Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hai Năm Trên Hoang Đảo

Một sự cố xảy ra trong đêm tối – du thuyền Sloughi mất tích và trôi dạt vào Thái Bình Dương, mang theo mười lăm cậu bé từ tám đến mười bốn tuổi, không một cơ may được cứu giúp cũng chẳng có người lớn nào để cậy trông. Vừa thoát khỏi bão tố và những con sóng dữ của đại dương, du thuyền lại dạt vào một miền đất hoang sơ, bí ẩn. Kì nghỉ hè mơ ước bỗng chốc hóa thành một "trường học" sinh tồn gian khổ: các cậu bé phải tự xoay xở để kiếm cái ăn, chốn ở và sống sót qua bao thử thách, hiểm nguy với hi vọng mong manh được thấy lại quê nhà. Hai năm trên hoang đảo của Jules Verne trước hết là một cuộc phiêu lưu kì thú mở ra bao điều mới lạ về thế giới tự nhiên, đồng thời khơi gợi khao khát trưởng thành và ý chí tự lập ở các em nhỏ. Nhưng nhìn rộng ra, đây cũng là bức tranh thu nhỏ về công cuộc thám hiểm và chinh phục những vùng đất mới từng là một chương quan trọng trong lịch sử loài người. Qua đó, độc giả có dịp hiểu thêm về mối quan hệ giữa con người nhỏ bé nhưng giàu trí khôn và nghị lực với thiên nhiên kì vĩ, đôi khi khắc nghiệt nhưng hào phóng vô cùng. *** Đã có nhiều Robinson khơi dậy lòng hiếu kì của các bạn đọc trẻ. Đó là một người đàn ông trong tác phẩm bất hủ Robinson Crusoe của Daniel Defoe, là một gia đình trong Robinson Thụy Sĩ* của Wyss, là một nhóm người trong Miệng núi lửa của Cooper, là một nhóm bác học trong Hòn đảo huyền bí của tôi. Người ta còn tưởng tượng ra Robinson mười hai tuổi, Robinson miền băng giá, Robinson thiếu nữ v.v. Mặc dầu đã có vô số truyện Robinson như vậy, tôi vẫn thấy cần thêm vào cho đầy đủ một nhóm trẻ em từ tám đến mười ba tuổi, bơ vơ trên một hòn đảo, phải vật lộn để sống còn giữa những thiên kiến do sự khác biệt về dân tộc, tóm lại, một kí túc xá những Robinson. Tác phẩm này đã có bản dịch tiếng Việt với nhan đề Lớn lên trên đảo vắng. (Sau đây các chú thích không có ghi chú gì thêm đều của người dịch). Mặt khác, trong truyện Thuyền trưởng mười lăm tuổi, tôi đã cố gắng chứng tỏ những gì một cậu bé, bằng lòng dũng cảm, trí thông minh, với ý thức trách nhiệm cao hơn lứa tuổi, có thể làm được để vượt qua bao gian khó, hiểm nguy. Nên tôi nghĩ rằng nếu đó là bài học bổ ích thì cũng cần được bổ sung cho hoàn mĩ hơn. Tác phẩm này ra đời nhằm mục đích kép ấy. Jules Verne

*** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. *** I Trận bão - Con tàu bị hư hỏng - Bốn chú bé trên boong tàu Sloughi - Buồm trước rách tả tơi - Trong khoang tàu - Chú học việc thủy thủ bị chẹt cổ gần chết - Sóng đánh đuôi tàu - Thấy đất qua sương mù - Bãi đá ngầm Đ êm mùng 9 tháng 3 năm 1860, mây rà sát mặt nước, tầm nhìn xa chỉ vài sải tay. Biển động, sóng dậy dồn dập chiếu ra một thứ ánh sáng nhợt nhạt, một con tàu nhỏ gần như không giương buồm lao nhanh. Đó là một du thuyền trọng tải một trăm tấn mà người Anh, người Mỹ gọi là “schooner”. Tên chiếc schooner này là Sloughi. Nhưng giờ thì đừng hoài công tìm tên ấy vì tấm biển đề đã bị một sự cố - sóng đánh hay một cú va đập mạnh - làm vỡ ra từng mảnh rồi. Đã 11 giờ đêm. Ở vĩ độ này vào đầu tháng 3, đêm hãy còn ngắn. Đến 5 giờ sáng thì trời hửng. Nhưng liệu ánh mặt trời có làm giảm bớt hiểm nguy đang đe dọa con tàu không? Nếu sóng dịu xuống, gió lặng đi thì chắc nó sẽ không bị đắm, một tai nạn khủng khiếp nhất ở giữa đại dương, xa mọi mảnh đất, nơi những người sống sót có hi vọng được cứu giúp. Ở cuối tàu, bên bánh lái có ba chú bé, một chú mười bốn tuổi, hai chú kia cùng mười ba với một chú da đen học việc thủy thủ mười hai tuổi. Các chú hợp sức cố giữ cho tàu khỏi chệch hướng quay ngang. Công việc thật khó nhọc vì bánh lái cứ cưỡng lại, muốn quay ngược, có thể hất bay các chú qua thành tàu. Đã thế, gần nửa đêm, một con sóng trùm qua boong, đập mạnh vào sườn tàu