Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Khu Trại Trong Thảo Nguyên

Bộ tiểu thuyết Sóng Hắc Hải - Valentin Kataev gồm 4 phần: Phần 1: Cánh buồm trắng cô độc Phần 2: Khu trại trong thảo nguyên Phần 3: Gió mùa đông Phần 4: Đường hầm Ô đét xa   KHU TRẠI TRONG THẢO NGUYÊN trong bộ bốn tập - “SÓNG HẮC HẢI” Năm 1910, trên báo “Người đưa tin Ôđexxa” - xuất hiện bài thơ đầu tiên của cậu bé Valia1 mười bốn tuổi - bài thơ “Mùa thu”. Ở đây dường như có điều gì báo trước về một nhà văn tương lai có tâm hồn thơ mộng, sớm gắn bó lòng mình với thiên nhiên. Bài thơ đầu tay là những suy tưởng trữ tình, những nét phác họa về mùa thu, về thiên nhiên Nga tươi đẹp. Mùa hè năm 1913, lần đầu tiên nếm hương vị thành quả văn chương, khi nhận được giấy mời của một tờ báo nhỏ ở Ôđexxa mời các nhà thơ trẻ tham gia câu lạc bộ văn nghệ địa phương, nhà văn tương lai ấy đã đắn đo suy nghĩ: “Liệu một học sinh trung học 16 tuổi đầu đã có thể coi mình là “trẻ”? Với dăm ba bài thơ đăng trên báo hàng ngày liệu đã có thể coi mình là “nhà thơ”?. Nhưng anh vẫn lên đường đến câu lạc bộ. Ở đây việc kết nạp hội viên phải thông qua đầu phiếu. Nhưng trong số những người đã từng đọc thơ mình ở đây chỉ có hai người được hưởng cái vinh dự lớn là được mời thẳng lên đoàn chủ tịch mà không phải bầu bán gì cả. Đó là V. Kataep và E. Bagrixki2. Khi trở thành nhà văn nổi tiếng, V. Kataep đã nhắc lại sự việc trên trong truyện ngắn “Gặp gỡ”. Cái thuở ban đầu ấy có cái gì đã kết tinh, không thể hòa tan mà sau này bạn đọc vẫn còn gặp lại trên nhiều trang sách của nhà văn, đó là nụ cười châm biếm, có khi nhân hậu, có khi cay độc như một nét riêng của miền duyên hải Ôđexxa, bắt nguồn từ quá khứ xa xưa: từ người dân chài trên bãi biển, từ anh công nhân lam lũ, từ người lính thủy can trường hay ở những em bé đồng biển với nước da đen sạm vì sóng gió Hắc hải và mặt trời phương nam. Cũng như nhiều nhà văn khác thuộc thời kỳ này, V. Kataep bước vào làng văn qua lối chiến hào bằng những bản tin và bút ký mặt trận. Tiếp theo là những ngày sôi nổi của Cách mạng. Trong những giờ phút gay go và căng thẳng, con người thường trưởng thành sớm hơn tuổi tác, nhất là nhà văn, và chính trong cơn lốc cách mạng ấy tài năng của nhiều nhà văn, trong đó có V. Kataep đã nảy nở một cách mau lẹ và vững chắc. V. Kataep đã trưởng thành trước khi ông từ giã tuổi thiếu niên. Thế nhưng đối với V. Kataep ngay cả khi tuổi niên thiếu đã qua rồi, ông vẫn còn giữ được rất lâu tâm hồn khát khao được quay lại đầm mình trong tuổi niên thiếu, và quả thực nhà văn đã trở lại sau những lần “trở về” ấy. V. Kataep là một trong những người trong khi vẫn vui vẻ tiếp nhận tuổi đời và say sưa với những công việc của “tuổi tác mình” nhưng vẫn háo hức sống với những năm tháng đã qua, có khi là những tháng năm xa xôi tưởng như chẳng mấy ai còn nhớ tới nữa - những năm tháng có khi vui tươi, đầy mơ ước háo hức, song cũng có khi buồn. Vào những năm thứ hai mươi, khi tuổi đời và tuổi nghề của nhà văn chưa có bao lăm, các nhân vật trong sáng tác của ông thường là những kẻ nhàn tản vô vị: người ta chơi cờ, chơi bài, người ta đùa với tình yêu và dỡn trong đủ mọi quan hệ. Thế nhưng ông chưa có đủ ngay lòng căm thù với những kẻ thù của nhân dân để hành động và chỉ trong cuộc đấu tranh cách mạng, đấu tranh với bản thân để đưa ông đến “Cái giếng thần” (1966), thì lòng căm thù trong ông mới chín muồi, mới trở nên sôi sục, và được sử dụng không đến nỗi uổng phí. Nhà văn đã thấy được mình viết cho ai và chống ai. Lúc này trong sáng tác của ông thể hiện rõ khuynh hướng bi hùng và châm biếm: “Trong thành phố bị bao vây” (1922); “Bút ký về cuộc nội chiến” (1924). Tuy nhiên người ta vẫn thấy trong sáng tác của ông phảng phất “cái thứ triết lý của anh tiểu tư sản, cái thứ triết lý của những người không muốn xây dựng lại cuộc đời, văng vẳng tiếng thở dài mệt mỏi trong cuộc đấu tranh chống đói nghèo, dốt nát...”. Vào những năm 30, khi nhân dân Liên Xô náo nức hưởng ứng dự định táo bạo của Đảng CSLX: xây dựng trong thảo nguyên hoang vu “Pugatsep” một nhà máy: liên hợp luyện kim, V. Kataep đã say mê với cái nhà máy “Magnitka” tương lai ấy và viết tiểu thuyết thời sự “Thời gian ơi, tiến lên!”, tác phẩm này của ông cũng mới mẻ và táo bạo như bản thân cái công trường xây dựng kia vậy. Cuốn tiểu thuyết đã từng làm cho nhiều bạn đọc ngạc nhiên. Cuốn sách ca tụng những con người chỉ tìm thấy ý nghĩa của cuộc sống trong sự nghiệp xây dựng lại cuộc đời, đấu tranh với đói nghèo, dốt nát, những con người không biết tới khoái lạc tầm thường ngoài lao động quên mình - lao động là nhu cầu sống còn số một. Trong tiểu thuyết, lối văn châm biếm với cái giọng nhát gừng, đầy sức sống kết hợp với lối văn nhanh gọn của báo chí và ngôn ngữ đanh thép, chính xác của các quy phạm công vụ, tạo nên một lối văn phong hỗn hợp, độc đáo mà vẫn gắn bó hữu cơ - người đương thời gọi là phong cách thời đại. Trong cuốn sách đầy nhiệt tình tiến lên phía trước: lao động, lao động vượt mức kế hoạch, tiến trước thời gian! Con người ở đây hăng say lao động như một cơn lốc, cơn lốc của một điệu Vanxơ vui tươi và phấn kích... Lúc này V. Kataep cộng tác với báo “Pravda” và nhiều báo khác, ông có dịp lăn lộn trên khắp các ngả đường của đất nước, viết nhiều bài thơ cổ động phục vụ những nhiệm vụ cấp bách của Đảng, cả trong thời chiến cũng như trong lúc xây dựng hòa bình. Công cuộc lao động xây dựng đất nước đã mang lại cho ông nhiều cảm nghĩ vui tươi, nụ cười của ông trở nên lạc quan và châm chọc đúng chỗ. Ông viết những vở kịch vui “Hình vuông của hình tròn”, “Một triệu nỗi khổ cực”, “Con đường hoa” - ông tiếp tục chế giễu tên tiểu tư sản; mặc dù ông đã nhiều lần đọc điếu văn bên nấm mồ của hắn, vậy mà hắn vẫn ngoan cố, thay hình đổi dạng trở về bằng đủ mọi cách. Ông biểu lộ niềm sung sướng trước thắng lợi của cuộc sống mới, trước những đổi thay ngày một tốt đẹp hơn trong nhiều quan hệ giữa người với người bằng những sáng tác kịp thời. Đến đây bỗng nhiên ta thấy thêm một đổi thay bất ngờ. Khi ông đang say sưa bám sát thời gian và sáng tác theo nhịp độ của công trường, tìm thấy ở đấy những nguồn cảm hứng không bao giờ cạn, đang tiếp tục cười nhạo báng tất cả những gì lạc lõng, sai với nhịp bước của điệu Vanxơ thời đại kia, thì bỗng nhiên cuốn tiểu thuyết “Cánh buồm trắng cô độc” (1936) xuất hiện như một hành trình đường đột, bí mật quay lại thời thơ ấu xa xưa tưởng như đã lu mờ sau khói bụi của công trường và nhà máy - thời gian. Uống nước nhớ nguồn. Cái hôm nay đã bắt đầu từ đâu và bắt đầu như thế nào?! Ông quay lại quá khứ không phải “đơn giản” như người ta tưởng, và sự ra đời của cuốn “Cánh buồm trắng cô độc” cũng không phải là một “bỗng nhiên”, vì một nhà văn nghiêm khắc viết về quá khứ không thể là “bỗng nhiên”. Cuộc sống của ông diễn ra theo hai chiều đối nhau: chạy nhanh lên phía trước sánh bước với thời gian và đồng thời quay lại suy tư về những cái đã qua, đó quả là một quá trình lao động gian khổ: thu thập tư liệu, xác định tâm trạng - cái quyết định sắc thái của cuốn sách. Chính V. Kataep đã xác nhận rằng từ lâu ông vẫn hằng mong ước được hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình: - Năm 1905, một ngày tháng sáu oi bức. Trên kè đá bờ biển Ôđexxa chật ních người. Bầu không khí trầm lặng đầy vẻ lo âu, rùng rợn. Một chú bé tám tuổi, trố mắt ra vì kinh ngạc, cố lách mình qua đám đông, len lỏi đến tận hàng rào sắt. Chú bé nhìn thấy chiếc chiến hạm ba ống khói “Pôchômkin” với lá cờ đỏ tung bay trong gió đã nổi dậy và giờ đây đang tiến gần về phía bờ biển Ôđexxa, Và ông kể lại rằng: “Cả thành phố vui mừng chào đón tin nổi dậy của chiến hạm. Và từ giờ phút ấy trong tôi bắt đầu nhen nhóm một ý thức. - Hình ảnh kỳ diệu của con tầu “nổi loạn” cứ bám riết theo nhà văn trên mọi nẻo đường sáng tạo của ông. Nhưng thời thơ ấu ấy không phải chỉ là sự hồi tưởng cá nhân đầy xúc động, mà còn là một giai đoạn lịch sử đẫm máu. Về cái bi tráng của tháng năm này ông đã viết truyện ngắn “Rôđiôn Giukốp” (1926). Rôđiôn Giukốp là một trong 700 thủy thủ của chiến hạm “nổi loạn” “Pôchômkin” đã đổ bộ lên bờ biển Rumani. Sau đó họ tản đi khắp thế giới và không mấy ai biết đến số phận của họ ra sao nữa. Nhưng Rôđiôn Giukốp là một người không thể sống xa tổ quốc, biết là nguy hiểm anh vẫn tìm cách trở về. Anh đã trở về và sau nhiều ngày đêm lang thang trong thảo nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh đã bị bắt ngay trên bến cảng. Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp. Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của thời kỳ bí mật. Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật, những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức tối của lúc trời sắp nổi cơn giông. Ở đây không còn thấy cái nhịp điệu hối hả, dồn dập của bao sự kiện trong tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!”, không còn cái sắc thái bông đùa riễu cợt của những truyện ngắn thuở xưa. Ở đây đã hình thành một phong cách mới - một lối văn xuôi điềm tĩnh, trầm mặc với những sắc thái muôn hình muôn vẻ, một lối viết súc tích cổ điển, chú ý nhiều đến những chi tiết tưởng như vụn vặt, chẳng có gì quan trọng, nhưng lại là chất liệu tạo ra nội dung mềm mại của câu chuyện. Đó là những tình tiết hết sức thông thường và đồng thời cũng rất bất ngờ. Biển ở đây cũng sống một cuộc sống gắn bó với các nhân vật nhỏ bé và với những sự kiện vĩ đại. “Khi thì biển yên tĩnh, xanh biếc màu da trời, đôi chỗ có những dải nước lặng, trăng trắng như những con đường nhỏ. Khi thì nó rực lên một màu xanh lơ bừng chói lấp lánh. Khi thì nó dập dờn như những đàn cừu tung tăng đùa dỡn. Khi thì một làn gió mát thoảng qua, làm nó bỗng nhiên ngả sang màu chàm xẫm và xù lên như lông cừu bị vuốt ngược. Khi thì bão ập tới, biển thay hình đổi dạng nom đến đáng sợ. Một trận cuồng phong rồ lên một đợt sóng lớn. Trên bầu trời màu than chì, những con hải âu vừa bay vừa kêu la ầm ĩ. Những làn sóng hung cuồn cuộn đi và quăng quật dọc bờ biển một cái xác cá heo bóng nhẫy. Phía trên nhưng đám mây nâu của cơn bão biển, chân trời màu lá mạ sáng chói dựng lên như một bức tường lởm chởm. Những con sóng nhào đầy bọt hệt như tấm đá khổng tước chằng chịt những đường vân rộng trắng xóa, đâm xô vào bờ, vỡ tan ra, làm dội lên những tiếng ầm ầm như tiếng súng đại bác. Tiếng dội âm vang ngân lên trong bầu không khí đầy tiếng động inh tai. Bụi nước bắn lên, tạo thành một làn sương mù mỏng mảnh, rủ xuống như một tấm sa mỏng phơ phất trên suốt chiều cao đồ sộ của những bờ dốc đang rung chuyển. Nhưng vẻ mê hoặc chủ yếu của biển là trong khoảng không bao la của nó bao giờ cũng giữ kín một điều gì bí mật. Ánh lân quang của biển chẳng phải là điều bí mật sao, khi mà trong một đêm tháng sáu không trăng, bàn tay ta dúng xuống làn nước ấm đen sì bỗng sáng rực lên, lấp lánh những tia sáng xanh. Hay những đốm lửa chuyển động của những con tàu vô hình và những luồng sáng nhợt nhạt, bừng lên một cách chậm chạp của ngọn hải đăng chưa từng biết? Hay số hạt cát mà trí tuệ con người không thể nào đếm xuể? Cuối cùng là hình ảnh kỳ ảo của chiếc thiết giáp hạm nổi loạn có lần đã xuất hiện ở ngoài khơi xa tắp, chẳng phải là một điều hoàn toàn bí ẩn sao?” Đọc những đoạn văn trên đây ta có cảm tưởng rằng đó không thể là ký ức của nghệ sĩ dù là một nghệ sĩ từng trải và có tài, mà phải là cặp mắt trong sáng và tinh tường của một đứa bé mẫn cảm mới chộp nổi. Ngay từ những dòng đầu của tập I, “Sóng Hắc hải” đã được viết theo một phong cách khác hẳn, tạo nên một tâm trạng khác tất cả những gì ông đã viết, nhất là tiểu thuyết “Thời gian ơi, tiến lên!” Lối văn mô tả chậm rãi, dẫn dắt người đọc đi vào suy tư và hồi tưởng, trong đó hứa hẹn một cái gì chân xác và trữ tình. Chất thơ thấm vào các trang sách và tô điểm cho chúng bằng những màu sắc êm ái, làm cho chúng trở nên hấp dẫn và độc đáo: lúc vui, lúc buồn nhưng bao giờ cũng là sự chân xác lãng mạn. Trong hành động của hai đứa trẻ Pêchya và Gavrik tính tự nhiên không phải chỉ do logic nội tâm mà còn do cả logic cuộc sống riêng của chúng tạo nên: mỗi đứa một vẻ. Song đó cũng là cái logic, và tâm lý thông thường: trẻ con ở tuổi đó thường muốn bứt mình ra khỏi người lớn, muốn sống một cuộc sống độc lập, nhất là trong những hành động hấp dẫn của trẻ con, không muốn cái khôn ngoan chán ngắt của người lớn can thiệp vào. Càng nguy hiểm càng hấp dẫn, càng là việc làm vô cùng thích thú. Bí mật là cái gì đè nặng lên con tim đến ngạt thở, nhưng ngọt ngào xiết bao, cái hương vị của khám phá. Do đó chúng đã bị lôi cuốn vào cuộc cách mạng như tham gia vào một trò chơi thích thú đang tiếp diễn ở giai đoạn gay go, căng thẳng. Bị thua trắng tay trong cuộc chơi uski, Pêchya trở thành “nô lệ” của Gavrik và nó phải theo “hầu” ông chủ, tha cái túi nặng đầy tài sản uski lang thang khắp thành phố giữa lúc hỗn mang, chui rúc qua các ngõ hẻm heo hút và rùng rợn. Thoạt tiên Pêchya không biết cái túi nó mang trên lưng là đạn và việc luồn lánh qua các ngõ ngách kia là làm nhiệm vụ tiếp vận đạn dược cho những người khởi nghĩa đang chống cự với cảnh sát và quân lính chính phủ. Nhưng khi đã vỡ lẽ, nó lại hồ hởi tiếp nhận thêm nhiệm vụ mới. Bây giờ cố nhiên thằng bé đã hiểu rõ nó mang thứ uski gì. Giá vào lúc khác thì có lẽ nó đã vứt tuốt và chạy về nhà. Nhưng hôm ấy, mê say với cái công việc nguy hiểm nhưng hấp dẫn này; niềm mê say còn mãnh liệt gấp trăm lần những lúc ham chơi, nó nhất định không chịu bỏ bạn một mình. Nhưng ngay trong trường hợp này tác giả cũng không quên tuổi đời của nhân vật, tính hiếu danh trẻ con vốn có của lứa tuổi đó. “Hơn nữa, - nhà văn viết thêm, - nó không thể từ bỏ cái vinh quang của Gavrik. Chỉ riêng một ý nghĩ rằng sau này nó sẽ không có quyền kể lại những chuyện mạo hiểm của mình, đã lập tức buộc nó phải coi thường nguy hiểm”. Ở đây bộc lộ cái năng khiếu quan sát tinh tường của nhà văn: ông thận trọng quan sát, không bỏ sót một chi tiết nhỏ để nhận ra những tính chất mới, quan điểm mới đang hình thành trong tâm hồn thằng bé Pêchya, trong khi cuộc sống xung quanh hầu như vẫn bình thường. Tuổi thơ là tuổi của những tìm tòi, khám phá, và quả thực những khám phá vĩ đại đều bắt đầu ngay từ những bước đi đầu tiên, những tiếng nói đầu tiên trong đời người. Mỗi đứa trẻ đều tìm ra một châu Mỹ của mình, và tạo ra cho nó - cái châu Mỹ ấy, một cuộc sống riêng theo ý mình. Những cuốn sách về tuổi thơ là những cuốn sách về tìm tòi và khám phá cái mới - khám phá thế giới. Tuy nhiên bất kỳ một khám phá nào cũng đều xảy ra trong những giờ phút nhất định của lịch sử và trong những tình huống nhất định. Khi nhận ra cái túi nó mang trên lưng là đạn, Pêchya hiểu rõ rằng việc làm của nó và Gavrik không còn là trò chơi trẻ con nữa. Trong hai tập đầu của bộ sử thi “Cánh buồm trắng cô độc” và “Khu trại trong thảo nguyên” sự khám phá thế giới trong tâm hồn cậu bé diễn ra dưới ánh sáng của ngọn lửa cách mạng đang cháy lan ra khắp nước Nga. Thế giới hiện lên trong sự đổ vỡ khốc liệt của năm 1905. Những biểu tượng tưởng như không gì lay chuyền nổi của tuổi thơ về nước Nga, về Sa hoàng, về Thượng đế và về người bố thế là bắt đầu sụp đổ. “... Thì ra nước Nga là một nước bất hạnh, và ngoài bố ra còn có những người ưu tú nào đó đang chết mòn ở những nơi làm việc khổ sai. Thì ra Sa hoàng là thằng ngốc và một tên nát rượu, lại còn bị người ta dùng gậy tre đánh vào đầu. Ngoài ra, các bộ trưởng là những kẻ bất tài, các tướng tá là những kẻ bất tàỉ, và té ra không phải nước Nga đánh bại nước Nhật - điều mà cho đến nay không ai mảy may nghi ngờ - mà là nước Nhật đánh bại nước Nga. Và điều chủ yếu nhất là bố và bác đều nói về việc đó. Tuy nhiên, chính Pêchya cũng đã đoán được đôi điều. Trong bót cảnh sát, người ta nhốt những người hoàn toàn tử tế, không say rượu, thậm chỉ nhốt cả một ông già tuyệt diệu, mà còn đánh cả ông cụ nữa chứ.” Lưng đeo cái xắc cốt nặng, ngoan ngoãn theo Gavrik đi khắp hang cùng ngõ hẻm, lần đầu tiên Pêchya nhìn thấy cái cảnh bần cùng vừa đáng kinh sợ, vừa nên thơ của những khu phố nghèo của Ôđexxa, nhìn thấy cái tử thi có bộ mặt vàng ệch như sáp ong trong trận chiến đấu mà Pêchya có cảm tưởng như một trò chơi trẻ con. V. Kataep là một nhà văn hay viết về trẻ em và hai tập đầu của bộ bốn tập “Sóng Hắc hải” là những cuốn sách viết về niềm sung sướng đầu tiên của bản tính trẻ em và những đau khổ đầu tiên khi tiếp cận với sự thật. Trong cuộc đời của một đứa trẻ, và nhất là của một đứa trẻ mơ mộng, lãng mạn như Pêchya, thì liệu có những tấn bi kịch nào có thể so sánh được với những thất vọng đầu tiên, với việc phải đánh giá lại những giá trị đã ăn sâu trong ý niệm của nó! Cuộc sống không thương tiếc những ảo mộng. Đó là quá trình tất yếu, nhưng lại diễn ra khác nhau tùy theo môi trường của mỗi cá nhân và ảnh hưởng của lịch sử. Ở đây nhà văn phải dựng lại toàn bộ bối cảnh lịch sử và không khí xã hội của những năm ấy một cách chính xác: hoàn cảnh gia đình ông giáo Batsây, quanh cảnh đường phố Ôđexxa và tất cả những gì tạo nên môi trường vật chất và đạo đức của Pêchya. Nhưng tuổi thơ của Gavrik là căn lều nghèo nàn của ông lão đánh cá, ở đây không có chỗ cho những ước mơ và viễn tưởng rực rỡ. Viễn tưởng lãng mạn là cái cốt do môi trường của Pêchya tạo nên. Một chú bé được nuôi dưỡng trong môi trường chính trực, liêm khiết và yêu cái thiện, nó sẽ hướng về cái thiện, cái công bằng. Khi vào đời, cái sức mạnh vốn có của cái ác, mà cái ác bao giờ cũng có khuynh hướng chà đạp lên cái thiện sơ khai của con người, mới bắt đầu tác động đến con người. May mắn thay, vừa bước chân ra khỏi cửa, Pêchya đã