Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Salam! Chào xứ Ba Tư

Salam! Salam là câu chào cả khi gặp mặt lẫn khi chia tay. Rất ngắn gọn thì chỉ cần chào Salam. Câu đầy đủ và trịnh trọng thì phải là Salam Alaykum, có nghĩa là chúc cho bạn được bình yên. Đáp lễ, cũng đầy đủ và trịnh trọng như vậy, người kia sẽ đáp lại, đổi ngược trật tự câu chào: Alaykum Salam. Salam đã trở thành lời chào phổ biến của người Hồi giáo trên khắp thế giới. Cách phát âm và phiên âm có phần hơi khác ở các nước khác nhau, nhưng về cơ bản, ta có thể coi như một câu chào thông thường, và chỉ cần ngắn gọn: Salam! Kèm theo câu chào, giống như phần nhiều người Hồi giáo ở các nước, người Iran cũng bắt tay và ôm hôn nhau ba lần vào hai bên má, nhưng không thực hiện với người khác giới. Có khi chỉ bắt tay và ôm lưng nhau. Với người mới gặp, chỉ cần chào Salam và bắt tay là đủ, nhưng người đàn ông lưu ý không chủ động bắt tay phụ nữ. *** Cùng với Namaska! Xin chào Ấn Độ, Salam! Chào xứ Ba Tư làm thành một bộ sách về hai nền văn hóa lâu đời nhất của nhân loại. “Salam! Chào Ba Tư” giới thiệu với bạn đọc xứ sở Ba Tư xưa - nơi được biết đến từ những câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm và Nghìn lẻ một ngày. Chỉ là qua những dòng chữ thôi, nhưng bạn sẽ hiểu được tại sao xứ này lại nổi tiếng như thế, biết về ý nghĩa những hình ảnh, hoa văn dệt trên những bức thảm len từ lông cừu tuyệt mỹ, sẽ đắm chìm trong kiến trúc đền đài cung điện giáo đường khảm gốm sứ trên mái vòm và trang trí tường nhà tuyệt hảo, đặc biệt ghi dấu là nghệ thuật tranh tiểu họa, nghệ thuật thư pháp tinh xảo trong những bức tranh hoành tráng. “Tất cả đều nhằm đem lại cho người đọc một ấn tượng gợi mở về Iran.” Cuốn sách phù hợp với đông đảo bạn đọc, đặc biệt là những người thích du lịch và làm về văn hóa. *** Lời mở đầu  Xứ Ba Tư, khắc đi khắc đến Đến được xứ Ba Tư không dễ, vào được nhà một người Ba Tư càng không dễ. Hãy tranh thủ cơ hội nếu được người Iran mời đến chơi nhà - với khách, đấy là một dịp may, một đặc ân, một niềm hãnh diện. Người Iran mến khách, nhưng phải đặc biệt quý mến người ta mới mời đến nhà. Thì ở nhiều nước khác cũng vậy thôi, trong thế giới hiện đại này, mọi việc làm ăn đã có văn phòng trụ sở, mọi cuộc chuyện trò riêng tư đã có quán cà phê tiệm ăn, ít ai mời ai đến nhà. Gọi là niềm hãnh diện thì tôi đã có được niềm hãnh diện bước chân vào nhà của nhiều bạn bè Iran. Năm 1994, tôi đến Iran lần đầu tiên, trong vòng một năm hai lần tháp tùng hai đại sứ ta sang làm việc. Đại sứ cũ sang chào tạm biệt kết thúc nhiệm kỳ. Đại sứ mới sang trình quốc thư. Tôi còn sang làm việc với Bộ Ngoại giao bạn như một hình thức đi tiền trạm, chuẩn bị cho đoàn chủ tịch nước sang thăm Iran. Lần ấy, ông đại sứ cũ được ông vụ trưởng phụ trách khu vực