Đó là cái gì? Hàng vạn số phận đã mất đi là nhiều, nhưng vẫn là số ít so với nhân loại này. Còn số lớn còn lại, họ nhận được thứ được gọi là Văn Minh, là Thành tựu, là những bằng chứng cho những điều Vĩ Đại vượt trên sức mạnh nhỏ bé của con người. Nếu không có sự hi sinh của số ít thì số ít ấy sẽ được sống nốt số phận của mình, và rồi cũng sẽ biến mất đi, nhưng nhân loại sẽ trôi đi như những hạt bụi không vết tích. Rivière đã làm đúng những gì cần làm, sự cực đoan ấy tàn nhẫn ấy không phải để thỏa mãn cho cái Tôi vị kỉ ngạo mạn, ông hết lòng bảo vệ những chuyến tàu, và cũng dũng cảm dâng hiến chúng cho Chiến thắng và Số Lớn. Ta quý trọng và nể phục những con người như Rivière, họ bước những bước vững chải qua sự yếu hèn của con người, nắm chặt trong tay niềm tin sắt đá để bước đến điều Vĩ Đại và dám chấp nhận những thất bại để đến gần với Chiến Thắng hơn. Chỉ cần có họ, nhân loại sẽ còn hi vọng về sự tiến hóa. Và cuối cùng, ta xin được trích dẫn một câu ta nghĩ rằng Saint-Ex đã nói hộ lòng mình bấy lâu nay: “Chúng ta không đòi hỏi sự vĩnh cửu, mà chỉ đòi hỏi không phải chứng kiến các hành động mà sự vật bỗng chốc mất hết ý nghĩa. Khi đó, cái trống rỗng bao quanh ta sẽ hiện ra…”. Khi đã chứng kiến những hành động ấy đôi lần, ta trở nên vô cùng sợ hãi cái sự thật rằng sự vật sẽ trở nên vô nghĩa trong đời sống này… Ta không biết mình sẽ thở thế nào trong sự chân-không ấy. Nhưng vẫn theo nguyên tắc Số Lớn, ta chấp nhận đánh đổi những giờ khắc trống rỗng khủng khiếp ấy để đi đến cái Chiến thắng mà niềm tin của ta xây dựng nên, như cách Saint-Ex xây dựng trong suốt đời mình. Mời các bạn đón đọc Bay Đêm của tác giả Antoine De Saint-Exupéry.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đêm Vĩnh Hằng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Khoa huyễn Dị Chủng tập 3: Đêm Vĩnh Hằng của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan. Tác giả: Guillermo Del Toro & Chuck Hogan. Dịch giả: Nguyễn Thị Thu Yến Thể loại: Trinh thám, giả tưởng, kinh dị, tận thế Mức độ ưa thích: 9/10 Sau thời gian dài chậm rãi chờ đợi thì cũng đã đọc được phần 3 “Đêm vĩnh hằng”. Biển sẽ cẩn thận không spoil những chi tiết trọng yếu của truyện để không bị lôi ra chém. Tuy vậy, trong lúc review, nếu có lỡ tiết lộ điều gì thì mong các bạn nhắc nhở.   Trong quyển này, nội dung câu chuyện diễn ra trong bối cảnh hậu tận thế, khi ma cà rồng đã xâm chiếm Trái Đất. Chẳng những ma cà rồng đô hộ con người mà còn có những con người trục lợi, dựa vào chế độ của ma cà rồng để áp bức chính đồng loại mình. Từng thành viên trong nhóm kháng chiến ma cà rồng buộc phải tách ra, bí mật tồn tại ở những nơi khác nhau để tránh sự truy giết của Chúa Tể Trẻ. Ôm nỗi đau mất người thân, bác sĩ dịch tễ Ephraim Goodweather tuy vẫn có thể miễn cưỡng chém giết ma cà rồng để tự vệ nhưng bản thân anh bị nghiện nhẹ. Mối quan hệ từng có thời khăng khít giữa Ephraim và Nora Martinez đã trở nên xấu đi sau sự kiện tồi tệ diễn ra ở cuối quyển 2 “Tàn thế”. Chuyên gia diệt chuột bọ Vasiliy Fet thì duy trì cuộc sống trên những con tài buôn lậu của người Nga, vì ma cà rồng sợ nước. Augustin Elizalde cùng đồng bọn dùng vũ khí hạng nặng và khả năng chiến đấu ngoan cường của bọn gangster đường phố để chống phá bè lũ của Chúa Tể Trẻ. Đặc biệt, có một ma cà rồng hùng mạnh tình nguyện gia nhập lực lượng của loài người. Trong bối cảnh hậu tận thế vô cùng đen tối tưởng như chẳng còn chút ánh sáng hy vọng đó, họ lại được hé lộ vài manh mối dẫn đến khả năng hủy diệt ma cà rồng và cứu lấy thế giới. Ngay từ quyển 1 “Dị chủng”, Biển đã thấy câu chuyện này vô cùng lôi cuốn. Quyển 2 & 3 vẫn xuất sắc như quyển 1, có lẽ vì được viết bởi hai tác giả nên đến tận những dòng cuối cùng bút lực vẫn mạnh mẽ, không hề bị “xuống tay”, văn phong đồng nhất, không lọt chọt. Đối với Biển, cái kết của cuốn 3 – cũng là kết cuộc của cả bộ truyện – có vẻ hơi chóng vánh và không thỏa đáng lắm, nhưng có lẽ đó là những điều hợp lý nhất nên diễn ra sau thảm họa ma cà rồng xâm chiếm Trái Đất. Cái kết cũng khiến Biển tự hỏi không biết có chi tiết ẩn nào trong truyện mà Biển chưa phát hiện ra không. [Đoạn này KHÔNG spoil]. Trong “Đêm vĩnh hằng”, có hai lần đề cập đến tàu Mayflower chở những người Châu Âu đầu tiên từ Plymouth (Anh quốc) đến Tân Thế Giới, Cape Cod (Bắc Mỹ). Trên con tàu này, ba Chúa Tể Cổ Đại và Quintus (Ma Cà Rồng Bẩm Sinh – con của Chúa Tể Trẻ) – đã đến Châu Mỹ dưới sự bảo trợ của thương nhân Kiliaen Zanden. 200 người định cư bị chết trong năm đầu tiên, nguyên nhân tử vong là bệnh tật nhưng thực chất họ trở thành mồi cho ma cà rồng. Sự kiện này cũng là một trong những chi tiết chính trong bộ truyện “Gia tộc ma cà rồng” của tác giả Melissa De La Cruz. Đề tài về ma cà rồng rất hấp dẫn đối với độc giả mọi lứa tuổi nên có lẽ vì vậy mà nhiều tác giả sử dụng nó trong các tác phẩm của mình. Theo đánh giá riêng của Biển thì trong bộ truyện Twilight của tác giả Stephenie Meyer, hình tượng ma cà rồng (kể cả nam) bị xây dựng bánh bèo và đáng chán nhất. Cũng như hai quyển đầu, “Đêm vĩnh hằng” có những câu văn dài được viết rất hay và được dịch một cách xuất sắc, như “Trong phạm vi lập lòe của tầm nhìn cảm ứng nhiệt của hắn, hàng ngàn ô cửa sổ trống rỗng lườm xuống như những cặp mắt chết lạnh của các chứng nhân sa ngã. Bầu trời tăm tối cuồn cuộn bên trên, dốc cạn rác rưởi ô trọc xuống thành phố thất trận”. Quyển 3 có nhiều đoạn đánh sâu vào cảm xúc người đọc. Không giống như truyện trinh thám của Lee Child hoặc David Baldacci nơi mà độc giả có thể thoải mái tâm trí lướt theo nội dung truyện, câu chuyện ma cà rồng của Guillermo và Chuck tạo nên những khoảng lặng trong khi đọc, ngay từ đầu cuốn 3 độc giả đã phải giựt mình nhìn lại và nhận ra thế giới chúng ta đang