gặp ngay Gavrik, một người bạn đường đáng tin cậy, một đứa trẻ nghèo mà tâm hồn trong sáng, ý chí thông minh, bản năng chiến đấu vượt lên trên những thiếu niên cùng lứa tuổi. Do hoàn cảnh gia đình, ngay từ tấm bé, Gavrik đã phải lăn lộn với thiên nhiên để kiếm sống và phải va chạm với đủ loại người, nó sớm trưởng thành và là một đứa trẻ tháo vát, có đầu óc thực tế. Ý thức đoàn kết và công bằng xã hội đã ăn sâu trong tâm khảm nó ngay từ tấm bé. Khi đưa Pêchya. đến tiếp xúc với những người lao động nó không quên giới thiệu: “Đây là con trai ông giáo Batsây” và “đó là một gia đình không có gì làm giàu sang, hiện đang gặp khó khăn.” Như một người lớn, chín chắn không phải do tuổi đời song Gavrik vẫn là một thủ lĩnh tí hon tinh nhanh và nghịch ngợm, nó luôn luôn tự hào với vai trò của mình trong đám trẻ con trên đường phố, nó cũng ham chơi, nhiều khi quên cả công việc. Sắc thái đó làm cho nhà văn có thể mang vào câu chuyện chút ít hài hước, làm cho “chú Gavrôs Tênarđiê của Ôđexxa” có sức cảm hóa đặc biệt. Gavrik tháo vát, đảm đang và chu đáo, Pêchya mơ mộng mà ngờ nghệch trước việc đời. Do đó trong tình bạn của chúng có cái gì thiếu bình đẳng. Những cái mà đứa con của đường phố Ôđexxa nhận thức một cách dễ dàng và chắc chắn thì đối với Pêchya - đứa con của một gia đình trí thức, một học sinh trường quốc lập, lại là một điều bí ẩn. Pêchya chỉ có mỗi một ưu thế là thầy dạy tiếng la tinh cho Gavrik. Tuy vậy Gavrik cũng không xem thường cái khôn ngoan thông thái của nhà trường. Đối với nó những kiến thức sách vở không phải là điều thích thú, nhưng nó hiểu được giá trị thực tiễn của kiến thức đó: cần học, học vẫn là điều bổ ích. Viết về tình bạn của hai đứa trẻ có cá tính khác nhau, được giáo dục trong những môi trường khác nhau, nhưng vẫn giữ được tình thân ái, ngay cả khi chúng đã khôn lớn, là một khó khăn lớn: tình bạn đó rất dễ rơi vào tình trạng gượng gạo, nhưng ở đây tác giả đã khắc phục được khó khăn ấy một cách tài tình. Cái khôn ngoan của Gavrik thường có giá trị thực tiễn hơn kiến thức sách vở của Pêchya, nhất là khi vấp phải những vấn đề không hề có trong giáo trình. Ở đây nhà văn đã giải quyết khá tốt vấn đề khác biệt giữa đôi bạn: dù ảnh hưởng của Gavrik đến Pêchya có mạnh đến mấy, dù tâm hồn của chàng thiếu niên mơ mộng và lãng mạn này có ngây thơ và trong trắng thế nào, dù Pêchya có hướng đến cái thiện, cái công bằng đến mấy thì nó vẫn là một đứa con cưng của một gia đình trí thức đang dao động; hoang mang trước thời cuộc. Mỗi đứa có một thế giới nội tâm riêng của mình. Khi nói đến gia đình Batsây, đến người chủ gia đình ấy, ngay cả khi họ đang gặp khó khăn như trong “Khu trại trong thảo nguyên”, V. Kataep vẫn tả với nụ cười vốn có của ông - nụ cười nhân từ, thấu hiểu, rộng lượng và có cái gì như ái ngại. Thực ra trong cái chất Đôngkisốt của Vaxili Pêtrôvits Batsây có cái gì vừa tức cười vừa cảm động, cũng như trong tình trạng tuyệt vọng của bà bác Tachyana Ivanôvna, khi phẫn nộ bà thốt ra một tràng những lời phỉ báng có tính chất chính trị của bà. Trong gia đình Batsây không phải tất cả bao giờ cũng rõ ràng và luôn luôn nổ ra những cuộc tranh cãi. Ở đây chủ nghĩa duy tâm không phải như một hệ thống triết học mà là một loạt những nguyên tắc sinh hoạt gọi là vô tư, trung thực, lề thói, những ý niệm cao cả về người trí thức và bổn phận, của nó. Với Vaxili Pêtrôvits hai tiếng “chính trị” cũng làm ông e ngại chứ đừng nói tới giai cấp và đấu tranh giai cấp. Thế nhưng trong gia đình ông hầu như người nào cũng thấy rõ cái ranh giới xã hội đã được bàn tay vô hình vạch ra giữa những con người: “Pêchya biết rằng chính ở đây, ở phía trên, bên kia đại lộ Nicolai là cái khu phố rực sáng, ồn ào, vô cùng quyến rũ, cao sang, huyền ảo mà trong gia đình Batsây người ta thường nói đến với một vẻ vừa kính trọng, vừa khinh bỉ là “Khu trung tâm”. Dĩ nhiên là gia đình Batsây không ở “khu trung tâm”. Ở đấy là “những người giàu có”, tức là những người đặc biệt, đi tàu bay hay xe đều đi vé hạng nhất, ngày nào cũng có thể đi xem hát, và không hiểu tại sao mãi bẩy giờ tối mới ăn trưa...” Nhưng không phải vì ghen tức mà ông bất mãn, ông Vaxili Bátsây vốn có thái độ ôn hòa, bất đối kháng, lý tưởng hóa cuộc sống - cái thái độ cố hữu của trí thức Nga. Nhất là ông, một con người nhân từ, đa cảm trong giọng nói thường nhiều nước mắt hơn là sắt thép. Nhưng khi phải đi đến quyết định: chỉ cần tỏ thái độ đầu hàng hay nhượng bộ trong phút chốc thôi để giữ cho cuộc đời yên hòa và sung túc, thì trong con người ông lại bộc lộ cái thái độ cứng rắn trước mọi thứ dọa dẫm và mua chuộc vì sự thánh thiện của đạo lý và vì lòng tự trọng. Cuộc sống nghiệt ngã, những bất công và đau khổ đã mở cho tầm mắt ông nhận ra cái bản chất của thứ uy lực tối thượng mà ông đang thờ phụng. Sau lần xung đột với thượng cấp, lần đầu tiên trong đời ông hiểu: “Ở nước Nga một khi đã ra làm việc Nhà nước thì không thể làm một con người ngay thẳng, không khom lưng cúi đầu được. Chỉ có thể là một quan chức đần độn của Sa hoàng, một viên chức không có ý kiến riêng của mình, chỉ biết tuân lệnh, tức là tuân lệnh quan trên, cho dù đấy là những mệnh lệnh bất chính và tội lỗi đi nữa. Với Vaxili Pêtrôvits, điều khủng khiếp nhất là tất cả cái đó lại bắt nguồn chính từ uy lực tối thượng của người đã được thượng đế ban cho ngai vàng để cai quản nước Nga”. Những giây phút tỉnh ngộ ấy hiếm hoi và quý giá vô cùng. Nó đã hướng ông Batsây đi vào một cuộc đời mới. Khác với gia đình ông Vaxili Batsây, trong xóm Cối xay Gần, ở cái thế giới người nghèo này của Gavrik, tất cả đều được thực hiện một cách dứt khoát, nhanh chóng, chắc chắn và không khoan nhượng. Ở đây, người ta không thừa nhận những cảm lụy, suy tư và dao động, ở họ - những người lao động bao giờ cũng sẵn sàng một quyết định hành động và ai cũng biết rõ là phải thực hiện quyết định đó như thế nào. Đối với V. Kataep, thì Rôđirôn Giukốp, Terenti, Tsernoivanepko, Gavrik và những chiến hữu của họ đều là những anh hùng. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” ảnh hưởng của Gavrik đối với Pêchya quá rõ ràng và cụ thể. Nhà văn đã bám sát đôi bạn của mình lang thang đi khắp chốn: trên bãi biển, trên đường phố và chui cả vào những ngõ ngách của Ôđexxa. Đối với Gavrik thì bãi biển, đường phố, xó chợ... chỗ nào cũng thân thuộc như trong căn lều rách nát của ông nó trước đây và ngôi nhà lụp xụp của anh nó hiện nay. Việc kiếm sống đã dạy cho nó tính tháo vát, khôn khéo, đôi khi ranh mãnh và tính thận trọng, đã khơi lên lòng căm thù. Do đó thái độ của nó rất dứt khoát: một lần thôi và suốt đời. Pêchya luôn luôn khâm phục cái khôn ngoan mà bạn nó đã học được trên đường phố. Và tất cả “những gì ở nhà đối với nó đều trở nên chán ngắt và vô vị, mặc dù nó rất yêu bố và bà bác “bướng bỉnh” của nó. Khi đến xóm Cối xay Gần, ở đây cái gì đối với nó cũng mới mẻ và mỗi lúc một khác. Nhưng nó không quay lưng lại với gia đình. Ngôi nhà, bầu không khí gia đình, những ảo tưởng của bố và lòng bất mãn cao thượng của bác là một dòng tư tưởng, những câu chuyện của anh Terenti, tấm gương của Rôđiôn Giukốp, những hoạt động của Gavrik lại là một dòng khác. Và hai dòng tư tưởng đó thoạt nhìn mới trái ngược làm sao. Trong cả bộ sử thi “Sóng Hắc hải” Pêchya luôn luôn là điểm xoáy của các luồng gió từ bốn phương thổi tới. Cuộc đời Pêchya: tham gia cách mạng, tham gia nội chiến và sau này tham gia cuộc chiến tranh yêu nước luôn luôn là sự tiếp diễn và phát triển của điểm giao lưu của các luồng tư tưởng đó. * * *       “Khu trại trong thảo nguyên” là tập thứ hai của bộ “Sóng Hắc hải” đã được mở đầu bằng cuốn tiểu thuyết mang cái tên thơ mộng “Cánh buồm trắng cô độc”, bắt nguồn từ chủ nghĩa lãng mạn trong sáng tô điểm cho những bước đi ban đầu ít nhiều có suy nghĩ của nhân vật trung tâm là Pêchya Batsây và tình bạn của nó với Gavrik Tsornôivanenko. Trong “Khu trại trong thảo nguyên”, vẫn thông qua cuộc sống của hai gia đình ông giáo Batsây và anh công nhân Tsornôivanenko mà tiêu biểu vẫn là Pêchya và Gavrik. V. Kataep tái hiện lại một cách chi tiết cuộc sống của Ôđexxa, của nước Nga và phong trào cách mạng Nga vào những năm 1910 - 1915, cũng như phong trào dân chủ trên quy mô thế giới, thông qua chuyến du lịch của ba bố con Batsây qua một số nước. Sau thất bại của cuộc cách mạng 1905, chính phủ Nga hoàng tăng cường đàn áp phong trào công nhân và truy lùng những người hoạt động cách mạng, Đảng rút vào hoạt động bí mật, đồng thời kết hợp với hoạt động công khai: sự ra đời của tờ báo “Sự thật” và việc chuẩn bị đưa người ra tranh cử vào viện Đuma. Chính việc kết hợp giữa hoạt động hợp pháp với hoạt động bí mật là nét đặc trưng của giai đoạn cách mạng này giai đoạn chuẩn bị điều kiện cho một cuộc cách mạng mới, - cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong những chương đầu của “Khu trại trong thảo nguyên”, vốn là một người trí thức Nga trung trực, một con chiên ngoan đạo, một người yêu nước theo kiểu thánh đường và hết mực tin yêu Sa hoàng, ông giáo Batsây ra sức bảo vệ nhà thờ và nhà nước với tấm lòng chân thiện của một nhà sư phạm mẫu mực. Ông làm ngơ trước mọi hoạt động của những người cách mạng, tuy không chống đối nhưng cương quyết không tham gia và cũng không để họ lợi dụng mình vào mục đích “chính trị” của họ. Hai chữ chính trị bao giờ cũng làm ông bối rối, ông xa lánh nó như người ta xa lánh những kẻ nhiễu sự. Ông không muốn ai quấy rầy cuộc sống “lương thiện” và yên hòa của gia đình ông. Nhưng sự thật đã không như ông tưởng! Trước cái tang lớn của nước Nga - nhà văn vĩ đại Lep Tônxtôi từ trần, ông đã đọc bài diễn văn tưởng niệm - “Mặt trời của nước Nga đã tắt” trước học sinh. Nhưng việc làm trung thực của ông lại trái với “nghĩa vụ” của người viên chức nhà nước, lại là hoạt động chống đối chính phủ. Giữa L. Tônxtôi và nhà nước thì chân lý ở đâu? Một câu hỏi hiện lên và niềm tin của ông bắt đầu lung lay. Còn nhà thờ ư? Sau lần tiếp xúc với lão linh mục đại diện cho nhà thờ ở nghĩa trang, bên nấm mồ của vợ ông, ông thấy rõ đó chẳng qua cũng chỉ là trò xảo trá! Và niềm tin của ông tiêu tan. Sau câu nói “kháng cự” đầy công phẫn: “Ngài làm nhục tôi!” ông bắt buộc phải thôi việc. Sau lần tống cổ tên hối lộ Blagienxki ra khỏi nhà, ông trở nên thất nghiệp và lần này thì vô phương cứu chữa. Ông hiểu ra rằng chẳng qua mình chỉ là một “tên nô lệ”. Tiếng ấy đúng nhất. “Thoạt đầu tôi là tên nô lệ của Bộ giáo dục nhân dân mà đại diện là Xmôlianinôp, đốc học ty giáo dục và y đã đuổi tôi như đuổi một con chó, bởi vì tôi đã cả gan có ý kiến riêng về Tônxtôi. Sau đó tôi trở thành nô lệ của Faigơ, kẻ cải đạo và là kẻ đầu óc thô thiển, y cùng đuổi tôi như đuổi con chó, bởi vì lương tâm tôi không cho phép tôi ghi điểm ba cho Blagienxki, một tên dốt đặc và ba hoa, trong khi người ta muốn tôi cho hắn điểm ba chỉ vì một lý do duy nhất hắn là con trai một nhà triệu phú. Tôi muốn nhổ toẹt vào mặt cả Xmôlianinôp lẫn Faigơ, và đồng thời phỉ nhổ cả toàn bộ chính phủ Nga! Và nếu ở nước Nga ta không thể không làm nô lệ cho kẻ khác, thì thà tôi làm một tên nô lệ bình thường, còn hơn làm tên nô lệ trí thức. Ít ra thì tôi còn giữ được sức sống cho tâm hồn tôi...” Theo sáng kiến của bác Tachiana Ivanôvna - gia đình Batsây thuê khu trại trồng cây ăn quả trong thảo nguyên với ý định cứu sống gia đình bằng lao động của mình. Nhưng trong một xã hội mà quan hệ giữa người với người là chó sói, thì gia đình ông làm sao tránh khỏi tai họa khánh kiệt. Ở đây lại xuất hiện mụ Xtôrôgienkô, một nhân vật hắc ám, ngày xưa buôn hàng cá, đã cướp cơm của ông cháu Gavrik và bao người khác, giờ đây lại chuyển sang buôn trái cây, đang ra sức dìm giá vườn quả của gia đình Batsây với ý định cướp trắng cả vụ trái cây lẫn khu trại. Nhưng mụ đã vấp phải kẻ thù cố cựu của mình: Gavrik. “Có điều hồi xưa nó bé tí và bất lực, mụ muốn làm gì nó thì làm, nhưng giờ đây nó đã hoàn toàn khác, và do bản năng mụ đánh hơi thấy nó có sức mạnh nguy hiểm chưa rõ đến mức nào”. Phải chăng đó là sự lớn mạnh của phong trào cách mạng, đã đến lúc làm cho kẻ thù kiêng nể. Những cuộc tìm kiếm để xây dựng cuộc sống điền viên, những lo âu và xung đột của Vaxili Batsây rút cục cũng có cái gì giống với tính chất lãng mạn tích cực của những người trong ủy ban bí mật. Giữa ông giáo Batsây và họ có những cái giống nhau: họ có chung một kẻ thù. Trong lúc gia đình Batsây đã bó tay trước sự chèn ép của cái xã hội “cá lớn nuốt cá bé”, mọi người đã an phận chờ đợi cái tai họa phải đến, thì vào một buổi sáng đẹp trời anh em công nhân ở Xóm Cối xay Gần đã đến giúp gia đình Batsây thu hoạch vụ trái cây theo lệnh của ủy ban bí mật. Ở đây có một cái gì rất cảm động, phóng khoáng như một khúc ca đồng nội. Và để trả công, - theo nguyên tắc có đi có lại, ông giáo Batsây giảng cho anh em công nhân một số bài học phổ thông về lịch sử, địa lý, văn học... Sau cái phút tỉnh ngộ kia giờ đây đã đến lúc ông dậm chân quật vào mặt bọn cảnh sát khi chúng ập đến muốn phá rối cuộc sống điền viên của ông “Tôi yêu cầu những người lạ mặt đêm hôm không được xộc vào trang trại của tôi”. Phút tỉnh ngộ đã đưa đến bước ngoặt lớn là sự giác ngộ tư tưởng của ông. Hành động đó làm ta liên hệ tới hành động của ông cách đấy mấy năm (“Cánh buồm trắng cô độc”): chính ông đã che chở cho anh lính thủy của chiến hạm Pôchômkin là Rôđiôn Giukốp thoát khỏi sự truy nã của cảnh sát - lúc này, hành động của ông mới xuất phát từ lòng nhân từ. Về Rôđiôn Giukốp khi anh ra đi thì “Thuyền ai thấp thoáng lẻ loi cánh buồm!” (“Cánh buồm trắng cô độc”) và giờ đây anh trở về thì mặt biển nhộn nhịp những cánh buồm. Khi ra đi anh chỉ là anh lính thủy quả cảm được ông cháu Gavrik cứu sống, giờ đây anh trở về với tư cách là đại diện của Ban chấp hành Trung ương Đảng công nhân xã hội dân chủ. Còn ông giáo Batsây thì đứng nghe anh nói chuyện về “tình hình chính trị” một cách chăm chú đến nỗi Pêchya đi ngang qua và chạm vào người ông cũng không hay. Và trong mỗi mắt kính của ông “lấp lánh một đốm lửa nhỏ”. Chính những tình tiết này làm cho câu chuyện dịu dàng và hấp dẫn về đôi bạn tâm giao trở thành câu chuyện về sự tất yếu của cách mạng, về sự hấp dẫn tất nhiên của cách mạng đối với những tinh hoa của xã hội và của mỗi con người dù đó là cậu học sinh hay ông giáo trung học. Trong cả hai tập “Cánh buồm trắng cô độc” cũng như “Khu trại trong thảo nguyên”, thời đại được quan sát và mô tả một cách xúc động dưới con mắt của những người sống trực tiếp trong các sự kiện. Trong “Khu trại trong thảo nguyên” gia đình Tsornôivanenko hầu như không có gì thay đổi, ngoài việc Gavrik bỏ nghề đi biển và sau khi đã làm đủ nghề để cuối cùng trở thành thợ sắp chữ học nghề. Việc vào nghề in của nó cũng là do yêu cầu của cách mạng. Ở đây thông qua việc mô tả sinh hoạt của gia đình Tsornôivanenko và quan hệ của Terenti để nói lên phong trào công nhân và ngư dân Ôđexxa. Trong trường học nhân dân của ông giáo Batsây, ngoài Terenti ra, còn thấy bác lính thủy già Fêđia, anh Akim Perepelitxki. Và ở đây việc xuất hiện thêm một nhân vật mới: bà quả phụ Pavlôpxkaia, làm cho trường học của ông Batsây trở thành như một nhóm nghiên cứu chủ nghĩa Mác trong phong trào công nhân. Khi Rôđiôn Giukốp nhảy lên con thuyền nhỏ nhoi một mình một bóng vượt biển khơi thì Pêchya mới lên tám. Vào năm Lép Tônxtôi qua đời Chương mở đầu của “Khu trại trong thảo nguyên” Pêchya đã 13 tuổi, nó đã có những hồi tưởng. Những sự kiện rối ren nó không thể nào gỡ ra được. Trong đầu nó đã có nhiều điều đáng suy nghĩ hơn là cuộc chơi uski thua lỗ. Nhìn cảnh tượng thành phố trong những ngày có tang bỗng nhiên quá khứ trở về xâm chiếm tâm hồn nó: “bầu không khí lo âu và rùng rợn của “năm thứ năm”, Nỗi lo âu đó khi tỏ, khi mờ đã xuyên suốt cuốn tiểu thuyết thứ hai “Khu trại trong thảo nguyên”. Không gian đã mở rộng ra ngoài phạm vi Ôđexxa. Đi du lịch ra nước ngoài ba bố con ông Vaxili Batsây tiếp xúc với thế giới bao la đủ màu sắc, với nhiều dân tộc và tiếng nói khác nhau, sức tưởng tượng vô hạn và không biết mệt của tuổi thơ bừng lên trước vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ và đầy rẫy những cái bất ngờ hiện lên sau khung cửa tàu xe. Vẫn với nụ cười nhân hậu, nhưng cũng rất hóm hỉnh, tác giả mô tả tình cảm của Pêchya với cô bé người Nga mà nó vừa nhác thấy trên sân ga nước người. Tình cảm say đắm ấy nảy sinh có lẽ vì đã lâu nó chưa được gặp người bạn gái nơi quê nhà. Chúng ta đã mấy ai không có một thời muốn giấu đi “cái đuôi trẻ con” bằng cách cố làm ra vẻ mình là người lớn: từ lời ăn tiếng nói đến dáng điệu, nhất là khi tiếp xúc với bạn nữ. Những cảm giác mơ hồ nhưng vấn vương bồi hồi, khi ta đi bên bạn ở chỗ vắng người, những cảm xúc làm bật ra những ý thơ tuyệt vời mà cho đến lúc đã làm người bố ta vẫn còn thấy xốn xang mỗi khi nhớ lại. Những cảm giác thơ ngây, trong trắng ấy - vào cái thuở chuẩn bị làm người lớn ấy, ta cứ thích gọi là “tình yêu”. Có thể đó sẽ là tình yêu, nhưng không hẳn. Ở đây ta lại thấy nụ cười của V. Kataep khi ông mô tả những xúc cảm yêu đương của cậu học sinh mơ mộng Pêchya Batsây với Môchya và Mariana. Nhưng đối với cậu thiếu niên Gavrik không được học như trẻ khác vì hoàn cảnh gia đình thì lại khác. Niềm khao khát của cậu là được học. Cậu sẵn sàng bỏ những đồng Kôpếch rất khó kiếm và cũng rất cần để nuôi sống gia đình, để trả tiền học phí. Cậu cũng muốn tỏ ra mình là người lớn, nhưng khác với Pêchya, cậu muốn mình là người lớn để làm được những việc lớn hơn. Chính Gavrik đã quắc mắt tống cổ mụ Xtôrôgienko ra khỏi trang trại của ông giáo Batsây. Tuy nhiên, đối với Pêchya trong số những tình tiết dịu dàng và vui vẻ, trong cái ống kính vạn hoa các ấn tượng cứ luôn luôn thay đổi một cách nhanh chóng, qua cả một dòng ngôn ngữ xa lạ đầy huyên náo trên đường du lịch, đôi khi vẫn thoáng hiện lên nỗi lo âu mơ hồ, những phong thanh về đời sống của nước Nga xa xôi và khuất nẻo. Nỗi hốt hoảng của Pêchya khi nó bỏ quên ở tiệm cà phê chiếc mũ lính thủy mà b&a