châu Á - Thái Bình Dương mời đến nhà. Chúng tôi ngồi ăn tối theo kiểu Ba Tư trên tấm thảm Ba Tư lộng lẫy, hoa văn tỉ mỉ tinh xảo trên nền đỏ rực. Tôi tưởng mình chỉ có một dịp may ấy thôi với đất nước Iran, khó có dịp trở lại lần nữa. Nhưng rồi dường như là duyên nợ, mười bảy năm sau, tôi đang hướng đến một chuyến trở về với Ấn Độ thì được điều sang Iran. Đang nghiên cứu về Ấn Độ mà chuyển sang Ba Tư thì cũng không quá mất công đổi chiều tiếp cận. Giữa hai nước có những điểm chung về văn hóa, lịch sử, thậm chí cả về chủng tộc. Trở lại Iran lần này, một chuyến đi lâu hơn nhiều so với gần hai chục năm trước, cũng hơn trước rất nhiều lần, tôi được bước chân vào nhà những người bạn Iran. Cảm nhận được nếp nhà gia phong truyền thống của người Ba Tư. Trong chuyện trò thường ngày, khi đang làm việc trên đất nước Iran, chúng tôi vẫn thường đùa nhau rằng người Việt nào ham du lịch, giờ đây có thể dễ dàng theo một tua sang Mỹ, sang châu Âu, thậm chí sang Nam Phi, nhưng có tiền cũng khó mà du lịch được sang Iran. Nói thế để thấy mình đã làm được một việc khó. Mà cũng không hẳn là đùa. Vẫn chưa thiết lập được hai đầu cầu của các công ty du lịch đưa người sang thăm viếng xứ sở của nhau. Thiếu sự quảng bá, Việt Nam chưa được người Iran coi là điểm đến hấp dẫn, mặc dù lượng người Iran đi du lịch sang Thái Lan, Malaysia, Indonesia không phải là ít. Chỉ vì nghe thông tin sai lệch trên hệ thống thông tin đại chúng, người Việt lại nghĩ rằng Iran luôn ở trong tình trạng có chiến tranh, đã chiến tranh thì du lịch thăm thú cái nỗi gì. Chúng tôi, những người sống đời sống hàng ngày ở xứ Ba Tư phải nói lại rằng Iran vẫn thanh bình, an ninh xã hội đảm bảo, người dân thân thiện mến khách. Nhưng tiếng nói của mình vẫn là nhỏ bé giữa một dàn đồng ca thông tin đại chúng ồn ào từ nguồn Âu - Mỹ. Vậy xin hãy đi cùng tôi trong cuốn sách này, chúng ta sẽ đến với xứ Ba Tư xưa, Iran nay. Chưa có được cơ hội thực sự đặt chân lên xứ sở Ba Tư, bạn hãy tạm du ngoạn qua những dòng chữ. Cũng chung một thiện ý như khi viết cuốn Namaskar! Xin chào Ấn Độ là đưa bạn đọc cùng bơi trên đại dương văn hóa Ấn Độ, ở cuốn sách này, tôi muốn đưa người đọc ngoạn du qua miền đất Tây Á bao la, cũng là một cái nôi văn minh nhân loại, xứ sở gợi cảm hứng cho nhiều câu chuyện trong Nghìn lẻ một đêm, đặc biệt là trong cuốn Nghìn lẻ một ngày. Ba Tư xưa (tên gọi là Persia, Pars, Fars…) với truyền thống dệt thảm mấy nghìn năm, chăn nuôi du mục mấy nghìn năm - từ chăn nuôi ấy mới ra lông cừu làm len để dệt thảm, ra nghề đồ da, ra ẩm thực thịt nướng kebab vang danh khắp gầm trời. Mấy nghìn năm luyện kim chế tác công cụ. Mấy nghìn năm tiếng Ba Tư phát triển rực rỡ, sinh ra những nhà khoa học, những triết gia, những nhà thơ lớn của nhân loại như Omar Khayyam, Saadi, Ferdosi, Rumi, Hafez… Đây