có – với tất cả những tệ nạn, gian dối, nghèo khổ, cô độc – vẫn đáng sống biết bao. Nhân vật chính Ephraim Goodweather có một đứa con trai 13 tuổi là Zachary Goodweather, đứa trẻ này là điểm mạnh và điểm yếu của anh, là người được anh viết cho những dòng nhật ký rất xúc động. Xoay quanh nhân vật Zachary này, các tác giả cũng viết nên những câu chữ có thể đánh động các bậc phụ huynh: “… có phải việc làm bố vẫn luôn là một nỗ lực ghê gớm đến vậy? Khuôn rèn tâm hồn những người thân yêu trong hình ảnh của bản thân, trong cái bóng của bản thân?” Các nhân vật trong truyện được miêu tả sinh động, có hồn. Trong thời điểm hậu tận thế, phải nỗ lực sinh tồn, bộ não loài người của họ vẫn cố lý giải tình huống đang gặp phải và cách xử lý chúng: “Ở giai đoạn này, mọi chuyện cứ như thể, chúng ta làm vì cái gì? Có phải chúng ta đang cố cứu thế giới không? Thế giới mất rồi. Nếu ngày mai bọn ma cà rồng biến mất, ta sẽ làm gì đây? Tái thiết? Như thế nào? Vì ai?” Biển công nhận các tác giả đã tìm hiểu rất nhiều tư liệu chuyên sâu về lịch sử + tôn giáo, kết hợp với trí tưởng tượng và khả năng hư cấu phi thường để viết nên bộ truyện thật sự hoành tráng này, nhưng những điều viết trong quyển 3 có lẽ khá nguy hiểm đối với những độc giả nhỏ tuổi chưa tìm hiểu kiến thức và chưa hình thành chính kiến rõ rệt về tôn giáo. ____ Có lẽ vì các tác giả là công dân ở những quốc gia có quốc giáo là Thiên Chúa giáo nên những nhân vật của họ cũng có niềm tin tôn giáo mãnh liệt. Biển thật hâm mộ những nhân vật trong truyện, dù bị các thế lực xấu xa tàn ác khiến rơi vào cảnh đau khổ tột cùng – thậm chí mất mạng – họ vẫn giữ vững niềm tin và không mảy may oán trách vì sao các thế lực trên cao không cứu họ. Ba cuốn sách tổng cộng hơn 1300 trang nhưng Biển chỉ nhớ có một chi tiết hơi vô lý thuộc về hành động của nhân vật (cuối cuốn 3), còn phần miêu tả tâm lý con người và ma cà rồng đều hợp lẽ và dễ hiểu. Bộ truyện có nhiều nhân vật nhưng tổng thể đều được viết rất kỹ, suy nghĩ + hành động của nhân vật đều không hề bị loạn, không có chỗ nào nhầm lẫn hoặc “hố chưa lấp” (chi tiết dở dang bị tác giả bỏ quên không xử lý). Hai cuốn đầu bìa màu lạnh, cuốn 3 bìa đột ngột chuyển sang màu nóng. Tưởng rằng bìa của “Đêm vĩnh hằng” spoil truyện nhưng không hề nha, độc giả cứ yên tâm đọc. Cuốn 3 được dịch thuật và biên tập kỹ lưỡng, không có lỗi chính tả / lỗi đánh máy / lỗi in ấn, đặc biệt những tên riêng + tên địa danh trong Kinh Thánh Cựu Ước được giữ nguyên gốc tiếng Anh, sẽ làm hài lòng các độc giả theo đạo Chúa. Biển chưa từng nhận mình là fan cứng của Nhã Nam nhưng xét theo số sách NN Biển đang sở hữu + từng đọc thì lẽ ra Biển phải thuộc hàng top fan NN. Bộ truyện “Dị chủng”, “Tàn thế” và “Đêm vĩnh hằng” sẽ là một trong các bộ sách đáng nhớ nhất đánh dấu quãng thời gian tập tành đọc trinh thám của Biển. (Sea, 22-10-2019) Camellia Phoenix *** Không lãng mạn hóa hình tượng ma cà rồng mà thể hiện đúng bản chất của chúng, ‘Dị chủng’ đã khẳng định tên tuổi trong dòng truyện kinh dị nước ngoài. Kể từ khi ‘cơn sốt’ Twilight bùng nổ, hình tượng ma cà rồng dường như đã bị lãng mạn hóa trở thành những anh hùng đầy bi trang vì tình yêu mà nguyện hi sinh. Cũng chính bởi vậy, hình ảnh ma cà rồng dần bị hạ thấp trong những tác phẩm truyện kinh dị nước ngoài nói riêng và dòng truyện kinh dị nói chung. Thế rồi ‘Dị chủng’ (tựa gốc: The Strain) của bộ đôi Guillermo del Toro và Chuck Hogan xuất hiện và đưa mọi thứ trở về đúng quỹ đạo của nó. Không còn hình ảnh đầy ‘soái ca’ của những chàng ma cà rồng, ‘Dị chủng’ đã khôi phục tượng đài ác quỷ bóng đêm khát máu – cơn ác mộng kinh hoàng đối với loài người. ‘Dị chủng’ được bộ đôi tác giả del Toro và Chuck sử dụng kết hợp nhiều yếu tố truyện: một chút truyền thuyết, một chút khoa học viễn tưởng, một chút kinh dị giật gân và một chút hình sự trinh thám. Bốn trong một – đó là điều đã tạo nên thành công trong việc tái hiện hoàn hảo hình ảnh ma cà rồng chân thực đến gai người là những con quái vật bước ra từ địa ngục. Mọi chuyện bắt đầu từ chiếc máy bay Boeing 777, khi nó đột ngột tắt lịm ngay lúc vừa hạ cánh và hàng trăm hành khách xấu số bên trong đều chết một cách bí ẩn không lưu lại chút dấu vết. Ngay từ giây phút chiếc máy bay bung những bánh xe xuống cũng là lúc con quái vật kia chạm những móng vuốt xuống mặt đất. Mạch truyện gay cấn, hồi hộp ngay từ những câu từ đầu tiên. Đó vừa là câu chuyện về âm mưu thôn tính thế giới, thống trị loài người của loài sinh vật hiểm ác; vừa là cuộc chiến của những nhân vật chính trên con đường bảo vệ nhân loại. Với yếu tố khoa học viễn tưởng, loài ma cà rồng hiện lên như một dịch bệnh: chúng ủ bệnh, rồi thay đổi cơ thể người bệnh, cách chúng lây lan và bùng phát, hủy diệt ghê gớm đến bao nhiêu… Cho dù được gọi là một tác phẩm truyện kinh dị, ‘Dị chủng’ không khiến người đọc sợ hãi theo cái cách mà những bộ truyện kinh dị hơi hướng máu me, ma quỷ khác. Đổi lại, ‘Dị chủng’ lại đem đến một cảm giác rờn rợn, từ từ len lỏi. Cái cách tác giả miêu tả ‘bệnh dịch’ dần phát tác rồi xâm chiếm vật chủ, sau đó là cái cách mà chúng lây lan, tuy rằng tuần tự và hầu như chẳng có chút ‘dọa dẫm’ nào những vẫn làm người theo dõi thấy giật mình lo sợ. Về tuyến nhân vật, nổi bật hơn cả chính là cái tên Ephraim Goodweather – người trực tiếp chứng kiến mọi sự thay đổi của loài người trong ‘dịch bệnh’ và Giáo sư Abraham Satrakian – nhân chứng sống trong một trận càn quét của loài quái vật kia thời quá khứ. Nếu như Goodweather làm cho người ta dễ dàng hình dung ra xã hội hiện đại, thì Satrakian lại làm người đọc mê mẩn với những câu chuyện từ ngày xa xưa. Trên tất cả, việc tạo dựng Satrakian đầy chiều sâu với những dấu tích hiện hữu rõ ràng về cuộc tranh giành sự sống với cái kẻ được