đến nỗi các chú không bị văng mất đã là một sự thần kì. Cú đập làm các chú ngã nhưng đứng dậy được ngay. - Còn lái được không, Briant? - Một cậu hỏi. - Còn, Gordon ạ. - Briant đã trở về vị trí và bình tĩnh trả lời, rồi nói với cậu thứ ba. - Chúng mình phải vững vàng, Doniphan ạ! Phải dũng cảm vì bọn mình phải cứu mấy đứa kia. Briant nói bằng tiếng Anh, nhưng cách phát âm cho thấy cậu là người Pháp. Quay sang chú tập sự thủy thủ, cậu hỏi: - Mày có bị thương không, Moko? - Thưa cậu* không sao, - Moko trả lời. - Cần nhất bây giờ là giữ cho tàu gối lên sóng, không chệch hướng quay ngang, không thì chúng ta sẽ chìm nghỉm ngay! Vào thời ấy, tệ phân biệt chủng tộc da trắng, da màu rất nặng nề. Nguyên văn tiếng Pháp là “monsieur Briant”, đúng ra phải dịch là “thưa ông Briant”. Người dịch tạm dùng chữ “cậu” cho nhẹ bớt. Vừa lúc ấy, ca pô cầu thang xuống phòng khách du thuyền bật mở, hai cái đầu bé bỏng nhô lên mặt boong cùng một con chó dễ thương sủa mấy tiếng. - Anh Briant!… Anh Briant!… Chuyện gì thế? - Một chú bé chín tuổi gào lên. - Không, Iverson, chẳng có chuyện gì cả, - Briant đáp - em với Dole xuống ngay đi… nhanh lên! - Là vì chúng em sợ quá! - Chú nhóc thứ hai còn non tuổi hơn nói thêm. - Còn những đứa kia? - Doniphan hỏi. - Những đứa kia cũng sợ! - Dole trả lời. - Thôi, các em xuống cả đi! - Briant nói - Đóng chặt cửa lại, trùm kín chăn, nhắm mắt vào là hết sợ thôi! Chẳng có gì nguy hiểm đâu. - Chú ý! Lại sóng lớn! - Moko thét. Đuôi tàu bị đập mạnh. May sao sóng không trùm lên boong, nếu không nước sẽ qua ca pô cầu thang ùa vào, tàu nặng lên sẽ không đè trên sóng được. - Xuống ngay! Nếu không thì… liệu hồn! - Doniphan quát. - Thôi nào! Về buồng đi các em! - Briant nói, giọng ôn tồn hơn. Hai cái đầu vừa thụt xuống thì một cậu bé khác xuất hiện: - Briant! Có cần chúng mình không? - Không! Baxter, bốn chúng tớ là đủ, Cross, Webb, Service, Wilcox và cậu, các cậu ở lại với các em bé. Baxter sập ca pô xuống. “Những đứa kia cũng sợ!” Dole đã nói thế. Chẳng lẽ chỉ có toàn trẻ em trong con tàu đang bị cuốn theo gió bão này sao? Đúng, toàn là trẻ em! Bao nhiêu? Mười lăm đứa, kể cả Gordon, Briant, Doniphan và chú thủy thủ tập sự. Vậy các em xuống tàu trong hoàn cảnh nào? Ta sẽ sớm biết thôi. Và trên tàu không có một người lớn, không có thuyền trưởng để chỉ huy, không có một thủy thủ nào để sử dụng các thiết bị, không có một người lái nào để lái tàu hay sao? Không! Không có một ai! Vì thế, không ai trên tàu biết vị trí chính xác của tàu trên đại dương này! Mà là đại dương nào? Đại dương lớn nhất, Thái Bình Dương trải rộng hai nghìn dặm từ bờ biển Australia và New Zealand tới tận bờ biển Nam Mỹ. Vậy chuyện gì đã xảy ra? Tai họa nào đã làm thủy thủ đoàn biến mất? Phải chăng cướp biển Mã Lai đã bắt tất cả, để mặc đám hành khách trẻ con này, mà đứa lớn nhất mới suýt soát mười bốn tuổi, tự xoay xở lấy? Chiếc du thuyền một trăm tấn ít ra phải có một thuyền trưởng, một thủy thủ trưởng và năm, sáu người nữa. Thế mà cả cái bộ sậu tối thiểu để vận hành con tàu chỉ còn lại chú thủy thủ tập sự!… Cuối cùng, du thuyền từ đâu tới, từ vùng biển nào của Australia hay quần đảo nào của châu Đại Dương, đã đi từ bao lâu và định tới đâu? Bất cứ thuyền trưởng nào gặp tàu Sloughi ở vùng biển khơi này cũng sẽ hỏi như vậy và chắc chắn là bọn trẻ sẽ trả lời được. Nhưng có tàu thuyền nào đâu. Tàu viễn dương thường qua lại các vùng biển châu Đại Dương cũng chẳng thấy, mà tàu buôn chạy bằng máy hơi nước hoặc chạy bằng buồm, thường có hàng trăm chiếc từ châu Âu hoặc châu Mỹ sang các hải cảng Thái Bình Dương cũng không gặp chiếc nào. Mà dẫu có một con tàu khỏe có động cơ hoặc hệ thống buồm đi chăng nữa thì thủy thủ cũng phải tập trung chống bão, cứu sao được chiếc du thuyền đang nhấp nhô trên mặt biển như mảnh vỡ của một con tàu!