cũng là nơi ra đời của tôn giáo lâu đời bậc nhất của nhân loại, Hỏa giáo, mà ảnh hưởng còn sâu đậm trong lễ tết và đời sống hàng ngày của người Iran. Zarathustra, triết gia sáng lập ra Hỏa giáo từng được triết gia người Đức Nietzsche ghi lại đầy cảm hứng trong cuốn Zarathustra đã nói như thế. Nếu là người yêu mỹ thuật và kiến trúc, thì Ba Tư chính là nơi bạn sẽ sa vào, đắm chìm trong ấy mà ngẩn ngơ không muốn chia tay. Kiến trúc đền đài cung điện giáo đường với việc sử dụng nghệ thuật gốm sứ để khảm lên các mái vòm và gốm sứ trang trí tường nhà đã đạt đến độ tuyệt hảo. Nghệ thuật tranh tiểu họa, được chăm chút đến từng chi tiết nhỏ li ti trong những bức tranh hoành tráng. Nghệ thuật thư pháp được phô diễn trên khắp những bức tường giáo đường hoặc cung điện đã đến độ như không còn là chữ nữa mà tưởng nhầm là những bức tranh lộng lẫy tinh xảo. Trong cuốn sách này về xứ Ba Tư, tôi sử dụng cả hình thức khảo luận, cung cấp tài liệu, cả du ký về những chuyến đi qua các miền đất, cả những bài tổng hợp và bình luận về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa…Tất cả đều nhằm đem lại cho người đọc một ấn tượng gợi mở về Iran. Giống như ngày xưa, Ba Tư gần như là điểm cực tây trên con đường tơ lụa, Iran hôm nay cũng là một điểm đến với một nền văn minh cổ chưa được khám phá cho cùng. Con đường tơ lụa xưa đo bằng bước chân ngựa và lạc đà. Con đường nay đo bằng những chuyến bay và các phương tiện giao thông của một thế giới phẳng. Khó khăn vẫn còn đó, nhưng một khi đã quyết tâm lên đường thì khắc đi khắc đến. Đã đi là phải đến. Và bây giờ, ta đã bắt đầu bước chân đến xứ Ba Tư. Tehran, tháng 6-2013 Mời các bạn mượn đọc sách Salam! Chào xứ Ba Tư của tác giả Hồ Anh Thái.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giả Thuyết Poincaré: Cuộc Tìm Kiếm Hình Dạng Vũ Trụ - Donal O'Shea
Cuốn sách này chỉ bàn tới một giả thuyết duy nhất. Nó được đưa ra bởi nhà toán học Pháp Henri Poincaré hơn một trăm năm trước, và thu hút rất nhiều nhà toán học. Đối tượng mà giả thuyết Poincaré hướng đến là trung tâm của tri kiến về chính bản thân chúng ta và về vũ trụ mà chúng ta đang sống *** Donal O’Shea là Trưởng khoa và Hiệu phó học vụ tại trường Mount Holyoke College, đồng thời là giáo sư giảng dạy môn Toán tại đây. Là một nhà hình học đại số, ông đã viết nhiều sách và tài liệu chuyên môn, các bài báo nghiên cứu của ông có mặt ở nhiều tạp chí và kỉ yếu. O’Shea là thành viên của Hội Toán học Mĩ, Liên hiệp hội Toán học Mĩ và các hội Toán học ở Canada, London và Pháp. Ông cũng là thành viên của Ủy ban trao giải thưởng Thiên niên kỉ đầu tiên cho Grigory Perelman về công trình tìm ra đáp án cho phỏng đoán Poincaré. Mời các bạn đón đọc Giả Thuyết Poincaré: Cuộc Tìm Kiếm Hình Dạng Vũ Trụ của tác giả Donal O'Shea.
