Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đông Lai Bác Nghị - Dương Tấn Tươi

Nếu không có tài dàn xếp của bao sự ngẫu nhiên thì đâu có quyển Đông-Lai bác nghị nầy ! Đầu tiên, một vị túc nho của chốn Thần kinh, lúc tản cư vào Sài-thành, ngẫu nhiên đến trú ngụ cạnh phòng khám bịnh của chúng tôi. Đó là việc hệ trọng : vì đối với chúng tôi, bực đại nhân ấy là một người thầy đáng kính, mặc dầu Cụ vẫn có nhã ý tự xem mình là bạn vong niên ; vì đối với quyển sách này, bực lão thành ấy mới thật là người cha tinh thần, mặc dù Cụ ấy vẫn một mực chối từ không nhìn nhận. Vả lại, vì muốn giữ vẹn cốt cách của nhà ẩn dật, Cụ yêu cầu chúng tôi đừng nêu danh Cụ vào trong sách ! Thật đáng phục thay đức tính khiêm tốn của bực nho phong, mà cũng khổ cho chúng tôi vì phải dài dòng nhắc lại tiểu sử của bổn dịch mà chỉ được phép dùng một chữ « Cụ » vỏn vẹn để kể cho tròn câu chuyện ! Thì cũng bởi vai tuồng quan trọng của vị túc nho ấy trong khi phiên dịch cho nên chúng tôi xin độc giả niệm tình tha thứ khi thấy chúng tôi lắm lời nói về thân thế của một người đương cầu xin đời đừng nhắc đến tên. Sanh trưởng trong một thế gia của chốn đế đô, cha làm Thượng thơ bộ Lễ, thì khi vào sân Trình, Cụ chiếm bằng cử nhân, việc ấy, theo chúng tôi, cũng chưa đáng kể. Đáng nể là khi rời cửa Khổng để theo tân học, chỉ trong mấy năm Cụ theo kịp các bạn đồng niên nơi lớp tú tài « Tây » ! Rồi sang Pháp để trau giồi học mới, rồi xông pha nơi bể hoạn, rồi cuối cùng nối được chức của cha, thì với sức học đó, với thông minh đó, âu cũng là một việc có thể đoán trước được. Ngày nay, đã chứng kiến bao cuộc bể dâu, Cụ chỉ còn giữ lại một ham muốn là tận hưởng chữ « nhàn » trong thời hưu trí. Muốn được thế, Cụ ẩn mình trong đám rừng người để thưởng thức một câu thơ đẹp với chén trà ngon hoặc cùng vài ba tri kỷ luận bàn về văn học. Cụ nhứt quyết chủ trương : « Lịch sử và địa dư đặt nước nhà vào giữa hai nguồn văn hóa, muốn trở nên một công dân đất Việt, chúng ta phải thâu thập cả đôi. Âu Tây giúp ta kỹ thuật, Á Đông cho ta nghệ thuật làm người ». Để chứng minh lời nói, Cụ nhắc lại một gay cấn vừa xảy ra trong trường quốc tế, rồi chỉ rõ giải pháp của người xưa khi gặp cảnh ngộ tương tợ để bắt buộc kẻ đối thoại phải nhìn nhận : « Thiếu Hán học là một sự thiệt thòi rất lớn ». Sẵn có quan niệm ấy nên Cụ nhận lời ngay khi chúng tôi ngỏ ý cầu học. Lối dạy của Cụ thật là đặc biệt. thường ngày Cụ dùng tiếng Việt để giảng bài, nhưng khi gặp áng văn quá bóng-bảy hay huyền-diệu thì Cụ dùng cả tiếng Pháp để diễn-tả tư-tưởng, mượn triết-học Đức để so-sánh, đem học-thuyết Hy-Lạp để chứng minh, cốt-yếu là giúp học trò hiểu cho thấu đáo, tận-tường. Khi gặp tư-tưởng thanh-cao hoặc áng văn bất-hủ, chúng tôi lật đật ghi rồi chép lại trong giờ nhàn rỗi để trình lên cho Cụ xem-xét. Cụ dò từng câu, đối-chiếu từng chữ để phê-bình. Nhờ Cụ tiến dẫn, chúng tôi mới « nuốt hận » chép thơ của Tư-mã Thiên, sụt sùi thảo tờ biểu xuất-sư của Gia-Cát, băn khoăn đứng trên lầu Nhạc-Dương với Trọng-Yêm, ngạo nghễ biên thơ từ-chức cùng Tạ-Phùng-Đắc. * Ngẫu-nhiên khéo sắp cho chúng tôi gặp được một bực thầy đáng kính, thì cũng nhờ ngẫu-nhiên chúng tôi lại gặp quyển sách đáng yêu. Kẻ vừa nhập đạo thường không tiếc lời ca-tụng tôn-giáo mới của mình. Chúng tôi nào có tránh được thường tình đó trong khi hầu chuyện với ông Trương-Quan, một nhân vật mà giới mại bản Huê-kiều và làng « thanh sắc » bổn xứ vẫn còn nhớ tiếng. Nghe chúng tôi ca tụng nhân tánh của nền văn-hóa Trung-Hoa, Trương-quân đột-ngột hỏi : « Như thế chắc bác-sĩ đã đọc quyển Đông-Lai bác nghị rồi ? » Chúng tôi phải thẹn thùng nhìn nhận : « Chẳng những chưa được đọc mà như phần đông người Việt-Nam, chúng tôi chưa từng nghe đến tên ! » Vì bác-sĩ khen ngợi văn học cổ Trung-Hoa, trí tôi vùng nhớ lại câu chuyện hai mươi năm về trước khi còn thơ ngây cặp sách vào trường để ăn mày chữ. Trong những giờ các bạn được nghỉ ngơi hoặc nô đùa chạy giỡn thì chúng tôi bị ông bác ngồi kèm bên cạnh ép buộc đọc một vài trang Đông-Lai bác nghị. Đó là lời phê-bình về hành vi và hạnh kiểm của các nhân vật đời Đông-Chu. Câu văn huyền diệu, lập luận chặt chẽ, tâm lý sâu sắc là ba đặc điểm của tác phẩm bất hủ đó. Nhưng đối với bộ óc non nớt của đứa trẻ lên mười thì làm sao thưởng thức nổi vẻ đẹp của câu văn hay và sự điêu-luyện của bài luận khéo ? Vậy mà, ông bác vẫn bắt buộc chúng tôi « ê » « a » đọc cho xong vì : « nơi trường, thầy dạy cháu làm văn ; nơi đây, bác dạy cháu làm người ». Lời của bác thật là chí lý ! Thời-đại Đông-Chu là khoảng đen tối nhứt của lịch-sử Trung-Hoa, vì lúc ấy, xã hội đương vươn mình thay đổi lốt, nên gây ra bao sự xáo trộn lớn lao. Bực thánh phải chung đụng với sát nhân, hiền triết phải ăn ở cùng gian tà, rồi tranh đấu chống chọi nhau nẩy sanh ra trăm ngàn việc, hay dở đều có. Tất cả hai mặt – tốt và xấu, thanh với tục – của con người đều phô bày. Nếu gặp một nhà phê-bình có cặp mắt tinh đời, có bộ óc sáng suốt, lại thông tâm lý, hiểu chánh trị, khảo sát thời kỳ ấy thì chắc chắn sẽ để lại cho đời một tác phẩm vô cùng hữu ích. Lữ Đông-Lai có đủ điều kiện ấy cho nên quyển Bác-nghị là một chiếc thuyền đã cắm sào ở ngoài dòng thời gian… Khi đọc quyển Đông-Lai, chúng ta có cảm giác đương nghe một tay thợ chuyên môn giải thích về các bộ phận trọng yếu của guồng « máy lòng » rồi chỉ cho chúng ta thấy các nguyên do thường làm cho động cơ ấy chạy. Cũng bởi « động cơ » và nguyên do ấy không thay đổi cho nên lời của Đông-Lai luận về một thời vẫn có thể giúp ích cho người trong muôn thuở. Vì lẽ đó, lúc trẻ, chúng tôi oán trách ông bác bao nhiêu, thì