gọi là ‘Chúa tể hút máu’ chính là điểm nhấn khiến cho ‘Dị chủng’ càng thêm phần hấp dẫn và lôi cuốn. Cùng sự đầu tư cho nhân vật Satrakian, tuyến nhân vật phụ cũng được sử dụng linh hoạt để tô điểm cho ‘đại nạn dịch bệnh’. Cái hay của bộ đôi tác giả chính là đi sâu phân tích tâm lí của từng nạn nhân – những người nhiễm phải virut – đó là nỗi mơ hồ khi chưa biết mình bị sao, là lo âu khi dần khám phá ra sự thật, là sợ hãi và giằng xé khi họ biết rằng chính mình sắp trở thành một thứ gì đó khác – thứ sẽ đe dọa đến cả gia đình và những người thân yêu. Tuy nhiên, có lẽ chính bởi việc khai thác quá nhiều câu chuyện và tạo dựng nhân vật Goodweather và Satrakian quá sâu nên dường như tuyến nhân vật nữ bị lu mờ, chẳng có cơ hội phát triển. Kẻ phản diện cũng chưa thực sự có ‘đất diễn’ trong Dị chủng, nhưng có lẽ đây cũng là một phần chủ đích của bộ đôi tác giả này, khi đây mới chỉ là cuốn đầu tiên mở đầu cho triology về ma cà rồng. Điều này chắc chắn sẽ khiến khán giả đặt nhiều kỳ vọng và mong đợi vào những phần truyện sau. Với chủ đề tận thế với sự trỗi dậy của virus chết người, tưởng chừng chỉ thuần kinh dị khô khan nhưng ‘Dị chủng’ vẫn đem đến một cái nhìn mới mẻ và đầy chiều sâu về cả tâm lý con người. Không hề quá khi nói rằng đây là một trong những truyện kinh dị nước ngoài lôi cuốn và đặc sắc nhất mà chắc chắn ngay cả khi gấp cuốn sách lại, bạn vẫn ‘thèm’ được mở chúng ra một lần nữa. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết "Dị Chủng tập 3: Đêm Vĩnh Hằng" của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan là phần tiếp theo của cuốn tiểu thuyết "Dị Chủng: Tàn Thế". Cuốn sách kể về cuộc chiến giữa con người và Dị Chủng, sau khi Dị Chủng đã chiếm lấy thế giới. Trong cuốn sách này, Amy, Peter, và những người sống sót khác đã thành lập một nhóm kháng chiến, để chiến đấu chống lại Dị Chủng. Họ đã phát triển được một loại vũ khí mới, có thể giết chết Dị Chủng. Nhóm kháng chiến đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trên hành trình của mình. Họ phải đối phó với sự tàn bạo của Dị Chủng, sự phản bội của những kẻ đồng minh, và sự nghi ngờ của những người dân thường. Cuối cùng, nhóm kháng chiến đã giành được chiến thắng, nhưng họ biết rằng Dị Chủng vẫn chưa bị đánh bại hoàn toàn. Họ sẽ phải tiếp tục chiến đấu để xây dựng một thế giới mới, cho con người và Dị Chủng cùng chung sống hòa bình. Đánh giá "Dị Chủng tập 3: Đêm Vĩnh Hằng" là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng hấp dẫn, với cốt truyện lôi cuốn, nhân vật được xây dựng tốt, và những tình tiết cao trào, gay cấn. Cuốn sách tiếp tục phát triển những ý tưởng của cuốn tiểu thuyết trước đó, và mang đến nhiều điều mới mẻ cho người đọc. Cuốn sách khám phá thêm về nguồn gốc của Dị Chủng, và về mối quan hệ giữa con người và Dị Chủng. Cuốn sách cũng có nhiều thông điệp ý nghĩa, ca ngợi tinh thần kiên cường, vượt qua khó khăn, thử thách của con người. Một số nhận xét của độc giả "Cuốn sách viết rất hay, lôi cuốn từ đầu đến cuối. Nhân vật Amy rất ấn tượng, cô ấy là một người mạnh mẽ, kiên cường, và có khả năng đặc biệt. Cuốn sách cũng có nhiều thông điệp ý nghĩa." "Cuốn sách mang đến nhiều điều mới mẻ cho người đọc, và có những tình tiết cao trào, gay cấn. Tôi rất thích cuốn sách này." Một số điểm nổi bật của cuốn sách Cốt truyện lôi cuốn, hấp dẫn, với nhiều tình tiết cao trào, gay cấn. Nhân vật được xây dựng tốt, có tính cách, động lực rõ ràng. Khám phá thêm về nguồn gốc của Dị Chủng, và về mối quan hệ giữa con người và Dị Chủng. Mang đến nhiều thông điệp ý nghĩa, ca ngợi tinh thần kiên cường, vượt qua khó khăn, thử thách của con người. Một số hạn chế của cuốn sách Một số tình tiết có thể hơi phi logic, khó hiểu. Cuốn sách có nhiều thuật ngữ chuyên môn, cần có kiến thức nền tảng về khoa học viễn tưởng để có thể hiểu rõ. Nhìn chung, "Dị Chủng tập 3: Đêm Vĩnh Hằng" là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đáng đọc, mang đến cho người đọc những trải nghiệm thú vị và nhiều suy ngẫm. Mời các bạn mượn đọc sách Đêm Vĩnh Hằng của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan.
Tàn Thế
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Huyền ảo Tàn Thế của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan. Bác sĩ Ephraim Goodweather chẳng muốn gì hơn một kỳ nghỉ cuối tuần với con trai mình. Thế nhưng khi được gọi đến điều tra về một chiếc máy bay đột nhiên ngưng hoạt động vài phút sau khi hạ cánh, cả thế giới của anh bỗng chốc đảo lộn. Giờ đây, anh phải đối mặt với một chủng loài cổ xưa nhăm nhe trỗi dậy thôn tính trái đất. Một trận đại dịch có thể tiêu diệt toàn bộ loài người. Được xuất bản lần đầu năm 2009 và chuyển thể thành series phim truyền hình ăn khách năm 2014, Dị Chủng không những đã trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị, vốn bị biến tấu và lãng mạn hóa quá mức những năm gần đây, mà còn giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu nhất trong những cơn ác mộng của con người. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết "Dị Chủng tập 2: Tàn thế" của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan là phần tiếp theo của cuốn tiểu thuyết "Dị Chủng". Cuốn sách kể về cuộc hành trình của Amy, một cô gái có khả năng đặc biệt, cùng với người bạn của cô, Peter, và một nhóm người sống sót khác, để tìm kiếm nơi trú ẩn an toàn trước sự tấn công của Dị Chủng. Trong cuốn sách này, Amy đã phát triển được khả năng mới, cho phép cô có thể nhìn thấy những gì Dị Chủng đang nhìn thấy. Cô sử dụng khả năng này để giúp đỡ nhóm người sống sót, và dần dần trở thành một nhà lãnh đạo của họ. Nhóm người sống sót đã phải đối mặt với nhiều khó khăn trên hành trình của mình. Họ phải đối phó với sự tấn công của Dị Chủng, sự thiếu thốn lương thực và nước uống, và những kẻ xấu muốn lợi dụng tình hình để chiếm đoạt quyền lực. Cuối cùng, nhóm người sống sót đã tìm thấy một nơi trú ẩn an toàn, nhưng họ biết rằng Dị Chủng vẫn đang ở ngoài kia, và họ sẽ phải tiếp tục chiến đấu để bảo vệ cuộc sống của mình. Đánh giá "Dị Chủng tập 2: Tàn thế" là một cuốn tiểu thuyết huyền ảo hấp dẫn, với cốt truyện lôi cuốn, nhân vật được xây dựng tốt, và những tình tiết cao trào, gay cấn. Cuốn sách tiếp tục phát triển những ý tưởng của cuốn tiểu thuyết đầu tiên, và mang đến nhiều điều mới mẻ cho người đọc. Cuốn sách khám phá thêm về nguồn gốc của Dị Chủng, và về mối quan hệ giữa con người và Dị Chủng. Cuốn sách cũng có nhiều thông điệp ý nghĩa, ca ngợi tinh thần kiên cường, vượt qua khó khăn, thử thách của con người. Một số nhận xét của độc giả "Cuốn sách viết rất hay, lôi cuốn từ đầu đến cuối. Nhân vật Amy rất ấn tượng, cô ấy là một người mạnh mẽ, kiên cường, và có khả năng đặc biệt. Cuốn sách cũng có nhiều thông điệp ý nghĩa." "Cuốn sách mang đến nhiều điều mới mẻ cho người đọc, và có những tình tiết cao trào, gay cấn. Tôi rất thích cuốn sách này." *** Tóm tắt Câu chuyện bắt đầu với bác sĩ Ephraim Goodweather, một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) ở Atlanta, Georgia. Anh được gọi đến điều tra một chiếc máy bay đột nhiên ngưng hoạt động vài phút sau khi hạ cánh. Khi đến nơi, anh phát hiện ra rằng tất cả hành khách trên máy bay đều đã chết, và họ có những vết cắn kỳ lạ trên cổ. Ephraim nhanh chóng nhận ra rằng mình đang đối mặt với một mối đe dọa chưa từng có. Những hành khách trên máy bay đã bị nhiễm một loại virus mới, biến họ thành những sinh vật hung ác, khát máu. Loại virus này có khả năng lây lan nhanh chóng, và nó có thể khiến cả thế giới rơi vào nguy hiểm. Ephraim cùng với một nhóm các nhà khoa học và quân nhân phải tìm cách ngăn chặn sự lây lan của virus. Họ phải đối mặt với những sinh vật hung ác, những kẻ đã sẵn sàng hy sinh tất cả để lan truyền virus và tiêu diệt loài người. Review Dị Chủng là một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng kinh dị xuất sắc. Cuốn sách có cốt truyện hấp dẫn, đầy kịch tính và hồi hộp. Các nhân vật được xây dựng tốt, và những sinh vật ma cà rồng được miêu tả rất đáng sợ. Cuốn sách đã trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị, vốn bị biến tấu và lãng mạn hóa quá mức những năm gần đây. Những sinh vật ma cà rồng trong Dị Chủng không phải là những sinh vật lãng mạn, mà là những sinh vật khát máu, tàn bạo và đáng sợ. Chúng là mối đe dọa thực sự đối với loài người. Cuốn sách cũng giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu nhất trong những cơn ác mộng của con người. Ma cà rồng đã trở thành một trong những sinh vật kinh dị phổ biến nhất trong văn hóa đại chúng, và Dị Chủng đã góp phần khẳng định vị trí của chúng trong lòng những người yêu thích thể loại kinh dị. Dị Chủng là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại kinh dị và khoa học viễn tưởng. Cuốn sách sẽ mang đến cho bạn những giây phút hồi hộp, căng thẳng và rùng mình. Một số điểm nổi bật của cuốn sách: Cốt truyện hấp dẫn, đầy kịch tính và hồi hộp Các nhân vật được xây dựng tốt Những sinh vật ma cà rồng được miêu tả rất đáng sợ Trả lại cho những sinh vật bóng đêm chất kinh dị Giúp khôi phục lại một tượng đài của loài ác quỷ khát máu Một số điểm hạn chế của cuốn sách: Có một số đoạn văn miêu tả hơi dài dòng, gây khó hiểu Một số nhân vật phụ chưa được khai thác hết tiềm năng Tổng kết Dị Chủng là một cuốn tiểu thuyết kinh dị khoa học viễn tưởng xuất sắc. Cuốn sách có nhiều điểm nổi bật, bao gồm cốt truyện hấp dẫn, các nhân vật được xây dựng tốt và những sinh vật ma cà rồng được miêu tả rất đáng sợ.   Mời các bạn mượn đọc sách Tàn Thế của tác giả Guillermo Del Toro & Chuck Hogan.
Tình Yêu và Lý Tưởng
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann. THOMAS MANN QUA TÁC PHẨM TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG Mặc dù được viết vào thời trẻ tuổi của tác giả và mặc dù tính cách mỏng mảnh của nó, Tonio Kroger - mà chúng tôi chuyển sang bản Việt văn với nhan đề TÌNH YÊU VÀ LÝ TƯỞNG - vẫn được hầu hết các nhà phê bình xem là một tác phẩm tiêu biểu cho trọn sự nghiệp của Thomas Mann. Hơn thế nữa, là một kiệt tác của nhà văn Đức, giải thưởng Nobel 1929 này, với những kích thước lớn lao chứa đựng những chủ đề trung kiên nhất của tác giả, cũng như với nghệ thuật hoàn hảo và đầy hàm súc của nó. Viết ở ngôi thứ ba, thiên truyện lại được xem là mang nặng tính cách tự thuật. Tiểu sử của Tonio Kroger, do đó, một phần nào, cũng chính là tiểu sử của Thomas Mann: một vận hành tri thức có tính cách quyết định của tác giả trong cuộc đi tìm ý nghĩa của đời sống và nghệ thuật, của thực tại và lý tưởng. Trong một bài viết vào cuối đời mình, năm 1953, Thomas Mann đã thú thật: “Nói thẳng ra là không có nhiều đức tin, nhưng tôi cũng không tin lắm vào đức tin; đúng ra, và còn hơn thế nữa, tôi tin nơi lòng tốt con người là điều có thể hiện hữu mà không cần tới đức tin và đúng ra là phát sinh từ sự hoài nghi… Nghệ sĩ là người sau cùng còn nuôi ảo tưởng về ảnh hưởng của mình trên định mệnh con người. Vốn khinh miệt cái xấu, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được sự chiến thắng của cái xấu. Vốn quan tâm đến việc cống hiến một ý nghĩa, hắn đã không bao giờ kéo ngừng lại được những cái vô nghĩa đẫm máu nhất. Nghệ thuật không thiết lập nên một quyền lực, nó chỉ là một sự an ủi”.  