Độc Hành - Những Khám Phá Giá Trị Và Kỳ Lạ Trên Con Đường Tơ Lụa - Nguyễn Hoàng Bảo
"Bạn đã từng thấy đâu đó hình ảnh đoàn người cùng lạc đà thồ những kiện hàng nhẫn nại vượt biển cát mênh mông được thể hiện qua thơ, tranh ảnh, những câu chuyện thần thoại, những vở diễn trên sân khấu hay kịch bản điện ảnh chưa? Đó chính là sự biểu trưng hoàn hảo cho con đường huyền thoại xa xưa. Sau hai tháng dọc theo Con đường tơ lụa, tôi đã có những trải nghiệm đáng nhớ trong đời. Từ Kuwait, Iran của "vùng đất lửa" Trung Đông đến những đất nước gần như biệt lập ở Trung Á như Turkmenistan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan, và hàng loạt các điểm đến xa xôi mà đoàn thương nhân năm xưa đã phải trải qua với biết bao nhiêu câu chuyện huyền bí, ly kỳ. Và tôi, cũng trên Con đường tơ lụa năm nào, đã lang thang qua bao nhiêu làng mạc, thị trấn heo hút không bóng người, tận mắt chứng kiến những công trình kiến trúc cổ có tuổi đời hàng trăm thậm chí hàng ngàn năm, may mắn tham dự những lễ hội truyền thống của địa phương, được đắm mình với cuộc sống cư dân bản địa ở Trung Đông hay khắp các nẻo đường Trung Á. Quyển sách ra đời sau chuyến đi mười tháng, trong đó có bốn tháng tôi phải miệt mài vẫy bút để lưu lại những kỷ niệm tuyệt vời trong hành trình ấy. Quyển sách không viết theo kiểu tư liệu nghiên cứu lịch sử mà là quyển sách về du ký. Hành trình của chuyến đi sẽ được đúc kết thành những câu chuyện thông qua cảm xúc, nhận định về các vùng đất nằm trên vành đai Con đường tơ lụa. Tuy nhiên lịch sử lại là yếu tố quan trọng tạo nên sự biến đổi về văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán, kiến trúc và kể cả con người từng chịu ảnh hưởng bởi con đường giao thương cổ này và tôi đã sử dụng một số tư liệu lịch sử để người đọc dễ dàng hình dung hơn. Thông tin lịch sử được tôi ghi chép lại trong quá trình trò chuyện cùng các nhân vật, những tài liệu thu thập trên internet và những so sánh, nhận định và nhận xét mang tính chủ quan. Nếu các bạn chưa có dịp đặt chân trên Con đường tơ lụa, hãy tìm một điểm tựa và cùng tôi phiêu lưu qua những trang sách này. Ở đó, có những câu chuyện trải nghiệm về cuộc sống con người, về vùng đất qua nhiều đổi thay từ những thăng trầm của lịch sử và trên hết là những thử thách của bản thân trong suốt hành trình khám phá đơn độc. Những câu chuyện du ký của một lữ khách Việt đi tìm dấu vết lạc đà trên Con đường tơ lụa lẫy lừng trong quá khứ." Mời các bạn đón đọc Độc Hành - Những Khám Phá Giá Trị Và Kỳ Lạ Trên Con Đường Tơ Lụa của tác giả Nguyễn Hoàng Bảo.
