Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới

Định nghĩa về “công dân toàn cầu” T hành công của dự án “Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới” là một ví dụ minh họa cho sự toàn cầu hóa của thế giới ngày nay. Trang web và trang Facebook của nhóm Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới được thành lập vào giữa tháng Tám năm 2015, khi ba người bạn trong độ tuổi đôi mươi lại một lần nữa bước vào các cuộc hành trình mới ở những mảnh đất xa lạ. Phạm Anh Đức từ Cộng Hòa Séc chuyển sang London, Anh để bắt tay vào xây dựng một dự án khởi nghiệp. Hồ Thu Hương sắp di cư từ Vancouver, Canada tới Boston, Hoa Kỳ để sinh sống với chồng cô là người Mexico. Còn Nguyễn Phan Linh vừa được công ty truyền thông xã hội của Cộng Hòa Séc cử sang Singapore làm việc cho chi nhánh mới mở của họ. Ba con người, ba châu lục với một niềm quyết tâm: mong muốn giúp đỡ thế hệ trẻ Việt Nam trở thành những công dân toàn cầu. Không có một định nghĩa cụ thể về công dân toàn cầu. Nếu hỏi một trăm người, thì cả trăm sẽ giải thích cho bạn về cụm từ này bằng những cách khác nhau. Đối với những người theo dõi Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới, thì công dân toàn cầu là: “... tự tin đi muôn nơi.” Bùi Mỹ Huyền, Hà Nội “... người không ngừng trải nghiệm, kết nối, học hỏi và hoàn thiện bản thân.” Nguyễn Hoàng Linh Chi, Thành phố Hồ Chí Minh “... người có tư duy toàn cầu. Chia sẻ những vấn đề lớn chung của toàn cầu và họ phải hiểu được toàn cầu hóa không loại bỏ bản sắc riêng.” Đinh Thị Mỹ Linh, Quảng Ninh “... một con người của mọi quốc gia, sẵn sàng học hỏi, sẵn sàng giúp đỡ, sẵn sàng hòa nhập và hài hòa với thế giới.” Lâm Bảo Nhi, Cần Thơ “... trưởng thành hơn trong suy nghĩ, có mục tiêu trong cuộc sống, tự tin hơn trong giao tiếp, làm quen được nhiều bạn bè mang nhiều quốc tịch và đặc biệt là sống có ích hơn.” Trần Thị Thu Lợi, Hàn Quốc Theo Ronald Israel, người sáng lập ra tổ chức The Global Citizens’ Initiative, “công dân toàn cầu là người coi bản thân là một phần của cộng đồng thế giới đang lớn dần và hành động của người đó đóng góp vào việc xây dựng các giá trị và thông lệ của cộng đồng này.”1 Theo các tác giả của cuốn sách này, bạn đã có những phẩm chất của một công dân toàn cầu khi: ✓ Bạn đã từng sinh sống tại các quốc gia khác nhau trên thế giới; ✓ Bạn biết và sử dụng được từ hai ngoại ngữ trở lên; ✓ Bạn coi trọng những ý kiến và cách suy nghĩ đa chiều (nhưng không nhất thiết là bạn phải đồng ý với chúng); ✓ Bạn không có những định kiến đối với những người bạn không quen biết; ✓ Bạn quan tâm đến các vấn đề và tin tức toàn cầu; ✓ Bạn không ngại thay đổi và trải nghiệm những điều mới mẻ; ✓ Bạn thích nghi dễ dàng trong một môi trường mới; ✓ Bạn không ngại đối phó với bất cứ trở ngại nào trên con đường dẫn đến mục tiêu và không chịu bỏ cuộc; ✓ Bạn biết tự tìm kiếm các thông tin cần thiết và biết sử dụng các thông tin đó một cách hiệu quả; ✓ Bạn không gặp vấn đề khi tiếp xúc với những con người khác nhau vì bạn biết cách cư xử trong môi trường đa văn hóa. Có khá nhiều nhân vật cả trong lịch sử lẫn hiện đại ủng hộ quan niệm “công dân toàn cầu”. Diogenes2 thành Sinope từ thế kỷ thứ V trước Công nguyên đã từng tuyên bố là: “Tôi là công dân của thế giới.”3 Albert Einstein cũng đã coi mình là công dân của thế giới và đã tuyên bố trước Hội Triết học Pháp tại trường Đại học Sorbonne vào năm 1922: “Nếu như những lý thuyết của tôi đề ra là đúng thì người Đức sẽ nói tôi chính gốc là người Đức. Người Pháp sẽ nói tôi là công dân quốc tế. Nếu sau này có những chứng minh cho rằng lý thuyết của tôi đề ra còn có những thiếu sót, thì người Pháp sẽ nói tôi đã từng là người Đức và người Đức sẽ nói tôi là một tên Do Thái.”4 Tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống của chúng