Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chó Sủa Nhầm Cây - Tại Sao Những Gì Ta Biết Về Thành Công Có Khi Lại Sai

Bạn có biết: - Các thủ khoa hiếm khi trở thành triệu phú, và nhược điểm lớn nhất có khi lại là ưu điểm tuyệt vời nhất mà ai ai cũng khao khát sở hữu. - Ở công ty, sự chăm chỉ đang bị thổi phồng quá mức, còn những trò nịnh bợ lại thường mang đến kết quả tốt, và liệu đề cao chính nghĩa hay sa vào tà đạo mới là con đường dẫn đến thành công? - Những người lính Navy SEAL và những nhân viên bán bảo hiểm có một điểm chung quan trọng, và cách sử dụng nguyên tắc WNGF trong thiết kế trò chơi để biến đống bài tập chán ngắt thành những trò chơi hấp dẫn.  Rất nhiều lời khuyên về thành công rất logic, đầy cảm hứng, và sai bét. Bằng cách nhìn qua lăng kính khoa học để xem những người cực kỳ thành công khác với mình ở những điểm nào, ta học được cách để trở nên giống họ—và nhận ra trong vài trường hợp, không được như họ hóa ra lại tốt hơn.   CHÓ SỦA NHẦM CÂY - BARKING UP THE WRONG TREE - là quyển sách gây tiếng vang, liên tục nằm trong danh sách bestseller Amazon của tác giả kiêm chủ trang blog Barking up the wrong tree - Eric Barker. Xuyên suốt nội dung sách, Eric sẽ cùng chúng ta lý giải một cách đầy hóm hỉnh nhưng không kém phần chặt chẽ những quan niệm khác nhau về thành công từ trước đến nay. Và ở cuối con đường đó, mỗi người chúng ta sẽ tự tìm thấy ngưỡng cửa thành công cho riêng mình. *** GIỚI THIỆU Đâu là mấu chốt tạo nên thành công? Bằng cách nhìn qua lăng kính khoa học để xem điều gì khiến những người cực kỳ thành công khác biệt với phần còn lại, ta học được cách để trở nên giống họ — và nhận ra trong vài trường hợp, không được như họ hóa ra lại tốt. Hai người đã bỏ mạng khi cố làm điều này. Tạp chí Outside Magazine từng tuyên bố không có giải đấu nào có thể vượt mặt Race Across America (Cuộc đua xe đạp dọc nước Mỹ) về độ khắc nghiệt trong việc thử thách sức chịu đựng của con người. Các cua-rơ phải chinh phục đoạn đường 3.000 dặm từ San Diego đến Atlantic City trong vòng chưa đầy 12 ngày. Một số người nghĩ “Ờ, nó giống như giải Tour de France thôi mà”. Nhưng không, họ đã lầm. Các giải đấu dạng "Tour" thường có nhiều chặng đua, cứ sau mỗi chặng các tay đua sẽ được nghỉ dưỡng sức. Còn giải Race Across America (RAAM) không cho phép các cua-rơ dừng lại. Mỗi một phút dừng để nghỉ ngơi, chợp mắt, hay làm bất cứ điều gì khác ngoài việc đạp xe đều có thể trở thành cơ hội cho đối thủ đánh bại họ. Những tay đua chỉ được ngủ trung bình 3 giờ mỗi đêm. Khi cuộc đua bước vào ngày thứ tư, nhóm dẫn đầu sẽ phải dằn vặt giữa nghỉ ngơi hay đi tiếp. Các tay đua cứ bám đuổi sát sao nhau (họ chỉ cách nhau khoảng 1 giờ đồng hồ), nên đó quả là một quyết định nặng nề, nhất là khi ai cũng biết rõ sẽ bị vượt mặt và phải cố giành lại vị trí nếu dừng lại. Và cứ thế họ yếu dần qua từng chặng đua. Không có thời gian nghỉ. Cái cảm giác kiệt sức, đau đớn, và thiếu ngủ cứ dồn lại trong suốt chặng đường xuyên nước Mỹ. Thế nhưng, những điều này chẳng hề ảnh hưởng đến nhà vô địch năm 2009. Anh cán đích sớm hơn người về nhì tận nửa ngày, theo đúng nghĩa đen. Jure Robic dường như bất khả chiến bại. Anh