Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kỹ Năng Thuyết Trình
Dù là một nhà hùng biện giàu kinh nghiệm hay một diễn giả mới vào nghề, quyển sách "Kỹ năng thuyết trình" này sẽ là một cẩm nang bổ ích giúp bạn hoàn thiện kỹ năng thuyết trình của bản thân. Trong quyển sách này, bạn sẽ tìm thấy những phương pháp luyện tập hữu ích để thuyết trình thành công, thông qua những hướng dẫn chi tiết trong từng công đoạn, như lập kế hoạch, lựa chọn các hình thức hỗ trợ về hình ảnh - âm thanh, xử lý những câu hỏi từ cử toạ.... Ngoài ra, quyển sách còn đưa ra 101 lời khuyên hữu ích và quan trọng giúp bạn có được sự tự tin cần thiết để xử lý hiệu quả những vấn đề trong công việc hằng ngày. Phần bài tập cuối sách sẽ giúp bạn tự kiểm tra và đánh giá sự tiến bộ của bản thân qua mỗi lần thuyết trình. Quyển sách này sẽ là một cẩm nang hướng dẫn thiết thực cho những ai đang làm công tác quản lý cũng như những ai quan tâm đến việc thuyết trình hiệu quả. Mục lục: Lời giới thiệu Chuẩn bị buổi thuyết trình Xác định mục tiêu Tìm hiểu về cử toạ Xử lý các vấn đề tổ chức Nắm rõ địa điểm Xác định rõ mục tiêu Thu thập tài liệu Sắp xếp các ý chính Soạn thảo bài thuyết trình Sử dụng các phương tiện hỗ trợ nghe-nhìn Thực tập Chuẩn bị về hình thức và tâm lý Tự tin vào bản thân Phân tích dáng vẻ bên ngoài Xây dựng hình ảnh cơ thể tích cực Cải thiện giọng nói Giải toạ trạng thái căng thẳng Trình bày hiệu quả bài thuyết trình Kiểm soát sự căng thẳng của bản thân Thuyết trình một cách tự tin Kết luận đạt hiệu quả cao Kiểm soát cử tọa Xét đoán tâm trạng của cử tọa Xử lý các câu hỏi Ứng phó với sự đối ngịch Đánh giá kỹ năng thuyết trình của bản thân Mời các bạn đón đọc Kỹ Năng Thuyết Trình của tác giả Tim Hindle.
28 Ngày Chuẩn Bị Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn
Cuộc sống của bạn là món quà quý giá nhất mà bạn được sở hữu. Nếu lúc nào bạn cũng bất mãn và cảm thấy thiếu thốn, là bạn đã tự đánh mất món quà tuyệt vời này. Hãy sống vui vẻ và tập trung vào những mục tiêu, những suy nghĩ tích cực cho đến khi chúng trở thành phản ứng tự phát trong bạn. Khi làm được điều này, bạn sẽ tìm thấy sự an bình nội tâm, và niềm vui sẽ là mật ngọt rót đầy cuộc đời bạn. 28 Ngày Chuẩn Bị Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn - một cuốn sách giúp bạn tạo lập sinh lực dồi dào để bắt đầu một cuộc sống mới – nơi không còn những bon chen ích kỷ, sự ghen ghét, đố kỵ mà chỉ có lòng khoan dung và sự thấu hiểu. *** 28, 28, 28…. 28 28 có gì đặc biệt ? Có gì ý nghĩa? Sẽ đặc biệt khi bạn đọc  “ 28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn của Sandra Anne Taylor” và trở nên ý nghĩa khi mỗi ngày bạn lên mục tiêu, làm theo cuốn sách hướng dẫn. “Cuộc sống của bạn là một món quà quý nhất mà bạn nhận được. Nếu lúc nào cũng bất mãn và cảm thấy thiếu thốn, bạn sẽ tước đi món quà tuyệt vời khỏi tay mình . Nó giống như bạn đặt một viên kim cương tuyệt đẹp trong ngăn kéo trong khi điên cuồng lao vào tìm kiếm một viên kim cương giả”. Hành văn ngắn gọn, mộc mạc nhưng chân thành, sâu sắc đó là điều đầu tiên mà mình muốn nói khi nhắc đến “28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn”. 