Hồi Ký Quỳnh Dao - Chuyện Đời Tôi - Quỳnh Dao
N gày 9 tháng 4 năm 1988, tôi bay từ Đài Loan đến Bắc Kinh, mở đầu chuyến thăm cố quốc đầu tiên của tôi, sau 39 năm trời xa cách. Qua chuyến đi này, tôi đã viết một cuốn sách lấy tên là “Tình quê hương không bao giờ dứt”, tưởng đã nói đủ cảm xúc và những gì đã trải qua trong cuộc hành trình này, nên tôi không nhắc lại. Thời gian ở Bắc Kinh, có nhiều bạn bè và độc giả đến thăm tôi, mang theo các tác phẩm Quỳnh Dao và các bài viết về Quỳnh Dao do các nhà xuất bản ở đây ấn hành. Tôi vồ lấy đọc mới biết rằng những gì hơn nửa đời người tôi đã làm, đã trải, đều được sách vở báo chí ở đây nhắc đến, trong đó có nhiều vụ việc mà ngay chính bản thân tôi cũng không biết nữa. Tôi cứ đọc và càng đọc càng thấy mình xao xuyến, xúc động. Thì ra, ở đất liền, tôi có biết bao người bạn tốt, hằng quan tâm, theo dõi bước đi của mình. Tôi nghĩ, sau khi trở lại Đài Loan, thế nào tôi cũng viết một cuốn sách nói thật về cuộc đời mình để gởi sớm đến bạn đọc. Nguyện vọng này luôn đeo bám tôi, sau khi tôi đã về nhà, nhưng viết thế nào cho đúng là tôi trong đời thật, quả hết sức khó! Người trong gương là tôi mà không phải tôi; dưới con mắt người đời là tôi mà cũng không phải tôi, sau này số phận rong ruổi thế nào, tôi nào biết được, còn trước mắt, với tôi, vẫn là cuộc thăm dò, tìm kiếm, thử nghiệm vô tận... Thôi thì, điều có thể nói ra được là tất cả những gì đã đi qua đời mình vậy! Đời tôi đã đi qua như thế nào? Thật lạ lùng, dẫu bụi thời gian che phủ, trước mắt tôi lúc nào cũng hiện ra rõ mồn một biết bao giông tố bão bùng, biết bao cuộc tan hợp đẫm đầy nước mắt, tình yêu và lòng căm giận, khổ đau và cái chết rập rình suốt những năm tháng dài lưu lạc. Đã là con người, ai cũng có niềm vui và nỗi buồn, tôi cũng vậy, nhưng lại ở mức độ hết sức đậm đặc. Có thể nói quá khứ đời tôi là dòng hợp lưu của mồ hôi và nước mắt, cuồng vọng và nỗi đau, đoàn tụ và ly biệt, cô đơn và giẫy dụa, mâu thuẫn và day dứt, lỗi lầm và ân hận... Cứ vậy, tôi nhớ lại và sắp xếp mọi chuyện và ngỡ rằng đều là chuyện trong mơ, không phải của chính bản thân mình. Dù sao công việc cũng đã xong, tôi xin gởi đến bạn đọc - những người bạn lúc nào cũng dành cho tôi sự quan tâm và lòng yêu mến chân tình. Mời các bạn đón đọc Hồi Ký Quỳnh Dao - Chuyện Đời Tôi của tác giả Quỳnh Dao.
40 Ngày Sống Với Đối Phương - Richard Dudman
Nhà báo Richard Dudman, tác giả tập hồi ký "40 Ngày Sống Với Đối Phương - Câu Chuyện Của Một Nhà Báo Mỹ Bị Du Kích Bắt Giữ Ở Camphuchia" này, cùng hai nhà báo khác lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh để săn tin về cuộc xâm nhập của Mỹ và lính Sài Gòn vào Campuchia, nhưng đã bị bắt vào sáng sớm ngày 7-5-1970 và được đưa vào vùng giải phóng ở Campuchia. Sau đó, trong 40 ngày, họ đã có dịp nếm trải một kinh nghiệm sống hiếm có, lạ thường, đầy cảm xúc, đầy tình tiết ly kỳ, gian nan và thú vị, cùng với các chiến sĩ du kích.  (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng)​ Khoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre).​ Tất cả những điều đó đã được tường thuật lại một cách sinh động và tinh tế và được các nhà báo của Saigon Times dịch lại trong cuốn sách này.  *** SAU KHI BỊ "VIỆT CỘNG" BẮT (Hồi ký của một nhà báo Mỹ cho thấy, trong khốc liệt và tàn bạo của chiến tranh, ai giữ được nguyên tắc "tính mạng con người cao nhất", người đó sẽ chiến thắng) K hoảng đầu năm 1994, khi đang làm việc tại tòa soạn Saigon Times - tờ báo tiếng Anh đầu tiên của Thành phố Hồ Chí Minh sau năm 1975, tôi nhận được cú điện thoại với giọng nữ rất nhẹ nhàng êm ái, từ Sở Ngoại vụ: “Anh có thể tiếp một nhà báo Mỹ được không?" Ai có thể chối từ với giọng nói như thế. Chỉ một giờ sau, Huỳnh Thị Thanh Hiền, cán bộ ngoại giao, và Richard Dudman, cựu Tổng Biên tập tờ Sant Louis Post - Dispatch, đã có mặt tại phòng khách Saigon Times. Ở tuổi 76, Dudman trông vẫn nhanh nhẹn và dí dỏm trong câu chuyện. Thanh Hiền nói, họ vừa trải qua một chuyến đi thú vị đến Tiền Giang. “Để làm gì?" Tôi hỏi. “Để viết lại một câu chuyện tuyệt vời của chiến tranh." Dudman trả lời. Câu chuyện đời ông đã thu hút tôi đến nỗi, năm 1996, khi thực tập tại báo Boston Globe và Patriot Ledger tôi đã tìm mọi cách để liên lạc và đến thăm nhà ông tại tiểu bang Maine gần đó. Sau đó, tôi viết nhiều về câu chuyện của ông đăng trên các báo Quốc tế (Bộ Ngoại giao), báo Tuổi Trẻ và Sài Gòn Giải Phóng. Trong khi viết những bài báo này, tôi cũng cố tìm gặp tướng về hưu Trương Văn Cao (Bảy Cao - lúc ấy là Chủ tịch Hội Cựu Chiến binh tỉnh Tiền Giang, sau này về sống tại Bến Tre). Anh Bảy, anh là ai? Không thể nào quên lần đầu tiên tôi gặp anh Bảy Cao, vào ngày 7 tháng 5 năm 1970, thời gian căng thẳng nhất cuộc đời tôi - Dudman nói. Khi ấy, Richard Dudman, phóng viên tờ Sant Louis Post - Dispatch được phân công đến Việt Nam để đưa tin chiến trường vào thời điểm Nixon mở rộng chiến tranh, tiến quân vào Campuchia để trả mối hận bị tấn công vào Tết Mậu Thân. Nước Mỹ thời gian đó như đứng bên bờ vực thẳm. “Tôi gặp Bảy Cao chỉ ba ngày sau khi bốn sinh viên Đại học Kent ở Ohio bị vệ binh quốc gia bắn chết trong một cuộc biểu tình phản chiến." Richard Dudman bồi hồi nhớ lại sự kiện đẫm máu, kéo theo làn sóng cuồng nộ ở khắp các khuôn viên đại học Hoa Kỳ. Nixon muôn tiêu diệt các căn cứ của Việt Cộng ở Campuchia nên hạ lệnh tấn công vào ngày 29-4. Ngay tức khắc, ngày 2-5 dân chúng và sinh viên Mỹ bắt đầu những cuộc biểu tình phản đối. Ngày 4-5 vệ binh quốc gia bắn thẳng vào sinh viên Kent: cuộc chiến tranh Việt Nam thực sự bắt đầu ngay trong lòng nước Mỹ. “Tôi bay đến Việt Nam cùng hai đồng nghiệp, mộl nam một nữ . Michael làm cho hãng tin Dispatch News Service (sau này nghe nói có trở lạl và bị chính quyền trục xuất vì vi phạmluật Việt Nam) và cô Elizabeth Pond của tờ Christian Science Monitor, bây giờ đang viết báo nghiệp dư ở Bonn Cộng hòa Liên bang