đã vô địch giải RAAM đến 5 lần, nhiều hơn bất kỳ đối thủ nào và thường về đích chỉ trong vòng 9 ngày. Vào năm 2004, anh đã đánh bại tay đua số 2 với cách biệt 11 giờ. Bạn có tưởng tượng được không: Đây là giải đấu mà sau khi chứng kiến người về nhất cán đích, mọi người còn phải chờ thêm nửa ngày nữa mới biết vị trí á quân! Lẽ dĩ nhiên, chúng ta sẽ thắc mắc điều gì đã khiến Robic chiếm ưu thế và thành công trong một cuộc thi khắc nghiệt như thế. Là do năng khiếu bẩm sinh? Không hề. Trong các bài kiểm tra, anh ta cũng không quá nổi trội so với những vận động viên có sức bền hàng đầu khác. Hay anh có huấn luyện viên giỏi? Không luôn. Qua mô tả của bạn anh — Ruoc Ve Apec — thì Robic là một kẻ "bất khả huấn luyện." Trong một bài báo trên tờ New York Times, Dan Coyle đã tiết lộ khía cạnh vượt trội của Robic so với các đối thủ cạnh tranh đã khiến cho anh trở thành tay đua vĩ đại nhất trong cuộc đua Race Across America: Sự điên rồ. Không hề quá khi nói rằng anh ta là một gã quá khích. Đúng là khi Robic đặt chân lên bàn đạp, anh ta hoàn toàn bị mất kiểm soát. Anh trở nên hoang tưởng; dễ xúc động và suy sụp; và cứ như nhìn thấy một thứ ý nghĩa quái đản nào đó trong các vết nứt trên con đường phía dưới. Robic sẽ ném chiếc xe đạp của mình xuống rồi đi về phía chiếc xe hơi theo sau của đồng đội với nắm đấm siết chặt cùng đôi mắt rực lửa. (Rất khôn ngoan, bọn họ đã khóa hết cửa xe lại.) Anh ta có thể đột ngột nhảy khỏi xe giữa cuộc đua chỉ để chiến với... mấy cái hộp thư. Trong cơn ảo giác, có lần anh còn nhìn thấy quân du kích Hồi giáo Mujahideen cầm súng đuổi theo mình. Vợ cũ của Robic Lo lắng về hành vi của anh đến nỗi phải tự nhốt mình trong chiếc xe di động hỗ trợ đoàn đua. Coyle cho hay Robic cũng biết sự điên rồ của mình là "khó xử và đáng xấu hổ nhưng không thể sống mà thiếu nó được." Thú vị là đặc điểm này của Robic không phải chưa từng được xem là một lợi thế trong thể thao. Từ những năm 1800, các nhà khoa học như Philippe Tissé và August Bier đã ghi nhận rằng tâm trí thiếu ổn định có thể giúp vận động viên lờ đi nỗi đau và thúc đẩy cơ thể mình vượt quá giới hạn tự nhiên. Không biết bạn thế nào, nhưng các thầy dạy tôi hồi trung học chưa bao giờ nói với tôi rằng cơn ảo giác, hành động tấn công hộp thư, hay sự điên loạn nói chung lại là mấu chốt dẫn đến thành công tầm cỡ quốc tế ở bất kỳ lĩnh vực nào. Tôi thường được dặn dò phải làm bài tập về nhà, tuân theo quy định, và cư xử tử tế. Tất cả những điều này đặt ra một câu hỏi: Mấu chốt tạo nên thành công là gì? Quyển sách này sẽ khám phá những thứ mang lại thành công ngoài đời thực. Và tôi đang ám chỉ thành công trong cuộc sống, chứ không đơn thuần chỉ là kiếm tiền. Thái độ và hành vi gì sẽ giúp ta đạt được mục tiêu trong bất kỳ lĩnh vực nào, dù là trên phương diện sự nghiệp hay cá nhân? Rất nhiều cuốn sách chỉ toàn đề cập đến khía cạnh đẹp đẽ của thành công hoặc những khái niệm không hề khả thi. Chúng ta sẽ xem xét những thứ đã hiệu quả, sau đó sẽ học theo từng bước để có thể ứng dụng và đạt được thứ mình hằng mong muốn. Thành công được định nghĩa như thế nào, ừ thì, là tuỳ thuộc vào bạn. Đó là những điều cá nhân bạn cần để cảm thấy