ta đang ngày càng trở nên toàn cầu hóa: chúng ta có thể giao tiếp với toàn thế giới qua Internet, chúng ta quan tâm tới những vấn đề của toàn cầu, chúng ta yêu, nghe nhạc, xem phim, ăn đồ ăn và đi du lịch xuyên quốc gia. Có thể nói là mỗi người trong chúng ta đều có một phần là công dân toàn cầu. Trở thành công dân toàn cầu cũng đồng nghĩa với việc bạn trở thành một con người tốt hơn: bạn đồng cảm với người khác, bạn biết cách lắng nghe và giúp đỡ người khác, bạn biết nhiều ngôn ngữ, bạn có thể sống mọi nơi, mọi người quý mến bạn vì bạn là một người hòa đồng và cởi mở, bạn thông minh vì ham học hỏi, bạn rất năng động và có ý chí lớn. Trong những năm trở lại đây, nhất là sau khi bản Tuyên ngôn Thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc được ký kết, có khá nhiều những tổ chức phi chính phủ được mở ra để ủng hộ và phát triển định nghĩa “công dân toàn cầu”. Chẳng hạn như tổ chức “Global Citizen” có trụ sở tại Đan Mạch hằng năm tổ chức các lễ hội âm nhạc với những ca sĩ và ban nhạc nổi tiếng thế giới, như Stevie Wonder, Alicia Keys, Beyoncé, Coldplay hay Ed Sheeran. Mục đích của sự kiện là kêu gọi người dân trên toàn thế giới quan tâm và giúp đỡ chấm dứt sự nghèo đói từ nay đến năm 2030 (đây cũng là mục đích chính trong Những mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc). Các tổ chức phi chính phủ khác như The Global Citizens’ Initiative (theglobalcitizensinitiative.org) có trụ sở ở tiểu bang Massachusetts, Hoa Kỳ, Citizens For Global Solutions (globalsolutions.org) với trụ sở ở Thủ đô Washington D.C, Hoa Kỳ hay The Global Citizen Forum (gcfnetwork.org) có trụ sở ở Singapore đều quyết tâm đấu tranh với những vấn đề nan giải của thế giới. Biết đa ngôn ngữ hay sống tại đa quốc gia chỉ là bước đầu trên con đường của những công dân toàn cầu. Bước tiếp theo mới là bước chủ chốt: bắt tay vào giúp đỡ và góp phần cho sự phát triển của thế giới. Các tổ chức quốc tế lớn cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc hợp tác toàn cầu và đã hình thành những bộ phận chú trọng đến những vấn đề đó. Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc (UNESCO) đã phát động một chương trình mang tên “Giáo dục công dân toàn cầu” nhằm giúp đỡ người dân trở thành những con người đóng góp tích cực cho các hoạt động để giải quyết và đối mặt với các thách thức toàn cầu, hướng tới một thế giới hòa bình hơn, an toàn hơn và khoan dung hơn. Những tổ chức thanh niên và sinh viên như AIESEC (aiesec.org) hay Global Shapers (www.globalshapers.org) và những tổ chức cho học sinh và thanh thiếu niên như Global Kids (www.globalkids.org) hay Global Kids Connect (www.globalkidsconnect.org) đều tạo ra nhiều cơ hội cho giới trẻ trở thành những công dân toàn cầu tương lai. Ngày nay, khi ra nước ngoài du lịch, học tập hay làm việc không còn là một đặc quyền của những người giàu có, mỗi người trong chúng ta đều có thể trở thành công dân toàn cầu nếu chúng ta mong muốn. Chúng ta không có quyền chọn nơi mình sinh ra, nhưng chúng ta có quyền chọn nơi chúng ta muốn sinh sống và phát triển. Nhưng khởi đầu con đường vươn tới thế giới như thế nào không phải là một chuyện giản đơn, mà cần có sự chuẩn bị kỹ càng và ý chí rất lớn để có thể vượt qua khó khăn trên các chặng đường. Khái niệm về công dân toàn cầu cũng bắt đầu phát triển tại Việt Nam. Đất nước của chúng ta không hề ít những con người đa quốc gia và đa ngôn ngữ, với những người trẻ tuổi và tài ba như hoa hậu Ngô Phương Lan (xuất thân từ gia đình ngoại giao, cô đã từng sinh sống và học tập tại Thụy Sĩ, Pháp và Hoa Kỳ), nhà thiết kế Anna Võ (tên thật là Võ Ngọc Thúy Anh, cô đã từng hoàn tất các khóa học tại Anh, Hoa Kỳ và Ý), ca sĩ Bảo Hân của Paris By Night (cô đã lớn lên tại Áo, từng sống tại Canada và hiện đang định cư tại Hoa Kỳ) hay chủ chuỗi cửa