Đức" Richard xúc động, nói trong hơi thở gấp. Vào sáng sớm 7-5-1970 cả ba nhà báo tự lái xe từ Sài Gòn đến Phnom Penh, dự định theo chân cuộc hành quân của Mỹ và lính Sài Gòn, dọc theo "xa lộ an toàn". Nhưng chỉ mới nửa đường, khi đang vượt qua thị trấn Svai Riêng, thì bị chặn lại: Họ bị bắt và được những khẩu AK-47 “hộ tống" đi sâu vào những cánh rừng già. “Tôi chợt nhận thấy mình đang rơi vào nguy hiểm chết người. Bao nhiêu tin tức về những người Mỹ khác bị phục kích và mất tích ở khu này đã làm tôi hoảng sợ" Richard Dudman thấp giọng như không còn nghe rõ. Ông còn là người cao tuổi nhất trong số ba "tù binh" mới. Chính vì vậy, cùng lúc đó, ông cảm thấy có trách nhiệm trấn an hai người đồng nghiệp. “Vâng, nếu còn sống chúng tôi sẽ có một thiên phóng sự tuyệt vời”. Nhưng, ám ảnh về cái chết vẫn không rời qua những buổi hỏi cung bất chợt do những du kích Khmer đỏ thực hiện dưới “con mắt" đen ngòm của AK. Rồi một ngày, cả ba bị ném lên phía sau một chiếc xe tải. “Một tiếng đồng hồ sau, chúng tôi đi qua những đường mòn rợp bóng cây, vào vùng giải phóngvới những cổng chào sặc sỡ, có cả ảnh lãnh tụ Hồ Chí Minh.” Trí nhớ của Richard Dudman dường như chưa bao giờ có tuổi. Đến giữa làng, họ bị bịt mắt dẫn đi theo lối ngoằn ngoèo, giữa hàng ngàn người phẫn uất với tiếng chửi mắng, và hình như, có người đã nhổ vào mặt họ. “Bọn chúng là điệp viên CIA " giọng người Việt nói đầy giận dữ. ''Không, chúng tôi là nhà báo quốc tế." Michael cố gắng thanh minh bằng vốn tiếng Việt sẵn có. Một cú đấm bất ngờ làm Michael khuỵu xuống. Rồi đến lượt Richard. Cuối cùng, họ nghe một giọng khác, nhẹ nhàng hơn: “Hãy cho họ uống nước” Và nói với hai nhà báo bị nghi ngờ: "Các anh không nên nói láo." Người này là một trung úy còn rất trẻ. Ông hỏi những câu ngắn gọn, nhưng rõ ràng và hứa sẽ trả tự do nếu cuộc điểu tra chứng minh họ là nhà báo, chứ không phải là gián điệp CIA giả dạng. Những hồi tưởng vẫn tiếp diễn bởi những khám phá bất ngờ. ''Chúng tôi di chuyển vào ban đêm, khi thì bằng xe hơi, khi thì xe đạp và phần lớn là cuốc bộ. Ban ngày dừng lại ngủ trong lều của nông dân” Richard nói. Những người đồng hành đã trở thành thân thiện từ lúc nào không hay. Đến ngày thứ 40 - Richard đếm từng ngày như một cách giết thời gian, bỗng người sĩ quan cao to hôm nào xuất hiện với đôi mắt và nụ cười nhân hậu. Ông nói: ''Tôi đã được lệnh thả các anh.” Đó là ngày 15-6-1970. Nhiệm vụ hoàn thành Vào năm 1972, chính nhà báo Dudman được chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mời đến Hà Nội. Sau đó, ông đã viết nhiều bài tường thuật trực tiếp từ Hà Nội kêu gọi dân chúng Mỹ phản đối cuộc chiến tranh tàn bạo mà Mỹ gây ra tại Việt Nam. Và từ ấy, ông ước mong được biết tên tuổi của người đã trả tự do cho ông và viết lại "thiên phóng sự tuyệt vời" như một phần thưởng vô giá của tình người mà ông từng nhận được. Ánh sáng hy vọng lóe lên vào tháng 12-1993, 18 năm sau, có người bạn của Richard Dudman