28 ngày tương ứng với 28 chủ đề, 28 bài học, 28 câu hỏi. Chủ đề cuộc sống, bài học hành động, câu hỏi  suy nghĩ. Cứ đọc và cứ học, đọc bạn sẽ thấy đặc biệt, học bạn sẽ cảm thấy ý nghĩa. Cuốn sách không chỉ nhắc nhở những điều cơ bản về cách làm người mà còn giúp chúng ta biết vui vẻ ra sao trước những bộn bề, lo toan của cuộc sống, hạnh phúc thế nào trong cảnh bom chen, lòng đố kỵ. 28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống cho cuộc sống tốt đẹp hơn, tốt đẹp ngay thôi nào: Ngày thứ nhất: Ý thức hơn Ngày thứ 2: Từ bỏ tiêu cực Ngày thứ 3: Nâng cao khả năng âm thanh Ngày thứ 4: Năng lực cá nhân Ngày thứ 5: Sự vận động Ngày thứ 6: Xác định mục tiêu cảm xúc của bạn Ngày thứ 7: Xác định cuộc đời của bạn Ngày thứ 8: Hành động Ngày thứ 9: Tinh thần lạc quan Ngày thứ 10: Yêu chuộng bản thân Ngày thứ 11: Chấp nhận chính mình Ngày thứ 12: Bỏ qua khuyết thiếu Ngày thứ 13: Bình thản thư giản Ngày thứ 14: Sức mạnh của tình yêu Ngày thứ 15: Vui sống Ngày thứ 16: Con đường đáng tôn vinh Ngày thứ 17: Mục đích cá nhân Ngày thứ 18: Lựa chọn và kết quả Ngày thứ 19: Nghệ thuật từ bỏ Ngày thứ 20: Sống trong “thần khí” Ngày thứ 21: Nhận thức sâu sắc Ngày thứ 22: Sức mạnh niềm tin Ngày thứ 23: Gía trị đích thực Ngày thứ 24: Sống trong hiện tại Ngày thứ 25: Sự mong đợi và kỳ vọng Ngày thứ 26: Nhanh chóng thay đổi nhận thức Ngày thứ 27: Lòng sùng kính trái tim Ngày thứ 28: Tinh thần phục vụ Mỗi ngày cuốn sách đều nêu rõ “mục tiêu” sau đó lắng đọng trong những phút giây “suy ngẫm” để rồi hành động qua “các bài tập củng cố”. Chỉ cần bạn kiên trì, lặp đi lặp lại hàng ngày, hết 28 ngày, bạn lại quay lại những chủ đề, những bài học, những suy nghĩ đó, nhất định bạn sẽ thành công, cuộc sống  tốt đẹp luôn chờ đợi bạn. *** Điều đầu tiên rất có thể bạn cảm thấy khi đọc tựa cuốn sách 28 ngày chuẩn bị cho cuộc sống tốt đẹp hơn (tác giả Sandra Anne Taylor) có lẽ là chút hoài nghi rằng liệu ngần ấy thời gian có đủ để tự thực hiện một phần việc không hề đơn giản vậy? Nhưng có lẽ cũng chính thắc mắc ấy sẽ thôi thúc mở trang sách và thậm chí thực hành những nội dung trong đó. Sách gồm 28 chủ đề tương ứng 28 nội dung để bạn hành động từng ngày. Bạn sẽ bắt đầu bằng việc xác định mục tiêu trong cuộc sống, suy ngẫm cách ứng xử, các hoạt động củng cố và khẳng định lại những điều đã học trong ngày. Bạn không nhất thiết phải tuần tự theo từng ngày, người đọc có thể tự chọn cho mình một chủ để quan tâm nhất và thực hiện theo hướng dẫn. “Tôi chịu trách nhiệm với chính cuộc đời mình. Tôi hành động mỗi ngày. Dù mất gì tôi sẽ vẫn kiên gan, bền chí” - Sandra Anne Taylor. Trong chủ đề Ngày thứ 8 hành động, phần Suy ngẫm khẳng định: “Hành động là chất xúc tác sẽ đốt cháy các khát vọng của bạn. Nếu mục tiêu kia là quan trọng đối với mình, bạn phải tiến thẳng đến nó, đặt lên ưu tiên hàng đầu mỗi ngày”. Các hoạt động