ngày nay, đã tránh được nhiều kinh nghiệm chua cay, chúng tôi lại cám ơn ông bác bấy nhiêu ! Đáp lời yêu cầu, ông Trương-Quan phải nhờ người về tận Thượng-hải mua giùm cho chúng tôi một bổn. Của báu cầm tay, chúng tôi đến nhờ Cụ dẫn giải giùm điều thắc mắc : « Tại sao một tác phẩm giá trị dường kia, mà từ xưa, trong xứ ta chưa từng nói đến ? » Cụ giảng : « Những sách Trung-Hoa được phiên dịch và truyền bá ở Việt-Nam phần nhiều vì ba cớ : Một là bởi có nhiều người bị bắt buộc phải đọc đến, cho nên bàn tới cũng nhiều, dịch ra không ít, đó là những sách có tên trong chương trình thi cử. Hai là các thứ sách quyến rủ người vì cốt chuyện, ấy là lịch sử tiểu thuyết tức là truyện. Còn về loại thứ ba là vận văn, vì đọc lên nghe êm tai, lại dễ nhớ, nên có nhiều người ưa thích. « Đông-Lai bác nghị không đứng vào ba hạng đó. Vì là văn phê bình nên đòi hỏi ở độc giả một trí phán đoán mà người đời ít hay dùng đến. Và là văn nghị luận nên khô khan mà bắt buộc người đọc phải suy xét mới thưởng thức. Không có vần, thiếu cốt chuyện hấp dẫn, lại không được ghi vào chương trình thi cử, như vậy ít người biết đến thì cũng là một chuyện không lạ. Nói thế không phải bảo sách ấy không có độc giả ! Ngoài số thí sinh hiếu kỳ nên tìm Đông-Lai đọc trước khi vào đình thí, phần đông, các người mê thích sách đó toàn là những kẻ đã đỗ đạt, ra làm quan, ưa dùng quyển Bác-nghị để kiểm điểm hành động trong lúc chăn dân hay khi xử thế. Rồi đến lúc chiều tà bóng xế, khi đã mỏi mệt thì trí muốn yên nghỉ hơn là dịch sách ? Vả lại đối với các bực tiền bối ấy, dịch hay viết sách là một sự ngoài tưởng tượng. Đối với họ, học là hành nghĩa là đem ra áp dụng, để làm tròn bổn phận của mình, chớ không dám học để truyền cho ai cả. » * Rồi theo lệ thường, Cụ giải thích, chúng tôi ghi chép. Cả thảy được tám mươi bốn bài. Mỗi bài là một sự ngạc nhiên. Trong văn chương Trung-Hoa, chúng ta thường bực mình vì gặp lời nhiều hơn ý. Với Lữ Đông-Lai, câu văn đẹp đẽ vẫn đi kèm với tư tưởng cao thâm. Lắm bài không đầy gang tấc mà chất chứa ý dài muôn vạn dặm. Càng suy xét, càng thấy sâu rộng. Về mặt tâm lý thực nghiệm và chánh trị thực hành, chưa chắc có quyển sách nào trong văn chương Âu-Mỹ sánh kịp Đông-Lai bác nghị. Ấy là chưa bàn đến lý luận, phần cốt yếu của sách. Mở đầu cho mỗi bài, tác giả nêu ra một tư tưởng căn-bản, nhiều khi không dính-líu với cốt chuyện đem ra phê-bình. Độc-giả còn tưởng nhà văn lạc đề, thì chỉ vài câu, đã móc dính đầu-đề với ý-niệm căn-bản. Rồi dùng câu chuyện đem phê-bình để chú-thích tư-tưởng chánh ghi trên đầu bài. Trước với sau, đầu với đuôi đều ăn khớp, các bộ-phận liên-lạc cùng nhau một cách tế-nhị làm cho độc-giả tưởng là đương nghe nhà toán-học khéo chứng-minh một định-lý của hình-học. * Rồi một hôm, mấy người bạn tình-cờ đến viếng giữa giờ giảng dạy của cụ, đó là ngẫu nhiên thứ ba. Cũng như chúng tôi, các bạn đều bị câu văn trong-sáng và lập-luận huyền-diệu của Đông Lai hấp-dẫn nên mới khuyên chúng tôi cho xuất-bản. Từ-chối là sự dĩ-nhiên, vì bổn-tâm của chúng tôi là chỉ học cho mình… Lý-luận của các bạn thật cũng chặt-chẽ : « Hiện nay, quốc-văn đương nghèo… học-sanh thiếu món ăn tinh-thần, v.v…. Trong lúc các tiểu-thuyết khiêu-dâm chường mặt trên báo và trong hàng sách thì ôm giữ cho mình một tác-phẩm có giá-trị là một việc… ích kỷ, một tội to đối với nền học-vấn ». Không phương chối-cãi, đành phải nghe theo. Từ đây mới gặp bao nỗi khó … * Trước hết, nếu cho in vỏn-vẹn tám mươi bài nghị-luận của Đông-Lai mà chẳng có những đoạn Xuân-Thu, Tả-Truyện thì làm sao độc-giả lãnh-hội được ? Vả lại, lắm khi, vì bắt-bẻ một câu hoặc một chữ của Tả-Truyện mà Đông-Lai viết thành bài « bác-nghị ». Vậy dịch Xuân-Thu và Tả-Truyện song-song theo « bác-nghị » là một sự tối-cần. Cũng là một điều quá khó. Các bạn chắc đều biết Xuân-Thu là một trong năm quyển kinh của Đức Khổng-tử. Đó là bộ sử nước Lỗ do Ngài sửa-định, chép từ đời Lỗ Ẩn-công cho đến Lỗ Ai-công gồm có 240 năm (từ 721 tới 481 trước tây lịch). Với quan-niệm hiện-tại về sử học khi chúng ta trịnh-trọng lật quyển Xuân-Thu thì sẽ vô-cùng ngạc-nhiên hay thất-vọng. Vì đó chỉ là một mớ sử liệu chép rời-rạc, dường như gặp chuyện thì ghi, không màng đến sự liên-lạc hay tương-quan. Lại có nhiều việc quan-trọng mà không chép. Khi chép thì quá vắn-tắt gần như đơn-sơ. Thí-dụ : bà Khương-thị vì thương con không đồng nên gây ra cuộc xung-đột giữa Trịnh Trang-công và em là Cung Thúc-Đoạn thì nào là quỷ-kế của anh, nào là tham-vọng của em, nào là lời bàn của bá-quan rồi đến trận đánh, với cuộc vây thành phá lũy, cho đến khi cùng đường Thúc-Đoạn chạy vào xứ Yển. Trịnh Trang-công giam mẹ, thật là bao nhiêu gây cấn mà trong Xuân-Thu chỉ có một câu : « Mùa hạ, tháng năm, Trịnh-bá thắng Đoạn tại Yển ». Có lúc còn vắn tắt hơn, như « Tề cứu Hình » hoặc « Địch đánh Vệ ». Vậy thì chân giá trị của bộ Xuân-Thu ở đâu mà vẫn được xem là quyển kinh để « định công luận, đoán án cho muôn đời » ? Tại sao chính Đức Phu-Tử cũng yêu cầu người đời « biết cho ta » hay « buộc tội cho ta » thì nên do bộ Xuân-Thu ? Như vậy, bực thánh và dư luận cổ kim đã lầm chăng ? Hoặc giả, vì quan niệm về sử học của xưa với nay quá khác nhau mới có điều chinh lịch đó ? Nếu thật thế thì tại sao một học giả của thời đại nầy, cụ Nguyễn-Văn-Tố, một người mà chưa ai dám ngờ vực về sức học uyên thâm, cũng chưa ai dám nghi đến sự thận trọng của ngòi bút, đã viết : « Muốn thưởng thức cái hay của bộ Xuân-Thu, phải nhận thấy hương nồng của triết lý, thơm ngát của luân lý, mùi vị của chánh trị ở trong kinh đó. » Làm sao những câu văn vắn-tắt sơ sài kia lại chứa được bao