Lời tự thú của một nhà văn ở cuối đời mình, về quyền năng và khả hữu tính của nghệ thuật, gói trọn ý nghĩa khốc liệt của một sự thức tỉnh nền tảng, lời tự thú đã từng được bộc lộ ngay trong Tonio Kroger, ra đời trước đó đúng nửa thế kỷ, năm 1903. Có thể xem đó chính là lời tự thú của chàng tuổi trẻ Tonio Kroger với tâm hồn nóng bỏng những ngọn lửa của trí tuệ và đam mê, luôn trên đường tìm kiếm cho đời mình và cho nghệ thuật, một sự cứu rỗi, một cách nào đó, tìm cách giải quyết mối phân ly tàn khốc nội tại nơi ý thức của con người sáng tạo. Chính Thomas Mann cũng đã nói: “Nghệ thuật có sứ mạng nhất thống”. Không mang nặng ảo tưởng, không ngụy tín, không ngộ nhận, nhà văn của chúng ta, sau một đoạn đường dài tìm kiếm, tư duy và sáng tạo, không ngừng nghỉ - đã trầm tĩnh nhìn nhận nghệ thuật sau cùng chỉ là một khả năng thống nhất, giải quyết những mối xung khắc làm nên yếu tính của chính mình. Có thể Thomas Mann bi quan - nếu không nói là tuyệt vọng, nhưng điều ta không thể phủ nhận được là bằng số lượng tác phẩm vô cùng phong phú của mình, ông đã “sống” trọn kinh nghiệm của một ý thức khốn khổ, bị kết án trong cô đơn, phải quờ quạng trong đêm tối mịt mùng của lịch sử (con người đã sống qua hai trận thế chiến), tìm đến một ý nghĩa, một giá trị giữa hư vô và tuyệt vọng bốn bề. Cũng như Thomas Mann đã thừa hưởng hai bản tính xung khắc, một của cha, đại diện cho tinh thần trưởng giả, một của mẹ, với dòng máu lai Nam Mỹ, đại diện cho tinh thần nghệ sĩ đa cảm và phóng khoáng, Tonio Kroger là hiện thân của một mối xung khắc thuộc huyết thống. Cậu là con trai của vị lãnh sự Kroger, thuộc dòng họ Kroger quyền quý, nhưng tâm hồn cậu cũng nghiêng về mẹ, một người mẹ “nồng nàn và thâm u”, chơi dương cầm và măng cầm tuyệt vời. Từ sự xung khắc nội tại đó, chàng tuổi trẻ kia cảm thấy mình xung khắc với tất cả mọi người: bạn, thầy, những người chung quanh. Và vượt lên trên tất cả những xung khắc, đó là sự xung khắc giữa đời sống và nghệ thuật không ngừng đốt cháy tâm hồn chàng. Chính Tonio Kroger đã thú thật với Lisaveta Iwanowna, cô bạn nghệ sĩ Nga của chàng: “Tôi được đặt để vào giữa hai thế giới, không một nơi nào cho tôi cái cảm tưởng là mình đang sống dưới mái ấm của mình, vì thế mà đối với tôi, cuộc sống có phần vất vả”. Tonio Kroger hay là thảm kịch của sự phân ly. Ngay từ những ngày tuổi nhỏ, chàng đã sống trong tận cùng da thịt mình, sự phân ly với đời sống. Phân ly với đời sống. Tại sao? Tại vì chính chàng đã ngoảnh mặt trước đời sống hay ngược lại chính đời sống đã làm chàng thất vọng, đã ngăn chặn, đã cấm đoán chàng tìm đến với nó? Chỉ cần đọc những trang đầu tiên, người đọc nhận ra ngay một khuynh hướng tình cảm có phần trái ngược của chàng: chàng đam mê chống lại chính đam mê của mình. Những đối tượng tình cảm của Tonio Kroger chính là những cực đối nghịch với chàng. Chàng kết thân với Hans Hansen, một đứa trẻ hồn nhiên, thích thể thao và tầm thường. Chàng đem lòng yêu Ingeborg Holm, cô gái có mái tóc vàng nâu, vui tính, thích trò chuyện; trong khi đó thì Tonio lại là một tâm hồn đầy u uẩn, chỉ thích sống với nội giới của mình, luôn say mê những lý tưởng mà mọi nguời đều lấy làm dửng dưng, không ngó ngàng tới. Phải chăng đó chính là những cố gắng đầu tiên của một tâm hồn thuần khiết, muốn tham dự vào đời sống, muốn hòa hợp với tha nhân, bằng một cách thế đau đớn nhất: một cách nào đó, phủ nhận chính mình. Nhưng Tonio Kroger đã thất bại trong nỗ lực thỏa hiệp đầu tiên của chàng với đời sống, trong nỗ lực san bằng sự ly cách giữa chàng với đời sống. Bởi đời sống đã khước từ. Bởi sự xung khắc không chỉ hiện hữu nơi chàng, nó còn hiện hữu nơi đời sống. Những tâm hồn chàng yêu dấu, ngưỡng vọng đã chỉ đáp lại chàng bằng sự lạnh nhạt và sự đần độn. Cậu đón nhận kinh nghiệm đớn đau đầu tiên của sự thỏa hiệp: “Kẻ thường yêu nhiều nhất là kẻ yếu đuối nhất và phải chịu nhiều khổ sở. Tâm hồn non dại của một cậu thiếu niên mười bốn tuổi đã học được bài học đơn giản và nghiệt ngã kia của cuộc đời”. Chàng đã khước từ chính mình một cách sung sướng, để được yêu, được thỏa hiệp, nhưng chính đời sống đã xua đuổi chúng, đã đào sâu thêm cuộc phân ly. Đã đẩy chàng vào chính thế giới nội tâm đìu hiu quen thuộc của mình, với những khát vọng man rợ, ngông cuồng: “(Chàng) làm thơ và không dám nói đến ngay cả việc cậu mong mình trở thành cái gì mai sau”. Đó là điểm khởi đầu của một cuộc đoạn tuyệt đớn đau. Tonio Kroger rời bỏ những tâm hồn yêu dấu, những người bạn nhỏ, những khung cảnh thần tiên của tuổi niên thiếu, tất cả làm nên quá khứ chàng. Chàng rời bỏ không luyến tiếc để dấn thân vào cuộc đày ải, không, vào cuộc phiêu lưu đầy gian nguy và kỳ thú. Bởi đó là cuộc đày ải tự nguyện của một con người sau khi đã “thức tỉnh trước chính mình” và “lấy làm mai mỉa trước cuộc hiện sinh trì độn và ti tiện” đã giam giữ đời mình trong tù ngục tối tăm, mê muội. Thế rồi Tonio Kroger rời bỏ thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, lăn xả trọn vẹn vào một thứ quyền lực vô song, hứa hẹn những chân trời kỳ tuyệt, “đó là quyền lực trí tuệ và của lời nói vừa chế ngự vừa tươi cười trên cuộc sống vô thức và lặng câm”, đó là quyền lực của sáng tạo đã từng nung nấu tâm hồn thiếu niên của cậu. Chàng hiến trọn đời mình cho nghệ thuật, trong tư cách một con người sáng tạo thật sự, tự giam hãm đời mình trong niềm đơn độc tuyệt đối, hầu “sản xuất nên những tác phẩm tuyệt vời bằng cái giá của những nỗi xao xuyến khốc liệt”. Nhưng rồi cũng chính những tháng năm miệt mài trong sự sáng tạo đó đã cho chàng biết rằng “người ta phải chết đi mới thật sự là một con người sáng tạo”. Điều mà Tonio Kroger bắt gặp, trên đường tìm kiếm lý tưởng, đó vẫn là sự phân ly, sự phân ly giữa đời sống và nghệ thuật: “Nếu trọn thế giới đã được diễn tả, thì trọn thế giới đã được giải quyết, phóng thích, hủy hoại… Tốt lắm! Tuy nhiên tôi không phải là một người theo chủ nghĩa hư vô…” cho nên kinh nghiệm của Tonio Kroger mãi mãi còn là kinh nghiệm tan nát, hãi hùng của sự xung khắc, của sự mâu thuẫn hệ tại ngay trong tâm thức