Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khu Trại Trong Thảo Nguyên

Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ
Đằng sau mỗi món đồ cổ, là tầng tầng lớp lớp lịch sử và văn hóa truyền thừa bao đời; Đằng sau mỗi món đồ giả, là mánh lới tính toán tinh vi cùng cạm bẫy khó bề tưởng tượng. Hứa Nguyện rửa được nỗi oan cho ông nội, nổi lên như một anh hùng đánh hàng giả trên thị trường cổ ngoạn, song lòng vẫn canh cánh mối thù gia tộc với Lão Triều Phụng - bàn tay đen đứng sau bi kịch bao đời nhà họ Hứa. “Tình cờ” thay, mọi manh mối về kẻ cầm đầu dòng chảy ngầm lớn nhất giới cổ vật này đều dẫn gã đến với quốc bảo Trung Hoa - Thanh minh thượng hà đồ. Một lần nữa Hứa Nguyện đơn thương độc mã dấn thân trên con đường trừ giả giữ thật mà không lường đến những gì mình sẽ phải đương đầu. Lôi Lão Triều Phụng ra ánh sáng, bảo vệ Minh Nhãn Mai Hoa trước nguy cơ lụi bại, giữ vững tôn chỉ của người giám định… ngần ấy nhiệm vụ hệ trọng dường như quá sức với một kẻ đang nôn nóng báo thù như gã. Bởi trong khi con người giám định cổ vật, cổ vật cũng giám định con người… *** Nửa đêm trộm mộ “ăn trên chiếu” Chơi đồ cổ quan trọng nhất là gì? Người nói là mắt nhìn, kẻ lại bảo là quan hệ, thực ra đều không chính xác. Ngành này xét đến cùng phải chú trọng hai chữ: “duyên phận”. Thế nên người chơi đồ cổ thế hệ trước phần nhiều đều tin số mệnh, cho rằng số đã có ắt có, số không có thì đừng cố. Nếu không có duyên với một món đồ mà cứ cố giành về tay, gọi là đi ngược ý trời, sẽ dẫn tới hậu họa khôn lường, món đồ ấy không còn là hàng tốt nữa, mà trở thành vật dữ cắn chủ, nhẹ thì thân bại danh liệt, nặng thì nguy tới tính mạng. Có điều đây đều là cách nói từ xưa, được quy vào mê tín dị đoan. Thời bây giờ ai cũng tiếp thu mấy chục năm giáo dục theo chủ nghĩa duy vật, chẳng tin mấy lời đó nữa. Hễ có tiền đưa tới tay thì bất chấp quy củ cách thức, ta cứ thế xông lên phá vỡ đạp bằng, chẳng sợ gì sất. Thần tài ngồi trên, yêu ma quỷ quái cũng phải đứng sang một bên. Ví như mấy người ngồi cùng xe với tôi hiện giờ, rõ ràng không phải hạng con buôn cổ hủ trọng truyền thống. Tôi đang ngồi trong một chiếc van Toyota chín chỗ cũ nát, ngoài lái xe ra tổng cộng có năm người. Bên trong xe lặng phắc như tờ, chẳng ai bắt chuyện, cũng chẳng ai hàn huyên. Bốn người kia đều ngồi im tại chỗ, trưng ra vẻ mặt hờ hững khó gần. Chỉ khi xe thình lình xóc nẩy lên, họ mới đảo mắt thật nhanh, vờ như vô tình liếc nhau một cái sắc lẻm. Tôi cảm giác được họ không giống mình. Tôi là chủ một tiệm đồ cổ nhỏ trong thành phố, còn họ là con buôn cổ vật chuyên thu mua đồ cũ từ nông thôn. Những người này quanh năm suốt tháng lê la dưới quê, qua lại với đám nông dân vừa chất phác vừa gian xảo nên người cũng thoang thoảng mùi bùn đất và sát khí. Bọn họ là ai? Xe chạy đi đâu? Tôi hoàn toàn không biết. Cửa xe đóng kín, bên ngoài đêm tối như mực, không trông rõ được cảnh vật. Chỉ có tiếng động cơ chạy ì ì cho thấy chúng tôi đang tiến tới một mục tiêu nào đó. Tôi cũng chẳng buồn nghĩ nhiều, dựa đầu vào cửa kính lạnh lẽo, huyệt Thái Dương tì vào chốt cửa, gà gật ngủ. Xe chạy lắc lư tròng trành dữ dội, trong lúc mê man, tôi chợt có một ảo giác lạ lùng: thùng xe chẳng khác nào cỗ áo quan khổng lồ vừa đóng đinh, kín mít không lọt một tia sáng. Tôi nằm trong, bên ngoài có mười sáu người khiêng quan tài băng qua nghĩa địa, bước xuống lối vào mộ, tiến về phía huyệt mộ cuối cùng... Phải rồi, quên chưa tự giới thiệu. Tôi tên Hứa Nguyện, hơn ba mươi, là một tay buôn cổ vật cò con dưới chân hoàng thành. Tôi có một cửa tiệm nhỏ ở Lưu Ly Xưởng, buôn bán kim