nhiêu mùi, hương và vị ? Chỉ vì Đức Phu-Tử khéo dùng một phương pháp kín đáo : quên TÊN và VIỆC. Sự quên hữu ý, sự cố tâm quên có nghĩa là chê bai, là khiển trách. Như trong thí dụ trên, không chép tên Trịnh Trang-công chỉ gọi Trịnh-bá là chê lỗi chẳng biết dạy em. Như Thúc-Tôn Kiểu-Như, đại phu nước Lỗ chuyên chế mạng lịnh qua rước vợ ở nước Tề thì Xuân-Thu chép : « Vợ Kiểu-Như tên Phụ-Hỉ ở Tề về. » Như vua của nước Châu, tên Thiệt, chức là công, thường gọi là Châu-công, vì sợ loạn nên bỏ xứ trốn qua Tào, sau cùng qua triều Lỗ, Xuân-Thu chỉ chép : « Thiệt đến ». Còn vua nước Kỷ, tước là bá, khi qua triều Lỗ lại dùng lễ của man di, Xuân-Thu chỉ biên : « Kỷ đến triều ». Chẳng những thiếu là chê, có khi thừa cũng là khiển trách, như thêm tên tộc của các vị vua có lỗi. Muốn chỉ trích vua Vệ dùng kế tiểu nhơn để chiếm nước Hình thì Xuân-Thu ghi : « Mùa xuân, tháng giêng, ngày bính ngọ, Vệ-hầu tên Hủy diệt Hình. » Khi muốn tỏ sự hư hèn của Tống Chiêu công thì chép : « Mùa đông, tháng mười một, người Tống giết vua tên là Chử-cữu. » Nhưng phần nhiều khi Xuân-Thu thêm tức là khen, nếu ghi cả chức tước. Muốn nêu tấm lòng trung của hai bề tôi nước Tống – công tử Ấn và Đãng Ý-Chư – Xuân-Thu chép : « Người Tống giết quan đại tư mã. Quan đại tư thành trốn qua Lỗ ». Như câu : « Mùa thu, tháng tám, ngày giáp ngọ, tên Vạn của Tống giết vua tên Tiệp và quan đại-phu Cừu Mục » là dụng-ý phạt Nam-Cung Trường-Vạn, một kẻ thí chúa, lại chê vua Tống vì tánh ham đùa-bỡn với bề tôi, phải mua lấy cái chết thảm-khốc, còn khen quan đại-phu tuy yếu-đuối mà dám cầm hốt đánh một tên võ phu, coi thường cái chết. Chỉ thêm bớt vài chữ, Đức Phu-tử đã tỏ sự khen chê, ban điều thưởng phạt. Mà khen với chê, thưởng và phạt, khi đã trưng nhiều lượt, sẽ tỏ bày một luân-lý và một đường chánh-trị. Cả hai là sản-phẩm của quan niệm về cuộc đời, về vũ-trụ tức là triết-lý. Phương-pháp kín đáo ấy chẳng những bày tỏ được mấy nguồn văn hoá mà còn gây một ảnh-hưởng, một hiệu lực phi thường : được một tiếng khen của Xuân-Thu là hưởng giọt mưa Xuân đầm-ấm, bị một câu trách là chịu ngọn nắng Thu gay gắt. Thật là kết quả mỹ-mãn, nhờ bởi tay thợ thánh khéo dùng một khí cụ thô sơ. Và cũng vì thế, sự phiên dịch Xuân-Thu chất chứa bao nhiêu nỗi khó : phải cân nhắc từng chữ, phải theo đúng nghĩa mà còn lo-sợ thừa lời. * Thiếu một chữ là chê bai, không chép một việc là trách phạt, thật là cực kỳ tinh khéo ! Nhưng chỉ khéo đối với những độc-giả thông lịch-sử Trung-Hoa thời Đông-Chu ; còn với những người khác, không thấy chép, tưởng không có chuyện, thì sự thưởng phạt sẽ vô hiệu quả. Vì vậy bộ Xuân-Thu cần có chú-giải. Chính là Tả-Truyện, một quyển sử đi song song với kinh Xuân-Thu do ngọn bút cứng rắn của Tả Khâu-Minh chép. Nơi đây, cần mở một dấu ngoặc để bàn về tên của nhà sử trứ-danh ấy. (Có nhiều học-giả – trong số ấy có thầy của chúng tôi – đọc là : Tả kỳ Minh. Vậy nên theo phần đông đọc Khâu hoặc Khưu hay theo các cụ mà đọc là Kỳ ? Sự chinh lịch nầy do tục cữ tên mà sanh ra. Số là khi có tên Khâu hay Ni (tức Khổng-Khâu, Trọng-Ni, tên của Đức Phu-Tử), hoặc Kha (tức Mạnh-Kha tên của thầy Mạnh) thì sách nho đều ghi ba chữ « nên đọc Mỗ » thành ra Khổng-Mỗ, Trọng-Mỗ và Mạnh-Mỗ. Lâu ngày – theo lời của ông Nhượng-Tống – bản in mòn đi, chữ Mỗ mất hết một nét sổ nên thành chữ Kỳ. Bọn hậu-sanh chúng tôi không phải thiếu lòng thành kính thánh hiền, nhưng thấy cần đọc cho đúng, mà chắc các đấng Phu tử, Mạnh tử, và các cụ cũng đã tha thứ khi chúng tôi đọc đến Ni và Kha. Vì vậy, từ đây nên đọc là Tả Khâu-Minh và đóng lại dấu ngoặc.) Có phải vì đứng gần cụ Khổng, một cây cổ-thọ của văn hóa Trung Hoa nên bị tàn che bóng lấp mà thân thế của Tả Khâu-Minh bị vùi mất trong biển thời gian chăng ? Chỉ còn nhớ là vị quan coi về sử của nước Lỗ noi theo ý chí của Phu tử chép lại những chuyện của kinh Xuân-Thu. Vi Khổng-tử cân nhắc ngòi bút để thưởng phạt như một vì thiên tử, nên được gọi là « Tố vương » – nhà vua không ngôi – và vì đó Tả Khâu-Minh được gọi là « Tố thần ». Nhiệm vụ của tử gia ấy là theo mỗi câu Xuân-Thu để kể chuyện. Và tất nhiên nhắc lại những đoạn không có chép trong kinh, để tỏ sự biếm nhẽ của Phu tử. Theo lối viết sử ngày xưa, mỗi bài đều có luân lý, ở đây là « lời bàn của người quân tử ». Chúng ta chớ lầm tưởng vì là quyển truyện cho nên kể lể dông dài như… bài tựa nầy. Trái lại, vừa đẽo gọt vừa cân nhắc nên câu văn trở nên gọn gàng và cứng rắn. Như tả Lỗ Trang-công đi cùng Tào Uế đánh Tề ở Trường câu : « Ngồi chung xe đến Trường-câu. Trang-công sắp ra lịnh đánh trống thúc quân. Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Chờ quân Tề xong ba hồi trống. Tào Uế bảo : « Đến lúc ! » Thua to, quân Tề chạy. Trang công sắp ra lịnh đuổi theo, Tào Uế ngăn : « Chưa nên ! » Xuống, xem dấu xe của Tề, trở lên đứng trông lại. Bảo : « Đến lúc ! « mới có lịnh đuổi theo. Toàn thắng. » Như khi Khuất Hà đánh trận Bồ-tao, vì hoài nghi, hỏi Đấu Liêm : « – Sao không bói thử ? - Bói là để quyết điều nghi. Không nghi cần gì bói ! Rồi đem quân đánh thắng Viên, chiếm Bồ tao, minh hội xong, kéo về. » Câu văn có khi trở nên trục trặc, gút mắt vì bị bóp chặt hay thâu quá ngắn « Cho đánh trống. Tiến quân. Toàn thắng. Tiêu diệt hạ Nhược Ngao ». Trong nhiều đoạn, Tả-Truyện chỉ ghi lại vài cử chỉ mà cũng vẽ được một tâm lý phức tạp của nhân vật. Muốn tả lòng căm tức và chí gấp báo thù của vua Sở khi được tin Thân Vô-Uý bị Tống giết, Tả-Truyện chép : « Vua Sở hay, giũ áo đứng lên, đi chơn vào thất. Vào đến cung, giày đem tới. Ra cửa cung, gươm dưng tới. Đến chợ Bồ tiêu, xa giá đẩy tới. Mùa thu, tháng chín, Sở