hàng The KAfe Đào Chi Anh (sinh ở Nga, sống một thời gian dài ở Đức và Đài Loan, sau đó làm việc ở Singapore trước khi trở về Việt Nam lập nghiệp). Ba tác giả trẻ tuổi của cuốn sách bạn đang cầm trên tay cũng là những công dân toàn cầu điển hình khi cả ba đều đã từng sống, học tập và làm việc tại nhiều quốc gia trên thế giới, mặc dù họ vừa mới rời ghế nhà trường. Đức sinh ra ở Hà Nội và lớn lên tại Praha (Cộng Hòa Séc). Bên cạnh đó, anh đã sống tại Brasília (Brazil), Lyon (Pháp) và London (Anh). Hiện anh đang làm việc tại Thượng Hải (Trung Quốc). Anh sử dụng thành thạo các thứ tiếng: Việt, Séc, Anh và Pháp và đang học tiếng Trung Quốc. Hương sinh ra ở Hà Nội và lớn lên tại Havířov và Praha (Cộng Hòa Séc). Bên cạnh đó, cô đã từng sống tại Buenos Aires (Argentina), thành phố Mexico (Mexico) và Vancouver (Canada). Hiện cô đang định cư ở Boston (Hoa Kỳ). Cô sử dụng được các thứ tiếng: Việt, Séc, Anh, Pháp và Tây Ban Nha. Linh sinh ra và lớn lên tại Nghệ An. Anh từng sống tại Palmerston North (New Zealand) và Praha (Cộng Hòa Séc). Hiện nay, anh đang làm việc tại Singapore. Linh nói được tiếng Việt, tiếng Anh và đang học tiếng Séc và Đức. Họ gặp nhau ở trường Đại học Kinh tế Praha tại Cộng Hòa Séc, và như những con người toàn cầu thực sự, sau khi tốt nghiệp họ đã chọn cho mình những hướng đi khác nhau. Nhưng cả ba có một điểm chung: họ đều là những người đã tận dụng những cơ hội quý báu để trở thành công dân toàn cầu. Khi còn ngồi trên giảng đường đại học, cả ba đều là những người có nhiều hoài bão. Họ mơ ước được mang quyển hộ chiếu Việt Nam đi khắp thế giới, để chứng tỏ với mọi người là họ vẫn có thể đến bất cứ quốc gia nào họ muốn với tấm hộ chiếu từ một “đất nước thứ ba”. Trong cuốn sách Hộ chiếu xanh đi quanh thế giới: Những bước để trở thành công dân toàn cầu, ba tác giả sẽ giới thiệu những bí quyết để trở thành công dân toàn cầu, chia sẻ những kinh nghiệm của họ cũng như giúp bạn vạch hướng đi ra thế giới. Từ khi bắt đầu dự án Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới, các tác giả đã tổ chức những buổi giao lưu và nói chuyện thường xuyên với những bạn trẻ ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài, vì họ tin rằng học hỏi kinh nghiệm và tri thức từ những người đi trước là cách tốt nhất và hiệu quả nhất để mọi người có thể thực hiện được ước mơ của mình. Những chi tiết và câu chuyện trong cuốn sách này đã được thu thập lại từ những buổi giao lưu như vậy. Cuốn sách không chỉ mang lại cho độc giả những câu chuyện và kinh nghiệm của các tác giả, mà nó còn được viết với mục đích truyền động lực và cung cấp các công cụ để độc giả tìm được những giá trị và niềm đam mê của bản thân, và tìm được hướng đi thích hợp cho mình. Mục đích chính của cuốn sách không chỉ là để đọc, suy ngẫm và rút ra những bài học, mà đây còn là một cuốn sách kêu gọi hành động. Đây chính là một cẩm nang dành cho bất cứ ai có nguyện vọng hoàn thiện bản thân và sánh vai cùng các công dân toàn cầu. Sự di chuyển dễ dàng tạo ra nhiều cơ hội mới, nhưng cũng dẫn tới nhiều sự cạnh tranh. Càng chuẩn bị sớm và kỹ càng cho thế giới toàn cầu hóa ngày nay, bạn sẽ càng sớm được thưởng thức những hương vị của toàn cầu. Vậy hãy cầm cuốn hộ chiếu xanh của bạn đi quanh thế giới cùng Đức, Hương và Linh nhé! Mời các bạn đón đọc Hộ Chiếu Xanh Đi Quanh Thế Giới của tác giả Hồ Thu Hương & Nguyễn Phan Linh & Phạm Anh Đức.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

40 Ngày Sống Với Đối Phương - Richard Dudman