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chị Em Thù Hận - Janet Dailey
Janet Anne Haradon Dailey (21/5/1944 - 14/12/2013) là một tác giả Mỹ về nhiều tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Janet Dailey. Các tiểu thuyết của cô đã được dịch sang hơn 90 ngôn ngữ và đã bán được hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới. Dailey vừa là một tác giả vừa là một doanh nhân. Dailey luôn muốn trở thành một nhà văn và yêu sách. Ba chị gái của bà thường đọc cho bà khi còn là một đứa trẻ. Đến năm 4 tuổi, bà đã có thẻ thư viện riêng của mình.  Bà tốt nghiệp năm 1962 tại Trường Trung học Jefferson ở Independence, Iowa và làm việc cho một công ty xây dựng thuộc sở hữu của người chồng tương lai của cô, Bill Dailey, hơn bà 15 tuổi. Hai người tiếp tục làm việc cùng nhau, thường dành 17 tiếng một ngày, 7 ngày một tuần làm việc và kết hôn năm 1964. *** Các tác phẩm của bà đã được dịch và xuất bản tại Việt Nam, bao gồm: Bến Hẹn Chị Em Thù Hận Chỉ Vì Yêu Chuyện Tình Dưới Nhành Cây Tầm Gửi Con Đường Đêm Điểm Hẹn Của Tình Yêu Giông Tố Thảo Nguyên Hai Chị Em Hoa Thảo Nguyên Khung Trời Quyến Rũ Ngôi Sao Đơn Độc Ngựa Hoang Sự Lựa Chọn Cuối Cùng Tình Địch (The Rivals In Love) Vũ Hội Hoá Trang *** Dạo này hết truyện Tàu hấp dẫn, tôi lại lượn một vòng qua truyện Tây, cuối cùng là dừng lại ở cuốn tiểu thuyết tình cảm đầu tiên (kể cả Tây lẫn Tàu) mà tôi đọc. Tôi nhớ đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi đọc sau khi tôi bắt đầu học đại học, và đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên tôi mượn ở Thư viện Tổng hợp Tp.HCM. Bản lúc đó tôi đọc khá cũ kỹ, và có một số trang đã bị xé bỏ. Mãi sau đó vài năm tôi mua cuốn truyện này khi tái bản thì tôi mới biết là mấy trang đó là mấy trang có đôi chút nóng bỏng, tính ra cũng chẳng đáng kể gì nếu so với những truyện được xuất bản mấy năm gần đây. Truyện này nội dung không phức tạp lắm, nhưng nó không hẳn là truyện chỉ có yêu đương nam nữ. Có thể nói là nhân vật chính trong truyện là hai người phụ nữ, Abbie Lawson và Rachel Farr, họ có thể xem gần như là chị em sinh đôi, bởi họ được sinh cùng ngày, giống nhau đến mức đáng ngạc nhiên, và họ có cùng một người cha là Dean Lawson. Dean có một cuộc hôn nhân không hạnh phúc với người vợ chính thức, có một tình yêu lớn của đời ông với một người họa sỹ. Vì nhiều lý do nên ông chọn duy trì cuộc hôn nhân với người vợ nhưng đồng thời ông cũng qua lại với người tình của ông, nhiều người biết điều đó, và quan trọng hơn là những người trong cuộc chấp nhận điều đó. Cho đến một ngày Dean bất ngờ ra đi do một tai nạn sau chuyến đi thăm người con ngoài giá thú là Rachel Farr, người con được thừa nhận của dòng họ Lawson là Abbie Lawson mới biết được sự thật rằng cô không phải là người con duy nhất, và rằng những nghi ngại trước đây trong tình cảm của ông dành cho cô đã được sáng tỏ. Mâu thuẫn giữa hai người con gái càng được đẩy lên cao hơn khi Rachel Farr được thừa hưởng một quỹ ũy thác hàng triệu USD, còn Abbie cùng mẹ của mình được thừa hưởng toàn bộ tài sản hiện có của dòng họ nhưng kèm theo một khoản nợ khổng lồ mà nếu không bán tất cả tài sản ấy đi thì không thể nào thanh toán được khoản nợ ấy. Rachel Farr được sinh ra và ở với mẹ của cô ở California, nơi cách xa dòng họ Lawson, đồng nghĩa với cách xa người cha mà cô yêu quý. Với số lần ít ỏi đến thăm của người cha, cùng với niềm đam mê nghệ thuật của người mẹ, Rachel cô đơn trong cuộc sống suốt 27 năm của mình. Những món quà có giá trị của Dean luôn là những thứ được dùng để khỏa lấp đi sự mặc cảm vì không được gần Rachel, nhưng không ai biết rằng cô lại căm ghét những món quà ấy như thế nào. Tất cả những gì cô muốn chỉ đơn giản là được yêu thương thực sự. Mẹ của Rachel là người có thể từ bỏ tất cả mọi thứ vì đam mê của bà, còn Dean lại có trách nhiệm với gia đình lớn của ông. Rachel luôn cảm thấy bị bỏ lại đằng sau rất nhiều thứ quan trọng hơn, cô không được ai cần đến. Mặc cho cha mẹ cô đều nói rằng cô là đứa con của tình yêu, nhưng cô không cần như vậy, cô muốn được thừa nhận, dần dần Rachel tự ti, mặc cảm và sống trong thế giới lẻ loi một mình cô. Sự ra đi của Dean cùng với gia sản cô được hưởng đã giúp Rachel thực hiện được những ước mơ mà cô hàng theo đuổi. Một kế hoạch về một trang trại ngựa danh tiếng của cô, được bước vào thế giới của Dean, hơn thế nữa cô còn có thể thừa hưởng một cách công khai River Bend – tài sản bao đời của dòng họ Lawson. Lane Canfield đã giúp Rachel có được điều cô mong muốn một cách suôn sẻ hơn, giúp cô thực hiện được các ước mơ của cô dễ dàng hơn, đồng thời cũng cho cô được hưởng những ấm áp từ tình yêu thương thật sự, cho cô một danh phận và một gia đình thực sự. Cuộc sống của Rachel như bước sang một trang mới hoàn toàn, trở thành một bà Canfield mà người ta ngưỡng mộ, có mọi thứ mà người khác mong muốn, không còn là một Rachel trong vỏ ốc của riêng mình nữa.  Abbie Lawson lại hoàn toàn khác Rachel, kể cả hoàn cảnh sống lẫn tính cách. Nếu Rachel nhút nhát, tự ti bao nhiêu thì Abbie lại cứng rắn và tự tin bấy nhiêu. Sự ra đi của Dean cùng với những bí mật được mở toang ra sau đó đã khiến cho thế giới vốn có của Abbie sụp đổ hoàn toàn. Không còn sự sung túc giàu có, cũng không còn River Bend cùng những con ngựa mà cô yêu quý, cuộc sống trước đây của cô đã chấm dứt hoàn toàn. Nhưng có lẽ những vật chất ấy không khiến cho Abbie đau khổ như khi những yêu thương cô đang có và gia đình hạnh phúc êm ấm của cô không như cô tưởng, những tình cảm ấy hóa ra lại giả dối khiến cho Abbie không chịu đựng được. Abbie không chấp nhận được sự phản bội, ngay cả trước khi Dean ra đi. Sự phản bội của người chồng khiến Abbie không băn khoan chút nào khi chọn giải pháp ly hôn, trong khi cha mẹ cô vẫn âm thầm chấp nhận tình trạng đó. Họ thỏa hiệp với phản bội, nhưng Abbie thì không. Abbie yêu thương và kính trọng Dean hơn bất cứ người nào khác, nhưng cô luôn nhận ra sự xa cách của ông dành chô cô, luôn có một thứ gì đó ngăn cách, Abbie luôn cảm thấy ông tìm kiếm điều gì đó ở cô, là ông đang nhìn cố nhưng lại như đang ngắm nhìn một người khác vậy. Sự thật sau đó đến quá nhanh cùng với đau lòng khi Dean ra đi, chật vật cùng với món nợ mà ông để lại, rồi lại chu toàn mọi thứ trong phạm vi tốt nhất có thể, Abbie từ một tiểu thư quyền quý trong giới quý tộc Taxas  rất nhanh chóng đã trở thành một cô gái gần như chỉ có bàn tay trắng. Nhưng trong chính lúc khốn khó ấy Abbie đã gặp được Mac Crea Wilder. Vấp ngã một lần trong hôn nhân của bản thân và những mặt tối trong cuộc hôn nhân của cha mẹ không khiến Abbie mất niềm tin vào tình cảm, nhưng bây giờ tất cả mọi thứ của cô không thể liên quan đến Rachel Farr, mọi thứ liên quan đến cô gái đó đều khiến lòng đố kị của Abbie không thể ngủ yên được. Chính lòng đố kị đó đã che mờ đi rất nhiều thứ khác, bao gồm luôn cả tình cảm mà Mac dành cho cô. Tình cảm của Mac Crea Wilder và Abbie giống như rất nhiều chuyện tình phương Tây khác, đó là sự hấp dẫn về giới tính trước khi có được tình cảm thực sự. Nhưng chỉ có Abbie là khiến Mac lưu luyến mãi không thôi. Cô nồng nhiệt trong tình cảm nhưng đồng thời cũng rất lý trí khi xác định vị trí của mình, cô có niềm đam mê mãnh liệt đối với ngựa nhưng khi phải rời xa River Bend thì cô đã cố gắng để giữ lại được món quà tặng của Dean, cô thông minh nhưng đôi khi mất lý trí chỉ bởi những chuyện chẳng liên quan gì đến nhau, miễn là chuyện đó có liên quan đến Rachel Farr. Không giống như Lane Canfield cho Rachel Farr mọi thứ cô cần, cô mong ước, Mac ở thời điểm gặp Abbie không thể  Abbie điều gì cả ngoại trừ tình cảm của anh. Và Abbie cũng không có vỏ bọc yếu đuối và tự ti của Rachel để khiến anh phải chiều chuộng như Lane đã làm. Abbie ngang ngược và Mac còn hơn thế nữa, nhưng những lúc cô mệt mỏi, cô cần một bờ vai thì anh đã đến bên cô, cho cô dựa dẫm vào bản thân, lặng lẽ canh giấc ngủ cho cô, dịu dàng với cô những lúc cần thiết. Sự đố kị giữa Rachel Farr và Abbie không những giảm bớt đi mà ngày càng sâu đậm hơn. Từ những hụt hẫng về tình cảm mà bấy giờ 2 cô gái mới sáng tỏ, cho đến chênh lệch giữa khoản thừa kế là một quỹ ủy thác và một món nợ khổng lồ, sau đó nữa là ngôi nhà mà bao đời dòng họ Lawson đã sống buộc phải bán để trả nợ và trớ trêu thay là Rachel đã mua nó bằng chính khoản tiền mà cô được thừa kế. Sau tất cả, một tai nạn đã xảy ra và River Bend bị thiêu rụi ngay sau khi Rachel sở hữu. Tất