vây kinh thành Tống. » Dùng câu văn tuy vắn mà sâu để thuật lại những mẩu chuyện tuy đơn sơ mà đầy ý nghĩa có thể làm gương đáng theo hay nên tránh cho muôn đời, Tả-Truyện thành một áng văn tuyệt tác, chẳng những được văn nhân sùng bái mà còn được võ tướng kỉnh mộ. Chính những tay cung kiếm lại mắc phải « bịnh Tả-Truyện », là vì đi đến đâu, trong hổ trướng hay khi điều khiển ở trận tiền đều giữ cận bên mình quyển sử của Khâu-Minh. Nhìn nhận giá trị của văn Tả-Truyện là nhìn nhận sự khó dịch của bộ sử đó. Vì diễn tả một tư tưởng của người bằng tiếng của mình, việc đó còn có thể làm được. Còn chuyển dịch một câu văn hay từ tiếng nầy qua tiếng nọ thật là một chuyện quá khó. * Lẽ tất nhiên, muốn dịch hai quyển Xuân-Thu và Tả-Truyện, chúng tôi hoàn toàn nhờ nơi Cụ. Từng chữ, từng lời. Cụ kiên tâm giải thích rồi chịu khó kiểm duyệt. Khi nghe các bạn khuyên tôi xuất bản, thản nhiên, Cụ dạy : « Tùy nơi anh ! Nếu thấy có thể giúp ích được thì cứ tự tiện. Còn tôi chỉ là người của thế hệ trước. Đã qua rồi. Theo thế hệ đó, muốn đọc sách thánh hiền cần phải thông Hán học mới trọn hiểu tinh thần. Anh chớ quên : theo chúng tôi, Hán-văn là sự cần thiết, không thể không ; còn phiên dịch là sự bất đắc dĩ… Anh cũng nên nhớ giùm tánh tôi ưa thanh tịnh, ít ham đời nói đến tên… » Lời nhắc nhở ấy – đối với chúng tôi – là một mạng lịnh. Vì sự yêu cầu đó mới có lời phân trần lè nhè nầy. Chớ đâu phải vì chúng tôi. Nào có muốn phô trương thằng tôi khả ố nầy làm gì cho rườm tai độc giả ! Vì công lớn của cụ trong sự phiên dịch ; Vì sự giúp đỡ của các bạn : trước là ông Trương Quan cho sách, sau là các bạn Đỗ-Thiếu-Lăng giúp tài liệu, bạn Nguyễn-Duy-Cần cho xem vài bài Đông-Lai đã dịch từ lâu. Nhứt là anh Lê-Thọ-Xuân, cặn kẽ lúc chỉ bảo, tận tình khi sửa chữa, tỉ mỉ trong ấn loát. Một người « Anh » với nghĩa tốt đẹp của danh từ ; Vì sự lương thiện của trí óc trong khi trước tác ; Vì sự thành thật đối với mình, với đời, với nền văn học ; Chúng tôi trân trọng xin đọc giả nhận rõ điều nầy : Khi gặp những câu dịch gọn gàng, ăn khớp với nguyên văn, bạn nên nhớ đó là công, đó là tài của Cụ, thầy chúng tôi ; Khi thấy câu văn bất thành cú, khi gặp những lỗi lầm, chỗ dịch sai, bạn nên chắc chắn là vì sự dốt nát của DƯƠNG-TẤN-TƯƠI Mời các bạn đón đọc Đông Lai Bác Nghị của bác sĩ Dương Tấn Tươi.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học: 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ - Trương Hoành Vũ & Liệu Khang Cường
Để có một phương pháp giáo dục trẻ đúng đắn nhất, thì ngay từ khi bắt đầu làm cha mẹ, bạn đã phải xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện để trở thành bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm, xem việc làm cha mẹ là một công việc thực thụ để chăm chỉ rèn luyện bản thân hơn. Muốn trở thành cha mẹ tốt thì cần có các phương pháp và kiến thức dạy dỗ khoa học, không nên chỉ dựa vào những tình cảm đơn thuần và kinh nghiệm truyền thống. Cuốn sách Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học - 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ là ấn phẩm đặc biệt dành cho các bậc phụ huynh. Thông qua cuốn sách, cha mẹ sẽ nắm bắt được những kiến thức đúng đắn trong quá trình dạy dỗ con cái. 7 bài học là 7 phương pháp đề cập trực tiếp đến quá trình giáo dục trẻ trong gia đình, đó cũng là phương pháp chuẩn mực để giáo dục cha mẹ trở thành những phụ huynh hoàn hảo, giúp cha mẹ thay đổi những quan điểm dạy dỗ truyền thống lạc hậu, bắt kịp với các phương pháp giáo dục mới mẻ và khoa học, tránh tình trạng cha mẹ quá yêu thương chiều chuộng trẻ mà gây hại cho chúng. Chỉ cần có ý thức học cách làm cha mẹ thì tất cả các ông bố bà mẹ đều có thể trở thành những bậc cha mẹ thông thái. Hãy để cuốn sách này đồng hành và nhẹ nhàng khai phá "tiềm năng" LÀM CHA MẸ của bạn! *** Là các bậc cha mẹ, chỉ mang lại nhiều của cải cho trẻ là chưa đủ mà bản thân phải tự nâng cao năng lực và trách nhiệm để có cách giáo dục trẻ đúng đắn. Một nhà giáo dục đã từng hỏi tổng thống một câu hỏi như thế này: “Ngài cảm thấy làm lãnh đạo và làm cha mẹ, vai trò nào khó hơn?” Tổng thống rất ngạc nhiên: “Tại sao anh lại hỏi câu này? Đương nhiên là làm cha mẹ khó hơn rồi.” Đến lượt nhà giáo dục cảm thấy rất kì lạ: “Có phải vì làm lãnh đạo trước tiên là được bồi dưỡng sau đó mới được đề bạt, trong khi làm cha mẹ không được bồi dưỡng cũng không có đề bạt gì?” Chúng ta thấy rằng, có rất nhiều ông bố bà mẹ hao tâm tổn sức để làm tất cả mọi việc cho trẻ. Họ không tiếc tiền bạc, cũng chẳng tiếc thời gian cho trẻ nhưng họ chưa bao giờ nghĩ tới một vấn đề: Để trở thành cha mẹ, họ cũng cần phải học. Có phụ huynh cho rằng, cuộc sống bây giờ cạnh tranh vô cùng ác liệt, áp lực công việc lại lớn, làm gì có thời gian để làm những việc như vậy. Việc của họ là mang lại cho con một cuộc sống vật chất đầy đủ, còn giáo dục, dạy dỗ trẻ là việc của nhà trường. Những suy nghĩ này của cha mẹ trái ngược với kì vọng lớn lao mà họ đã dành cho trẻ. Cha mẹ cần biết một điều, về phương diện tâm lí và hành động thì trẻ con thời nay khác rất nhiều so với thời kì mà cha mẹ đã sống, vì vậy cha mẹ cần không ngừng nghiên cứu đặc điểm tâm lí của trẻ, học cách giao lưu với trẻ, như vậy mới có thể hòa hợp với trẻ được. Rất nhiều cha mẹ có trình độ văn hóa cao, có quan niệm sống hiện đại, nhưng do không hiểu trách nhiệm của bản thân, không hiểu tính cách của con cái, cũng không hiểu được các quy luật và phương thức cần có của việc dạy dỗ trong gia đình, nên khi nuôi dạy trẻ đã không nắm được những phương pháp phù hợp, dẫn đến xảy ra những sai lầm không đáng có. Cha mẹ vì con