chàng. Chàng đoạn tuyệt với quá khứ, nhưng chỉ để sau đó trở về với thành phố chôn nhau cắt rốn của mình, bị thúc đẩy bởi một tình hoài hương tiềm tàng, ray rứt. Chàng nhận ra điều này, mặc dù đã cương quyết đoạn lìa, tâm hồn chàng vẫn còn rung động với từng hình ảnh, từng âm thanh của quá khứ. Chặng đường sau cùng của cuộc hành trình đã đưa chàng trở về, trở về với nguồn cội thân yêu mà chàng đã từng quay lưng, chối bỏ. Phải chăng đó là một thất bại của chàng, kẻ vô vọng thỏa hiệp và đồng thời vô vọng đoạn tuyệt với cội nguồn, gốc gác? Phải chăng chính vì thế mà Lisaveta Iwanowna, một tâm hồn bạn của chàng, đã phát biểu về chàng: “Anh là một chàng trưởng giả dấn thân vào một con đường lầm lỡ, Tonio Kroger à, một chàng trưởng giả lạc đường”. Nhưng điều may mắn là chàng trưởng giả lạc đường đó còn biết, một lần nữa, thức tỉnh một chân lý thật tầm thường và cũng thật cao cả: “Chính cái bình thường, cái hợp lý, cái đáng yêu, đời sống trong vẻ tầm thường, quyến rũ của nó, chính tất cả những thứ đó tạo nên thứ vương quốc mà những ước vọng của ta dẫn về”. Nhưng có thật là Tonio Kroger đã thất bại, trong sứ mạng nghệ thuật cũng như trong công trình hiện hữu của chàng? Và cuộc hành trình của chàng đã kết thúc ra sao? Nhưng làm gì có sự kết thúc với con người sáng tạo. Cuốn sách đã xếp lại, nhưng nhân vật tiểu thuyết của chúng ta vẫn còn đang trên đường. Hơn ai hết, Tonio Kroger biết rằng mình còn phải sáng tạo nên “những tác phẩm khá hơn”, như chàng đã hứa với Lisaveta. Nhưng đồng thời, chàng cũng biết rằng “tình yêu sâu xa nhất và bí ẩn nhất của (chàng) thuộc về những người có mái tóc vàng nâu và đôi mắt xanh lơ, những tâm hồn trong sáng và sống thật, những tâm hồn diễm phúc, những tâm hồn đáng yêu, những tâm hồn rất mực thường tình”. Lòng tốt mà Thomas Mann đã nói (được trích dẫn trên đầu bài viết này) đã gặp gỡ, hòa hợp với tình yêu thốt từ miệng Tonio Kroger. Phải chăng hơn ai hết, con người sáng tạo hiểu rõ rằng hắn không có quyền hy sinh đòi sống cho nghệ thuật, tình yêu cho lý tưởng, đạo đức cho thẩm mỹ? Và phải chăng vấn đề sau cùng phải là giải quyết mối xung đột hay sự thất bại nền tảng của mình bằng một sự chọn lựa mà trái lại, bằng sự chấp nhận: “Đừng chê thách thứ tình yêu đó, Lisaveta à, nó tốt đẹp và bổ ích, nó được tạo nên từ những hoài bão khốn khổ, từ ước muốn sầu muộn, từ một chút khinh miệt, và từ một niềm diễm phúc, thật trắng trong, thuần khiết…”.   Nhà văn, Dịch giả Huỳnh Phan Anh Nguyên bản TONIO KROGER *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Tình Yêu và Lý Tưởng kể về cuộc đời của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ với tâm hồn đa sầu đa cảm. Chàng mang trong mình dòng máu lai, một nửa là dòng máu trưởng giả, một nửa là dòng máu nghệ sĩ, điều này đã khiến chàng luôn cảm thấy mình lạc lõng, không thuộc về bất cứ nơi nào. Thuở nhỏ, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng thường cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Khi trưởng thành, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Cuối cùng, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Review Tình Yêu và Lý Tưởng là một tiểu thuyết xuất sắc của Thomas Mann, thể hiện những trăn trở, suy tư sâu sắc của nhà văn về nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết đã khắc họa chân thực tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger, một nghệ sĩ trẻ luôn khao khát được tìm kiếm sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh. Tiểu thuyết được viết theo lối tự sự, với nhân vật chính là Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm xoay quanh cuộc đời và những trải nghiệm của Tonio Kroger. Tác phẩm được chia thành ba phần, mỗi phần thể hiện một giai đoạn trong cuộc đời của Tonio Kroger. Trong phần đầu tiên, Tonio Kroger là một đứa trẻ nhạy cảm, khác biệt với những đứa trẻ khác. Chàng cảm thấy mình là kẻ ngoại đạo, không hòa nhập được với đám bạn cùng trang lứa. Chàng yêu thích những điều cao quý, thanh nhã, nhưng những người xung quanh chàng lại chỉ quan tâm đến những điều tầm thường, phù phiếm. Trong phần thứ hai, Tonio Kroger quyết định rời bỏ quê hương để tìm đến một nơi khác, nơi mà chàng có thể được là chính mình. Chàng đến với nghệ thuật, nơi mà chàng có thể tự do thể hiện những tâm tư, tình cảm của mình. Tuy nhiên, Tonio Kroger cũng nhận ra rằng nghệ thuật không thể giải quyết được những mâu thuẫn nội tại trong tâm hồn chàng. Chàng vẫn cảm thấy mình lạc lõng, cô đơn, thậm chí là bị cô lập. Trong phần thứ ba, Tonio Kroger quyết định quay trở về quê hương. Chàng nhận ra rằng mình vẫn yêu những người thân yêu, những người bạn cũ, và chàng vẫn yêu những điều bình dị, giản đơn trong cuộc sống. Tonio Kroger đã tìm được sự hòa hợp giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Tình Yêu và Lý Tưởng là một tác phẩm giàu ý nghĩa nhân văn. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề quan trọng trong cuộc sống, như sự xung đột giữa bản thân và thế giới xung quanh, giữa nghệ thuật và đời sống. Cuốn tiểu thuyết cũng thể hiện niềm tin của Thomas Mann vào khả năng hòa hợp giữa bản thân và thế giới, giữa nghệ thuật và đời sống. Tác phẩm được đánh giá cao về mặt nghệ thuật. Thomas Mann đã sử dụng ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc để khắc họa tâm hồn đa sầu đa cảm của Tonio Kroger. Cốt truyện của tác phẩm được xây dựng chặt chẽ, logic, mang đến cho người đọc nhiều suy ngẫm sâu sắc. *** Thomas Mann sinh năm 1875  tại Lübeckvà mất năm 1955 tại Zürich (Thụy Sĩ). Sự nghiệp văn học lẫy lừng của ông mang dấu ấn dân chủ, chống phát xít, mang những nét tư tưởng đặc trưng của dân tộc Đức. Trong cuốn “Truyện ngắn đặc sắc các tác giả đoạt giải thưởng Nobel Văn học” do nhà xuất bản Văn học ấn hành, có truyện ngắn “Ngài Friedemann bé nhỏ” của Thomas Mann khá ám ảnh. Câu chuyện kể về nhân vật Johanes Friedemann khi nhỏ bị rơi từ bàn quấn tã xuống, khi mới sinh được khoảng một tháng, lỗi do chị vú em bất cẩn.  