Mời các bạn đón đọc .Hai Năm Trên Hoang Đảo của tác giả Jules Verne & Đinh Khắc Phách (dịch)

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đảo Bác Sỹ Moreau - Herbert George Wells
HG Wells (1866 – 1946), văn hào Anh, cùng với Jules Verne, là 1 trong 2 nhà tiểu thuyết khoa học viễn tưởng nổi tiếng nhất mọi thời. Các tác phẩm chính của ông bao gồm: Cỗ Máy Thời Gian (The Time Machine – 1895), Đảo Bác Sỹ Moreau (Island of Doctor Moreau – 1896), Người Vô Hình (The Invisible Man – 1897), và Chiến Tranh Liên Hành Tinh (The War of the Worlds – 1898). Wells cũng là 1 sử gia cự phách. Bộ Đại Cương Lịch Sử Thế Giới (The Outline of History – 1919) của ông là 1 tác phẩm mẫu mực về sử học. Đảo Bác Sỹ Moreau là tiểu thuyết thứ 3 trong đời viết văn của H G Wells. Truyện kể về 1 khoa học gia lập dị sống cùng người học trò, đơn độc trên đảo hoang vu, cách biệt với thế giới văn minh. 2 thầy trò từ năm này qua tháng khác chỉ miệt mài nghiên cứu. Ngoài họ ra, cùng trú ngụ trên đảo còn có 1 lũ thổ dân xấu xí, thú không ra thú, người không ra người. Lũ thổ dân từ đâu mà ra, tại sao lại xấu xí dị hình đến vậy? Ngòi bút tài tình của H G Wells sẽ dần dần tháo gỡ các nút thắt bí mật, đưa người đọc đến 1 thế giới kỳ bí, hoang đường… Ra đời đến nay hơn trăm năm, Đảo Bác Sỹ Moreau vẫn không ngừng cuốn hút các thế hệ độc giả. Tác phẩm đã được các hãng điện ảnh lớn ở Hollywood 3 lần dựng thành phim: Lần đầu vào năm 1933, với sự tham gia diễn xuất của Charles Laughton và Béla Lugosi, lần hai vào năm 1977, với Burt Lancaster và Michael York, lần gần nhất năm 1996, với Marlon Brando và Val Kilmer. Bản dịch này được thực hiện dần dần, như 1 thú tiêu khiển trong những lúc có thời gian rỗi. Lời văn có lẽ chưa được chuốt, đây đó ắt hẳn còn nhiều chỗ sai, mong được độc giả thể tất. Nguyên tác của H G Wells không có ghi chú. Các chú thích trong truyện đều của người dịch. Nguyễn Minh South Australia, 2011 *** Ngày 1 tháng 2 năm 1887, chiếc Lady Vain đâm nhằm tàu vô chủ, đắm tại vị trí 1 độ vĩ Nam,107 độ kinh Tây. Trong số hành khách mất tích có chú tôi, một thường dân tên gọi Edward Prendick. Chú tôi lên tàu Lady Vain tại cảng Callao (1). Ngày 5 tháng 1 năm 1888, tức 11 tháng 4 ngày sau đó, tại 5 độ 3 phút vĩ Nam, 101 độ kinh Tây, người ta phát hiện chú Prendick đang trôi dạt trên một chiếc thuyền. Tên thuyền mờ quá, không đọc được, nhưng dường như đó là thuyền con của chiếc tàu buồm bị mất tích mang tên Ipecacuanha. Chú kể lại một câu chuyện thật lạ lùng, lạ đến nỗi ai cũng ngỡ chú đã phát điên. Về sau, chú lại bảo: từ khi tàu Lady Vain bị đắm, chú chẳng nhớ gì nữa. Các nhà tâm lý học khi ấy thảo luận mãi về chú. Họ cho rằng đấy là một trường hợp bị mất trí tạm thời, do sang chấn cả về thể xác và tâm lý mà ra. Tôi là cháu ruột, cũng là người ăn thừa tự chú Prendick. Khi soạn lại giấy tờ của chú, tôi tìm được câu chuyện dưới đây. Xuất bản câu chuyện ấy hay không?Tùy ở quý vị. Khắp quanh khu vực nơi chú tôi được cứu, chỉ có duy nhất một hòn đảo, tức hòn Noble, một đảo núi lửa nhỏ, không dân cư ngụ. Hồi năm 1891, tàu HMS Scorpion đã từng ghé đảo này. Thủy thủ tàu đổ bộ lên đảo, nhưng không tìm thấy một sinh vật sống nào, ngoại trừ mấy con bướm trắng, heo, thỏ, và vài giống chuột lạ. Như vậy, không có bằng chứng xác thực nào cho chi tiết lạ kỳ nhất trong câu chuyện của chú tôi. Vậy nên, tôi thiết nghĩ, xuất bản chuyện ấy ra cũng chẳng hại gì. Chuyện chú Prendick kể có những điều chắc chắc thật. Chú đúng là đã mất tích trong khoảng 5 độ vĩ Nam và 105 độ vĩ Đông, rồi lại tái xuất trong khoảng ấy vào 11 tháng sau. Cũng đúng là có chiếc thuyền buồm mang tên Ipecacuanha, với gã thuyền trưởng say rượu John Davies. Chiếc Ipecacuanha khởi hành từ Phi châu cỡ tháng 1 năm 1887, chở theo trên boong một con báo và mấy con thú nữa. Nó cập vài cảng ở Nam Thái Bình Dương, và mất tích sau khi rời Bayna vào tháng 12 cùng năm. Những số liệu ngày tháng ấy hoàn toàn ăn khớp với chuyện của chú tôi.   