thạch ngọc khí, gọi là Tứ Hối Trai. Tứ hối là gì? Chính là hối người, hối việc, hối lỗi, hối lòng. Đây là lời trăng trối của bố tôi, dạo Cách mạng Văn hóa, ông bị hãm hại phải nhảy xuống hồ Thái Bình tự tử, chỉ để lại tám chữ này. Song đằng sau đó còn ẩn giấu một câu chuyện dài. Tổ tiên tôi là một chi trong “Minh Nhãn Mai Hoa” gồm năm gia tộc lâu đời trong ngành cổ vật, mỗi nhà sở trường giám định một loại đồ cổ, có địa vị cực cao trong giới sưu tầm. Sau giải phóng, Minh Nhãn Mai Hoa cải tổ thành Hội nghiên cứu giám định cổ vật Trung Hoa, vẫn có sức ảnh hưởng không nhỏ. Hứa Nhất Thành, ông nội tôi là chưởng môn Minh Nhãn Mai Hoa thời Dân Quốc, xuất thân Bạch môn, về sau vì đánh cắp đầu Phật ngọc ở minh đường Võ Tắc Thiên tuồn cho người Nhật nên bị coi là Hán gian đem xử bắn. Từ đó nhà tôi cũng sa sút không gượng dậy nổi, rút lui khỏi Minh Nhãn Mai Hoa. Vào ngày sinh nhật ba mươi tuổi, do sự thúc đẩy của những người cố ý, tôi đã rơi vào vòng xoáy này. Trải qua một phen bôn ba trắc trở, cuối cùng xem như tôi cũng giải oan được cho ông nội, đưa đầu Phật về nước, kết thúc mối dây dưa ngàn năm giữa nhà họ Hứa và đầu Phật ngọc. Sau khi xong việc, tôi quay về Tứ Hối Trai, tiếp tục buôn đồ cổ, sống lặng lẽ. Đột nhiên nghe phanh két một tiếng, người tôi đổ nhào về phía trước, sực tỉnh khỏi dòng ký ức. Xe đã dừng lại, tôi mở mắt ra, lắc lắc đầu. Ngờ đâu vừa quay đầu sang, tôi chợt thấy một gương mặt trắng bệch với đôi mắt cực kỳ quái dị hiện lên giữa bóng tối bên ngoài xe, một bên to tướng như mắt trâu, lòng đen ít lòng trắng nhiều, bên kia lại nhỏ xíu, thi trừng mắt với rùa chưa chắc đã thắng nổi. Cặp mắt một to một nhỏ này, trông như lúc nào cũng đang ngắm bắn. Tôi giật thót mình, vô thức rụt người lại, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Bốn kẻ cùng xe cười nửa miệng, lộ vẻ khinh bỉ. Bấy giờ tôi mới nhớ ra, gương mặt này hẳn là của tài xế. Chẳng để tôi nghĩ nhiều, cửa xe đã bị kéo đánh “xạch”, tài xế ló đầu vào, đảo tròn con mắt to rồi làm động tác mời, giọng khàn khàn, “Tôi tên Mắt Trố, làm chân chạy bàn, mời các vị theo tôi.” Tôi vội điều hòa hơi thở, theo bốn người kia xuống xe. Vừa đặt chân xuống đất đã thấy mùi cỏ dại và cành thông xộc vào mũi man mát. Khỏi cần hỏi cũng biết, đây là mùi đặc trưng của chốn đồng không mông quạnh, hơn nữa còn là nơi hết sức hoang vu. Tôi nhìn quanh, lờ mờ thấy mấy ngọn núi đằng xa, trông như thú dữ mai phục trong đêm, có thể nhào tới bất cứ lúc nào. Mắt Trố bảo bọn tôi theo sát sau y. Mây đen đang bao phủ bầu trời, che khuất mặt trăng, chỉ có ngọn đèn pin loang loáng thoắt sáng thoắt tối trong tay Mắt Trố soi đường. Cây đèn pin của y có vẻ rất được chăm chút, bóng đèn bọc một khoanh giấy bìa cứng, như vậy cột sáng chỉ tập trung vào phía trước, không chiếu sang hai bên, nên cách hơi xa sẽ không thấy được. Chúng tôi bước thấp bước cao trên triền núi theo y chừng hơn mười phút, rẽ ngoặt liên tục, còn băng qua hai khoảng rừng. Rốt cuộc một người không kìm được lên tiếng hỏi, “Anh đưa chúng tôi đến đâu đây? Cỗ ở đâu vậy?” Mắt Trố quay lại nhe răng cười đáp, “Nôn nóng làm gì, chủ đâu có rời chiếu cỗ được.” Nói đoạn còn cười khà, tiếng cười như quạ. Y vừa cười, nhiệt độ xung quanh chợt hạ xuống, lạnh buốt cả người. Kẻ kia không dám hỏi thêm nữa, đành “hừm” một tiếng rồi đi tiếp. Đám chúng tôi đi chừng hơn nửa tiếng thì tới một khe núi vắng. Khe núi bị hai dãy núi cao ngất kẹp vào giữa, tạo nên một bình nguyên dưới chân núi. Từ đằng xa loáng thoáng nghe thấy tiếng nước chảy róc rách, hẳn là dòng suối từ trên núi chảy xuống, uốn quanh chỗ này, cắt khe núi