hạnh phúc ở nơi làm việc lẫn ở nhà. Nhưng điều đó không có nghĩa thành công là thế nào cũng được. Bạn đã biết các chiến lược rất có thể sẽ hiệu quả (như nỗ lực bền bỉ), cũng như rất có thể sẽ không hiệu quả (như ngủ nướng tới trưa), vấn đề là ở cái khoảng rộng lớn nằm giữa hai cực này. Bạn đã từng nghe về tất cả những phẩm chất và chiến thuật sẽ giúp mình đạt được mục đích, nhưng lại không hề có một bằng chứng thực tiễn nào — và có lẽ bạn đã nhìn thấy nhiều ngoại lệ. Đó chính là những thứ chúng ta sẽ cùng xem xét trong quyển sách này. Trong 8 năm liền, trên trang blog Barking Up the Wrong Tree, tôi đã mổ xẻ các nghiên cứu và phỏng vấn các chuyên gia về những điều tạo nên thành công trong cuộc sống. Và tôi đã tìm ra được nhiều câu trả lời. Nhiều điều trong số đó khiến tôi ngạc nhiên. Một số trông bề ngoài có vẻ mâu thuẫn, nhưng tất cả đều cho ta một cái nhìn sâu sắc về những điều cần làm trong sự nghiệp lẫn cuộc sống để có được lợi thế. Phần lớn những gì ta được nghe kể về các phẩm chất dẫn đến thành công đều có vẻ hợp lý, nghiêm túc, và... sai bét. Chúng ta sẽ đập tan những câu chuyện huyền bí để đi sâu vào tìm hiểu khoa học đằng sau thứ ngăn cách giữa chúng ta với những người cực kỳ thành công, học cách để có thể tiến tới gần họ hơn, và lý giải tại sao trong một số trường hợp không được như họ hóa ra lại tốt. Đôi khi thứ tạo nên thành công chỉ đơn thuần là tài năng thiên bẩm, đôi khi đó lại là những điều tốt đẹp mà các bà mẹ thường bảo ta phải làm, hay có khi là những thứ hoàn toàn ngược lại. Những lời khuyên cũ rích nào là đúng, và cái nào chỉ là cổ tích? Có phải "người tốt luôn cán đích cuối cùng"? Vậy ai cán đích đầu tiên? Có phải người bỏ cuộc sẽ không bao giờ chiến thắng? Hay sự cứng đầu mới chính là kẻ thù thực sự? Liệu sự tự tin có quan trọng hơn hết thảy? Và khi nào thì nó chỉ là ảo tưởng? Trong mỗi chương, chúng ta sẽ xem xét cả hai mặt của câu chuyện. Ta sẽ xét điểm mạnh của từng quan điểm. Thế nên, nếu điều gì đó nghe có vẻ như một phát kiến vĩ đại, hoặc nghe rất mâu thuẫn, xin cứ tiếp tục đi cùng tôi. Cả hai khía cạnh sẽ trình bày vấn đề theo góc độ của mình, gần giống như một phiên tòa vậy. Sau đó, chúng ta sẽ đúc kết ra phương án có lợi nhất và ít khuyết điểm nhất. Ở Chương 1, ta sẽ phân tích liệu việc thận trọng và làm theo những gì được bảo có thực sự tạo nên thành công hay không. Chúng ta sẽ tìm hiểu về thứ mà giáo sư Gautam Mukunda tại Harvard gọi là tố chất tăng cường (intensifier). Giống như sự điên rồ của Jure Robic, tố chất tăng cường bình thường được xem là phẩm chất tiêu cực, nhưng trong vài trường hợp, nó lại có khả năng tạo ra lợi thế vượt trội và có sức tàn phá đối thủ cạnh tranh. Ta sẽ tìm hiểu tại sao các thủ khoa hiếm khi trở thành triệu phú, tại sao các tổng thống Mỹ tốt nhất (và tệ nhất) là những người phá vỡ hệ thống, và làm thế nào để biến những điểm yếu nhất thành thế mạnh lớn nhất của mình. Trong Chương 2, ta sẽ tìm hiểu khi nào thì những người tốt về đích đầu tiên cũng như khi nào quan điểm của Machiavelli là đúng. Chúng ta sẽ nói chuyện với một giáo sư trường Wharton, người tin tưởng vào kinh doanh từ bi và lòng vị tha, và một giảng viên