CHARLES EDWARD PRENDICK. (Câu chuyện dưới đây do chú tôi, Edward Prendick, thuật) *** H. G. Wells sinh tại số nhà 46 phố High, Bromley, Kent. Ông là con út trong gia đình 4 người con và thường được gọi yêu là "Bertie." Cha ông, Joseph Wells, là một người bán hàng kiêm vận động viên tường cầu; và mẹ ông, Sarah Neal, là người giúp việc. Nhờ chút tài sản thừa kế, gia đình ông mở cửa hàng bán đồ sành sứ và dụng cụ thể thao, nhưng kinh doanh khá ế ẩm. Joseph Wells phải dựa cả vào chơi tường cầu để kiếm thêm tiền nuôi gia đình. Năm 1874, H. G. Wells bị gãy chân phải nằm bẹp giường. Cha ông thường mượn sách ở thư viện về cho con đọc, và H. G. Wells bị hớp hồn bởi các thế giới trong sách vở kể từ đó. Năm 1877, cha Wells bị gãy chân, không thể chơi tường cầu được nữa, và gia cảnh Wells càng thêm khốn khó. Wells phải tìm việc hỗ trợ gia đình, và có giai đoạn ông phải là việc liên tục 13 tiếng không nghỉ mỗi ngày. Năm 1980, Wells được học bổng trường Đại học Khoa học Hoàng gia. Tại đây ông nghiên cứu sinh học và bắt đầu quan tâm đến tình hình xã hội, hình thành ham muốn thay đổi thế giới thành nơi tốt đẹp hơn. Giai đoạn theo học đại học cũng là lúc H. G. Wells bắt đầu sự nghiệp cầm bút. Ông thành lập một tạp chí trường và thường xuyên đăng các bài viết của mình, và trong số đó có cả tiền thân cho một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Wells: Người tàng hình. Wells là một cây bút đa tài. Ông viết rất nhiều thể loại, bao gồm cả truyện viễn tưởng lẫn các tác phẩm phi hư cấu về xã hội, con người. Nhưng người ta nhớ đến Wells nhiều nhất nhờ các tác phẩm Sci Fi, mà như lời của ông là "khoa học lãng mạn." Một số tác phẩm Sci Fi của ông được coi là tác phẩm tiên phong, mở ra các chi mới cho dòng văn Sci Fi, và đến nay vẫn nhiều tác phẩm Sci Fi vay mượn các yếu tố từ những sáng tác của Wells. Về sau, danh tiếng của H. G. Wells trong văn giới có phần bị sứt mẻ vì ông ủng hộ những quan điểm phần lớn người đương thời không chấp nhận được. Nhận định về Wells trong giai đoạn đó, George Orwell đã nói ông "chưa đủ điên rồ để hiểu được thế giới lúc bấy giờ." Wells mất vào ngày 13/08/1946, hưởng thọ 79 tuổi tại London. Trong ấn bản năm 1941 của The War in the Air, Wells viết ông muốn trên bia mộ của mình khắc dòng chữ: "Nói rồi không nghe. Lũ ngốc."   Mời các bạn đón đọc Đảo Bác Sỹ Moreau của tác giả Herbert George Wells.
Yêu Không Hối Tiếc - Hân Như
Vẫn là những con người đó, nhưng thế giới của CHỈ CÓ THỂ LÀ YÊU giờ đây sẽ nhường chỗ lại cho một thế hệ mới hơn, có suy nghĩ mới hơn, nhưng chân lý tình yêu thì chỉ có một.  18 năm sau, những đứa trẻ rồi sẽ khôn lớn… 18 năm sau, một tình yêu mới lại bắt đầu… 18 năm sau… Có những vụng dại khiến người ta phải ân hận.  Có thể bạn không thích sự trần trụi đó. Tôi cũng không thích. Nên tôi sẽ cố gắng thay đổi nó… Dành tặng bạn, nếu bạn từng đồng hành cùng CHỈ CÓ THỂ LÀ YÊU Dành tặng bạn, nếu bạn lần đầu bước vào thế giới của Hân Như. Dành tặng bạn, nếu bạn tiếp tục ủng hộ YÊU KHÔNG HỐI TIẾC *** Tác giả Hân Như tên thật Minh Ngọc Là học sinh chuyên Sinh cứ tưởng sẽ bén rễ sang nghiệp y nhưng Hân Như lại trở thành sinh viên khoa Tiếng Anh của trường Đại học ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Mẹ cô là giáo viên dạy văn - có nhiều sách văn nổi tiếng của Nga nên ngay từ nhỏ Hân Như đã được tiếp xúc với những câu truyện ngắn hay của xứ sở Bạch Dương và có niềm đam mê lớn với viết lách. Năm lớp 12, “Bàn tay” – tác phẩm đầu tiên của Hân Như đã  nằm trong tuyển tập Truyện chọn lọc viết về Nhà giáo Việt Nam “Bản tình ca mùa thu” (Nhà Xuất bản giáo dục). Trưởng thành từ những trang viết dành cho tuổi teen, Hân Như đã có những bước khởi đầu khi còn ngồi trên giảng đường Đại học. Với lối văn viết cảm xúc và không theo khuôn mẫu nên nhiều truyện ngắn của Hân Như để lại ấn tượng tốt với độc giả như: “Chỉ có thể yêu” (2011) , “Giấu Anh vào nỗi nhớ”(2012) , “Yêu không hối tiếc” (2012) , truyện dài “Interpol”… Năm 2011 được xem là năm thành công của cô gái trẻ này khi tiểu thuyết  “Chỉ có thể là yêu” được dựng thành phim với sự dàn dựng của đạo diễn Vũ Minh Trí (Phim chính thức lên sóng vào 6/12/2012). Trưởng thành ngòi bút theo từng giai đoạn, Hân Như luôn cố gắng tạo dựng màu sắc riêng cho những nhân vật trong truyện của mình. Cô luôn cố gắng đổi mới để độc giả không cảm thấy nhàm chán. Nhân vật Hải Long (trong “Chỉ có thể yêu”) là một chàng hiệp sĩ ảnh hưởng của chuyện cổ Pháp “Ba chàng hiệp sĩ ngự lâm”.  Nhân vật Thiên Nguyên – “Giấu anh vào trong nỗi nhớ của em” – một nhân vật nam chính không có gì nổi bật. Mới đây là nhân vật Nguyễn Đại – “The secret” – một giám đốc có nhiều tật xấu, sống ích kỉ… Không truy cầu danh tiếng, chỉ cầu sự bình an Hân Như chia sẻ bản thân cô là một con người cầu toàn, vì vậy trong công việc cô luôn đòi hỏi ở bản thân sự sáng tạo cao. Gia đình là nơi cô chia sẻ thành công của mình đầu tiên, đó là nơi xây dựng cho Hân Như ý chí và tiềm lực để theo nghề viết lách. Mẹ của Hân Như từng nói với cô: “Đã muốn phấn đấu với nghề văn thì không nên bỏ cuộc, không truy cầu danh tiếng chỉ cầu sự bình an”. Đó cũng chính là điều Hân Như mong mỏi và hướng đến. Bản thân cô viết sách là để thỏa mãn đam mê của mình và muốn được chia sẻ, đồng cảm cùng con người. "Truyền thông giết chết những cây bút trẻ, nó chỉ giúp cho bên phát hành sách của họ và chỉ đem lại hiệu quả nhất thời" - Hân Như chia sẻ. Khi còn là sinh viên Đại học Ngoại ngữ, Hân Như từng là Trưởng ban tuyên truyền của CLB sinh viên trẻ. Chính vì vậy, chị rất thích công việc tình nguyện. Vừa qua Hân Như đã cùng các bạn trẻ tham gia chương trình: “Thiện nguyện mùa đông” – Hướng về miền trung ruột thịt. Nhóm thiện nguyện trẻ Hà Tĩnh đã có 200 suất quà trong đó có 10 suất học bổng dành cho học sinh nghèo vượt khó đã được chia sẻ tới những đồng bào vùng lũ lụt tại Hương Khê -  Hà Tĩnh. Tiếp tục sự nghiệp viết văn của mình, Hân Như sẽ cho ra đời tập truyện “The Secret” vào giữa tháng 12 tới. Và sẽ tổ chức một buổi tọa đàm các tác giả trẻ để chia sẻ kinh nghiệm cho những người yêu viết và muốn viết. Buổi tọa đàm sẽ có sự góp mặt của các tác giả trẻ nổi tiếng như: Hân Như, Nguyễn Thủy, Quỳnh Thi, Lê Ngọc Mẫn,… Hân Như luôn muốn cố gắng trưởng thành ngòi bút của mình, hứa hẹn với nhiều truyện ngắn phản ánh, đi sâu vào thế giới của người trẻ ra đời. *** Trở lại Việt Nam Đậu chiếc xe đời mới vào gara ô tô, chàng trai nhanh nhẹn nhảy ra khỏi xe, lại gần người quản gia đang tỉa hoa với một vẻ chăm chú đặc biệt. - Chú Kim, mẹ cháu về chưa ạ?- Anh liếc chừng về phía ngôi biệt thự sang trọng. - Thưa cậu, bà chủ đã về từ lâu rồi ạ. Bà nói cậu về thì lên phòng bà ngay. “Ôi! Ôi! Xong rồi!”- Anh thầm than- “Lần này thì chết chắc với mẹ rồi.” Cửa phòng làm việc của mẹ anh không khép, anh hé mắt nhìn vào, thấy mẹ mình đang đứng khoanh tay nhìn ra ngoài cửa sổ. Vậy là bà đã trông thấy anh về, có muốn trốn cũng không được. Anh lại gần, ôm chầm lấy bà từ phía sau, nói bằng giọng nịnh nọt mà xưa nay anh vẫn làm nũng với bà: - Mẹ yêu, con về rồi đây. - Biết về rồi à?- Mẹ anh khẽ hừ giọng. - Con nhớ mẹ nên về mà. - Lần này lái xe đến tận đâu thế? - Ôi, mẹ thừa biết rồi mà, con có chạy lên trời cũng không thoát khỏi bàn tay của mẹ.