củng cố đưa ra phương pháp: “Xây dựng các mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Hãy làm với sự kỳ vọng vui sướng". Chuỗi hành trình trong cuốn sách là chuyến đi tìm câu trả lời của mỗi người qua những việc làm, suy nghĩ hằng ngày. Nó nhắc lại những điểu cơ bản về cách làm người, cách sống mà chúng ta đã quên lãng sau bao xáo trộn, lo toan thường ngày. 28 ngày chuẩn bị là 28 ngày bạn vừa đấu tranh với những thói quen cố hữu không tốt của bản thân, vừa cố gắng thực hiện những thói quen tốt vừa hình thành. Đó là quá trình từ suy nghĩ đến hành động mà mỗi người phải vượt qua bằng lòng tự trọng và niềm tin. Không cần phải chú ý nhiều đến câu chữ vì mỗi ý trong cuốn sách giống như lời khuyên của tác giả với bạn đọc. Nó khơi gợi lại niềm tin đã bị hao hụt bấy lâu, chứng minh thật rõ ràng, mạch lạc những suy nghĩ hoài nghi về bản thân mỗi người. Cách hành văn gãy gọn, đôi khi hối thúc và kiên quyết của tác giả khiến khi nghiền ngẫm bạn sẽ cảm nhận như đang gặp phải người hướng dẫn đầy nghiêm khắc nhưng cũng thật tận tâm. Tuy không có những mẩu chuyện minh họa, những lời kể sâu lắng nhưng cuốn sách đã đến với bạn đọc bằng những gì mộc mạc, cô đọng nhất.   Mời các bạn đón đọc 28 Ngày Chuẩn Bị Cho Cuộc Sống Tốt Đẹp Hơn của tác giả Sandra Anne Taylor.
Trò Đùa Của Sự Ngẫu Nhiên - Giải Mã Bí Ẩn Quanh Những Điều Tình Cờ
Trò đùa của sự ngẫu nhiên là cuốn sách viết về những lối tư duy sai sót trong nhận thức của con người. Đây là cuốn sách đầu tiên trong series “Incerto” (Tính bất định) của Nassim Nicholas Taleb. Trong cuốn sách này, Taleb nêu ra các thiên kiến sai lầm của con người về sự ngẫu nhiên. Theo đó, con người thường: 1. Đánh giá quá cao quan hệ nhân – quả. Ví dụ, người thành công do họ từng thành công trong quá khứ và thường vô thức bắt chước theo một số đặc điểm mà họ ngộ nhận rằng điều này mang đến thành công. 2. Lý giải thế giới theo cách dễ hiểu hơn thực tế. Luôn cố gắng giải thích những điều ngẫu nhiên không phải là ngẫu nhiên. Hai thiên kiến trên được lồng ghép, chia tách một cách tinh tế thông qua ba phần: 1. Lời cảnh báo của Solon: Lịch sử và thuộc tích khó nắm bắt của các sự kiện hiếm gặp (thiên nga đen). Đồng thời phân tích những tác động nặng nề của các sự kiện hiếm gặp trong cuộc sống và trên thị trường 2. Những con khỉ và chiếc máy đánh chữ: Trình bày những thiên kiến xác suất mà tác giả ghi nhận được trong sự nghiệp, bao gồm, thiên kiến kẻ sống sót, thiên kiến méo mó về xác suất và sự ngẫu nhiên. 3. Sáp trong tai: Quá trình đương đầu với sự bất định của con người và một vài mánh khóe để vượt qua. *** [REVIEW SÁCH - TRÒ ĐÙA CỦA SỰ NGẪU NHIÊN] Bóc mẽ những góc khuất mù quáng ăn sâu trong lối tư duy luẩn quẩn của con người ngày nay Trò đùa của sự ngẫu nhiên là cuốn sách viết về những lối tư duy sai sót về sự ngẫu nhiên trong nhận thức của con người. Đây là cuốn sách đầu tiên trong series “Incerto” (Tính bất định) của Nassim Nicholas Taleb - bộ sách đã khơi mào cho cuộc chiến bất tận giữa sự thật trần