Nhà báo Richard Dudman, tác giả tập hồi ký "40 Ngày Sống Với Đối Phương - Câu Chuyện Của Một Nhà Báo Mỹ Bị Du Kích Bắt Giữ Ở Camphuchia" này, cùng hai nhà báo khác lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh để săn tin về cuộc xâm nhập của Mỹ và lính Sài Gòn vào Campuchia, nhưng đã bị bắt vào sáng sớm ngày 7-5-1970 và được đưa vào vùng giải phóng ở Campuchia. Sau đó, trong 40 ngày, họ đã có dịp nếm trải một kinh nghiệm sống hiếm có, lạ thường, đầy cảm xúc, đầy tình tiết ly kỳ, gian nan và thú vị, cùng với các chiến sĩ du kích.  (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng)​ Khoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre).​ Tất cả những điều đó đã được tường thuật lại một cách sinh động và tinh tế và được các nhà báo của Saigon Times dịch lại trong cuốn sách này.  *** SAU KHI BỊ "VIỆT CỘNG" BẮT (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng) K hoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre). Anh Bảy, anh là ai? Không thể nào quên lần đầu tiên tôi gặp anh Bảy Cao, vào ngày 7 tháng 5 năm 1970, thời gian căng thẳng nhất cuộc đời tôi - Dudman nói. Khi ấy, Richard Dudman, phóng viên tờ Sant Louis Post - Dispatch được phân công đến Việt Nam để đưa tin chiến trường vào thời điểm Nixon mở rộng chiến tranh, tiến quân vào Campuchia để trả mối hận bị tấn công vào Tết Mậu Thân. Nước Mỹ thời gian đó như đứng bên bờ vực thẳm. “Tôi gặp Bảy Cao chỉ ba ngày sau khi bốn sinh viên Đại học Kent ở Ohio bị vệ binh quốc gia bắn chết trong một cuộc biểu tình phản chiến." Richard Dudman bồi hồi nhớ lại sự kiện đẫm máu, kéo theo làn sóng cuồng nộ ở khắp các khuôn viên đại học Hoa Kỳ. Nixon muôn tiêu diệt các căn cứ của Việt Cộng ở Campuchia nên hạ lệnh tấn công vào ngày 29-4. Ngay tức khắc, ngày 2-5 dân chúng và sinh viên Mỹ bắt đầu những cuộc biểu tình phản đối. Ngày 4-5 vệ binh quốc gia bắn thẳng vào sinh viên Kent: cuộc chiến tranh Việt Nam thực sự bắt đầu ngay trong lòng nước Mỹ. “Tôi bay đến Việt Nam cùng hai đồng nghiệp, mộl nam một nữ . Michael làm cho hãng tin Dispatch News Service (sau này nghe nói có trở lạl và bị chính quyền trục xuất vì vi phạmluật Việt Nam) và cô Elizabeth Pond của tờ Christian Science Monitor, bây giờ đang viết báo nghiệp dư ở Bonn Cộng hòa Liên bang Đức" Richard xúc động, nói trong hơi thở gấp. Vào sáng sớm 7-5-1970 cả ba nhà báo tự lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh, dự định theo chân cuộc hành quân của Mỹ và lính Sài Gòn, dọc theo "xa lộ an toàn". Nhưng chỉ mới nửa đường, khi đang vượt qua thị trấn Svai Riêng, thì bị chặn lại: Họ bị bắt và được những khẩu AK-47 “hộ tống" đi sâu vào những cánh rừng già. “Tôi chợt nhận thấy mình đang rơi vào nguy hiểm chết người. Bao nhiêu tin tức về những người Mỹ khác bị phục kích và mất tích ở khu này đã làm tôi hoảng sợ" Richard Dudman thấp giọng như không còn nghe rõ. Ông còn là người cao tuổi nhất trong số ba "tù binh" mới. Chính vì vậy, cùng lúc đó, ông cảm thấy có trách nhiệm trấn an hai người đồng nghiệp. “Vâng, nếu còn sống chúng tôi sẽ có một thiên phóng sự tuyệt vời”. Nhưng, ám ảnh về cái chết vẫn không rời qua những buổi hỏi cung bất chợt do những du kích Khmer đỏ thực hiện dưới “con mắt" đen ngòm của AK. Rồi một ngày, cả ba bị ném lên phía sau một chiếc xe tải. “Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đi qua những đường mòn rợp bóng cây, vào vùng giải phóngvới những cổng chào sặc sỡ, có cả ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.” Trí nhớ của Richard Dudman dường như chưa bao giờ có tuổi. Đến giữa làng, họ bị bịt mắt dẫn đi theo lối ngoằn ngoèo, giữa hàng ngàn người phẫn uất với tiếng chửi mắng, và hình như, có người đã nhổ vào mặt họ. “Bọn chúng là điệp viên CIA " giọng người Việt nói đầy giận dữ. ''Không, chúng tôi là nhà báo quốc tế." Michael cố gắng thanh minh bằng vốn tiếng Việt sẵn có. Một cú đấm bất ngờ làm Michael khuỵu xuống. Rồi đến lượt Richard. Cuối cùng, họ nghe một giọng khác, nhẹ nhàng hơn: “Hãy cho họ uống nước” Và nói với hai nhà báo bị nghi ngờ: "Các anh không nên nói láo." Người này là một trung úy còn rất trẻ. Ông hỏi những