thành hình tam giác. Khe suối là đáy, hai dãy núi sừng sững hai bên. Địa hình này trong phong thủy gọi là hai rồng xuống nước, là đất lành hợp xây mồ mả. Mắt Trố tiến vào khe núi thì dừng chân, rọi đèn pin về phía trước. “Bên này.” Chúng tôi nhìn theo ánh đèn, thấy thấp thoáng đằng xa một người trẻ tuổi mặc đồ rằn ri đang ngồi trước mặt là một cái hố rộng chừng nửa mét, mép hố còn gác ba chiếc xẻng cán thép và cả đống đất mới đào. Khỏi cần hỏi cũng biết ở nơi đất báu phong thủy thế này đào sâu ba thước ắt có mồ mả, có mồ mả tất có trộm mộ đánh hơi được kéo đến. “Đào tới đâu rồi?” Một tên mặt sẹo đi cùng tôi hỏi. Mắt Trố di chân xuống đất, hể hả đáp, “Tìm ra vị trí mộ rồi, vừa rồi chúng tôi mới đào đến vách sau, chỉ một nhát nữa là tới cửa thôi, đợi các vị đến mở chiếu đấy.” Mấy người đi cùng tôi đến trước hố đất, gạt lớp đất mới đào ra, vẻ mặt không ai giống ai. Nghe nói trộm mộ lâu năm chỉ cần nhìn đất là biết niên đại mộ. Có điều tôi chẳng có tài ấy, chắc hẳn mấy kẻ đi cùng cũng chẳng khá hơn. Chúng nhìn đất chỉ để yên tâm chứ đâu nhận ra cái gì. Kiểm tra đất xong, Mắt Trố cười khì, “Các vị may thật đấy, món lần này là thịt kho của bếp trưởng. Nếu không có gì thắc mắc thì lên món nhé?” Cả năm chúng tôi đồng loạt gật đầu, đứng tránh ra một quãng. Mắt Trố soi đèn pin về phía kia, hô “mở bát”, tức thì tên chạy bàn mặc đồ rằn ri đứng dậy, cầm chùy sắt và xẻng lên. Dáng gã gầy gò, lách vào hầm dễ như bỡn. Mắt Trố rút trong ngực áo ra một chai rượu trắng hàng chiết lẻ và năm cái chén, lần lượt đưa cho năm chúng tôi, “Trong núi sương dày lạnh giá, làm ít rượu trắng cho ấm người, phải chờ một lúc nữa cơ.” Không nói thì thôi, y vừa nói tôi liền thấy gió lạnh bốn bề, sương mù bảng lảng, vô thức liếc nhìn vào cánh rừng tối om. Mắt Trố đưa chén tới trước mặt tôi cười, “Chú em lần đầu ăn trên chiếu à?” Thấy tôi cười ngượng, y nói, “Ăn quen bén mùi, anh em mình vất vả một tí, nhưng chắc ăn hơn, có phải không?” Tôi gật đầu lia lịa, đón lấy chén rượu uống cạn, rượu trắng cay nồng như ngọn lửa cháy lan theo cổ họng xuống tận dạ dày, song mắt tôi vẫn dán vào đống bùn đất đang không ngừng đùn ra từ cửa hầm, lòng quặn lên. “Ăn trên chiếu” như lời Mắt Trố là một hoạt động khá kín đáo trong giới đồ cổ, trước đây tôi chỉ nghe nói, không ngờ hôm nay cũng được tận mắt chứng kiến. Phần lớn đồ cổ đến từ hai nguồn: một là đồ gia truyền đời đời lưu giữ, hai là đồ tùy táng bị đào ra. Loại trước được truyền đời rõ ràng, nhưng loại sau hơi khó phân định thật giả. Anh bảo món đồ này đào được trong mộ ra, bằng chứng đâu? Lỡ lừa gạt người ta thì sao? Phải biết có những món đồ cổ bản thân nó hoàn toàn không đáng tiền, tất cả giá trị đều nằm ở xuất xứ. Cùng một hạt dưa, mua từ hàng tạp hóa thì chẳng đáng một xu, nhưng nếu từ trong bụng xác nữ ở gò Mã Vương thì nghìn vàng chưa mua nổi. Thế là có kẻ nảy ra một cách, thăm dò xác định vị trí mộ đâu vào đấy, đào đường hầm đến cạnh mộ rồi để đó, mời vài người mua đến hiện trường, mở cửa mộ ngay trước mặt họ, đào lên bán sang tay luôn. Người mua chính mắt thấy đồ được đào dưới mộ lên, dĩ nhiên khỏi cần lo hàng giả. Trò này trong ngành đồ cổ gọi là “ăn trên chiếu”, không phải chiếu rượu, mà là chiếu cói, chiếu cói để làm gì? Thời xưa người ta dùng chiếu cói bọc xác chết, nên nó ý chỉ mồ mả. Những người mua như chúng tôi gọi là “khách”, trộm mộ thì gọi là “chạy bàn”, dĩ nhiên “chủ” chỉ người chết trong mộ. Bởi vậy vừa rồi Mắt Trố nói “chủ không rời được chiếu cỗ” khiến mấy người kia sợ quá nín thít. Mời bạn đón đọc Bí Ẩn Thanh Minh Thượng Hà Đồ của tác giả Mã Bá Dung & Tố Hinh (dịch).
Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro
Tada Keisuke, một nhân viên bán ô tô quyết định bỏ nghề, mở tiệm bá nghệ. Gyoten Haruhiko, một nhà nghiên cứu bệnh lý bỗng nhiên bỏ việc, lang bạt nay đây mai đó. Hai người bạn cấp ba chung lớp chưa một lần trò chuyện và chẳng khác nào hai đường thẳng song song ấy chỉ vì một lần trùng phùng nơi trạm xe buýt mà bước vào cuộc sống của nhau. Để rồi, ngày ngày họ rong ruổi khắp những con phố ở Mahoro trên chiếc xe tải nhẹ, làm đủ loại việc vặt mà khách yêu cầu; dắt chó đi dạo, thăm nom người ốm, quét dọn vườn tược, sửa chữa chuồng chó… Hai con người với hai tâm hồn cô độc chưa bao giờ cố để hiểu nhau, càng chẳng đòi hỏi gì ở đối phương, chỉ lặng lẽ sống như vậy qua ngày. Bởi họ biết rằng, một ngày nào đấy, hạnh phúc nhất định sẽ lại tìm đến mình dưới một hình hài nào đó thật khác. *** Miura Shion Cô sinh năm 1976 tại Tokyo, là con gái một học giả cổ điển nổi tiếng của Nhật Bản, vì vậy tình yêu với sách của tác giả được nảy sinh từ khi còn rất trẻ . Khi còn là sinh viên năm cuối khoa Văn Thư tại Đại học Waseda, cô bắt đầu tìm kiếm cho mình một vị trí biên tập, một công ty văn học đã nhận ra được tài năng viết lách của cô và thuê cô để bắt đầu viết một cột nhận xét sách trực tuyến ngay cả trước khi cô tốt nghiệp. Cô đã giành được nhiều giải thưởng lớn như:  Giải thưởng Naoki lần thứ 135.   Giải thưởng Oda Sakunosuke và Giải thưởng Nhà sách Nhật Bản năm 2012.   Một số các phẩm của cô đã được chuyển thể cho phim ngắn hoặc phim truyền hình. Sách của cô đã được dịch sang tiếng Trung, tiếng Hàn, tiếng Việt, tiếng Anh, tiếng Đức và tiếng Ý. Tác phẩm: Bước Chạy Thanh Xuân Người Đan Chữ Xếp Thuyền Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro Những Vị Khách Của Tiệm Bá Nghệ Tada ... *** Bà Soneda đã tiên đoán như vậy “Sang năm là mầy bận rộn lắm đó con.” Vào buổi chiều một ngày cuối năm nọ, bầu trời quang đãng, bà Soneda đã buông một câu như vậy. Phòng khách của bệnh viện yên ắng quá đỗi. Ngoài khung cửa là bãi cỏ khô và những lùm cây rụng lá. Hai chiếc ti vi cỡ lớn đều giảm âm lượng xuống mức tối thiểu, một chiếc đang phát lại phim truyền hình dài tập, chiếc khác thì chiếu trận đua ngựa. Các ông già bà cả tập trung ngoài phòng khách thích ngồi bàn nào thì ngồi bàn đó, tự chia làm hai tốp rồi dán mắt vào một trong hai chiếc ti vi. Thi thoảng đâu đó sẽ vang lên những tiếng thọc tay vào gói bánh kiều mạch mang từ phòng bệnh tới hay tiếng bánh xe lăn kêu ken két. “Chả có nhẽ lại buôn may bán đắt nhỉ?” Tada Keisuke vừa cắt nhỏ bánh bông lan mật ong mua tới làm quà ra cho vừa miệng, vừa hỏi lại. Bà Soneda thì còn đang bận gườm chiếc bánh bằng cặp mắt sáng quắc như hổ rình mồi. Tada chỉ cắt ra hai miếng để vào đĩa giấy trên bàn rồi cất phần còn lại vào trong hộp nhựa, miệng căn dặn bà già: “Mẹ không thể ăn hết cả cái cùng lúc đâu! Đợi đến giờ ăn vặt rồi chia cho các bạn cùng phòng nhé.” Hắn rót trà nóng mua ở máy bán hàng tự động vào cốc giấy rồi đưa cho bà già. Bà nhúng bánh bông lan vào trà cho mềm ra rồi khởi sự ăn. “Buôn bán thì chả khác gì năm nay đâu! Mầy bận là bận chuyện của mầy ấy!” Bà già lại nói. “Không khéo mất luôn con vợ cũng chẳng biết chừng!” Vợ thì con bỏ từ đời rồi bà ơi! Tada nghĩ thầm trong bụng, song cũng chỉ im lặng nghe bà già nói tiếp. “Tiếp nhé, rồi mầy còn sẽ bắt đầu một cuộc thiên di, khóc khóc cười cười nữa cơ.” “Thiên di? Đi đâu cơ?” “Một nơi rất xa, rất xa. Xa như trong thẳm sâu trái tim mầy vậy.” Kể từ sau cái hồi bị bác sĩ phán rằng: “Những con ma xuất hiện vào ban đêm ấy thực chất chỉ là tâm cảnh của bà thôi, chúng được sinh ra từ trong lòng bà, bà Soneda à...” thì bà già đã không còn mấy lòng tin vào con tim mình nữa. Nên hẳn nơi mà bà nhắc đến phải xa cỡ nước ngoài, nơi người ta nói thứ ngôn ngữ hắn nghe không hiểu một chữ. “Ái