cả những điều đó đã làm cho sự đố kị ấy trờ thành thù hận khó có thể xóa bỏ được giữa 2 người. Mà nạn nhân đầu tiên chính là Mac Crea. Ngay lúc anh hỏi cưới Abbie thì cũng là lúc mối quạn hẹ giữa họ chấm dứt, bởi những mối làm ăn của anh có liên quan đến Lane, đồng thời liên quan đến Rachel. Nhiều năm sau khi tất cả mọi người đều đã bắt đầu yên vị với một cuộc sống mới, Abbie cố gắng làm mọi thứ để có được một trại ngựa của riêng mình, Mac Crea trở thành một triệu phú mới nổi trong giới dầu mỏ, và Rachel với sự giúp đỡ của Lane có thể làm mọi điều với niềm đam mê ngựa đẹp của cô, nhưng mối hận giữa hai cô gái vẫn hiển hiện. Cùng một đam mê về ngựa nên họ không thể tránh được những lần đụng độ nhưng họ biết kìm chế hơn trước. Cuộc hôn nhân giữa Lane và Rachel không được suôn sẻ như trước. Lane mải mê với công việc của ông, những khoảng thời gian trống ông luôn dành cho đứa con trai giữa hai người. Những mặc cảm khi không được ai cần đến lại quay trở về với Rachel, cô yêu Lane nhưng cô cảm thấy đối với ông thì cô không quan trọng đến vậy, ngay cả đứa con trai của hai người cũng xa lánh cô, con của cô nhưng lại sợ ngựa vô cùng. Gia đình ấy mỗi người một thế giới của riêng mình, Lane quay cuồng với công việc, đứa con trai gửi trường nội trú, và Rachel cảm thấy cô đơn trong chính ngôi nhà của mình. Có lẽ sự chênh lệch tuổi tác khiến Rachel và Lane không có được tình yêu nồng cháy như các cặp đôi trẻ khác, ít nhất là trong đời sống tình dục. Sự săn đuổi của Tips khiến Rachel cảm thây xao lòng bởi được chăm sóc, được theo đuổi và được yêu thương trong lúc cô đơn. Quan hệ ngoài luồng ấy dường như là một điều tất yếu sẽ phải xảy ra vậy, Lane biết nhưng ông không ngăn cản sự phản bội ấy, bởi ông biết có những điều ông không thể cho Rachel được, chỉ cần cô yêu ông, và quay về bên ông là được. Abbie có một cuộc hôn nhân toan tính với Dobbie – người hàng xóm yêu cô tha thiết từ thời trung học – để che đậy bào thai đang từ từ lớn lên trong cô. Abbie muốn có đứa bé nhưng cô không chấp nhận quay lại với Mac Crea, cũng không thể làm mẹ đơn thân bởi dòng họ cô có quá nhiều điều để mọi người bàn tán trong thời gian ấy. Dobbie là sự lựa chọn hoàn hảo trong thời điểm ấy bởi anh quá yêu cô. Nhưng cuộc hôn nhân này không thể bền vững được khi mà Dobbie chỉ muốn vợ là một bà nội trợ, keo kiệt trong chi tiêu, trong khi Abbie có niêm đam mê quá lớn đối với ngựa, cô cũng không muốn bó buộc cuộc sống trong bếp. Những tranh cãi của họ luôn xảy ra, và cuộc hôn nhân lúc nào cũng như bên bờ vực.  Mac Crea gặp lại Abbie trong một lần thi ngựa đẹp, sau bao nhiêu năm gặp lại cô thì anh phát hiện ra rằng mình vẫn còn yêu cô nhiều như thế nào. Nhưng lần này thì khác, anh sẽ không để cho cô quyết định chuyện giữa họ nữa, anh muốn cô, và anh muốn có gia đình của mình. Đã qua thời nay đây mai đó, với địa vị hiện tại Mac Crea có thể ở một chỗ, cũng có thể cắt đứt mọi làm ăn liên quan đến vợ chồng Lane Canfield – một điều để đảm bảo mối quan hệ lâu dài giữa anh và Abbie. Có lẽ thực sự Abbie may mắn hơn Rachel khi có được tình yêu của Mac Crea và người bạn già thân thiết Bend. Hai người đàn ông ấy đã giúp cô nhận ra được tình cảm của Dean dành cho cô, xóa bỏ dần những thù hận mà cô dành cho Rachel.  Nhưng Rachel lại không được như vậy, cô có được tình yêu từ 2 người đàn ông nhưng lại vẫn cảm thấy cô đơn. Họ biết cô thù hằn với Abbie, biết rõ nguyên nhân nhưng không một ai kiên quyết khuyên nhủ cô giống như Bend và Mac Crea đã làm đối với Abbie. Và sự thù hận ấy ngày càng ăn sâu nhiều hơn vào trong suy nghĩ của Rachel, để rồi chính sự ghen ghét ấy đã dẫn đến những quyết định sai lầm của cô. Chỉ đến khi chuẩn bị lìa xa thế giới, Rachel mới kịp nhận ra tình yêu của mình ở nơi nào, và thù hận kia không đáng để cô phải trả giá nhiều như vậy. Sau tất cả, Dean đã đến đón cô đi trước. Thực sự truyện này có thể không hay đối với nhiều người, nhưng không hiểu sao tôi cứ ấn tượng mãi với suy nghĩ của 2 nhân vật về tình cảm trong gia đình. Abbie nghĩ rằng trong một gia đình thì những đứa con không thể có được tình yêu đồng đều như nhau từ cha mẹ được. Mac Crea nói với Abbie rằng, cha mẹ yêu mỗi đứa con theo những cách thức khác nhau mà thôi. reviewnovelbygiangkt1.wordpress.com Mời các bạn đón đọc Chị Em Thù Hận của tác giả Janet Dailey.
Cái Bóng - Khôi Vũ
rời mưa rất lớn. Vẫn là một cơn mưa tháng tám miền Đông Nam bộ với những hạt mưa nặng chen chúc nhau dữ dội. Dông gió quấn quít với mưa như đôi nam nữ say tình lăn qua những vòm cây mái nhà ngã nhào xuống những con đường ngang dọc chằng chịt trong khu công nghiệp chẳng còn ai quằn mình chơi trò trốn tìm với sấm chớp ầm ào truy đuổi. Cây đa cổ thụ trước khu văn phòng xí nghiệp sừng sững như một trái núi chỉ thấy những bộ rễ chùm từ trên cao thòng xuống ngả nghiêng theo chiều gió trong khi tàn cây như cái mũ nấm khổng lồ thì chống cự dũng mãnh với cơn mưa. Đột nhiên một tiếng sấm ì oàng xé tai cùng luồng sét lóa mắt phóng thẳng từ trên bầu trời đen kịt và ướt đầm xuống cây đa cổ thụ. Cả cái khối tưởng vững vàng như núi ấy bị xé làm hai mảnh đổ bật ra hai phía. Một nửa của nó ngã đè lên tòa nhà hai tầng của khu văn phòng đúng vị trí một căn phòng rộng phía trên cửa ra vào có tấm bảng nhỏ màu xanh dương nổi lên hai chữ trắng: "Giám đốc". *** Khi cô nhân viên trực tiếp tân hỏi Tư Thanh nói cần ba phòng. Anh nhận ba chùm chìa khóa trao cho cậu lái xe một Út Minh một và giữ lại chùm chìa khóa cuối cùng rồi nói với Chuyên: - Tôi với cậu ở chung phòng... Út Minh hiểu ý chồng trong khi kỹ sư Chuyên không giấu sự ngạc nhiên: - Ồ! Sao lại vậy hả anh Tư? Tư Thanh một tay khoác vai Chuyên một tay xách túi hành lý ghé đầu nói nhỏ với Chuyên: - Tôi với bả ở chung gần hai chục năm nay rồi đêm nay có xa nhau thì đã sao mà cậu phải lo cho tôi! Tư Thanh thử một loạt các thiết bị dùng điện. Đèn trần đèn ngủ đèn toa-lét tủ lạnh ti-vi và cả hai ổ cắm điện trong phòng. Cuối cùng anh mở máy lạnh chọn nhiệt độ 20. - Cậu không ưa lạnh lắm phải không? Vậy cậu nằm ở giường kia bên cạnh cái bàn viết đó. Tôi khoái lạnh để tôi nằm cái giường sát máy lạnh... Chuyên làm theo lời Tư Thanh như một cậu em. Người đàn ông ngoài năm mươi này thời gian gần đây bỗng có nhiều đổi khác. Anh ta hoạt bát hẳn lên so với cũng con người đó trước kia thường trầm lặng. Kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân vừa qua sắp xếp lại nhân sự ở văn phòng Ủy ban nhân dân thành phố Tư Thanh được cử vào nhiệm vụ Phó Văn phòng. Ra thành phố biển Vũng Tàu lần này Tư Thanh là người mời còn Chuyên là khách. "Bọn mình đàn ông với nhau nói chuyện dễ thông cảm hơn". Tư Thanh nói vậy khi điện thoại mời Chuyên đi chơi hai ngày cuối tuần. Anh hỏi lại: "Nhưng sao lại có việc đột xuất này?". Tư Thanh cười trong máy: "Cũng tại cái lá đơn xin nghỉ việc ở Sao Mai của cậu thôi. Này cậu nghe tôi nói đây cậu không được từ chối lời mời của tôi đó!". - Cậu Chuyên! Tụi mình qua rủ bà xã tôi đi tắm biển đi... Tắm xong về ăn cơm mới ngon... Tôi biết có một phố phía bên này là quán lẩu dê phía bên kia là quán lẩu bò rất đông khách ta ra đó sẽ lựa chọn coi ăn món gì... Út Minh lắc đầu: - Hai anh đi tắm với nhau em có biết bơi đâu! Tư Thanh đưa cao bàn tay ngang mặt: - Nhưng đây là lệnh! Đồng chí có nghe lệnh của Phó Văn phòng không thì nói! Hai người đàn ông đứng đợi mười phút dưới sân mới thấy Út Minh xuống. - Sao lại mặc cái áo một mảnh này? Cái hai mảnh đâu rồi? Tư Thanh trêu chọc vợ. Út Minh đập vào vai chồng: - Thôi đi em không giỡn... Ba người băng qua đường là đến bãi tắm. Tư Thanh vẫn hứng thú trong vai trò là "người chỉ huy": - Út Minh mướn phao khoác vào người chỉ ngâm mình sát mép nước cho an toàn. Còn Chuyên cậu với tôi cùng thử sức bơi mỗi người đúng năm trăm sải tay coi ai bỏ cuộc trước... Cứ yên tâm người ta cắm cờ trắng báo hiệu an toàn kia kìa... Út Minh khoác phao và lần bước xuống biển. Trời hôm nay trong xanh nắng mười giờ chưa gắt những con sóng ùa vào người chị chỉ nhẹ nhàng như đùa giỡn. Hai người đàn ông bắt đầu bơi và ít phút sau chị chỉ còn thấy bốn cánh tay vung lên đập xuống... Một ít phút sau nữa chỉ còn hai cánh tay vung tiến về phía trước mà mặc dù khá xa chị vẫn nhận ra đó là Tư Thanh... Ba người ngồi trên bãi cát ăn ghẹ. - Cái món này thì không thể uống với Sài Gòn xanh theo gu của cậu được. Làm đỡ một chung rượu chuối hột đi Chuyên! Tư Thanh "chủ xị" ép vợ nhấp môi đến hai lần. - Cậu thấy không Chuyên khi bơi đầu óc mình thật thanh thản. Không còn kính thưa kính gửi lúc họp hành. Không còn điểm cao điểm thấp của con cái. Không có những bữa tiệc xã giao lắm khi vô bổ... Chỉ có đôi tay vung đập sóng để tiến về phía trước của chính mình... Út Minh nhìn chồng: - Bữa nay anh triết lý "hơi bị nhiều" đó... - Triết lý à? Không đâu bà xã của