câu ngắn gọn, nhưng rõ ràng và hứa sẽ trả tự do nếu cuộc điểu tra chứng minh họ là nhà báo, chứ không phải là gián điệp CIA giả dạng. Những hồi tưởng vẫn tiếp diễn bởi những khám phá bất ngờ. ''Chúng tôi di chuyển vào ban đêm, khi thì bằng xe hơi, khi thì xe đạp và phần lớn là cuốc bộ. Ban ngày dừng lại ngủ trong lều của nông dân” Richard nói. Những người đồng hành đã trở thành thân thiện từ lúc nào không hay. Đến ngày thứ 40 - Richard đếm từng ngày như một cách giết thời gian, bỗng người sĩ quan cao to hôm nào xuất hiện với đôi mắt và nụ cười nhân hậu. Ông nói: ''Tôi đã được lệnh thả các anh.” Đó là ngày 15-6-1970. Nhiệm vụ hoàn thành Vào năm 1972, chính nhà báo Dudman được chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời đến Hà Nội. Sau đó, ông đã viết nhiều bài tường thuật trực tiếp từ Hà Nội kêu gọi dân chúng Mỹ phản đối cuộc chiến tranh tàn bạo mà Mỹ gây ra tại Việt Nam. Và từ ấy, ông ước mong được biết tên tuổi của người đã trả tự do cho ông và viết lại "thiên phóng sự tuyệt vời" như một phần thưởng vô giá của tình người mà ông từng nhận được. Ánh sáng hy vọng lóe lên vào tháng 12-1993, 18 năm sau, có người bạn của Richard Dudman là Tim Kinh gọi điện cho vợ ông báo tin: trên tờ Newsweek có bài báo nhắc tới ông. Chính ký giả David Hackworth của Newsweek đã pha đèn vào sương mù ký ức, khi ông trích lời một tướng Việt Cộng về hưu rằng, vào năm 1970, ông và các đồng chí của ông đã thả ba nhà báo Mỹ bị tình nghi là gián điệp vì "Họ ăn quá nhiều. Một trong ba người đã ăn gấp 10 lần khẩu phần của chúng tôi " Tướng về hưu Bảy Cao nói với Hackworth. Nhưng nỗ lực tiếp theo từ Trung tâm Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giúp Richard tìm ra địa chỉ tướng Bảy Cao, giúp ông làm xong công việc mà, nói như người Việt Nam, ông đã có thể an lòng nhắm mắt. Còn với Richard: “Chưa nói được tiếng cám ơn đó thì vẫn chưa trọn đạo làm người". Khi Richard thăm nhà Bảy Cao, có lần giữa câu chuyện hàn huyên, ông hỏi phòng vệ sinh, tướng Bảy Cao tự nhiên dẫn ông ra con kênh nghiêng bóng dừa trước căn nhà lộng gió. "Ồ, có lẽ, phòng vệ sinh nhà anh lớn nhất thế giới” Richard cười. Anh Bảy tỉnh bơ: “Anh đùa cũng như tôi, khi nói với Hackworth rằng các anh ăn quá nhiều, không chịu nổi, phải thả”. Bảy Cao cho biết cú đấm mà Richard nhận là vi phạm chính sách, nên người tung ra cú đấm phải bị kỷ luật: anh ấy đã bị giáng chức từ trung úy xuống trung sĩ. Bảy Cao ngậm ngùi : “Tôi bắt anh ấy đến xin lỗi các anh, nhưng không may anh ấy đã hy sinh vài ngày sau đó khi quân ngụy tấn công vào ngôi nhà nơi đã giữ các anh.” Richard nghĩ rằng cách mà Bảy Cao lý giải chiến thắng của Việt Nam cũng đơn giản: "Lúc đầu người ta nghĩ các anh là điệp viên, là kẻ thù, nên họ manh động. Nhiều ngườì trong số du kích có gia đình hoặc thân nhân bị lính ngụy hay Mỹ tàn sát. Hãy hiểu sự phẫn nộ của họ". Từ lâu, Richard vẫn mơ hồ rằng việc thả ông là do sự can thiệp quốc tế nào đó, nhưng tướng Bảy Cao đã tiết lộ: "Chúng tôi phải điện cho Hà Nội xin phép được trả tự do cho các anh. Tất nhiên Hà Nội đồng ý vì nhà báo không phải kẻ thù. Chính sách đó cũng sáng ngời như chính nghĩa của chúng tôi” Bảy Cao nói, giọng vẫn khỏe khoắn như ngày nào. Nhưng Richard hiểu rằng ông may mắn biết bao, bởi vì làm sao có thể trách được sự ngộ nhận của chiến tranh. Năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Richard Dudman đã thực hiện được ước mơ cao hơn: đưa bà Helen Dudman - vợ ông đến Việt Nam để cùng nói lời cám ơn, bởi chính bà mới là người “thọ ơn" nhiều nhất. Hạnh phúc lớn nhất của bà là người chồng mất tích trong vùng chiến sự, bỗng trở về nhà. Năm nay, 2005, kỷ niệm ba mươi năm giải phóng, chúng tôi muốn giới thiệu cuốn sách của Richard Dudman, sau khi được trả tự do. Tất nhiên, dưới mắt một nhà báo Mỹ đang bị bắt giữ, những nhận xét lúc đó "không dễ dàng", nhưng cuối cùng, tính nhân bản và vị tha giữa người với người luôn được chiếu sáng, không phải từ một phía, mà từ nhiều phía khác nhau, thậm chí phía đối địch.           Trần Ngọc Châu Mời các bạn đón đọc 40 Ngày Sống Với Đối Phương của tác giả Richard Dudman.