chà, bà Kiku lại đang tiên tri kìa.” Nghe một giọng khàn đột ngột cất lên sau lưng, Tada ngoái lại. Ông lão hắn hay thấy trong bệnh viện với cây treo túi truyền dịch kiêm gậy batoong đang đứng đó. “Như nào rồi? Như nào rồi?” Ông lắc đầu, bỏ về phía chiếc ti vi. Bà già tiếp tục xì xụp hớp hết cốc trà. “Tóm lại là mầy sẽ bận bịu lên đấy, và không còn đến chỗ này mấy nữa.” “Kìa mẹ, chẳng có chuyện như vậy đâu!” Những lời sau đó nghẹn lại nơi cuống họng Tada. Hắn đã không thể thốt ra nổi một câu rằng: “Con sẽ lại đến.” Để xua đi giây phút ngượng ngập, hắn đề xuất: “Mình quay về phòng thôi nhỉ?” Nghe hắn nói vậy, bà Soneda chỉ lẳng lặng gật đầu. Bà già lững thững bước trên hành lang, Tada kiên nhẫn bước theo. Bà đã ngót nghét chín mươi đâm lưng còng xuống chỉ còn cao đến thắt lưng Tada. Phòng bệnh của bà là phòng cho sáu người, mỗi bên kê ba giường, giường của bà nằm ở giữa một bên. Tada lại giúp bà thật cẩn thận, cẩn thận, trèo lên giường. Bà già ngồi quỳ gối trên đó, cuộn người lại nom chẳng khác gì miếng bánh giầy Đại Phúc nhỏ bé. Tada đặt hộp nhựa đựng bánh bông lan lên chiếc tủ thép đầu giường rồi tính chào tạm biệt. Vừa lúc một y tá bước vào, khẽ gật đầu chào hắn, và thế là hắn để lỡ mất cơ hội chuồn cho nhanh của mình. Y tá vui vẻ bắt chuyện với bà lão. “Ôi! Bà Soneda có anh con trai ngoan quá. Anh lại đến thăm bà đấy à?” Đoạn cô ghé vào tai cụ già nằm giường trong cùng không rõ là ông lão hay bà lão, hét thật to: “Bác đau lưng ạ? Để cháu đổi tư thế cho bác nhé?” Rồi kéo roẹt tấm rèm ngăn hai giường lại. Có vẻ như ở phía bên kia rèm, cô y tá đang lật người cho cụ già, tránh để cụ bị loét lở vì nằm liệt. Tóc bà Soneda đã bạc trắng, còn lưa thưa có vài sợi. Tada cứ đứng đó hồi lâu nhìn xuống cái xoáy trên đầu bà, cuối cùng hắn nói. “Thế mẹ nhé, mẹ đón năm mới vui vẻ.” “Ừ.” Bà nói như đang thì thầm. Lúc nào chia tay bà cũng trở nên lầm lì ít nói. Tada bước vội ra ngoài hành lang, lúc đi khỏi cửa, hắn còn ngoái lại, bà lão vẫn cứ y chiếc bánh Đại Phúc ở trên giường, cúi gằm mặt xuống. Nếu thật sự là một “đứa con ngoan” thì đã chẳng để mặc bà mẹ già ốm o của mình lủi thà lủi thủi trong bệnh viện đón năm mới, càng chẳng để một người dưng nước lã tới thăm bà thay cho mình. Tuy nghĩ vậy nhưng Tada cũng hiểu chính vì bản thân hắn là một người xa lạ cho nên mới có thể nói ra những lời đãi bôi một cách vô tư như thế. Đến khi leo lên chiếc xe tải nhẹ màu trắng đậu trong bãi, hắn mới có thể thở phào nhẹ nhõm. Cho dẫu những bức tường kia có được sơn bằng màu kem tươi sáng cỡ nào chăng nữa, thì bầu không khí bên trong bệnh viện vẫn khiến tâm trạng người ta u sầu ủ dột chẳng rõ tại làm sao. Tada xoay chìa khóa khởi động xe, và trong lúc chờ hệ thống sưởi hoạt động, hắn đốt một điếu thuốc lá. Hỗn hợp mùi amoniac và thuốc sát trùng vẫn còn đẫm trong cuống mũi hắn. Hắn mở hé cửa sổ xe, đẩy tất cả theo làn khói thuốc thoát ra ngoài. Rút điện thoại khỏi túi áo khoác, hắn gọi vào một dãy số. Phải đến lần gọi thứ năm, hắn mới nghe được giọng một phụ nữ trung niên bắt máy. “Cửa hàng xây dựng Soneda xin nghe.” “Tôi là Tada bên tiệm bá nghệ, cho hỏi anh Masatoshi có đó không ạ?” “Ảnh đi ra ngoài rồi, cậu thăm bệnh xong rồi đó hả?” “Vâng, vừa mới xong.” “Cảm ơn cậu nhé. Tôi sẽ báo lại với chồng tôi.” Ê chị, cẩn thận đi thì hơn, năm sau có lẽ hai người sẽ ly hôn đấy.Hắn còn chẳng kịp nói những lời này thì điện thoại đã bị ngắt cái rụp. Thôi bỏ đi, hắn nghĩ, rồi gập điện thoại lại. Đương nhiên lời bà Soneda cũng có phải lời sấm truyền gì đâu, chỉ là chút thở than của người già thôi mà. Ngày mai hắn sẽ có năm đơn treo cây nêu ngày Tết, một đơn tổng vệ sinh nhà cửa. Tada lái con xe tải nhẹ, quay trở về văn phòng làm việc của mình nằm ở trước ga Mahoro. Mời bạn đón đọc Tiệm Bá Nghệ Tada Trước Ga Mahoro của tác giả Shion Miura & Phong (dịch).