cái mà sẵn sàng hi sinh cho con tất cả. Theo suy luận thông thường, người mà con cái tôn trọng nhất sẽ là cha mẹ chúng. Nhưng theo một kết quả điều tra ở thành phố Thượng Hải - Trung Quốc thì trong suy nghĩ của trẻ, người cha bị xếp ở hàng thứ mười, còn hàng thứ mười một lại dành cho mẹ, điều này chứng tỏ trong thâm tâm trẻ, cha mẹ không phải là một “hình ảnh sáng chói”. Làm thẩm phán thì phải tinh thông luật pháp, làm nghệ nhân thì phải có sự khéo léo của đôi tay; làm bác sĩ phải tinh thông y thuật, tương tự làm cha mẹ cũng phải có những “tố chất chuyên nghiệp”, bao gồm việc dạy dỗ trẻ đúng đắn, nắm bắt được phương pháp và quy luật của giáo dục gia đình để không ngừng nâng cao năng lực giáo dục của bản thân. Những tố chất đó là điều bắt buộc phải có đối với các bậc cha mẹ, bởi nó không chỉ ảnh hưởng đến hiệu quả của giáo dục trong gia đình mà còn tác động trực tiếp đến sự phát triển của trẻ. Để có một phương pháp giáo dục trẻ đúng đắn nhất, thì ngay từ khi bắt đầu làm cha mẹ, bạn đã phải xây dựng cho mình ý thức tự rèn luyện để trở thành bậc cha mẹ có tinh thần trách nhiệm, xem việc làm cha mẹ là một công việc thực thụ để chăm chỉ rèn luyện bản thân hơn. Muốn trở thành cha mẹ tốt thì cần có các phương pháp và kiến thức dạy dỗ khoa học, không nên chỉ dựa vào những tình cảm đơn thuần và kinh nghiệm truyền thống. Maria Montessori là nhà giáo dục người Ý, thông qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về trẻ em, bà đã rút ra một kết luận: cha mẹ phải tuân theo quy luật phát triển theo từng giai đoạn của trẻ để nâng cao tài năng, phát huy những năng lực như tính độc lập, tự tin, chăm chú và sáng tạo ở trẻ…, tất cả phải được thực hiện trong một môi trường thư giãn và vui vẻ, như vậy mới đặt nền móng tốt cho sự phát triển của trẻ sau này. Để nâng cao trình độ và kĩ năng giáo dục trẻ, cha mẹ nên tuân theo những phương pháp giáo dục đã được trình bày trong cuốn sách "Làm cha mẹ cũng cần phải học - 7 bài học dành cho cha mẹ” dưới đây. Đây là cuốn sách “Dạy cách làm cha mẹ” mà tác giả đặc biệt dành cho các bậc phụ huynh. Thông qua cuốn sách, cha mẹ sẽ nắm bắt được những kiến thức đúng đắn trong quá trình dạy dỗ con cái. 7 bài học là 7 phương pháp đề cập trực tiếp đến quá trình giáo dục trẻ trong gia đình, đó cũng là phương pháp chuẩn mực để giáo dục cha mẹ trở thành những phụ huynh hoàn hảo, giúp cha mẹ thay đổi những quan điểm dạy dỗ truyền thống lạc hậu, bắt kịp với các phương pháp giáo dục mới mẻ và khoa học, tránh tình trạng cha mẹ quá yêu thương chiều chuộng trẻ mà gây hại cho chúng. Chỉ cần có ý thức học cách làm cha mẹ thì tất cả các ông bố bà mẹ đều có thể trở thành những bậc cha mẹ thông thái. Xin được gửi lời chúc phúc tới tất cả những bậc làm cha mẹ trên thế gian này. Mời các bạn đón đọc Làm Cha Mẹ Cũng Cần Phải Học: 7 Bài Học Dành Cho Cha Mẹ của hai tác giả Trương Hoành Vũ & Liệu Khang Cường.
Tự Thú Của Ông Bố Tuyệt Vời Nhất Thế Giới - Dave Engledow
Có thể cái tên Dave Engledow không gợi lên cho bạn một cảm xúc gì nhưng chắc chắn khi nhìn thấy những bức ảnh ngộ nghĩnh của ông chụp cùng cô con gái nhỏ Alice bạn sẽ thấy rất thích thú đấy. Có thể bạn đã nhìn thấy đâu đó những bức ảnh của ông - người tự nhận mình là "Người cha tốt nhất thế giới" nhưng chưa biết tới tên của ông mà thôi. Tháng 5/2014 vừa qua, những bức ảnh của Dave và cô con gái nhỏ đã được nhà xuất bản Penguin Group (Mỹ) biên soạn thành cuốn sách ảnh "Confession of the World’s Best Father”. Trên Facebook đã có hơn 100.000 lượt theo dõi hai cha con và con số người hâm mộ đang không ngừng tăng lên chứng tỏ độ hot của những bức ảnh ngộ nghĩnh. Những bức ảnh của Dave thường vẽ lại hình ảnh của một ông bó có khi luộm thuộm, hay quên và thiếu kỹ năng chăm sóc cô con gái nhỏ Alice Bee, khắc họa hình ảnh ông bố bất cẩn và cô con gái nhỏ luôn bị đặt trong những tình huống hết sức thiếu an toàn, khiến bạn đọc thấy đó là những tình huống tróe ngoe, nguy hiểm…Có cảm giác rằng nó thực sự diễn ra với cả hai cha con nhưng thực tế đó chỉ là những tình huống hài hước giả định mà Dave tạo ra để nói về cuộc sống của một ông bố khi có sự xuất hiện của cô con gái. Ngắm nhìn những bức ảnh đáng yêu đó, người xem sẽ thấy cả hai cha con lúc nào cũng đầy sức sống và vui vẻ. *** Dave Engledow là một công dân Texas đời thứ sáu, Engledow học Đại học Texas ở Austin, tốt nghiệp với tấm bằng Cử nhân Báo chí về Báo Ảnh dưới sự hướng dẫn của nhiếp ảnh gia mảng tài liệu đáng kính Dennis Darling.   Engledow hiện đang sống cùng vợ, Jen và con gái Alice Bee ở một khu ngoại ô thủ đô Washington, và làm việc toàn thời gian ở vị trí phó giám đốc của Working America, một chi nhánh tại địa phương của AFL-CIO (Liên hiệp các Nghiệp đoàn Lao động Mĩ). Tất cả những công việc chụp, xử lý ảnh và viết nội dung cho Lời thú tội của ông bố “đỉnh” nhất trần gian được thực hiện trong hai năm vào các kỳ nghỉ cuối cùng và vào ban đêm sau khi Alice Bee cuối cùng cũng đã chịu đi ngủ. *** Hôm nay chúng tôi đưa con gái Alice Bee kháu khỉnh từ bệnh viện về nhà. Tôi vẫn không thể tin là con bé lại hoàn hảo đến thế – tuyệt đối đáng yêu và bé tí xíu. Con bé gần như chẳng làm gì nhiều nhặn – chủ yếu là dành thời gian ngủ thin thít và ngoan ngoãn, chỉ thỉnh thoảng tỉnh dậy để rúc vào ti mẹ Jen. Cho tới giờ, tôi cảm thấy trách nhiệm làm cha mới mẻ này vẫn như một cơn gió dịu dàng và tôi sẵn sàng sống xứng đáng với biệt danh in trên cốc cà phê mà Jen đưa cho tôi sáng nay: WORLD’S BEST FATHER (ông bố tuyệt vời nhất thế giới). ... Mời các bạn đón đọc Tự Thú Của Ông Bố Tuyệt Vời Nhất Thế Giới của tác giả Dave Engledow.