Chuyện của Paco - Larry Heinemann
Tên gọi James bắt nguồn từ cách gọi Jim hoặc Jack, hoặc đôi khi là Jake theo cách đùa cợt, một thói quen của dân hàng phố khi họ bắt chuyện người hoàn toàn không quen biết - chẳng hạn, khi họ hỏi thăm đường, hỏi giá vé xe buýt chính xác bằng tiền lẻ hoặc xin lửa để châm thuốc. Nhưng bởi vì Chuyện của Paco đòi hỏi ngôn ngữ trịnh trọng hơn ngôn ngữ vỉa hè đường phố nên tôi nghĩ James thì thích hợp hơn. Tôi cũng định nhắc tới câu nói giễu cợt: "Về nhà đi, James”2[1]. Khi tôi bắt tay vào viết câu chuyện này, một người bạn thân đã hỏi tôi James thực ra có phải là James Jones hay không3[2] - một nhà văn có sự nghiệp mà tôi rất ngưỡng mộ (và tôi nghĩ ông bị đánh giá quá thấp); ông mất vì một căn bệnh đau đớn kéo dài ngay trước khi cuốn tiểu thuyết đầu tay của tôi được xuất bản năm 1977. Tôi đã trả lời người bạn đó rằng không phải, rằng James không phải là James Jones, nhưng sự trùng hợp ngẫu nhiên này là sự trớ trêu quá kỳ lạ khiến tôi không thể cố tình không biết hoặc gạt bỏ. Nhưng rút cục tôi được biết hóa ra có rất nhiều James. Trong Kinh Thánh có hai thánh tông đồ mang tên này: James Nhỏ (là người em ruột hoặc em họ của Jesus ở Nazareth và là tác giả của thư truyền giáo của Thánh James gửi cho các Kitô hữu) và James Lớn. Có nhiều vua của nước Anh tên là James, trong đó James I là người đã cho dịch Kinh Thánh sang tiếng Anh cận đại. Có các “James” trong văn học - James Joyce, Henry James và người anh trai của ông là William James, và James Jones. Và chúng ta có thể kể thêm tướng cướp huyền thoại Jesse James, người em trai Frank James của gã, và băng cướp của nhà James; James Bowie và toàn bộ lính của ông đã thiệt mạng trong trận đánh tại Alamo (người anh trai đã tặng ông con dao săn/chiến đấu nổi tiếng vì được mang tên ông); diễn viên James Dean mà huyền thoại cá nhân đã góp phần định nghĩa thời kỳ hậu Thế chiến II. Hơn nữa, James còn là tên của người anh trai cả của tôi - tôi không gặp hoặc nhận được tin tức của anh ấy kể từ quãng năm 1970. Cuối cùng, tên của cha tôi là John, nhưng mọi người đều gọi ông là Jack - một tên riêng đôi khi thay cho James; ông mất chưa đầy hai tuần trước khi tôi xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, Close Quarters (Giáp lá cà), cái chết của ông quả thực đã khiến cho sự kiện ăn mừng việc ra mắt cuon sách trở thành mâu thuẫn, ngược đời - một cảm giác mệt mỏi đến kiệt sức vì đau buồn xảy ra cùng thời gian với cảm giác nhẹ nhõm vì cất được gánh nặng. *** Larry Heinemann, sinh năm 1944 tại Chicago, Illinois, trong một gia đình thuộc tầng lớp bình dân. Sau khi học xong trung học, ông đi làm rồi học đại học. Ông bỏ học giữa chừng và bị gọi nhập ngũ (năm 1966). Từ tháng 3 năm 1967 đến tháng 3 năm 1968, ông là lính của Sư đoàn hộ binh số 25 tham chiến tại Củ Chi và Dầu Tiếng. Sau khi giải ngũ, Larry Heinemann theo học môn sáng tác (creative writing) tại Đại học Columhia ở Chicago và từ năm 1971 ông bắt đầu dạy môn sáng tác tại đại học này, cho tới khi ông xuất bản Chuyện của Paco (Paco's Story) năm 1986. Năm 1986, Chuyện của Paco được Giải thưởng Sách Quốc gia dành cho thể loại hư cấu (National Book Award for Fiction), vượt qua bốn nhà văn được đề cử khác trong đó có Toni Morrison là ngưòi được Nobel Văn học 5 năm sau đó. Hiện nay Larry Heinemann là tác giả thường trú (writer-in-residence) tại Đ ại học Texas A&M University, thành phố Co llege Station, bang Texas. Mời các bạn đón đọc Chuyện của Paco của tác giả Larry Heinemann.