tôi ơi! Thực tế cuộc đời đó chớ. Để tiến tới cái đích của mình phải tập trung sức vào đôi tay phải gạt ra hai bên những gì ngăn trở... Cậu thấy tôi nói có trúng không hả cậu Chuyên? Út Minh nhìn Chuyên với cái nhìn nhiều ý nghĩa. *** Buổi chiều ba người thả bộ dọc bờ biển. Họ đi từ nhà nghỉ hướng về phía ngọn núi trên đỉnh có tượng Chúa đứng giăng tay. Chuyên kể: - Từ vị trí đó bắt đầu con đường vòng quanh biển được xếp hạng là đường đô thị đẹp nhất Việt Nam. Út Minh đề xuất: - Vậy thì chiều nay ăn cơm xong mình lấy xe chạy một vòng trên con đường đó... Tư Thanh không tham gia vào câu chuyện mà chú ý nhìn con đường lát gạch dưới chân mình. Hồi lâu anh nói với Chuyên và vợ: - "Quý vị" thử nhìn xuống đây coi những viên gạch tàu này có gì khác lạ không? - Mặt viên gạch bị rỗ vì sóng gió biển? - Út Minh trả lời. - Đúng! Thế còn những viên đá kè kia thì sao? - Không có gì khác cả! - Đến lượt Chuyên. - Đúng! Thế "quý vị" rút ra được điều gì? - "Triết gia" nói trước đi... Tư Thanh cười hà hà: - Lần này thì đành làm "triết gia" vậy. Cái "triết lý" này nôm na dễ hiểu thôi: ở nơi đầu sóng ngọn gió thế này phải là những viên đá mới vững vàng theo năm tháng được... Nghĩa là... nghĩa là em đó Út Minh em hãy coi chừng mình chỉ là những viên gạch tàu... Út Minh không bỏ lỡ cơ hội: - Sẽ không sao đâu "triết gia" ạ. Nếu bên cạnh em có những viên đá bảo vệ vững vàng như anh Chuyên... Chuyên bật cười: - Người ta nói "Chồng tung vợ hứng" quả không sai. Tôi hiểu ý ông bà rồi... Nhưng thôi chuyện gạch tàu đá núi hãy tạm gác lại tôi mời đi uống cà phê "quý vị" thấy thế nào? *** Mười giờ đêm ở khách sạn biển đã lặng thinh. Út Minh nằm một mình trên chiếc giường nệm đắp tấm mền mỏng màu nâu nhạt đến ngang ngực. Ti-vi không có gì để chị thích coi. Chị gọi điện về nhà hỏi thăm hai đứa con rồi mới yên tâm nhắm mắt tìm giấc ngủ. Giờ này không biết ở phòng bên hai người đàn ông đã ngủ chưa hay vẫn còn tâm sự. Liệu Tư Thanh có thành công trong việc thuyết phục kỹ sư Chuyên rút đơn xin nghỉ việc và nhận quyết định bổ nhiệm Phó giám đốc Sao Mai giúp chị như chồng chị đã hứa hay không... Sau những chiếc máy ND6 của loạt sản xuất đầu tiên đến tay bà con nông dân nuôi tôm trong tỉnh tiếng khen đồn xa và sản phẩm này đã được cả bà con ở những tỉnh miền cực Nam Trung bộ cùng miền Tây Nam bộ đặt hàng. ND5 thì vừa được hai nước ở châu Phi ký hợp đồng mua với số lượng lớn. Công nhân làm không hết việc phải tăng ca thu nhập cũng tăng theo. Phòng kỹ thuật lại vừa báo cáo sắp cho chạy thử máy mới ND7... Trong những thành công ấy của Sao Mai công sức đóng góp của kỹ sư Chuyên rất lớn. Nếu anh vắng mặt ở Sao Mai thì quả là thiệt thòi cho xí nghiệp và cả ngành sản xuất cơ khí của tỉnh. Chị nhớ lúc ngồi trên xe đi dạo quanh con đường đô thị đẹp nhất Việt Nam ở Vũng Tàu Tư Thanh có nói với Chuyên: "Tôi thấy cậu mâu thuẫn lắm đó nha! Út Minh kể với tôi rằng cậu thường khuyên cô ấy phải cứng rắn phải bản lĩnh để vượt qua chính mình khi gặp khó khăn trong công việc tôi coi bộ thời gian qua cô ấy cũng kha khá tiến bộ rồi. Nhưng cậu lại làm khác điều mình nói. Tại sao cậu lại tự ý rút lui đúng lúc mọi người ủng hộ mình?"... Út Minh chờ nghe Chuyên trả lời nhưng anh chỉ im lặng... Từ xa có tiếng động cơ xe gắn máy vang lên rồi nhỏ dần. Đêm đã khuya hơn. Út Minh nghiêng người theo thói quen và nhận ra mình đang nằm một mình bên cạnh không có Tư Thanh. Chị ao ước có anh bên cạnh ngay lúc này. Chị biết chắc rằng sẽ chẳng có tiếng gõ cửa nào trong đêm nay để khi chị ra mở cửa sẽ thấy người đứng bên ngoài là Tư Thanh. Nhưng Út Minh vẫn mong ước nghe được tiếng gõ cửa của chồng... Mời các bạn đón đọc Cái Bóng của tác giả Khôi Vũ.
Bước Giang Hồ Của Thuyền Trưởng Blood - Rafael Sabatini
Rafael Sabatini (1875-1950) mang trong mình hai dòng máu, Italy và Anh. Có thể nói, Chim ó biển là một dấu son chói lọi trong sự nghiệp sáng tác của ông. Cùng với Scaramouche - Kiếm sĩ không trái tim, Này chiến trận, này cuồng si,… đây là một trong những tác phẩm đưa tên tuổi ông sánh ngang hàng cùng các bậc tiền bối của thể loại tiểu thuyết “áo choàng và thanh kiếm” như Dumas, Scott. *** Cuốn nhật ký tàu do Jeremy Pitt để lại đã kể về cuộc đối đầu dai dẳng giữa Peter Blood với thuyền trưởng Easterling, kẻ được số phận dùng làm công cụ định đoạt vận mệnh của các tù nhân đã cướp tàu "Cinco Llagas" để chạy trốn khỏi Barbados. Những người này chỉ còn biết trông đợi vào vận may. Giá như lúc đó gió mạnh lên hay yếu đi một tí hoặc hướng gió thay đổi một tí thì cuộc đời họ rất có thể đã bị ngoặt sang ngả khác rồi. Số phận của Peter Blood hẳn là do cơn bão tháng mười nọ định đoạt. Cơn bão này đã xô đẩy chiếc xà lúp mười pháo của thuyền trưởng Easterling vào vịnh Cayona 1 nơi con tàu "Cinco Llagas" lững lờ buông neo đã gần một tháng ròng. Thuyền trưởng Blood đang cùng những người chạy trốn với mình trú lại trong cái sào huyệt cướp biển trên đảo Tortuga này vì biết rằng họ có thể ẩn náu tạm ở đây khi chưa quyết định được tiếp theo nên làm gì. Họ chọn bến này vì trong vùng biển Caribe thì đó là nơi duy nhất họ sẽ không bị quấy nhiễu bởi những câu hỏi khó chịu. Không một vùng dân cư nào của Anh lại chịu bỏ qua quá khứ của họ để chứa chấp họ. Với Tây Ban Nha thì họ bị coi là kẻ thù bất cộng đới thiên không chỉ bởi họ là người Anh mà chủ yếu là vì họ đang chiếm giữ một chiếc tàu Tây Ban Nha. Họ sẽ không cảm thấy an toàn trong bất kỳ một thuộc địa nào của Pháp bởi lẽ giữa Pháp và Anh đã có một thỏa ước mà theo đó cả hai bên có trách nhiệm phải bắt giữ và dẫn về nguyên xứ những tên tù trốn. Chỉ còn lại Hà Lan giữ trung lập. Nhưng Peter Blood cho rằng tình trạng trung lập đó đầy những bất ngờ bởi vì nó để mặc mọi bên tự do hành động. Bởi vậy chàng đã tránh xa vùng bờ biển thuộc Hà Lan cũng như những khu định cư khác và đưa tàu thẳng đến đảo Tortuga của Công ty Tây Ấn thuộc Pháp và trên danh nghĩa là đất Pháp, song chỉ là danh nghĩa thôi, thực chất nó không thuộc một nước nào nếu "Hải hồ huynh đệ " như bọn hải tặc tự xưng - không được coi là một quốc gia. Ít ra luật pháp của Tortuga cũng không hề ngáng trở luật lệ của đám cường khấu hùng mạnh đó. Chính phủ Pháp đã tỏ ra lưu tâm che chở những kẻ ngoài vòng pháp luật ấy để rồi họ sẽ giúp lại nước Pháp kìm bớt lòng tham của Tây Ban Nha. Do vậy, ở Tortuga, những kẻ đào thoát bị kết án phản loạn kia đã cặp bến bình an trên con tàu "Cinco Llagas" cho tới khi Easterling đến quấy phá sự bình yên đó, buộc họ phải hành động và mưu tính cho tương lai - điều mà, nếu không có hắn, họ hẳn còn tiếp tục trì hoãn. Tên thuyền trưởng Easterling này - ghê tởm như bất cứ tên vô lại nào trong vùng biển Caribe - chở theo mấy tấn ca cao vừa cướp được từ một chiếc thương thuyền Hà Lan từ quần đảo Antilles về nước. Chiến tích này ngay sau đó hắn thấy đã không làm hắn đẹp mặt hơn, bởi lẽ trong con mắt của tên cướp biển ấy vinh quang được đo bằng giá trị của món đồ cướp được, mà món lợi này thì quá nhỏ nhoi, không đủ sức nâng cao cái giá trị vốn đã thấp kém của hắn trong giới "Hải hồ huynh đệ". Giá Easterling biết trước rằng trên chiếc thương thuyền Hà Lan kia của cải chỉ có vậy thì hắn đã để nó đi yên lành rồi. Nhưng sau khi đã áp mạn bắt được chiếc tàu hàng, Easterling cho rằng bổn phận đối với đám lâu la dưới quyền buộc hắn phải chiếm lấy những gì nhặt nhạnh được. Nếu trên tàu không còn gì đáng giá hơn ca cao thì dĩ nhiên là do cái số không may, hắn nghĩ vậy. Vận xui này gần đây cứ lẵng nhẵng bám theo hắn, khiến hắn ngày càng khó thu mộ bọn tay chân hơn. Ngẫm nghĩ về điều đó và mơ đến những chiến tích vĩ đại, hắn đưa chiếc xà lúp "Bonaventura" của mình vào vịnh Tortuga nằm khuất sau các vách đá dường như chính thiên nhiên đã dành nó làm nơi đậu tàu chắc chắn. Những vách đá dựng đứng chắn hai đầu cái vịnh hẹp, muốn vào được bên trong phải đi qua hai eo nhỏ - đòi hỏi tài nghệ của một hoa tiêu lão luyện mới qua lọt. Bàn tay con người lại làm tiếp công việc của tạo hóa, dựng lên ở đó một pháo đài dữ tợn án ngữ lối vào: pháo đài Chóp Núi. Bến cảng này đã bị bọn cướp biển Pháp và Anh biến thành sào huyệt của mình, từ đấy chúng tha hồ ngang nhiên thách thức sự hùng cường của vua Tây Ban Nha, tên vua mà chúng căm ghét hơn cả vì đã xua đuổi, bức hại chúng, biến chúng từ những dân cư hiền lành thành cướp biển hung hãn. Nhưng vừa vào đến vịnh, Easterling đã quên hết những mơ mộng của mình, điều đang biểu hiện trước mắt hắn còn lạ lùng hơn cả giấc mơ. Điều phi thường kia là hình dáng một chiếc tàu lớn màu sơn đỏ thắm, ngạo nghễ vượt lên trên những chỉếc thuyền nhỏ bé như một con thiên nga trong đàn ngỗng. Lúc đến gần hơn, Easterling đọc thấy dòng chữ vàng to tướng ở mạn tàu: CINCO LLAGAS CADIZ ... Mời các bạn đón đọc Bước Giang Hồ Của Thuyền Trưởng Blood của tác giả Rafael Sabatini.