Sau cú rơi nghiêm trọng đó, cậu bé Friedemann đã mang thương tật suốt đời, mà Thomas Mann miêu tả cậu có “bộ ngực nhô cao và nhọn hoắt, tấm lưng khuỳnh khuỳnh, hai tay khẳng khiu dài quá cỡ và nhanh nhẹn hăng hái tách hạt dẻ, nom thật hết sức kỳ dị”.  Cậu bé thích những quyển sách có những hình vẽ đẹp, và có chút dấu hiệu của tự kỷ. Lớn lên một chút, cậu Friedemann cũng  biết rung động như các bạn cùng trang lứa. Cậu cũng biết ghen tuông, khi cậu thấy cô gái mà cậu thích ngồi cạnh một chàng thanh niên tóc đỏ cao lên nghêu.  Thomas Mann mô tả về thái độ ấy: “Được, ta sẽ chẳng bao giờ thèm để tâm đến tất cả những cái đó nữa. Chuyện ấy mang lại cho người khác hạnh phúc và niềm vui, còn ta, ta chỉ chuốc lấy dằn vặt và khổ đau. Ta không muốn liên quan đến cái trò ấy nữa. Đối với ta, thế là xong. Chẳng bao giờ nữa”.  Cậu rất yêu âm nhạc và dành nhiều thời gian cho nó, cậu chơi khá về Violon. Khi trưởng thành hẳn, Mann gọi cậu là ngài. Với thân hình dị dạng của mình, nhưng trong sâu thẳm của Friedemann vẫn mang những rung cảm mạnh mẽ  trước sức hút của phái đẹp. Ngài đã mê mẩn trước nhan sắc của một phu nhân. Ngài bị ám ảnh khủng khiếp bởi nhan sắc tuyệt diệu ấy. Bao nhiêu cung bậc cảm xúc diễn biến trong trái tim của ngài. Sau bao dằn vặt, đấu tranh tư tưởng, suy nghĩ vụn vặt khi cảm giác như bị phu nhân hắt hủi, ngài đã nhảy xuống nước tự tử. Cái kết câu chuyện đóng lại ở đó, Thomas Mann đã khiến người đọc ám ảnh bởi những suy nghĩ, tâm tư, thổn thức yêu đương nơi cõi lòng của một người tàn tật. Một cái kết đầy nỗi buồn.  “Ngài Friedemann bé nhỏ” là truyện ngắn được coi là đầu tay của Thomas Mann, khi ông mới 23 tuổi. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Mann tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Những áng văn của ông thể hiện hiểu biết uyên bác của ông trên nhiều lĩnh vực: triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học… Năm 1905, Thomas Mann cưới vợ, sinh 6 người con (trong đó có ba người sau này cũng trở thành nhà văn). Cuộc hôn nhân không phải là cách giải quyết cho ông về vấn đề đồng tính luyến ái. Đó cũng là một đề tài mà Mann say mê thể hiện trong sáng tác của mình, tiêu biểu là Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913) - một trong những truyện dài xuất sắc nhất của văn chương thế giới. Sau Thế chiến thứ nhất, ông hoàn thành một trong những đỉnh cao sáng tác của mình là Der Zauberberg (Núi thần).  Một số tác phẩm của Thomas Mann: Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ, 1898), tập truyện Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrook, 1901), tiểu thuyết Tristan (1903), tập truyện Tonio Kröger (1903), truyện Fiorenza (1905), kịch 1 hồi Der Tod in Venedig (Chết ở Venice, 1913), truyện ngắn Betrachtungen eines Unpolitischen (Những suy ngẫm ngoài chính trị, 1918), tập kí Von deutscher Republik (Nền dân chủ Đức, 1922), tiểu luận Goethe und Tolstoi (Goethe và Tolstoi, 1923), tiểu luận Der Zauberberg (Núi Thần, 1924), tiểu thuyết Mario und der Zauberer (Mario và người phù thủy, 1929), truyện Joseph und seine Brüder (Joseph và những người anh em), bộ tiểu thuyết, 4 tập Die Geschichten Jaakobs (Những câu chuyện của Jaakobs, 1933) Der junge Joseph (Joseph trẻ tuổi, 1934) Joseph in Ägypten (Joseph ở Ai Cập, 1936) Joseph, der Ernährer (Joseph, người nuôi sống, 1943), Lotte in Weimar (Lotte ở Weimar, 1939), tiểu thuyết Doktor Faustus (Bác sĩ Faustus, 1947), tiểu thuyết …   Mời các bạn mượn đọc sách Tình Yêu và Lý Tưởng của tác giả Thomas Mann.
Người Đàn Bà Vô Gia Cư
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Tâm lý xã hội Người Đàn Bà Vô Gia Cư của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch). Kinga Krol bị mắc chứng trầm cảm sau sinh. Cô luôn nhìn thấy - trong đầu - bọn mafia Nga sẽ bắt cóc con gái cô để lấy nội tạng bán. Đã nhiều lần Kinga nói với cha mẹ mình về sự bất thường của chính cô, nhưng họ để ngoài tai. Kinga-điên đã quyết định bảo vệ đứa con bằng cách “giấu” nó trong một cái hố và phủ lá bên trên nhưng ... *** Tác phẩm phơi bày một xã hội trần trụi với đầy những xấu xa tàn ác và bất trắc của loài người. Sau đó cũng chính là đi sâu vào khai thác những nỗi đời giấu kín của những kẻ bị xem là tận cùng của xã hội, không còn được xã hội thừa nhận. Bí ẩn giấu kín của con người Cuộc gặp gỡ giữa Kinga, một người đàn bà vô gia cư, với ý định tự tử trong buồng chứa rác với nữ nhà báo Aska trong đêm Giáng sinh có thể xem là một tiếng gõ cửa, mở lối cho những bí ẩn đằng sau của mỗi số phận mà không phải bao giờ ta cũng có cơ hội được nhìn thấy. Kinga chỉ vào khoảng ba mươi tuổi, đã từng là một người phụ nữ xinh đẹp, có nhà cửa, có công việc tử tế, có gia đình, nhưng trong suốt một năm, vì ảnh hưởng của những biến cố liên tục, cô bị đưa đến bệnh viện tâm thần điều trị trầm cảm trong vòng sáu tháng, và sau đó là chuỗi ngày lang thang không nhà với những cơn ám ảnh không nguôi về cái chết của người con gái hai tuần tuổi, cùng với sự dày vò tội lỗi của bản thân. Trong khi đó, Aska thoạt nhìn có vẻ là một nữ nhà báo tự tin, thành đạt, giàu có, nhưng thực chất cô luôn mang bên mình nỗi ám ảnh về sự phản kháng và khinh thường. Mục đích sống của cô chỉ là viết những bài báo câu khách đăng trên trang nhất các tờ báo lá cải và kiếm được thật nhiều tiền. Hai người phụ nữ đã đi từ những ngờ vực, động cơ ban đầu để dần cảm hóa lẫn nhau, và rơi vào câu chuyện của nhau. Nhà văn Katarzyna Michalak rất khéo léo trong việc mô tả những diễn biến tâm lý sắc sảo của cả hai nhân vật nữ chính, đặc