Cuộc Phiêu Lưu Của Tàu Ngầm U-977 - Heinz Schaeffer
Thiếu tá hải quân Heinz Schaeffer nguyên là sĩ quan trong quân đội Đức Quốc xã, nhưng ông chỉ là một quân nhân thuần túy. Sau một sự nghiệp rực rỡ, năm 1945, khi Đức Quốc xã đầu hàng Đồng minh, ông tìm cách đưa chiếc tàu ngầm U-977 do ông làm Chỉ huy trưởng sang Cộng hòa Argentina, tận Nam Mỹ. Vì có tin cho rằng ông đưa Adolf Hitler, Quốc trưởng và là thủ lĩnh đảng Quốc xã đi trốn, nên ông bị điều tra nhưng cuối cùng được thả. Trở về đời sống dân sự, ít lâu sau ông qua định cư ở Argentina. Và tại đây ông viết lại hồi ký này. Ngày nay, các cường quốc đều xem tàu ngầm (tức: tiềm thủy đỉnh) là một phương tiện vô cùng lợi hại trong chiến tranh, nên cố gắng hoàn thiện nó, và một số lớn chạy bằng nguyên tử lực, được trang bị hỏa tiễn tầm xa, có khả năng lặn sâu và lâu hơn những tàu ngầm trong Thế chiến thứ hai rất nhiều. Tuy nhiên, những vấn đề căn bản mà các tàu ngầm và các thủy thủ có thể gặp phải, nhất là lúc có chiến tranh, thì nói chung cũng như nhau. Giá trị của hồi ký này là ở chỗ trung thực - dĩ nhiên tương đối - của tác giả, tính chính xác trong khi miêu tả, và sức hấp dẫn của câu chuyện rất “đàn ông.” Bản dịch được dựa theo bản tiếng Pháp Adventures d’un sous-marin a allemand của nhà xuất bản J’ai lu - Ditis , 1962. *** Một ngày kia, sau Thế chiến thứ hai, tôi có mặt tại Dusseldorf. Thành phố này, hồi trước sống động bao nhiêu, thì lúc bấy giờ trở nên tiêu điều khó nhận ra nổi. Tôi đi một vòng trong thành phố. Chỉ thấy toàn người ốm yếu, quần áo tồi tàn. Khắp nơi, các sườn nhà, các bộ đồng phục xa lạ của quân đội chiếm đóng. Tôi bước thơ thẩn trên con đường Konigsstrasse và nghĩ tới những gì bắt buộc phải quen, cùng những gì phải chịu đựng thêm nữa. Bỗng nhiên, thính giác tôi ghi nhận một con số, một công thức ngắn ngủn mà tôi sẽ nhớ cho đến ngày chết. Bởi con số ấy đưa tôi trở về vị trí chiến đấu cũ. Ở một nơi nào đó, không xa nơi tôi đứng, có tiếng la với giọng hổn hển: “977-977-977!” Chiếc tàu ngầm do tôi chỉ huy mang số hiệu U-977 và các bạn có thể đoán là con số ấy có ý nghĩa ra sao với tôi. Sau nhiều tháng dài bị giam giữ ở nước ngoài, kế đó ngay tại tổ quốc, giờ đây tôi lại nghe nó. Tôi cố lắng nghe, không chắc là mình nghe thật. Không, có lẽ tôi lầm… Tôi tạt ngang một quán báo. Một ông cụ, trong bộ quần áo rách rưới, đưa tờ báo ra rao bằng giọng khàn khàn: “Hitler còn sống! Hitler còn sống.” Mắt tôi định quay đi thì gặp hàng chữ lớn trên tờ báo. Tôi đọc: “U-977… Hitler còn sống!” Và bên dưới, chữ nhỏ hơn: “Hắn trốn qua Argentina trên tàu U-977.” Tôi đứng sững giữa đường Konigsstrasse, giống như mọc rễ và bật cười lên như điên, khiến mấy cô bé từ trường học ra, và các người đi ngang nhìn tôi lo ngại, vòng ngã khác để tránh. Chắc họ nghĩ: “Lại thêm một kẻ quá đói phát điên!” .... Mời các bạn đón đọc Cuộc Phiêu Lưu Của Tàu Ngầm U-977 của tác giả Heinz Schaeffer.