trụi “99.9% thành tích đạt được là nhờ vào tình cờ và may mắn” thay vì những tổng thống tai to mặt lớn hay các vị CEO, chuyên gia cao cấp có sức mạnh khuynh đảo thị trường trên phố Wall - những người giàu có nhờ vào tài trí thiên bẩm, bộ não sắc sảo hay sự nỗ lực chăm chỉ. Bộ series sách này với những đại diện xuất sắc như Trò đùa của sự ngẫu nhiên (Fooled by Randomness) – một trong 75 cuốn sách thay đổi tư duy ấn tượng nhất mọi thời đại (Fortune) hay Thiên nga đen (The Black Swan) – Top 12 cuốn sách có ảnh hưởng nhất kể từ Thế chiến 2 do The Sunday Times bình chọn, đã giúp tên tuổi Nassim Nicholas Taleb không còn xa lạ với hàng triệu triệu độc giả trên thế giới. Người mà chuyên bóc mẽ những góc khuất mù quáng vốn ăn sâu bén rễ trong tư duy con người ngày nay.   Cuốn sách này không phải một luận thuyết, và càng không phải công trình khoa học. Ông muốn cuốn sách của mình gần gũi hơn với người đọc, nhưng dưới áp lực của bạn bè và độc giả, qua các lần tái bản, ông đã phải bổ sung thêm phần tài liệu tham khảo và công trình có liên quan. Phương châm của ông là muốn trêu chọc những người đề cao quá mức bản thân và lượng kiến thức của mình. Bằng ví dụ đầu tiên là trong thế giới kinh doanh, khi mà công chúng thường xuýt xoa với khối tài sản hàng trăm tỷ đô – la của những người thành công đỉnh cao. Nhưng nếu xét ở khía cạnh xác suất để có được thành công như vậy, thật không khó để tìm thấy một vài người đạt thành tích xuất sắc nhờ khả năng kinh doanh may mắn (yếu tố thiên thời địa lợi). Tương tự, giả sử có một tỷ con khỉ cùng tập đánh máy, sẽ có khả năng tìm thấy một con khỉ hoàn thành xuất sắc phiên bản sử thi Odyssey. Điều này không đồng nghĩa với việc con khỉ đó có năng lực sáng tác ra một tuyệt phẩm tương tự Odyssey. Do đó, nếu chỉ nhìn thấy vài cá thể thành công mà quy chụp cho tất cả, bỏ qua yếu tố tỷ lệ trên quy mô thì chúng ta đang bị xác suất che mắt. Trò đùa của sự ngẫu nhiên đã đưa ra vô vàn những ví dụ cho thấy con người dễ bị sự ngẫu nhiên giăng bẫy như thế nào, cái bẫy đến từ chính sự tự tin đến mức ngạo mạn về kiến thức cá nhân của bản thân họ. Sự am hiểu không đến nơi đến chốn về xác suất, tính bất định và mức độ rủi ro đã đẩy chúng ta rơi vào vòng luẩn quẩn trong nhận thức. Sự thành công lâu dài của một nhà giao dịch “bảo thủ”, chấp nhận khoản lỗ nhỏ để duy trì phần thắng chung cuộc to hơn, đối lập với tình trạng sớm nở tối tàn của các nhà đầu tư háo thắng, chuyên thực hiện những giao dịch lãi to đi kèm với rủi ro lớn (một số nhà đầu tư bị bật bãi còn không tin mình mắc sai lầm). Hay giữa một nha sĩ “cực kỳ giàu có” tại thị trấn nhỏ so với tình trạng bấp bênh của những ngôi sao nhạc Rock xa hoa, các doanh nhân sưu tập máy bay tại các thành phố lớn. Một nhà giao dịch mới nổi, ngông cuồng có thể được xem là nhân tài đầu tư khi kiếm được 80 triệu đô la cho ngân hàng nhưng lại có thể sa tay làm thiệt hại 300 triệu đô la chỉ trong một mùa hè. Sự đối nghịch này đến từ một nguyên nhân cơ bản: rủi ro lớn xuất hiện bất