- Anh nháy mắt cười và ngồi phịch xuống ghế. Quay lại nhìn con trai, người phụ nữ ấy khẽ lắc đầu thở dài. Đã bước sang tuổi 43, Thảo Nhi vẫn còn mang vẻ đẹp mặn mà như gái một con, dù rằng cô con gái thứ hai của chị vừa bước sang tuổi 16, đẹp như một đóa hoa. Nhiều năm nay, là phu nhân chủ tịch tập đoàn Silver Wings nhưng chị vẫn giữ được những nét giản dị, mộc mạc như hồi 20 năm về trước, khi chị còn là một cô sinh viên tỉnh lẻ về thành phố học, rồi vô tình gặp gỡ được con trai của tập đoàn Lotus Vũ Nam Phong. Sau khi đoàn tụ, chị sinh tiếp bé Trác Vân, rồi cả gia đình sang Hà Lan sinh sống để thuận tiện cho việc phát triển sự nghiệp của chồng chị. Hai đứa trẻ cũng lớn lên trên quê hương hoa Tuylip này cho đến tận bây giờ. Khánh Nam đã tròn 20 tuổi, giống ba mình như đúc, cũng cao lớn, cũng đẹp trai, thông minh và mê đua xe, nhưng thằng con trai này của chị còn mắc thêm tật phong lưu mà chị không sao sửa được cho nó. Ném cho đứa con một cái nhìn không hài lòng, chị rút từ trong ngăn kéo ra một đống hóa đơn và phiếu phạt, vất lên bàn, nghiêm giọng: - Con nghĩ sao nếu ba con trông thấy đống giấy tờ này? Đua xe trái phép để cảnh sát phải gửi vé phạt về nhà, rồi vào quậy ở quán bar... Còn có việc gì là con không dám làm không? Khánh Nam định mở miệng cãi lại nhưng nhìn thấy đôi mắt giận dữ của mẹ, anh chỉ há miệng ngáp ngáp mấy cái như thiếu hơi rồi lại im re. Mẹ anh thường ngày rất hiền, nhưng mỗi khi bà nổi nóng lên thì nghĩa là bà đang giận thật sự. - Còn nữa... Đưa con gái vào khách sạn ngủ. Con không nghĩ được việc gì hay ho hơn để làm à? - Mẹ... Ở đây mấy thằng bạn con đứa nào chả thế. Con vào khách sạn là lịch sự lắm rồi đấy. - Con còn dám cãi à?- Chị trừng mắt- Mẹ quyết định phải tách con với đám bạn hư đốn đó ra. - Ôi dào... Đằng nào thì con cũng vui vẻ với chúng được mấy ngày nữa đâu. Sang tháng là con cũng sang Harvard nhập học rồi còn gì. Mẹ yêu cứ lo lắng hão cho già người.- Anh khẽ đung đưa người trên chiếc ghế xoay êm ái. - Con hãy quên giấc mơ Harvard đi. - Cái...gì?- Khánh Nam suýt té ngã xuống đất khi nghe mẹ mình nói câu đó- Mẹ nói sao cơ ạ? - Mẹ và ba đã quyết định sẽ không cho con đi học ở Harvard. - Mẹ...mẹ điên à?- Anh hét lên- Ơ...con xin lỗi... con không có ý đó... Nhưng thật bất công. Mẹ biết là Harvard không phải là nơi ai muốn đến cũng được cơ mà. - Mẹ biết.- Chị bình tĩnh đáp lại con trai. - Thế tại sao ba mẹ lại có quyết định kì cục như thế? - Đó không phải là nơi ai muốn đến cũng được, mẹ biết điều đó. Nhưng đó cũng không phải là nơi tốt nhất cho con. - Vậy theo mẹ thì còn nơi nào là nơi tốt nhất cho con?- Anh bất mãn hỏi lại. ... Mời các bạn đón đọc Chỉ Có Thể Là Yêu 2: Yêu Không Hối Tiếc của tác giả Hân Như
Trúng Số Độc Đắc - Vũ Trọng Phụng
Trúng số độc đắc là một biến cố, thường đem đến cho con người những thay đổi thật lạ lùng. Cái ngày trúng số như chia cuộc đời con người gặp may ra hai phần, mà bao nhiêu thứ đều trái ngược nhau đến mức bi đát. Trúng số độc đắc đã vẽ lại con đường rất biện chứng, biến một anh ký viết ra một tay cự phú, với các hoàn cảnh gia đình, xã hội vây quanh anh ta.  Thất nghiệp, Nguyễn Văn Phúc bị vợ sỉ vả đủ thứ. Bố mẹ thì nói ra, nói vào, chửa Phúc là ăn hại, đái nát, vô tích sự, gàn dở, không đáng bưng bát cơm lên mà ăn. Nhẫn nhục đi xin một chân thư ký hãng buôn thì lão chủ Tây ném đơn xuống đất...  Chưa đầy nửa tháng, nghe tin Phúc trúng số mọi thứ đều thay đổi. Gia đình thì thấy anh Phúc biến ra đại quý, còn người đời thì cung kính vô cùng. Cái số độc đắc không chỉ sinh ra hài kịch gia đình mà còn làm nổ ra những bi kịch ghê gớm. Nhân tình thế thái, thì ra cái số độc đắc là giọt rượu quý để ma lực làm cho nó đỏ hay xanh trước mắt người đời.  