Chiếc Vòng Thạch Lựu
Chiếc vòng thạch lựu, dịch giả Đoàn Tử Huyến. Tình yêu không vụ lợi là đây, đây là 1 trong những tác phẩm tình yêu hiếm hoi mình yêu thích   "Một trong những truyện ngát hương thơm và đầy day dứt về tình yêu - và buồn thảm nhất - đó là truyện Chiếc vòng thạch lựu của Cuprin" (Pauxtopxki) Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn A. Cuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. K. Pautovski từng nói về Cuprin rằng: "Chúng ta cần phải biết ơn Cuprin vì tất cả - vì tấm lòng nhân hậu sâu sắc của ông, vì tài năng vô cùng tinh tế của ông, vì tình yêu đối với tổ quốc và niềm tin không gì lay chuyển nổi vào hạnh phúc của dân tộc mình, và cuối cùng, vì khả năng không bao giờ mất đi ở ông, cái khả năng cháy lên từ những lần tiếp xúc dù ngắn ngủi nhất với chất thơ của cuộc sống, và viết về điều đó một cách thoải mái nhẹ nhàng." *** Aleksandr Kuprin là một trong những nhà văn Nga xuất sắc hồi cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20. Ở Việt Nam, ông được độc giả biết đến qua tác phẩm "Chiếc vòng thạch lựu" và "Người tình của vua Sô lô mông" (Суламифь). Aleksandr Ivanovich Kuprin (1870 - 1938) là một trong những đại diện cuối cùng của thế hệ bạc (Sliver Age) của dòng văn học Nga lãng mạn trước Cách mạng. Văn của ông có giọng điệu riêng và chiếm vị trí đặc biệt trong lòng độc giả Nga, ông được gọi một cách yêu quý là “Nhà văn của dân nghèo”.  Trong hơn 40 năm lao động sáng tác, ông đã để lại cho văn học Nga và thế giới một di sản đồ sộ với khoảng 300 tác phẩm lớn nhỏ. Các tác phẩm của ông bao quát nhiều lĩnh vực trong đời sống Nga cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Ông tập trung viết về cuộc sống đời thường, chủ đề tình yêu vẫn chiếm vị trí trung tâm. Các mối tình trong truyện của ông giản dị, không có kết thúc quá bi thảm, nhưng đa số đều không trọn vẹn, và đôi khi rất bất ngờ, để lại trong tâm trí người đọc một câu hỏi tuy chỉ thoáng qua nhưng day dứt. *** Vào giữa tháng tám, vừa mới bắt đầu có trăng non, thời tiết bỗng trở nên tồi tệ, như thường vẫn gặp ở vùng duyên hải bắc biển Đen. Khi thì một màn sương mù dày đặc suốt mấy ngày liền nặng nề bao trùm khắp mặt đất và mặt biển, và lúc đó chiếc còi lớn trên ngọn hải đăng ngày đêm rống lên như một gã trâu điên; khi thì ngày này sang ngày khác mưa phùn dai dẳng không dứt, biến các con đường đất sét lớn nhỏ thành bãi lầy đặc sệt, làm những cỗ xe ngựa chở khách và chở hàng thụt xuống mãi không lên được. Lại có khi một cơn bão tuyết hung dữ từ đồng cỏ hướng tây bắc tràn về, các ngọn cây ngả nghiêng, nằm rạp xuống rồi lại đứng thẳng lên như những cơn sóng biển trong dông tố; đêm đêm, mái nhà bằng sắt tây của các nhà nghỉ ngoại thành rung lên kêu loảng xoảng chắng khác gì có người đi ủng đế sắt chạy trên đó; những khung cửa sổ, của chính bị giật liên hồi; gió hú man dại trong các ống khói lò sưởi. Đã có mấy chiếc xuồng máy đánh cá bị lạc ngoài khơi, và hai chiếc vĩnh viễn không bao giờ về nữa; phải một tuần sau, sóng mới đánh dạt mấy xác người lên bờ ở những chỗ khác nhau. Những người trong khu nhà nghỉ ngoại ô cạnh bờ biển - phần lớn là dân Hi Lạp và Do Thái, yêu đời và cả lo như tất cả những người sống ở phương Nam - vội vã trở về thành phố. Dọc theo con đường cái lớn lầy lội, những đoàn xe bốn bánh chở hàng kéo dài tưởng như vô tận; trên xe chất đầy các vật dụng trong nhà - nệm giường, đi văng, hòm xiểng, bàn ghế, chậu rửa mặt, ấm xamôva. Vừa buốn, vừa thương hại, vừa khó chịu khi nhìn đoàn xe lôi thôi lốc thốc đến tồi tàn, bẩn thiửu và thê lương này qua màn mưa đục; nhìn đám hầu phòng và đầu bếp gái ngồi đè lên những tấm vải bạt ướt phía trên xe, tay giữ khư khư mấy chiếc bàn là, hộp sắt tây hoặc làn giỏ; nhìn những con ngựa kiệt sức, mình đẫm mồ hôi, thỉnh thoảng dừng lại, đầu gối run rẩy, hơi nước bốc lên như khói, cặp sườn thở gấp phập phồng; nhìn những người đánh xe quấn kín mình trong các tấm vải bố và chửi nhau đến khản cả giọng. Nhưng còn đáng buồn hơn nữa khi nhìn những ngôi nhà nghỉ đột ngột trở nên hoang vắng với những bồn hoa bị dẫm nát, những cửa kính bị vỡ toang, những con chó không chủ và đủ các thứ rác rưởi của đám người đi nghỉ bỏ lại - tàn thuốc lá, giấy lộn, mảnh gốm, vỏ diêm và ve lọ đựng thuốc ngổn ngang khắp nơi.   Mời các bạn đón đọc Chiếc Vòng Thạch Lựu của tác giả Aleksandr Kuprin.