chợt có thể quét sạch nỗ lực tích cóp từ nhiều năm trước. Là một cây bút lạnh lùng và có phần chua ngoa, Taleb chỉ mặt đặt tên những “tri thức vô học” viết ra những cuốn sách theo kiểu “Tư duy triệu phú” hoặc kiểu Những công thức thành công vốn được quảng bá nhan nhản trên thị trường. Những tri thức giả hiệu này đang nhận thức sai về bản chất của vấn đề làm giàu, cái mà thậm chí tác giả của một quyển sách đã phải nghiên cứu 1,000 triệu phú để đưa ra được nhận định rằng: các đúc kết theo kiểu chăm chỉ và kiên trì là tố chất cần có của những triệu phú. Nhưng thực tế là gì? Đó là hàng triệu triệu ông chủ rất chăm chỉ, kiên trì và kết quả là lụi bại trắng tay. Hoặc nếu như mạo hiểm là tiền đề của thành công thì cũng có một con số không đếm xuể những doanh nghiệp phá sản vì lý do yêu mạo hiểm. Trong lĩnh vực y khoa, tình trạng ngộ nhận giữa ý nghĩa các con số thống kê cũng có thể dẫn đến những hậu quả tai hại. Một bệnh nhân ung thư ác tính sẽ bớt tuyệt vọng khi phát hiện ra sự khác nhau giữa trung vị thời gian sống thêm 8 tháng so với thời gian sống trung bình dài hơn. Theo Taleb, khái niệm trung vị được sử dụng trong y học không mô tả được phân phối xác suất. Cuốn sách này hàm chứa những suy nghĩ mộc mạc gan góc của tác giả, nó loại bỏ tất cả những thứ tri thức đi vay mượn, để tạo nên sự riêng biệt. Nhấn mạnh trong nó là thuật toán của sự ngẫu nhiên, được thì được tất hoặc không có gì cả. Trò đùa của sự ngẫu nhiên về uy tín không thể so với Thiên nga đen (cùng tác giả) nhưng cũng dọn đường để Thiên nga đen ra đời. Chỉ vì không thể tìm thấy cá thể thiên nga đen trong hàng vạn thiên nga trắng, chúng ta cũng không thể đoan chắc rằng thế giới không tồn tại thiên nga đen. Sự kiện hiếm gặp này có giá trị phủ định toàn bộ kết luận như đinh đóng cột trong cách thức con người nhìn nhận thế giới.   Mời các bạn đón đọc Trò Đùa Của Sự Ngẫu Nhiên - Giải Mã Bí Ẩn Quanh Những Điều Tình Cờ của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Một Cách Để Của Cho Con
MỘT CÁCH ĐỂ CỦA CHO CON Muốn cho con cái sau có quyền cao chức trọng, nhà ngói cây mít, ao cả ruộng liền là lẽ thường tình của mọi người. Vị lòng ước ao ấy mà lắm người chắt bóp từng đồng, dè sẻn từng li, ăn nhịn để dành, mong gây dựng cho con cái mai sau. Tuy phải khó nhọc, hoặc dầm nắng dãi mưa, hoặc chân bùn tay lấm, hoặc chèo non vượt biển, mà miễn kiếm được dư dật ít nhiều dành dịn nay tí mai tí, lâu dần thành tiền đống để lại cho con làm vốn liếng là cũng không há răng hở môi phàn nàn chi cả. Có khi thương con quá, đến nỗi không nỡ trái ý, muốn sao cho vậy, không dám bắt học hành, sợ con phải nhọc mà thường nghĩ thầm rằng : ngày nay là buổi kim tiền thiết huyết, nay ta dành dịn có tiền thì nhờ oai đồng bạc dẫu đổi trắng thay đen còn được, huống chưng là lo danh phận cho con, tưởng dễ như dở bàn tay có khó gì. Vả chăng đến khi con ta nhớn khôn lên, sẵn đã có vốn liếng nó làm ruộng đi buôn, làm gì chả đủ được sung-sướng, tội gì bắt nó vùi đầu vào quyển sách suốt ngày cho mệt