biệt là nhân vật người đàn bà vô gia cư Kinga. Chính Kinga, nỗi đau và sự ám ảnh, sự hối hận tột độ của Kinga đã cảm hóa Aska, thúc đẩy Aska viết nên một câu chuyện cảm động đẹp đẽ. Cuốn sách ngồn ngộn một hơi thở đương đại đậm đặc, khi con người bị xoáy vào guồng quay của vật chất, sự cô đơn và lạc lõng cũng bị phơi bày. Câu chuyện mà Katarzyna Michalak kể là một trong hàng vạn câu chuyện của những người phụ nữ vô danh trên thế gian này. Câu chuyện về một người phụ nữ luôn muốn bảo vệ con mình, nhưng cả xã hội không ai chịu lắng nghe cô ấy, đến mức khiến cô phát điên và dẫn đến một kết cục bi thảm. Cuốn sách đã phô bày một hiện thực đầy bi thảm của số phận con người. Một người đàn bà bẩn thỉu mà có lẽ bất kỳ ai cũng có thể dễ dàng bắt gặp, nhưng có lẽ không phải ai cũng có thể lưu lại một chút, để lắng nghe câu chuyện của họ. Ở điểm này, Katarzyna Michalak đã thực sực thể hiện được con mắt quan sát tinh tường, sâu sắc và đầy trìu mến của mình. Cũng bắt nguồn từ sự đồng cảm, nhưng cũng đầy nghiệt ngã giữa hai người phụ nữ này mà độc giả được từng bước vén lên tấm màn bao phủ và rọi vào tận cùng nơi tăm tối nhất của tâm trí mỗi con người.   Một bầy kền kền vây quanh xác chết Trong cuốn sách của mình, Katarzyna Michalak đã hơn một lần để cho nhân vật Kinga của mình tưởng tượng ra bản thân cô là một xác chết bị bầy kền kền vây quanh. Và cho đến cuối cùng, trong sự lật lọng xảo trá đáng sợ của gã tổng biên tập tòa báo nơi Aska làm việc, thực sự Kinga đã biến thành một xác chết, khi cô bị tất thảy mọi người bu vào,  nỗi lực đặt ra những câu hỏi truy vấn đầy ác ý xoay quanh cái chết của đứa con gái cô. Ngòi bút sắc nhọn của tác giả Katarzyna Michalak đã tỏ ra rất thành công trong việc khắc họa tính cách đương đại của đám đông, trong quay cuồng và dày vò.  Hình ảnh bầy kền kền là một hình ảnh sống động, có sức gợi lớn, được Katarzyna Michalak “dàn dựng” đầy ám ảnh và ngột ngạt, khiến cho câu chuyện có những bước ngoặt bất ngờ, càng nhấn mạnh thêm tính bất an, vô định và bi kịch của nhân vật Kinga, cũng như bất kì một cá nhân nào trong xã hội. Một cuốn sách được dẫn dắt bởi một cốt truyện xuất sắc, mang tính thời sự, thời đại rất cao. Nhưng nếu như ở đoạn đầu, khi Katarzyna Michalak khiến khán giả hồi hộp, tò mò và thổn thức về những ẩn ức của nhân vật Kinga, với những tình tiết tinh tế, những trần thuật nội tâm phức tạp, đẹp đẽ, thì ở đoạn sau, Katarzyna Michalak lại khiến câu chuyện trở nên đứt gãy, bởi sự ngột ngạt của thời sự, của sự kiện, có phần khiên cưỡng và áp đặt, làm mất đi tính tự nhiên của câu chuyện, khiến nó độc giả như bị trượt ra khỏi bầu không khí văn chương tâm lý thấm đẫm ban đầu. Cách kể chuyện của Katarzyna Michalak, có lẽ khiến nhiều độc giả khó tính khó bị thuyết phục và hấp dẫn. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, Katarzyna Michalak đã hoàn toàn thành công khi xây dựng một câu chuyện mang đậm chất phản kháng xã hội, với sự nghiệt ngã và đau thương của loài người, mà ở đây là phụ  nữ. Đồng thời cuốn sách còn cho ta thấy những mặt trái của xã hội hiện đại, với những đám đông điên loạn, thiếu đi lòng lắng nghe, thấu cảm. Tiểu thuyết Người đàn bà vô gia cư là cuốn tiểu thuyết thứ hai của tác giả Katarzyna Michalak được dịch ở Việt Nam, sau Hy vọng, do dịch giả Lê Bá Thự chuyển ngữ. Cuốn tiểu thuyết đã đoạt giải cuộc thi “Cuốn sách hay nhất mùa hè 2013” ở Ba Lan, thể loại tiểu thuyết tâm lý xã hội. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết “Người đàn bà vô gia cư” của Katarzyna Michalak kể về câu chuyện của Kinga Krol, một phụ nữ mắc chứng trầm cảm sau sinh. Cô luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ bọn mafia Nga sẽ bắt cóc con gái mình để lấy nội tạng bán. Trong một đêm, Kinga đã quyết định “giấu” con gái mình trong một cái hố và phủ lá bên trên. Tuy nhiên, khi tỉnh dậy, cô không còn nhớ gì về chuyện đã xảy ra. Hai ngày sau, cô được tìm thấy và được đưa đến bệnh viện tâm thần. Sau khi được xuất viện, Kinga trở thành người vô gia cư. Cô sống lang thang trên đường phố, kiếm sống bằng nghề ăn xin. Trong những lúc tuyệt vọng nhất, cô đã nghĩ đến việc tự tử. Một đêm Giáng sinh, Kinga định tự tử lần thứ 9 thì được Aska, một nữ phóng viên, cứu giúp. Aska đã đưa Kinga về nhà mình và tìm cho cô một công việc. Dần dà, Kinga tin tưởng và kể lại toàn bộ câu chuyện của mình cho Aska. Cô hy vọng câu chuyện của mình sẽ giúp đỡ những bà mẹ mắc bệnh trầm cảm sau sinh khác. Review “Người đàn bà vô gia cư” là một cuốn tiểu thuyết tâm lý xã hội với những góc nhìn sâu sắc về bệnh trầm cảm sau sinh. Cuốn sách đã khắc họa chân thực nỗi đau và sự tuyệt vọng của những người phụ nữ mắc chứng bệnh này. Cuốn sách cũng đã lên án sự thờ ơ của gia đình và xã hội đối với những người phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sau sinh. Họ thường bị coi là những người điên rồ, bất thường và không được giúp đỡ kịp thời. “Người đàn bà vô gia cư” là một cuốn sách đáng đọc cho tất cả mọi người. Cuốn sách sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về bệnh trầm cảm sau sinh và đồng cảm với những người phụ nữ mắc chứng bệnh này. Một số điểm nổi bật của cuốn sách Khắc họa chân thực nỗi đau và sự tuyệt vọng của những người phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sau sinh Lên án sự thờ ơ của gia đình và xã hội đối với những người phụ nữ mắc bệnh trầm cảm sau sinh Khiến người đọc phải suy ngẫm về những giá trị của cuộc sống Lời kết “Người đàn bà vô gia cư” là một cuốn tiểu thuyết đầy cảm động và ý nghĩa. Cuốn sách đã mang đến cho người đọc những góc nhìn sâu sắc về bệnh trầm cảm sau sinh và những giá trị của cuộc sống. Mời các bạn mượn đọc sách Người Đàn Bà Vô Gia Cư của tác giả Katarzyna Michalak & Lê Bá Thự (dịch).