Viết Trúng số độc đắc, Vũ Trọng Phụng đã tập trung tất cả bút lực để theo dõi, phân tích, mô tả những thay đổi trong đời và trong lòng của chỉ một nhân vật. Ông có cái nhìn rất sáng suốt, tính nhậy cảm thật tinh tế, không những trông thấy những tình cảm được biểu lộ mà cả những ý muốn sơ phát còn tiềm tàng, những ký ức bị quên đi bỗng hiện về, những cảm giác từ lâu sống dậy.  Với cuốn tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng lên án thế gian và người đời nghiêm khác, thế nhưng giọng kể chuyện, tả cảnh, tả tình cứ hồn nhiên, vui vẻ và có dịp là không quên hài hước.  Đây là tác phẩm cuối đời của Vũ Trọng Phụng, tác phẩm tuyệt mệnh này thực sự là một tuyệt tác về nhiều phương diện. *** Vũ Trọng Phụng là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam đầu thế kỷ 20. Đặc biệt ông nổi tiếng với những bài phóng sự và được mệnh danh là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Những tác phẩm của ông góp phần tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trước cách mạng tháng tám chịu nhiều chìm nổi. Ông sinh năm 1912, mất năm 1939, quê ở tỉnh Hưng Yên, nhưng được sinh ra và lớn lên tại Hà Nội. Vốn xuất thân trong một gia đình nghèo, lại mồ côi cha mẹ từ lúc mới 7 tháng tuổi, mẹ tần tảo nuôi ăn học. Năm 16 tuổi, sau khi đỗ bằng tiểu học, ông phải thôi học để đi làm kiếm sống. Sau hai tháng làm thư kí đánh máy cho hãng buôn Goddard, ông bị đuổi và thất nghiệp. Ít lâu sau, ông đánh máy chữ cho Nhà in Viễn Đông nhưng hai năm sau lại bị đuổi.Từ đó ông chuyển hẳn sang làm báo, viết văn chuyên nghiệp. Với giọng văn sắc sảo, mang đậm chất châm biếm, trào phúng và nội dung tư tưởng sâu sắc, các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đều hướng tới chủ đề hiện thực, tố cáo và vạch trần xã hội Việt Nam trước cách mạng tháng 8 – một xã hội bê bối với những tấn trò đời bi kịch. Đọc những trang văn của ông, người ta không khỏi ngậm ngùi, chua chát. ***  Trừ những ngày mưa không kể, sáng nào cũng vậy, cứ đúng chín giờ là anh Phúc đã ngồi trên một cái ghế xi măng trước nhà Kèn, trong vườn hoa Paul Beri[1]. Đã tám tháng nay nhàn cư như vậy cho nên từ người phu lục lộ quét vườn hoa cho đến mấy đứa sống cầu bơ cầu bất bằng đủ các nghề như trèo me, trèo sấu, câu cá, bắt tổ chim, có khi ăn cắp, giật khăn nữa: nói tóm lại là bọn ma cà bông vẫn lấy nhà Kèn làm khách sạn, đối với anh Phúc, đều đã trở nên ít nhiều thân thuộc. Hễ anh cứ ngồi vừa nóng ghế được năm phút, thì người phu gát đến chỗ chân anh. Mà lần nào cũng vậy, hễ anh co chân lên để tránh những hòn sỏi nhỏ do cái chổi tre hắt bắn lung tung, thì người phu cũng thản nhiên khẽ chào anh: “Cậu chơi!” để cho Phúc vui vẻ đáp: “Không dám! Ấy kìa bác…”. Độ nửa giờ sau, người phu ấy lại quay lại với Phúc, giơ cái điếu thuốc lào quấn bằng lá chuối mà bác ta vẫn gài mang tai khiến Phúc phải gập sách lại, ngừng đọc. Anh ta bèn lôi ngay ở túi áo ra bao diêm và gói thuốc lào. Bao giờ Phúc cũng để người phu hút trước, mình sau. Bao giờ người phu cũng để cho Phúc cái hân hạnh mời mình cả diêm lẫn thuốc, và sự ấy, Phúc coi là một thứ thuế đánh chỗ ngồi của chàng, không phải đóng thẳng cho Nhà nước nhưng đóng cho một người thay mặt Nhà nước vậy. Sau cuộc thù tạc nhỏ mọn ấy, Phúc lại đọc sách, người phu lại vác chổi ra đi. Còn bọn ma cà bông, giao thiệp với anh ta thì khác. Chúng gọi anh là “cậu áo trắng dài” chỉ vì cái lẽ rất dễ hiểu là xưa nay chúng không thấy Phúc vận gì khác ngoài cái áo trắng dài. Thoạt đầu, chúng cũng ngạc nhiên không hiểu sao trong đời lại có người vô công rỗi nghề đến bậc ngày nào cũng ra ngồi vườn hoa như thế, nhưng khi thấy Phúc bao giờ cũng đọc sách, chúng bèn đoán hẳn đó là một người học trò sửa soạn đi thi. Đối với bọn ấy, Phúc rất dè dặt. Có đứa đã đến ngồi cạnh chân anh ta, và sau khi hỏi chuyện mà không được đáp lời đằm thắm, đã ngồi ra nghịch những hòn cuộn dưới chân anh hàng