thân nó. Mà lại lắm người văn hay chữ tốt nhưng vẫn cũng xác như vờ, sơ như rộng thì tội gì ta bắt con ta mỏi óc nhọc xác làm chi. Ôi ! Thương con đến thế thật không thương phải đường ! Cái lý tưởng để của chìm của nổi cho con còn hơn là cho con ăn học thật là sai lầm lắm lắm. Ta đã thấy bao nhiêu nhà trọc-phú chỉ lắm của nhiều tiền mà óc rỗng tếch, ngu si, dại dột, tròng vào chữ như xem vào tường, hay phải lừa đảo, người bảo phải chả theo, chỉ nghe kẻ nói dối, nên chẳng bao lâu phải mình trần chôn-chã, chơ thân cụ còn hai bàn tay trắng. Đến bấy giờ tiền hết gạo không lấy gì làm cách sinh nhai, tất phải xoay ra cách lường thầy phản bạn, dối-da gian-tham, nhân cách con người sao cho giữ được, còn nói chi đến sự chia bùi sẻ ngọt, báo đáp sinh thành. Nước đã đến chân, nhẩy sao cho kịp, vì cha mẹ lo không phải đường, tính chẳng ra lối mà dí đại họa cho con. Trông người phải ngắm đến ta, ta há chả nên lợi dụng cái nhầm của người mà định liệu cách để của cho con ta sau này thế nào cho phải đường ư. Ta nên nhận biết rằng, thế-kỷ ngày nay là thế-kỷ lý luật, khôn được dại thua, hớ hênh thiệt của, vô ý mất tiền, vì lắm kẻ hiểm thâm vô lại, dùng thiên phương bách kế, phép quỉ chước ma để bóc tước anh khờ, anh dốt, chẳng thương chi người dại, không xót gì kẻ ngu. Ngày xưa, người dốt nát đần độn nhưng chịu cằm cụi chũi đụt làm ăn thì còn giữ được của, nhưng ngày nay người dốt nát, kẻ ngu si khó giữ được của mà ăn ; cho nên ta phải lo trước nghĩ sau thế nào cho con ta sau này có thể cạnh tranh với người đời quỷ quyệt. Đi qua rừng rậm lắm loài ác thú, tất phải có khí giới mấy bảo toàn được tính mệnh ; ở đời quỷ quyệt, tất phải khôn giỏi mới có thể bảo hiểm được thân mình. Đành rằng cái khôn giỏi là những khí giới mạnh để hộ vệ cho người, nhưng tìm đâu thấy, lấy đâu được ? Xin đáp rằng : sự khôn giỏi hay ẩn núp trong những quyển sách tốt. Thực vậy, những sách tốt là những tiếng của bạn hiền khuyên nhủ êm đềm ta làm những điều hay, dạy dỗ ta ngọt ngào những nhẽ phải, miễn là ta biết kiên tâm bền chí mà học tập, vui lòng mà tuân theo là được. Thủa xưa, ông Drouot nhà nghèo cảnh khổ, chỉ nhờ có học mà nên khanh tướng, vẻ vang mày mặt rõ ràng mẹ cha ; bà Mạnh-mẫu, mẹ góa con côi, chỉ biết chăm cho con học hành mà được hiển vinh sung sướng, tiếng thơm để lại nghìn thu. Muôn nghìn người khác nhờ có học mà được vinh thân phì gia kể sao cho hết. Thế mới biết cổ-nhân nói : « Để nghìn vàng cho con không bằng dạy con một quyển sách », thật là có lý lắm. Vậy, bất cứ ta muốn sau này cho con làm nghề gì, trước hết ta nên cho học đến nơi đến chốn đã, mà nếu có thể cho học được thì những cách lối tắt đường ngang mong cho chóng được cái danh giá hão huyền, ta chớ nên dùng đến, vì nghề nào cũng vậy, làm ruộng, đi buôn, làm thợ, nếu có học rộng biết nhiều tất có cơ mở mang to tát được. Xem như những nhà nông công thương các nước văn-minh lập nên nghiệp nhớn, có danh tiếng lừng lẫy hoàn cầu, hầu hết là những tay cự phách trong làng nho, xuất thân ra đường