tại Stanford với nghiên cứu cho thấy sự chăm chỉ đang bị thổi phồng quá mức còn những trò nịnh bợ lại thường mang đến kết quả tốt. Ta sẽ xem xét qua các luật lệ mà ngay cả những kẻ phá luật như cướp biển và băng nhóm tội phạm cũng đều tuân theo, và học cách cân bằng giữa tham vọng và giấc ngủ an lành vào ban đêm. Ở Chương 3, ta sẽ đi sâu vào chương trình huấn luyện của Navy SEAL, đồng thời khám phá những phát hiện khoa học mới về lòng can đảm và khả năng phục hồi. Chúng ta sẽ trao đổi với những Tiến sĩ Kinh tế hàng đầu để xác định khi nào thì cần nỗ lực gấp đôi, và khi nào thì nên xõa. Các võ sư Kungfu sẽ dạy chúng ta rằng đôi khi bỏ chạy cũng không hẳn là ý tồi. Và chúng ta cũng sẽ học qua những từ ngữ ngờ nghệch, nhằm giúp quyết định khi nào thì nên gắn bó và khi nào tốt nhất là nên buông bỏ. Chương 4 sẽ xét "bạn biết gì" hay "bạn biết ai" mới là quan trọng. Chúng ta sẽ thấy hầu hết nhân viên có quan hệ xã hội rộng thường làm việc hiệu quả nhất, trong khi các chuyên gia hàng đầu hầu như luôn xếp mình vào kiểu người hướng nội (ngạc nhiên là nhóm này cũng bao gồm cả 90% vận động viên hàng đầu). Chúng ta cũng sẽ được anh chàng có quan hệ rộng nhất ở Thung lũng Silicon chia sẻ cách tạo mối quan hệ với người khác mà không quá lố lăng. Chương 5 là những chia sẻ về thái độ. Chúng ta sẽ tìm hiểu xem làm thế nào sự tự tin có thể thúc đẩy ta vượt giới hạn của bản thân, cùng với đó là sự tiết chế cần thiết với tầm nhìn thực tế về những thử thách phía trước. Chúng ta sẽ biết khoa học về "sự tương phản thần kinh" có thể giúp ta quyết định khi nào nên tất tay, và khi nào phải suy nghĩ cho kỹ. Quan trọng nhất, chúng ta cũng sẽ xem qua nghiên cứu mới lý giải tại sao toàn bộ các hình mẫu tự tin có thể phát sinh vấn đề ngay trong bản chất. Ở Chương 6, ta cùng nhìn lại bức tranh toàn cảnh và cố tìm hiểu thành công trong sự nghiệp gắn kết thành công trong cuộc sống như thế nào — và khi nào thì điều đó không đúng. Liệu có nơi nào cho ta sự cân bằng giữa công việc và cuộc sống trong thế giới 24/7 ngày nay? Clayton Christensen từ Đại học Harvard, cùng với Thành Cát Tư Hãn, sẽ cung cấp thêm ví dụ về cách thức dung hoà mọi thứ trong một môi trường làm việc đầy biến động. Chúng ta sẽ nhận được bài học đằng sau những trường hợp bi thương của các huyền thoại, những người dù thành công lẫy lừng nhưng đã phải trả một cái giá quá cao, hy sinh cả gia đình và hạnh phúc của riêng mình. Thành công không nhất thiết lúc nào cũng là những thứ bạn chỉ nhìn thấy trên truyền hình. Nó không phải là trở nên hoàn hảo, mà đúng hơn là nắm được mình giỏi điều gì nhất, rồi tìm cách hiệu chỉnh nó cho phù hợp với hoàn cảnh của mình. Bạn không cần phải điên rồ theo nghĩa đen như Jure Robic nhưng đôi khi một con vịt con xấu xí cũng có thể hóa thiên nga nếu tìm được đúng cái ao của mình. Những điều khiến bạn khác biệt, những thói quen bạn cố loại bỏ, những điều khiến bạn bị mắng nhiếc trong trường, cuối cùng lại là những thứ có thể mang lại cho bạn lợi thế tuyệt đối. Và chúng ta sẽ bắt đầu từ đây... Mời các bạn đón đọc Chó Sủa Nhầm Cây của tác giả Eric Barker.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh - Nassim Nicholas Taleb