Hạnh Phúc Ở Trong Ta - Debbie Gisonni
Niềm vui và hạnh phúc không phụ thuộc vào những sự việc đã xảy ra, mà chính ở cách nhìn nhận của bạn. Là một phụ nữ, bạn nghiễm nhiên là một nữ thần, chẳng cần thiết phải có những cuộc hành lễ huyền bí, những trang phục đặc biệt. Và vì là một nữ thần, bạn hoàn toàn có thể tạo hạnh phúc cho mình bằng nội lực của chính bản thân. Hạnh phúc thật sự không thể có được bằng cách theo đuổi những ước mơ toàn mỹ viễn vông hay trông đợi những diễn biến tốt đẹp bên ngoài bản thân. Nữ thần hạnh phúc đang hiện hữu ngay trong tâm hồn mỗi người. Có thể lâu nay bạn chưa nhận ra và chưa tin điều này. Và đây là lúc bạn hãy cùng tác giả phát hiện sức mạnh nội tại của chúng ta. Hãy để quyển sách này làm thức tỉnh con người thật của bạn - một nữ thần hạnh phúc! Điều quan trọng là chúng ta hãy vui vẻ và tận hưởng niềm vui thú trong chuyến hành trình đi tìm nữ thần hạnh phúc. Hãy yêu đời hơn, rạng rỡ hơn và vui cười nhiều hơn! "Mỗi chúng ta ngày nay phải đối mặt với vô số những thách thức và trách nhiệm trong cuộc sống. Chúng ta vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải chăm sóc bản thân và gia đình. Do đó, hạnh phúc đôi khi chỉ đơn giản là khả năng hoàn tất những việc cần làm, những điều mà nếu chúng ta không làm được, hạnh phúc sẽ không có cơ sở để tồn tại. Cũng là một người khác khao đi tìm hạnh phúc và hiện tại cảm thấy mình là người hạnh phúc, bằng trải nghiệm của chính cuộc đời mình, tôi muốn giúp các bạn có được điều mà tất cả chúng ta đều mong ước. Tôi muốn đặt câu hỏi Hạnh phúc đến từ đâu? và đưa các bạn đến những câu trả lời thú vị." (Debbie Gisonni) *** Sau mười lăm năm hoạt động trong ngành công nghệ kỹ thuật cao với vai trò là người quản lý, phát động chiến lược kinh doanh, xuất bản và bán các tạp chí tin học, đồng thời được xem là một người thành đạt, tôi ngộ ra rằng trong cuộc sống, dường như chẳng có mối tương quan nào giữa sự nghiệp và khát vọng hạnh phúc. Đôi khi cuộc sống dẫn dắt chúng ta vào những ngả rẽ cuộc đời mà chúng ta không bao giờ ngờ tới. Trong lúc say sưa với sự nghiệp kinh doanh, tôi nghĩ mình đã có được một cuộc sống hoàn hảo – một sự nghiệp nhiều thuận lợi, một người chồng tuyệt vời, một ngôi nhà của riêng mình. Tôi cứ ngỡ mình đang làm chủ vận mệnh của bản thân. Nhưng sự thật không phải như vậy. Khi tôi vẫn tiếp tục thăng tiến trên từng nấc thang danh vọng thì tai ương bắt đầu giáng xuống những người thân trong gia đình tôi. Mới ngày nào mẹ tôi còn múa vũ điệu tarantella trong một đám cưới của người Ý, thế mà chẳng bao lâu sau đó, bà đã phải chiến đấu giành giật sự sống từ căn bệnh ung thư não, căn bệnh đã khiến bà trở thành người tàn tật vĩnh viễn. Vài năm sau, em gái tôi tự tử ở tuổi hai mươi ba, rồi mấy tháng sau cha tôi bị phát hiện mắc phải một dạng ung thư tủy sống. Tiếp đó lại đến lượt người dì mà tôi rất yêu quý phát bệnh ung thư vú. Cả bốn người thân của tôi đã lần lượt qua đời chỉ trong vòng bốn năm, từ năm 1990 đến năm 1994. Mỉa mai thay, năm 1994 cũng đánh dấu một sự kiện quan trọng trong sự nghiệp của tôi - tôi được bổ nhiệm làm người quản lý xuất bản. Tôi tiếp tục làm việc không mệt mỏi, lần lượt được đề bạt vào các chức vụ cao hơn với những khoản lương bổng hậu hĩ hơn. Phải đến bốn năm sau tôi mới cảm thấy cần phải thay đổi cuộc sống của mình. Tôi không còn hứng thú với công việc hiện tại, vì nó mà tôi đã không còn thời gian giao du với bè bạn. Tôi cảm thấy mệt mỏi, chán chường. Đến giữa năm 1998, tôi nộp đơn xin thôi việc, quyết định rời bỏ công việc mà mình gắn bó gần 20 năm. Ngay sau quyết định ấy, tôi rơi vào một giai đoạn khủng hoảng tinh thần. Tôi đã dành thời gian rảnh rỗi sau khi thôi việc để tìm hiểu xem khi tách rời khỏi công việc thì mình là ai, từ đó tìm cho bản thân mình một cuộc sống ý nghĩa hơn. Sau một thời gian chiêm nghiệm, tôi nhận ra mình không phải là một phụ nữ quan trọng có thể chi phối mọi mặt của cuộc sống như tôi từng nghĩ. Thật ra, tôi chỉ là một phụ nữ bình thường có thể tự tạo niềm hạnh phúc cho riêng mình trong bất kỳ hoàn cảnh nào của cuộc sống. Tôi quyết định mở một công ty riêng mang tên Những bài học thực tếvới mục tiêu giúp phụ nữ tạo dựng một cuộc sống thoải mái và hạnh phúc hơn, bất chấp mọi thách thức