Trăng Huyết
Thư gửi bạn đọc Trăng Huyết Trong mùa hè năm 2004, một người bạn Việt Nam trẻ tuổi của tôi hiện học tại Anh đã đọc Trăng Huyết, bản phóng tác bằng tiếng Việt. Cô đối chiếu các phần của cuốn ấy với cuốn tiểu thuyết nguyên bản SAIGON của tôi, là cuốn hình thành cái lõi cốt yếu của tác phẩm khuếch đại và mới của người bạn đồng tác giả Nguyễn Ước. Vì tôi không biết và không đọc được tiếng Việt nên lúc ấy, tôi không có ý niệm về những gì Nguyễn Ước đã làm đối với bản văn của tôi. Trước khi thực hiện tác phẩm ấy, anh không tham khảo ý kiến tôi, cũng không tìm cách xin phép tôi cho tới khi anh đã hoàn tất. Thậm chí khi viết thư này, tôi vẫn không biết thật cặn kẽ những gì chứa đựng trong 400 trang mà anh thêm vào — ngoài việc biết rằng những thay đổi trong giai đoạn sau năm 1945 thì nhiều hơn trong phần đầu của cuốn truyện. Trước đây, tôi biết qua lời của chính Nguyễn Ước giải thích với tôi rằng anh nồng nhiệt tin tưởng cuốn tiểu thuyết của tôi với những đoạn thông tin và diễn dịch do anh thêm vào là “bộ tiểu thuyết Chiến tranh và Hoà bình mà người dân Việt Nam đang trông đợi”. Trong lần liên lạc thứ nhất, anh nói với tôi rằng anh cảm thấy nó có sức mạnh “hòa giải và giải phóng” người dân Việt Nam khỏi những xung khắc thời quá khứ. Nhận thấy mình xúc động bởi niềm xác tín đó, tôi bất giác quyết định không chống lại cũng như không phản đối tức thời việc Nguyễn Ước đã làm. Tuy thế, tôi cảm thấy nhẹ nhỏm khi người bạn sinh viên Việt Nam trẻ tuổi tại Anh ấy nói với tôi rằng cô rất xúc động qua những gì cô đã đọc. Cô nói, “Tôi xin cám ơn ông đã viết cuốn sách này. Tôi đã biết được rất nhiều về xứ sở và dân tộc của tôi mà trước đây tôi chưa hề biết. Tôi nghĩ rằng giá trị lớn lao nhất của cuốn truyện này là nó bảo tồn ký ức lịch sử cho những thế hệ mới của người Việt trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Tôi cho rằng đây là cuốn tiểu thuyết rất quan trọng cho dân tộc Việt Nam — và cũng cho mọi người khác nữa.” Vào năm 2005 này, ba mươi năm sau ngày Sàigòn thất thủ, dường như thế giới của chúng ta đang là chốn nguy hiểm hơn bao giờ hết. Cuộc chiến tranh cay đắng ở I-rắc do người Mỹ khởi động xâm lăng đầu năm 2003 đang ngày càng bị so sánh với cuộc chiến tranh Việt Nam trong hai thập niên 1960 và 1970. Dù sao, khủng bố và giết chóc vì lý do tôn giáo và chính trị đang lan rộng toàn cầu hơn bao giờ hết. Dường như toàn thể hành tinh của chúng ta hiện sống với trạng thái đề phòng hằng ngày sẽ có thêm một hành động “khủng bố” tập thể nữa. Trong tình huống ấy, điều quan yếu là những người mà số lượng ngày càng nhiều thêm trên thế giới, đang mãnh liệt khao khát chấm dứt vĩnh viễn toàn bộ chiến tranh và tàn sát, nên tin rằng có những lý do để cảm thấy mình được khích lệ. Đối với tất cả chúng ta, điều quan trọng là có những nền tảng để tin tưởng vào một tương lai tốt đẹp hơn và để không bị ám ảnh bởi sợ hãi. Ở cấp độ cao nhất, mục đích tái bản cuốn trường thiên tiểu thuyết khuếch đại [Trăng Huyết] này về những cuộc chiến lâu dài và cay đắng tại Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20 là để nhắc nhở chúng ta thảm kịch kinh hoàng và vô ích của mọi cuộc chiến, cách riêng các cuộc chiến xuẩn động. Cả Việt Nam lẫn I-rắc đều rơi vào bản liệt kê buồn bã đó. Mọi người đều đau khổ trong các thời kỳ bi thảm như thế và chẳng một ai thật sự