Trong Khả năng cải thiện nghịch cảnh, Taleb khẳng định vai trò quan trọng của tính bất định, làm cho nó trở nên đáng mong đợi, thậm chí cần thiết, và đề xuất rằng sự việc nên được xây dựng sao cho có khả năng cải thiện nghịch cảnh. Khả năng cải thiện nghịch cảnh không chỉ là sự mạnh mẽ hay khả năng phục hồi. Khả năng phục hồi chỉ có thể chịu đựng những cú sốc và trở về nguyên trạng; trong khi khả năng cải thiện nghịch cảnh nghĩa là trở nên ngày càng tốt hơn. Quyển sách này bao trùm vấn đề phát minh đổi mới thông qua thử nghiệm và sửa sai, các quyết định trong đời sống, chính trị, quy hoạch đô thị, chiến tranh, tài chính cá nhân, các hệ thống kinh tế, và y khoa. *** Nassim Nicholas Taleb sinh năm 1960 tại Liban, là một nhà viết tiểu luận, học giả, nhà thống kê. The Black Swan (Thiên Nga Đen)là cuốn sách nổi tiếng của ông ra đời năm 2007.   Mời các bạn đón đọc Khả Năng Cải Thiện Nghịch Cảnh của tác giả Nassim Nicholas Taleb.
Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống - Nhã Nam tuyển chọn
Bộ sách Thông điệp yêu thương lan truyền những cảm hứng về cuộc sống, về tình yêu, tình bạn, tình cảm gia đình, tình thầy trò… thông qua những mẩu chuyện, những câu nói giúp bạn sống lạc quan, yêu đời, hạnh phúc và thành công hơn. Hi vọng mỗi cuốn sách sẽ là quà tặng ý nghĩa, là người bạn đồng hành cùng bạn đọc trong cuộc sống. Cuốn sách Luôn mỉm cười với cuộc sống gồm những câu văn, câu chuyện ngắn đầy yêu thương giúp bạn thật sự lạc quan trong cuộc sống dù cuộc sống của bạn không ngừng với những bộn bề lo toan… Mời các bạn đón đọc Thông Điệp Yêu Thương - Luôn Mỉm Cười Với Cuộc Sống của tác giả Nhã Nam tuyển chọn.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3
Quyển một “Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới” đã giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về Sáng tạo học và Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới (PPLSTVĐM). Quyển hai “Thế giới bên trong con người sáng tạo” và quyển ba “Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống” có mục đích trình bày các kiến thức, được rút ra một cách chọn lọc từ những khoa học có đối tượng nghiên cứu là tư duy, hoặc liên quan, hỗ trợ hoạt động tư duy. Các kiến thức này đóng vai trò các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM, theo nghĩa, chúng giúp bạn đọc hiểu cơ sở khoa học của PPLSTVĐM và sử dụng các công cụ có trong PPLSTVĐM (sẽ trình bày từ quyển bốn trở đi) một cách chủ động với hiệu quả cao. Như bạn đọc đã biết, quyển hai dành nói về tâm lý học, lý thuyết thông tin, điều khiển học, nhằm giúp bạn đọc biết, hiểu và sử dụng những hiện tượng phong phú thuộc thế giới bên trong của mình tốt hơn. Từ đó, bạn đọc có thể thấy rằng, cần có những nỗ lực cá nhân hướng đến phát triển khả năng điều khiển thế giới bên trong cũng như các hành động của chính mình, đáp ứng nhu cầu phát triển các nhân cách sáng tạo. Quyển ba này trình bày các kiến thức lấy từ lôgích học hình thức, phép biện chứng duy vật và khoa học hệ thống. Theo chủ quan của người viết, cùng với quyển hai, đây là những kiến thức cần thiết nhất và phục vụ tốt nhất trong tư cách là các kiến thức cơ sở của PPLSTVĐM. Giống như trong quyển hai, những gì trình bày trong quyển ba này là kết quả người viết được học, tự học, nghiên cứu và sử dụng chúng. Bạn đọc nên xem những gì viết ở đây chỉ là tối thiểu, mang tính chủ quan, do vậy, cần tự suy xét, đánh giá và tìm hiểu sâu, rộng thêm các kiến thức liên quan thông qua những nguồn khác. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Vào thế kỷ 17, 18, cơ học cổ điển của Galileo, Newton... đạt được nhiều thành tựu lớn cả trong nhận thức thế giới lẫn giải quyết các bài toán thực tiễn đề ra, tạo nên sự phát triển xã hội mạnh mẽ. Có lẽ vì vậy, nhiều nhà nghiên cứu khái quát hóa các luận điểm cơ học cổ điển thành thế giới quan (chủ nghĩa) cơ giới: Giải thích sự phát triển của tự nhiên và xã hội bằng các quy luật của hình thức cơ học vận động vật chất. Những quy luật đó được xem là phổ biến và đúng cho tất cả các hình thức vận động vật chất. Theo nghĩa rộng, chủ nghĩa cơ giới là sự đánh đồng một cách trừu tượng hình thức vận động vật chất bậc cao với hình thức vận động vật chất bậc thấp: Ví dụ, hình thức xã hội với sinh học; sinh học với hóa học hoặc/và vật lý... cho đến cơ học. Tuy có những hạn chế, thế giới quan cơ giới là sự tiến bộ vào thời kỳ đó và đóng vai trò tích cực trong việc phát triển khoa học, triết học. Các kiến thức cơ học giúp người ta hiểu, giải thích được nhiều hiện tượng tự nhiên, thoát khỏi các quan điểm thần bí, tôn giáo giáo điều. Việc dùng các quy luật cơ học ra ngoài phạm vi áp dụng của chúng (xem mục nhỏ 6.5.4. Tính ì tâm lý do ngoại suy ra ngoài phạm vi áp dụng của quyển hai) và tuyệt đối hóa chúng tạo nên bức tranh cơ giới về thế giới: Toàn bộ vũ trụ (từ nguyên tử đến các hành tinh) là hệ cơ học khép kín, bao gồm những yếu tố không thay đổi mà sự vận động của chúng tuân theo các quy luật của cơ học cổ điển. Tư duy tương ứng với mức phát triển nói trên của khoa học chính là tư duy siêu hình. Sự phát triển tiếp theo của khoa học cho thấy, các cố gắng dựa trên các quy luật cơ học cổ điển để giải thích các hiện tượng điện–từ, hóa học, sinh học, đặc biệt, các hiện tượng xã hội đã hoàn toàn thất bại. Các thành tựu khoa học tự nhiên, xã hội của thế kỷ 19, 20 đã phá vỡ bức tranh cơ giới về thế giới, cũng như cách tư duy siêu hình. Thay thế cho cách tiếp cận cơ giới (Mechanistic Approach), được dùng phổ biến từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, là cách tiếp cận hệ thống (Systems Approach). Từ giữa thế kỷ 20, cách tiếp cận hệ thống được dùng rộng rãi trong nghiên cứu các đối tượng phát triển phức tạp như các hệ thống sinh học tự tổ chức, tâm lý, xã hội, các hệ kỹ thuật lớn, hệ thống “người và máy móc”... Cách tiếp cận hệ thống có các nhiệm vụ: 1) Nghiên cứu các phương tiện mô tả, biểu diễn các đối tượng được nghiên cứu hoặc được thiết kế chế tạo như là các hệ thống; 2) Xây dựng các mô hình khái quát hệ thống, các mô hình về các loại hệ thống và các tính chất của hệ thống; 3) Nghiên cứu cấu trúc của các lý thuyết về hệ thống cùng các quan điểm, phương pháp hệ thống; 4) Là cơ sở lý thuyết và phương pháp luận của phân tích hệ thống. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 3 của tác giả Phan Dũng.
Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 - Phan Dũng
“Cuộc đời của mỗi người là chuỗi các vấn đề cần giải quyết, chuỗi các quyết định cần phải ra. Mỗi người cần giải quyết tốt các vấn đề và ra các quyết định đúng”. “Cuộc đời của mỗi người là quá trình liên tục biến đổi thông tin thành tri thức và tri thức đã biết thành tri thức mới”. “Cuộc đời của mỗi người phải là chuỗi những sáng tạo và đổi mới hoàn toàn”. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới xây dựng và trang bị loại tư duy: “Nhìn xa, trông rộng, xem xét toàn diện, thấy và hành động giải quyết các mâu thuẫn để đưa các hệ liên quan phát triển theo các quy luật phát triển hệ thống”. *** Dự kiến, bộ sách “Sáng tạo và đổi mới” sẽ gồm những quyển sách trình bày từ đơn giản đến phức tạp, từ những kiến thức cơ sở đến những kiến thức ứng dụng của PPLSTVĐM với các tên sách sau: 1. Giới thiệu: Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới. 2. Thế giới bên trong con người sáng tạo. 3. Tư duy lôgích, biện chứng và hệ thống. 4. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (1). 5. Các thủ thuật (nguyên tắc) sáng tạo cơ bản (2). 6. Các phương pháp sáng tạo. 7. Các quy luật phát triển hệ thống. 8. Hệ thống các chuẩn dùng để giải các bài toán sáng chế. 9. Algôrit (Algorithm) giải các bài toán sáng chế (ARIZ). 10. Phương pháp luận sáng tạo và đổi mới: Những điều muốn nói thêm. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, xã hội loài người trong quá trình phát triển trải qua bốn thời đại hay nền văn minh (làn sóng phát triển): Nông nghiệp, công nghiệp, thông tin và tri thức. Nền văn minh nông nghiệp chấm dứt thời kỳ săn bắn, hái lượm, du cư bằng việc định cư, trồng trọt và chăn nuôi, sử dụng các công cụ lao động còn thủ công. Nền văn minh công nghiệp cho thấy, mọi người lao động bằng các máy móc hoạt động bằng năng lượng ngoài cơ bắp, giúp tăng sức mạnh và nối dài đôi tay của con người. Ở thời đại thông tin, máy tính, các mạng lưới thông tin giúp tăng sức mạnh, nối dài các bộ phận thu, phát thông tin trên cơ thể người như các giác quan, tiếng nói, chữ viết... và một số hoạt động lôgích của bộ não. Nhờ công nghệ thông tin, thông tin trở nên truyền, biến đổi nhanh, nhiều, lưu trữ gọn, truy cập dễ dàng. Tuy nhiên, trừ loại thông tin có ích lợi thấy ngay đối với người nhận tin, các loại thông tin khác vẫn phải cần bộ não của người nhận tin xử lý, biến đổi để trở thành thông tin có ý nghĩa và ích lợi (tri thức) cho người có thông tin. Nếu người có thông tin không làm được điều này trong thời đại bùng nổ thông tin thì có thể trở thành bội thực thông tin nhưng đói tri thức, thậm chí ngộ độc vì nhiễu thông tin và chết đuối trong đại dương thông tin mà không khai thác được gì từ đại dương giàu có đó. Thời đại tri thức mà thực chất là thời đại sáng tạo và đổi mới, ở đó đông đảo quần chúng sử dụng PPLSTVĐM được dạy và học đại trà để biến thông tin thành tri thức với các ích lợi toàn diện, không chỉ riêng về mặt kinh tế. Nói cách khác, PPLSTVĐM là hệ thống các công cụ dùng để biến đổi thông tin thành tri thức, tri thức đã biết thành tri thức mới. Rất tiếc, ở nước ta hiện nay chưa chính thức đào tạo các cán bộ giảng dạy, nghiên cứu Sáng tạo học và PPLSTVĐM với các bằng cấp tương ứng: Cử nhân, thạc sỹ và tiến sỹ như một số nước tiên tiến trên thế giới. Người viết tin rằng