trong cuộc sống. Hai năm sau, quyển sách đầu tiên của tôi mang tên Di chúc của Vita ra đời, kể lại những bi kịch trong gia đình tôi và cách thức tôi vượt qua những biến cố đó để tiếp tục sống. Khi rời bỏ công việc kinh doanh và mang nặng nỗi đau tinh thần do mất mát người thân, đồng thời nhận thức được rằng bản thân mình vẫn tồn tại một sức mạnh vượt mọi khó khăn, tôi bắt đầu biết chấp nhận thực tế và dần trở thành một con người mới – thanh thản và vui vẻ hơn. Tôi biết nhận thức về chính mình, bình thản hơn, hiểu biết và bằng lòng với bản thân hơn. Tôi cười vui với đời nhiều hơn và tận hưởng từng giây phút trong cuộc đời mình. Bạn bè và người thân trong gia đình đều cảm nhận được niềm hạnh phúc chất chứa trong tôi. Đúng vậy, tôi đang rất hạnh phúc! Giống như phượng hoàng được tái sinh từ cõi chết, tôi đã hóa thân thành nữ thần hạnh phúc, không giống như thần Vệ nữ hay Aphrodite trong truyện thần thoại như mọi người nghĩ, mà là một nữ thần của đời thường. Phụ nữ ngày nay phải đối mặt với vô số những thách thức và trách nhiệm trong cuộc sống. Họ vừa phải gánh vác công việc xã hội, vừa phải chăm sóc bản thân và gia đình. Do đó, hạnh phúc đối với họ là khả năng hoàn tất những việc cần làm, nếu không hạnh phúc sẽ không tồn tại. Cũng là một người phụ nữ trong số đó, bằng trải nghiệm của chính cuộc đời mình, tôi muốn giúp các bạn có được điều mà tất cả chúng ta đều mong ước. Tôi muốn đặt câu hỏi “Hạnh phúc đến từ đâu?” và đưa các bạn đến những câu trả lời thú vị trong quyển sách Hạnh phúc ở trong ta. Có thể các bạn không có nhiều thời gian để kiên nhẫn đọc hết một quyển cẩm nang dài dòng và phức tạp. Vì vậy, tôi cố gắng trình bày cuốn sách này thật ngắn gọn, dễ hiểu, với nhiều thông tin thực tế, bổ ích nhằm giúp bạn đọc có thể lĩnh hội và ứng dụng vào đời sống của mình một cách hiệu quả. Bạn có thể đọc liền một mạch từ đầu đến cuối, hay có thể chọn ngẫu nhiên một đề mục bất kỳ mỗi khi đứng trước những thách thức của cuộc sống. Cuốn sách này gồm bốn mươi bốn đề mục, chứ không phải là một con số chẵn bốn mươi hay năm mươi. Điều này hoàn toàn không nằm ở sự giới hạn của vấn đề, điều mà tôi muốn hướng đến chính là ý nghĩa số học của con số bốn mươi bốn. Mỗi con số - cũng giống như màu sắc và ngôn từ, đều có đặc điểm riêng và ẩn chứa một thông điệp nhất định. Theo ý nghĩa số học cổ đại, người ta đánh giá ý nghĩa của một con số qua từng chữ số và qua tổng của những chữ số đó nữa. Số bốn mang ý nghĩa của sự cân bằng và hài hòa tuyệt đối, như chúng ta vẫn thường nghe nói đến “bốn phương trời”. Hạnh phúc tùy thuộc vào sự cân bằng trong mọi mặt của đời sống tinh thần và vật chất. Hai chữ số bốn trong con số bốn mươi bốn cộng lại là tám - biểu tượng của sự vô hạn và dồi dào về mọi phương diện. Đó cũng chính là mong ước nhận được những điều tốt đẹp nhất từ cuộc sống. Hơn nữa, số bốn mươi bốn được xem là “con số chủ đạo” mang ý nghĩa đặc biệt về tiềm năng vô hạn, thể hiện sự cân bằng trong cuộc sống, là cầu nối giữa đời sống vật chất và tinh thần. Thật chẳng dễ dàng gì khi chúng ta là những thực thể tâm linh sống trong một thế giới vật chất. Nhưng nếu biết trân trọng và dung hòa cả hai lối sống, chúng ta sẽ được hưởng một cuộc sống vui vẻ, hạnh phúc ngay chốn thiên đường trần gian. Là phụ nữ, bạn nghiễm nhiên đã là một nữ thần, chẳng cần thiết phải có những cuộc hành lễ huyền bí, những trang phục đặc biệt. Và vì là một nữ thần, bạn hoàn toàn có thể tạo hạnh phúc cho mình bằng nội lực của chính bản thân. Hạnh phúc thực sự không thể có được bằng cách theo đuổi những ước mơ toàn mỹ viển vông hay trông đợi những diễn biến tốt đẹp bên ngoài bản thân. Nữ thần hạnh phúc đang hiện hữu ngay trong tâm hồn mỗi người. Có thể lâu nay bạn chưa nhận ra và chưa tin vào điều này. Và đây là lúc bạn hãy cùng tôi phát hiện sức mạnh nội tại của chúng ta. Hãy để quyển sách này làm thức tỉnh con người thật của bạn – một nữ thần hạnh phúc! Điều quan trọng là chúng ta hãy vui vẻ và tận hưởng niềm vui thú trong chuyến hành trình đi tìm nữ thần hạnh phúc. Hãy yêu đời hơn, rạng rỡ hơn và vui cười nhiều hơn! Cầu chúc cho cuộc sống của bạn tràn ngập tình yêu, ánh sáng và tiếng cười! - Debbie Gisonnix Mời các bạn đón đọc Hạnh Phúc Ở Trong Ta của tác giả Debbie Gisonni.