Thanh Xuân Của Ai Không Mơ Hồ - Lưu Đồng
"Trong quá trình mười năm từ 20 tuổi đến 30 tuổi, chúng ta đều sẽ đi qua những con đường giống nhau. Bạn cảm thấy cô đơn là phải rồi, đó là cơ hội giúp bạn nhận thức bản thân. Bạn cảm thấy không được thấu hiểu là phải rồi, đó là cơ hội giúp bạn nhìn rõ bè bạn. Bạn cảm thấy đen tối là phải rồi, như vậy bạn mới phân biệt ra đâu là hào quang của chính mình.Bạn cảm thấy bơ vơ là phải rồi, như vậy bạn mới tỏ tường ai là người nâng đỡ mình trong tuổi trưởng thành. Bạn cảm thấy mơ hồ là phải rồi, CÓ THANH XUÂN CỦA AI MÀ KHÔNG MƠ HỒ." *** “Bởi vì trẻ tuổi, cho nên không có sự lựa chọn, chỉ có thể thử xem. Phải đặt vui vẻ ở ngoài mặt, đặt mất mát ở trong lòng”, là những gì mà tác giả muốn nhắn gửi tới độc giả. Tiểu thuyết Thanh xuân của ai không mơ hồ của tác giả Lưu Đồng được ví như cuốn nhật ký ghi chép lại toàn bộ hành trình 10 năm trưởng thành của anh từ năm 23-33 tuổi. Anh cần mẫn ghi chép tỉ mỉ từng sự việc, biến cố đã xảy ra trong cuộc đời mình. Với suy nghĩ đơn thuần chỉ muốn lưu giữ tuổi thanh xuân của chính mình. Tuy nhiên, sau khi cuốn sách Thanh xuân của ai không mơ hồ được xuất bản đã chiếm được trái tim của không ít bạn đọc, đặc biệt là các bạn trẻ đang trong những ngày tháng mơ hồ nhất của cuộc đời. Không mang những biến cố khủng khiếp hay lời văn lãng mạn, bay bổng lay động lòng người nhưng Thanh xuân của ai không mơ hồ vẫn luôn có sức hút với độc giả. Lời văn của Lưu Đồng nhẹ nhàng, bình dị và chân thật, mỗi câu chuyện bên trong là ký ức vườn trường và những năm đầu lăn lộn trong xã hội không chỉ riêng anh mà còn có hình bóng tuổi thanh xuân của mọi người trong đó. *** Ipod của em để ở chỗ tôi đã hai năm.   Chưa từng chạm đến.   Tình cờ lục ra, nhớ đến hồi đó em dặn dò tôi phải đem đi sửa, trong khi săm soi, phát hiện trong máy vẫn còn điện. Phần tai nghe đã hỏng, không nghe được nhạc, lúc ấy em cũng nói như vậy, nên giao ipod của mình cho tôi.   Lướt qua danh mục, rất nhiều bài hát tôi chưa từng nghe, hẳn đó là ca khúc em phải nghe hằng ngày, tôi nghĩ.   Tôi lấy loa riêng ra, cắm vào.   Jim Brickman, tôi chưa từng nghe, sau nhạc của anh ta, là Cảnh không người của Trần Dịch Tấn. hai bài hát liền mạch với nhau, nghe hay lạ lùng. Cách phối hợp này chưa bao giờ xuất hiện trong thế giới của tôi.   Sau đó, cứ thế, mải nghe nhạc của em, trong óc cũng từ từ hiện lên hình ảnh em mà tôi không hiểu rõ, trong tình huống nào mới nghe nhạc yên tĩnh như thế, trong tình huống nào mới nghe nhạc khúc thương cảm như thế. ... Mời các bạn đón đọc Thanh Xuân Của Ai Không Mơ Hồ của tác giả Lưu Đồng.