sớm hay muộn, những người có trách nhiệm quyết định sẽ phải để tâm đến vấn đề này và “sớm” chắc chắn tốt hơn “muộn”. Hy vọng rằng, PPLSTVĐM nói riêng, Sáng tạo học nói chung sẽ có chỗ đứng xứng đáng, trước hết, trong chương trình giáo dục và đào tạo của nước ta trong tương lai không xa. *** Chương 5: Từ nhu cầu đến hành động và ngược lại trình bày những yếu tố tương đối độc lập, cần lưu ý nhất, như nhu cầu, xúc cảm, các thói quen tự nguyện, tư duy thuộc thế giới bên trong và hành động của mỗi cá nhân, cùng các mối liên kết giữa chúng. Chương 6: Tư duy sáng tạo: Nhìn theo góc độ thông tin – tâm lý tập trung chi tiết hóa quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định của cá nhân. Các hiện tượng thông tin – tâm lý đóng vai trò chủ đạo trong tư duy sáng tạo được trình bày cùng với các lời khuyên về cách sử dụng chúng sao cho có hiệu quả. Không ít người hiện nay để cho suy nghĩ nói riêng, các hoạt động của thế giới bên trong con nguời mình nói chung, diễn ra một cách tự nhiên và không để ý đến chúng. Do vậy, nhiều phép thử sai như là kết quả của các hành động cá nhân đã không được những người đó tìm hiểu, giải thích theo quan hệ nguyên nhân–kết quả một cách khoa học. Những kiến thức của Chương 5 và 6 giúp cá nhân không chỉ có ý thức một cách tương đối đầy đủ về các hoạt động thuộc thế giới bên trong mà còn giúp cá nhân “lắng nghe” và “suy nghĩ” về chúng, tức là, về chính bản thân mình. Điều này có nghĩa, cá nhân cần dành thời gian, công sức tự hỏi, tự quan sát, tự theo dõi, tự trả lời và tự rút kinh nghiệm để phát huy các mặt mạnh, hạn chế các mặt yếu của các hiện tượng thuộc thế giới bên trong con người. Chương 7 này có mục đích phát triển tiếp những gì đã trình bày, theo hướng thảo luận nhằm trả lời câu hỏi: “Cần làm những gì và làm như thế nào để có thể điều khiển được hành động và thế giới bên trong của con người sáng tạo?”. Ở đây, người viết không có tham vọng trả lời trọn vẹn câu hỏi nói trên vì đấy là công việc phức tạp và của rất nhiều người. Do vậy, bạn đọc nên quan niệm Chương 7 này giống như sự cung cấp các thông tin, chia sẻ các kiến thức để chúng ta còn quay trở lại thảo luận tiếp trong tương lai, khi có dịp thuận tiện. Đi vào cụ thể, Chương 7 sẽ trình bày một số ý tưởng cơ bản chung của một bộ môn khoa học, gọi là điều khiển học. Có một loạt từ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa với “điều khiển” như quản lý, quản trị, điều hành, lãnh đạo, dẫn dắt, điều chỉnh, lái, lèo lái, kiểm soát... Trừ những trường hợp cần nhấn mạnh, nói chung, người viết sẽ dùng từ “điều khiển”. Tiếp theo, Chương 7 sẽ trình bày mối quan hệ, tác động qua lại của cá nhân và môi trường (hiểu theo nghĩa rộng nhất), có tính đến những kế thừa lịch sử phát triển tự nhiên, xã hội. Để đối phó với những thách thức đến từ môi trường, con người hiện đại có nhu cầu thay đổi thế giới bên trong của chính mình, hiểu theo nghĩa, phải chủ động điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong, một mặt, cho phù hợp với các thay đổi môi trường. Mặt khác, điều khiển các hoạt động của thế giới bên trong để điều khiển quá trình suy nghĩ giải quyết vấn đề và ra quyết định, tạo ra các hành động biến đổi môi trường, phù hợp với các quy luật phát triển khách quan. ... Mời các bạn đón đọc Giải Quyết Vấn Đề Và Ra Quyết Định Tập 2 của tác giả Phan Dũng.