thực-nghiệp, chứ những người vô học thức đương sao nổi những việc nhớn được. Nói tóm lại là hễ cho con học được đến nơi đến chốn, tức là để cho con cái của rất chắc chắn vậy. D.Q.H. *** 1) GƯƠNG-PHONG-TỤC Thiên-hạ mỗi nước có một phong-tục, mà trong nước cũng mỗi nơi có mỗi phong-tục. Những nhời ca-dao này tức là cái tinh thần hồn phách của thói tục trong nước hiện ra. Hễ thói tục hay thời có câu ca-dao hay, thói tục dở thì có câu ca-dao dở. Điều hơn nhẽ thiệt, kẻ dại người khôn, không sự gì là không đủ. Cũng là một cái gương cho người trong nước ta soi chung. Không cứ nhớn nhỏ giai gái, ai cũng nên đem cái gương này mà soi vào mình, điều hay thì nghĩ xem mình có được như thế không, điều dở thì xét xem mình có phải như thế không. Hay khen hèn chê, nào ai có búng miệng thiên-hạ. Tốt phô xấu đậy, chửa dễ mà che mắt thế-gian. Nhời ông bà cổ sơ nói, chẳng điều bỏ đi ; thực là một sự khuyên răn rứt thiết cho người ta, không phải là để nghêu ngao cho đỡ buồn mà thôi. Xưa kia ta chỉ học sách quốc-phong nước Tầu, thì chưa ai chép đến sách này. Từ khi có lối học mới thì ta mới biết cái thói tục của mình là sự cần hơn. Nên cũng đã một vài người có chí, chép nhặt lấy mấy nhời qua ở các miền quê, mà ghi làm quốc-phong của nước mình. Những sách ấy chép có ba lối : một là chép theo lối quốc-phong nước Tầu mà chia ra từng phủ từng huyện ; hai là theo lời ca mà chia loài mục, như là mục cây cỏ, mục núi sông ; ba là dịch nghĩa nhời ca làm câu thơ chữ nho, mỗi câu bốn năm chữ, như lối thơ quốc-phong nước Tầu. Mỗi sách mỗi lối cũng là có một ý kiến cả. Đến như sách này, là góp nhặt mọi nhời ca mà suy xét tình ý, xem câu nào ý gì sẽ lựa theo mà chia mục, cả thảy mười mục là ba mươi tám tiết, trước hết lấy sự luân-lý làm đầu, rồi đến các bực người, các giọng nói, nhân tình thế sự, khí đất tiết giời, gần từ trong nhà, xa đến ngoài nước, loài nào mục ấy, làm cho người xem mở sách thấy nghĩa ngay, còn những nhời chưa rõ là tình ý gì, mà nhời nhẽ hay, thì cũng chép phụ xuống cuối sách, gọi là ghi nhớ lấy nhời cổ tích mà thôi. Sách này là biên chép, không phải là đặt ra, nói hay nói dở là tự nhời người xưa, mà biết dở biết hay, thì ở lòng người xem sách, duy những nhời chua bàn, là người chép sách có phụ thêm ý mình, làm cho rõ nghĩa, song cũng phần nhiều là dẫn nhời phương-ngôn tục-ngữ là điển-tích cho rõ, là nói có sách mách có chứng, không dám tự ý riêng mà nói phải lấy một mình. Song nhời ca-dao trong một nước có nhẽ còn nhiều, sách này tuy rằng góp nhặt đã kỹ, nhưng mà tai mắt một người đã lấy đâu làm đủ được, vả lại các bài ấy phần nhiều là sao ở miệng người, không phải là có bản sẵn, nên dẫu so xét cũng chưa chắc đã khỏi sự sai nhầm, nếu sau này các ông biết rộng, có ý giúp vào, góp gió làm bão, như gấm thêm hoa, cho cái gương soi chung trong nước một ngày một tỏ, mà tai mắt chúng ta càng trông xa nghe rộng mãi ra, ấy là phần trông mong về những người thông thái. ĐOÀN-DUY-BÌNH Mời các bạn đón đọc Một Cách Để Của Cho Con của tác giả D.Q.H.