Mặt phải: Đi Tìm Những Cơ Hội Tiềm Ẩn Trong Cuộc Sống - Adam J. Jackson
“Cuộc sống là một thử thách, hãy vượt qua nó.” Mẹ Teresa Con người chúng ta đa số ai cũng phải chịu đựng những tổn thương nặng nề, ít nhất là một lần trong đời: công việc kinh doanh thất bại, bị mất việc sau nhiều năm phấn đấu, gia đình tan vỡ, một người thân yêu qua đời, bị chẩn đoán bệnh ung thư, bị tai nạn nghiêm trọng, v.v… Thực tế đã chứng minh rằng có những người vượt qua được những tổn thương to lớn đó và ngày càng mạnh mẽ hơn. Nhưng ngược lại, cũng có những người bị khuất phục hoàn toàn và đi đến kết cục bi thảm. Sau khi đọc xong quyển sách Mặt Phải mà bạn đang cầm trên tay đây, bạn sẽ không chỉ hiểu được sự khác biệt giữa hai loại người trên, mà quan trọng hơn cả, bạn sẽ học được cách “biến đau thương thành sức mạnh”, vượt lên trên mọi thử thách lớn nhỏ để có một cuộc sống tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn và thành công hơn. Những câu chuyện “người thật việc thật” tràn đầy cảm hứng trong quyển sách này sẽ khiến bạn kinh ngạc trước tinh thần bất khuất của con người khi đứng trước những khó khăn trở ngại tưởng chừng như không thể vượt qua được. Bạn sẽ cảm thấy không còn sợ hãi nữa, mà thay vào đó bạn sẽ sẵn sàng đối diện với những gì mà cuộc sống mang lại, bước qua nó và hướng tới một tương lai tươi sáng. Không chỉ đơn giản là những câu chuyện, quyển sách này còn hướng dẫn bạn từng bước thật cụ thể để bạn cũng có thể mạnh mẽ, kiên cường và bất khuất vượt lên trên mọi khó khăn thử thách của cuộc đời này. Để rồi một ngày bạn nhận ra rằng, nếu những khó khăn và thử thách không thể quật ngã bạn, thì chúng sẽ biến thành những tấm huân chương gắn lên ngực áo của bạn – một con người hạnh phúc và thành công nhờ trái tim quả cảm của mình. Đôi khi, trong những thời khắc đen tối nhất, điều chúng ta cần chỉ là một niềm tin vào cuộc sống, để có thể bật lên mạnh mẽ, kiên cường. Hãy nhìn vào “mặt phải” của cuộc sống và bạn sẽ tìm thấy “người anh hùng” bên trong mình. Hãy luôn nhớ rằng, bạn xứng đáng có được hạnh phúc và thành công trong cuộc đời này cho dù ra sao đi nữa. Trần Đăng Khoa & Uông Xuân Vy *** “Cuộc sống này đầy rẫy khổ đau, nhưng cũng đầy vinh quang chiến thắng.” Helen Keller MỘT CẬU BÉ chỉ mới mười hai tuổi ngồi cúi mặt, nắm chặt hai tay bồn chồn chờ đợi câu trả lời của bác sĩ. Vị bác sĩ là một người đàn ông gầy, cao lêu nghêu, khoảng ngoài sáu mươi tuổi. Nhìn ông không có vẻ gì là nhiệt tình cả. Ông có mái tóc hoa râm mượt, mũi cao và đôi môi mỏng. Ông đeo cặp kính gọng tròn và nhỏ khiến đôi mắt xám nhạt của ông trông giống hai hòn bi ve. Ông cầm mớ giấy tờ lên, vuốt thẳng các góc rồi lại đặt xuống, đoạn ông tháo kính ra và nhìn thẳng vào cậu bé. “Ta rất tiếc, con trai” – vị bác sĩ bắt đầu – “Nhưng căn bệnh của con không thể nào chữa khỏi hoàn toàn. Nếu ta làm theo những gì con yêu cầu, tức là ta làm hại con. Con nên học sống chung với bệnh tật, càng sớm càng tốt.” “Nhưng nếu bác sĩ có thể...” – cậu bé cất lời. “Hãy nghe ta” – ông ngắt lời – “Đó là điều tốt nhất.” Đôi mắt cậu bé bắt đầu ngân ngấn nước. Lồng ngực cậu như bị bóp nghẹt. Cậu bé đứng dậy, lầm lũi rời khỏi căn phòng. Thứ mà cậu đang phải chịu đựng là một chứng bệnh ngoài da, bệnh vảy nến. Biểu hiện của bệnh này là những mảng đỏ trên da, phía trên có vảy dày màu trắng. Trong nhiều trường hợp, vảy nến tập trung ở khuỷu tay và đầu gối của bệnh nhân, một số khác bị ở da đầu. Nhưng ở cậu bé này, vảy nến lan ra toàn thân và dày lên nhiều lớp. Lần đầu tiên cậu để ý thấy triệu chứng của bệnh là vào một buổi sáng, cách đây mới hai tháng, từng cụm lốm đốm đỏ xuất hiện hai bên bụng cậu. Nhưng vài tuần trở lại đây, các đốm đỏ trở nên to hơn và lan khắp người cậu bé. Rồi cậu đến gặp bác sĩ trong trường, không phải để xin thuốc men bởi bác sĩ riêng của gia đình cậu đã nói rõ rằng bệnh này không có thuốc chữa. Điều mà cậu muốn nhờ, đúng hơn là van xin vị bác sĩ của trường ấy là mảnh giấy xác nhận miễn thể dục để cậu khỏi phải tham dự giờ học bơi. Khi đi dọc hành lang để rời khỏi tòa nhà, cậu bé không cầm được nước mắt. Cậu chẳng còn để ý tới ai hay bất cứ điều gì chung quanh, điều duy nhất trong đầu cậu lúc này là các học sinh khác sẽ phản ứng ra sao khi cậu xuất hiện ở lớp học bơi trông giống một kẻ bị bệnh hủi. Rồi những câu hỏi quen thuộc cứ quay cuồng trong đầu cậu đến mức cậu thấy buồn nôn. “Tại sao lại là tôi? Tại sao chuyện này lại phải xảy đến với tôi? Tại sao cuộc sống lại bất công đến thế?” Đột nhiên, cậu cảm thấy một bàn tay đặt lên vai mình. Khi quay lại, thầy chủ nhiệm Greenstein đã đứng kế cậu tự bao giờ. Thầy Greenstein có vóc người nhỏ bé, chỉ cao hơn cậu học trò vài phân. Thầy mặc bộ vét xám với áo sơ mi trắng, thắt cà vạt màu xanh biển. Thầy là người điềm tĩnh, giọng nói nhỏ nhẹ, và rất được các học sinh trong lớp yêu mến. “Sao vậy em?”, thầy Greenstein hỏi. “Không có gì ạ”, cậu bé thở dài và quẹt nước mắt. “Lại đây ngồi với thầy. Chỉ một chút thôi”, thầy Greenstein cố nài. Thầy Greenstein và cậu bé ngồi xuống băng ghế đá dưới một tán cây sồi lớn bên ngoài khuôn viên trường. “Bây giờ hãy nói cho thầy biết điều gì khiến em buồn? Biết đâu thầy giúp được.” “Không ai giúp em được đâu”, cậu bé làu bàu. “Ừ, thì ít nhất em cũng nói cho thầy nghe xem sao”, thầy Greenstein nói. Cậu bé xắn tay áo lên, để lộ ra những đốm vảy lớn đỏ ửng và kể sự tình. Khi cậu nói xong, thầy Greenstein đặt tay lên vai cậu và bảo: “Ai đứng lớp bơi lội của em?” “Thầy Cunningham ạ.” “Em biết không, nếu em muốn, chúng ta có thể đến gặp thầy Cunningham và chắc chắn chúng ta có thể thuyết phục thầy ấy miễn cho em môn đó.” “Thật không ạ?” “Chắc chắn. Nhưng trước khi chúng ta làm việc đó, để thầy kể cho em nghe chuyện này. Khi thầy được bảy tuổi, bố của thầy qua đời và thầy bắt đầu mắc chứng nói lắp. Cũng như chứng bệnh ngoài da của em, bệnh của thầy xảy đến rất nhanh, gần như chỉ sau một đêm. Tình hình tồi tệ đến nỗi, cũng giống như em, thầy không muốn đến trường nữa. Thầy sợ những học sinh khác sẽ lấy mình ra làm trò cười. Thế là thầy và mẹ thầy suốt ngày tranh cãi về chuyện đi hay không đi, nhưng cuối cùng thầy biết mình phải tiếp tục đến lớp. Và thầy mừng là mình đã đến trường. Bởi nếu không, thầy đã là đứa thất học. Thầy không thể trở thành thầy giáo và chắc chắn là không ngồi cạnh em đây.” Thầy Greenstein nhìn vào mắt cậu học trò nhỏ, “Mọi khó khăn mà chúng ta đối mặt trong cuộc sống này đều có mặt phải của nó.” “Mặt phải là gì cơ chứ?”, cậu bé lầm bầm. “Mọi khó khăn hay trở ngại đều chứa đựng bên trong nó một cơ hội lớn, đôi khi còn lớn hơn cả bản chất của vấn đề. Mặt phải chính là cơ hội ấy.” Cậu bé kéo tay áo lên, “Làm gì có mặt phải nào trong cái thứ này hở thầy? Cơ hội nào cho một kẻ trông như cùi hủi trước mặt tất cả học sinh khác?” Thầy Greenstein trả lời, “Xem nào, chúng ta hãy suy nghĩ một phút... Xem liệu chúng ta có thể tìm được mặt phải của vấn đề hay không.”   Mời các bạn đón đọc Mặt phải: Đi Tìm Những Cơ Hội Tiềm Ẩn Trong Cuộc Sống của tác giả Adam J. Jackson.