chiến thắng. Chiến tranh biến hết thảy chúng ta thành nạn nhân. Lúc này, điều quan yếu cho thế giới của chúng ta là tiến tới một trạng thái sinh tồn trong đó chúng ta có thể giải quyết mọi vấn đề giữa các dân tộc và các quốc gia mà chẳng cần tới bạo động và giết chóc. Cũng quan yếu không kém là việc chữa trị những vết thương khủng khiếp về tâm lý và thể lý của quá khứ, để giúp tạo dựng một tương lai hòa bình và tốt lành hơn cho tất cả chúng ta. Khi cuốn SAIGON được xuất bản lần đầu năm 1982, tôi ngạc nhiên và vui thích thấy nó trở thành sách bán chạy ở tầm quốc tế tại 15 nước, nói chín ngôn ngữ khác nhau. Thật rất hài lòng khi tại Việt Nam và Hoa Kỳ, nó được dùng trong lớp học để dạy dỗ các sinh viên sĩ quan trẻ tuổi của hải quân và quân đội — Đại học Quốc phòng của Quân đội Nhân dân tại Hà Nội và Học viện Hải quân Hoa Kỳ tại Anapolis. Nguyễn Ước đọc cuốn tiểu thuyết ấy lần đầu tiên bằng tiếng Anh lúc anh tới được trại tị nạn ở Indonesia sau khi trốn khỏi Việt Nam bằng thuyền vào cuối thập niên 1980. Anh kể rằng anh đã khóc khi đọc nó hết phần này sang phần khác. Mãi về sau, anh quyết định dịch và tự chủ xướng việc khuếch đại vì anh cảm thấy cuốn truyện ấy, với sự thêm vào các sự kiện lịch sử cùng hư cấu nào đó của anh như một kẻ trong cuộc, sẽ khiến độc giả người Việt nhận ra rằng sự thật giải phóng chúng ta và hoà giải chúng ta. Như đã nêu rõ, tôi quyết định cứ tin vào sự bảo đảm mà Nguyễn Ước đã viết cho tôi, rằng anh không phản bội hình thức và dự phóng trong cuốn tiểu thuyết nguyên bản của tôi. Tôi phải bảo lưu quyền thẩm định đầy đủ và có cân nhắc cho tới một thời điểm tôi biết chính xác từng chữ những gì anh đã viết. Trong lúc này tôi đang đi theo con đường riêng của mình để SAIGON được dịch riêng biệt ra tiếng Việt, đúng chính xác những gì tôi viết mà không có bất cứ thêm thắt nào, và để cho nó được xuất bản công khai bởi một nhà xuất bản của người Việt tại Việt Nam. Như tôi đã viết vào tháng Chạp năm 2004, hiện ở Hà Nội đang có những thảo luận bước đầu về việc đó, nhân danh tôi, và chưa có kết quả rõ ràng. Tuy thế, tôi không biêt việc xuất bản ấy sẽ xảy ra sớm hay muộn — hoặc quả thật bao giờ. Rõ ràng Nguyễn Ước đã hết lòng với đam mê, lý tưởng và nghị lực để viết nên Trăng Huyết. Nếu anh ấy có lý và cuốn sách này có thể đóng góp đầy ý nghĩa để chữa trị và hòa giải các vết thương quá khứ, thì bằng những cách thức nhỏ bé, một tương lai hoà hợp hơn sẽ bắt đầu để làm nổi bật dân tộc Việt Nam — và việc đó chắc chắn dẫn tới kết quả là sẽ làm xúc động người dân của các quốc gia khác. Lúc ấy, mọi nỗ lực cần cù của Nguyễn Ước sẽ đáng giá. Dù xảy tới tình huống nào đi nữa, tôi vẫn ca ngợi hoài bảo, sự tự phát, những lao động tận tụy của anh và mong anh ấy gặp may mắn. Sự ngưỡng mộ và mến cảm của tôi đối với Việt Nam và dân tộc can trường cùng độc đáo ấy ngày càng tăng kể từ khi tôi bắt đầu nghiên cứu và viết cuốn SAIGON. Sự tái tục dính líu tới Việt Nam được gây ra bởi sự xuất hiện nổi bật của Trăng Huyết và việc tái bản tại Anh ấn bản mới cuốn SAIGON bằng tiếng Anh vì thế đang là nguồn khoái cảm lớn lao cho tôi. Vậy tôi xin cám ơn tất cả những ai quan tâm và chúc cho tất cả những ai đang đọc các trang này một hoà bình lâu dài và sự hòa hợp ngày càng tăng trong cuộc sống hằng ngày. Mời các bạn đón đọc Trăng Huyết của tác giả Anthony Grey & Nguyễn Ước.