là Tim Kinh gọi điện cho vợ ông báo tin: trên tờ Newsweek có bài báo nhắc tới ông. Chính ký giả David Hackworth của Newsweek đã pha đèn vào sương mù ký ức, khi ông trích lời một tướng Việt Cộng về hưu rằng, vào năm 1970, ông và các đồng chí của ông đã thả ba nhà báo Mỹ bị tình nghi là gián điệp vì "Họ ăn quá nhiều. Một trong ba người đã ăn gấp 10 lần khẩu phần của chúng tôi " Tướng về hưu Bảy Cao nói với Hackworth. Nhưng nỗ lực tiếp theo từ Trung tâm Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam đã giúp Richard tìm ra địa chỉ tướng Bảy Cao, giúp ông làm xong công việc mà, nói như người Việt Nam, ông đã có thể an lòng nhắm mắt. Còn với Richard: “Chưa nói được tiếng cám ơn đó thì vẫn chưa trọn đạo làm người". Khi Richard thăm nhà Bảy Cao, có lần giữa câu chuyện hàn huyên, ông hỏi phòng vệ sinh, tướng Bảy Cao tự nhiên dẫn ông ra con kênh nghiêng bóng dừa trước căn nhà lộng gió. "Ồ, có lẽ, phòng vệ sinh nhà anh lớn nhất thế giới” Richard cười. Anh Bảy tỉnh bơ: “Anh đùa cũng như tôi, khi nói với Hackworth rằng các anh ăn quá nhiều, không chịu nổi, phải thả”. Bảy Cao cho biết cú đấm mà Richard nhận là vi phạm chính sách, nên người tung ra cú đấm phải bị kỷ luật: anh ấy đã bị giáng chức từ trung úy xuống trung sĩ. Bảy Cao ngậm ngùi : “Tôi bắt anh ấy đến xin lỗi các anh, nhưng không may anh ấy đã hy sinh vài ngày sau đó khi quân ngụy tấn công vào ngôi nhà nơi đã giữ các anh.” Richard nghĩ rằng cách mà Bảy Cao lý giải chiến thắng của Việt Nam cũng đơn giản: "Lúc đầu người ta nghĩ các anh là điệp viên, là kẻ thù, nên họ manh động. Nhiều ngườì trong số du kích có gia đình hoặc thân nhân bị lính ngụy hay Mỹ tàn sát. Hãy hiểu sự phẫn nộ của họ". Từ lâu, Richard vẫn mơ hồ rằng việc thả ông là do sự can thiệp quốc tế nào đó, nhưng tướng Bảy Cao đã tiết lộ: "Chúng tôi phải điện cho Hà Nội xin phép được trả tự do cho các anh. Tất nhiên Hà Nội đồng ý vì nhà báo không phải kẻ thù. Chính sách đó cũng sáng ngời như chính nghĩa của chúng tôi” Bảy Cao nói, giọng vẫn khỏe khoắn như ngày nào. Nhưng Richard hiểu rằng ông may mắn biết bao, bởi vì làm sao có thể trách được sự ngộ nhận của chiến tranh. Năm 2000, nhân kỷ niệm 25 năm chấm dứt chiến tranh Việt Nam, Richard Dudman đã thực hiện được ước mơ cao hơn: đưa bà Helen Dudman - vợ ông đến Việt Nam để cùng nói lời cám ơn, bởi chính bà mới là người “thọ ơn" nhiều nhất. Hạnh phúc lớn nhất của bà là người chồng mất tích trong vùng chiến sự, bỗng trở về nhà. Năm nay, 2005, kỷ niệm ba mươi năm giải phóng, chúng tôi muốn giới thiệu cuốn sách của Richard Dudman, sau khi được trả tự do. Tất nhiên, dưới mắt một nhà báo Mỹ đang bị bắt giữ, những nhận xét lúc đó "không dễ dàng", nhưng cuối cùng, tính nhân bản và vị tha giữa người với người luôn được chiếu sáng, không phải từ một phía, mà từ nhiều phía khác nhau, thậm chí phía đối địch.           Trần Ngọc Châu Mời các bạn đón đọc 40 Ngày Sống Với Đối Phương của tác giả Richard Dudman.