nửa giờ mà chưa đi cho. Lại có đứa đã từng có lần moi trong một cái tay nải ra những quả me xanh hoặc sấu chín nó có thể làm cho Phúc nhớ lại cái thời học trò thơ ấu nữa, nhưng Phúc đã trả tiền, sợ ăn không thì thành ra thân mật quá, và thân mật với cái hạng hay văng tục ghê gớm, hay chửi ỏm tỏi, là rất nguy hiểm. Những khi bị bọn quỉ sứ ấy hỏi chuyện, Phúc chỉ đáp thế nào cho phải phép, cho khỏi là đáng ghét mà thôi. Tuy vậy, anh ta cũng đã nhớ tên và hiểu rõ cả tâm tính từng đứa một: thằng Bí Sến Vườn hay đánh chửi nhưng thẳng và tốt, thằng Tẹo mắt híp miệng nói leo lẻo nhưng mà gian, thằng Bôn Tây Lai có cả những tánh xấu của hai thằng kia, nghĩa là vừa hay bắt nạt vừa ăn gian, thằng Sáu Vẩu mềm nắn rắn buông, khôn ngoan đủ khoé, vân, vân… ... Mời các bạn đón đọc Trúng Số Độc Đắc của tác giả Vũ Trọng Phụng
Tình Yêu và Ước Vọng - Archibald Joseph Cronin
Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin là câu chuyện xúc động của hai y tá-Anne và Lucy, những người đã cống hiến tất cả bản thân để phục vụ người khác. Khi sự bất cẩn của cô em Lucy gây ra cái chết thảm khốc của một bệnh nhân trẻ tuổi, Anne đã nhận trách nhiệm bảo vệ cô em gái - một hành động đe dọa hủy hoại sự nghiệp chăm sóc điều dưỡng đang rực rỡ của cô. Và rồi Anne gặp một bác sĩ phẫu thuật trẻ lý tưởng, người quan tâm đến cô; Và mặc dù một trong những truyền thống lâu đời và nổi tiếng nhất của ngành y tế là mối quan hệ giữa bác sĩ và y tá vẫn không có tính cá nhân, bác sĩ và y tá là tất cả những con người-và đôi khi truyền thống bị phá vỡ. *** Archibald Joseph Cronin (19/07/1896 – 06/01/1981) là một tiểu thuyết gia, nhà soạn kịch, tác giả truyện người thật việc thật, nhà văn người Scotland. Ông là một trong những người viết truyện nổi tiếng của thế kỷ XX. Các tác phẩm nổi tiếng của ông là: The Stars Look Down, The Citadel (Thành trì), The Keys of the Kingdom và The Green Years (Những năm ảo mộng). Tất cả các tác phẩm này đều đã được dựng thành phim. Ông cũng dựng nên nhân vật Dr. Finlay, người hùng của một bộ truyện dùng cho phim nhiều tập của đài phát thanh và truyền hình BBC dưới tên Dr. Finlay's Casebook. *** TRỜI MÙA ĐÔNG GIÁ LẠNH, ĐÃ SÁU GIỜ sáng mà còn tối như nửa đêm. Khu truyền nhiễm bệnh viện Shereford im ắng, sự yên tĩnh đặc biệt của phòng bệnh. Một hơi thở yếu ớt, khò khè vang lên từ chiếc giường trẻ con, khuất sau tấm bình phong. Ngồi yên ở đầu giường của đứa bé, y tá Lee không rời mắt khỏi khuôn mặt bé nhỏ, tiều tụy. Cô đã thức canh suốt đêm và dù rất mệt nhọc, cô vẫn kiên nhẫn trông coi người bệnh nhỏ bé. Phiếu định bệnh treo ở thanh ngang trên giường ghi: "Bệnh bạch hầu" nét chữ sắc sảo. Đó là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, một ca bệnh nghiêm trọng. Đứa bé được mang tới tối qua sau một cuộc giải phẫu yết hầu thực hiện khẩn cấp. Lee đã phụ giúp bác sĩ Hassal trong suốt ca mổ, cứu sống đứa bé. Bây giờ một ống bạc nho nhỏ lấp lánh giữa lớp vải băng đã giúp đứa bé thở được. Hai ngàn đơn vị huyết thanh chống bạch hầu được bơm vào máu để chống chọi với vi trùng. Bệnh nhân nhỏ bé đã khá hơn, đang ngoi lên từ vực sâu cõi chết. Với cử chỉ nhẹ nhàng và chuẩn xác, Lee rút ống bạc khỏi cái bao nhét trong cổ họng bệnh nhân, lau chùi sạch sẽ. Vài giây sau cô nhét lại vào chỗ cũ, đứa bé thở dễ dàng hơn. Lee vặn nhỏ ngọn lửa của bếp dầu đặt sau tấm rèm, tia hơi nước thoát ra từ vòi của ấm nước bắt đầu sôi. Cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay, chuẩn bị chích cho đứa bé. Qua mấy động tác bình tĩnh và chính xác của cô, bệnh nhân đã nhận đủ số lượng mã tiền (Strychnine) chích vào đùi. Kim đâm vào, đứa bé chỉ phản ứng bằng cái rùng mình nhẹ, khó nhận biết. ... Mời các bạn đón đọc Tình Yêu và Ước Vọng của tác giả Archibald Joseph Cronin.