Thiên Sứ Tử Thần - Linda Howard
Thiên Sứ Tử Thần Cô - Drea - là nhân tình của một tên trùm buôn ma túy, rất biết cách dùng thân xác để quyến rũ và lợi dụng đàn ông. Còn gã - Simon - là một sát thủ máu lạnh, giết người vì tiền và chưa bao giờ mắc sai lầm. Cảm xúc của cô với gã như những cơn sóng nghịch chiều: vừa hạnh phúc tràn trề sau bốn tiếng đồng hồ hoan lạc, vừa đau đớn bẽ bàng khi bị gã bỏ rơi, lại vừa kinh hoàng tột độ khi bị gã truy lùng trên con đường trốn chạy. Vậy mà sợi dây liên kết vô hình giữa họ đã đưa đến những biến chuyển kỳ diệu trong đời. Những xúc cảm tưởng như thoáng chốc đã trở thành vĩnh viễn. Hai con người, vốn chẳng tốt đẹp, bỗng trở nên khát khao hướng thiện, khát khao được chia sẻ, yêu thương… “Khi gã chạm vào cô, cô thấy tràn ngập tình yêu thương - Drea Rousseau - người chưa bao giờ được quý mến trong cuộc đời, chưa bao giờ được yêu, được trân trọng. Cảm nhận trọn vẹn rằng mình được gã nâng niu, rằng gã quan tâm tới nhu cầu tình cảm, mong muốn, sở nguyện của mình, điều đó vượt quá xa những gì cô có thể tưởng tượng.” “Vì yêu Drea, gã sẵn sàng từ bỏ nghề đâm thuê chém mướn. Vì yêu Drea, gã đã cố gắng mở lòng với cô, để cô bước qua bức tường ngăn cách gã với cả thế giới. Gã vốn thích cô độc trong cái kén của riêng mình, nhưng vì cô, gã không ngại thoát ra, một cách mãnh liệt, để sống phần đời còn lại, chấp nhận bị phơi bày và tổn thương.” *** Linda Howard tên thật là Linda S. Howington. Cô sinh ngày 3/8/1950 tại tiểu bang Alabama thuộc miền Nam Hoa Kỳ. Cô là một trong những tiểu thuyết gia thuộc trường phái lãng mạn nổi tiếng thế giới. Các tác phẩm của cô thường xuyên lọt vào danh sách những cuốn sách bán chạy nhất do tạp chí New York Times bình chọn. Năm 2005, cô đạt giải Career Achievement Award - giải thưởng dành cho các tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn xuất sắc nhất. *** Tác phẩm tiêu biểu: Sắc màu của hoàng hôn Cầu vồng lúc nửa đêm Vịnh tình yêu White Lies - Bản giao hưởng ngọt ngào The way home - Đường về nhà... *** Thành phố New York "Làm khá lắm," Rafael Salinas uể oải nói với gã sát thủ đang đứng phía bên kia căn phòng, gần cửa ra vào. Gã không thích sán lại gần ai, hoặc là gã chẳng tin tưởng gì Salinas và muốn chừa cho mình một đường thoát phòng khi cuộc đàm phán xấu đi - dù gì gã cũng là kẻ thông minh cả. Những kẻ cảnh giác với Salinas thường có nhiều cơ hội sống sót hơn những kẻ tin tưởng hắn. Cô nàng Drea Rousseau đang cuộn mình bên cạnh Salinas, chẳng cần quan tâm lý do của gã sát thủ, miễn nó giữ gã cách cô xa xa một chút.Gã khiến cô ớn lạnh, cái kiểu dường như không bao giờ chớp mắt của gã. Trong lần chạm trán trước đây, gã rõ ràng không ưa sự có mặt của cô. Gã chĩa cái nhìn trừng trừng vào cô lâu đến nỗi cô tự hỏi liệu có phải tên sát thủ này có thói quen khử những ai nhận ra mình. Tất nhiên trừ những người thuê gã ra, và thậm chí tên này cũng xử họ luôn sau khi tiền được chuyển đến tay an toàn, hoặc trong tài khoản, hoặc bất kỳ cách nào mà các sát thủ nhận được thù lao. Drea chẳng biết tên gã, mà cô cũng chẳng muốn biết, bởi trong khi người ta vẫn tin sự thật sẽ đưa bạn đến tự do, thì cô nghĩ trong trường hợp này nó có thể chỉ đưa đến chỗ chết mà thôi. Cô coi gã như một trong số những sát thủ của Rafael, nhưng thực tế gã không phải là một tay sai bình thường mà là kẻ hành nghề tự do, làm cho bất kỳ ai đủ tiền trả gã. Ít nhất đây là lần thứ hai, như cô biết, Rafael chấp nhận giá đó.Để tránh không nhìn vào gã và không cho cái nhìn chòng chọc đáng sợ đó bủa vây lấy mình lần nữa, cô chán nản săm soi lớp sơn màu hồng tím trên móng chân. Cô vừa mới sơn sáng nay, tưởng rằng chúng sẽ nổi bật trên bộ đồ lụa màu kem cô đang mặc, nhưng cái sắc tím này thành ra quá lòe loẹt. Đáng ra cô nên chọn màu hồng nhạt, hoặc một màu gì đó phơn phớt và gần như trong suốt để tôn bộ đồ lên. Cũng chẳng sao, lần sau sẽ rút kinh nghiệm.Khi gã sát thủ không thèm đáp lời, cũng chẳng vội xum xoe rằng mình rất vinh dự được làm việc cho Rafael như những kẻ khác, những ngón tay Rafael bắt đầu gõ gõ một cách mất kiên nhẫn lên đùi. Hắn thường bồn chồn như vậy mỗi khi không thoải mái, một cử chỉ dễ đoán, ít nhất đó là theo Drea để ý. Cô luôn để ý kỹ càng mọi tâm trạng, mọi thói quen của hắn. Không hẳn là hắn sợ, nhưng hắn, cũng như gã kia, đang rình mồi, điều đó có nghĩa là có hai con cáo già đang cùng ở trong căn phòng này. "Ta muốn thưởng thêm cho anh," Rafael ướm lời. "Một trăm ngàn đô. Anh thấy sao?"Dù chẳng ngước lên, nhưng Drea nhanh chóng phân tích lời đề nghị và hàm ý của nó. Cô đã học cách để không bao giờ quan tâm tới các phi vụ làm ăn của Rafael, thỉnh thoảng hắn hỏi cô vài câu vu vơ nhưng thật ra là có chủ đích thì cô luôn giả vờ mình chẳng hiểu hắn đang nói gì. Và thế là, Rafael chẳng hề cảnh giác với cô như đáng ra phải thế. Đối với hắn, cô chẳng thèm để tâm tới bất kể điều gì không ảnh hưởng trực tiếp đến mình. Hẳn cô chẳng quan tâm chút nào đến việc gã sát thủ đã khử ai theo lệnh của hắn, mà chỉ để ý đến việc cô đang mặc gì, tóc tai ra sao, và làm thế nào cho Rafael đẹp mặt bằng cách trông thật sexy và quyến rũ thôi. Cô đương nhiên rất chăm chút đến cái khoản sau; cô làm cho Rafael mát mặt trước mắt những kẻ khác luôn khiến hắn vui vẻ và hào phóng. Drea ngắm nhìn sợi lắc chân đang ôm lấy cổ chân phải, thích thú nhìn những viên kim cương đung đưa lấp lánh dưới ánh sáng mặt trời và màu bạch kim ánh lên trên nước da rám nắng của cô. Chiếc lắc là một trong những món quà của Rafael khi hắn vô cùng đắc ý về việc gì đó. Hy vọng chiến công của gã sát thủ lần này sẽ khiến tâm trạng hắn vui vẻ tương đương thế - cô không ngại có thêm một cái vòng tay đồng bộ đâu. Tất nhiên cô chẳng bao giờ gợi ý bóng gió điều đó. Cô luôn luôn cẩn thận không bao giờ hỏi xin Rafael bất cứ thứ gì, và luôn ồ à trước mọi thứ hắn tặng cho mình cho dù thứ đó có thể trong như cứt, bởi vì cái thứ cứt cứt đó cũng đáng khối tiền.Cô không có chút ảo tưởng nào về chuyện cả đời được cặp kè mãi bên Rafael. Ngay lúc này cô đang đứng trên đỉnh cao cuộc chơi, đủ chín để thật đàn bà và đủ trẻ để không bận tâm đến mấy sợi tóc bạc hay những nếp nhăn. Nhưng một, hai năm nữa thì sao, ai mà biết được?Cuối cùng Rafael cũng sẽ chán cô, và khi đó cô muốn tự gây dựng một gia tài nho nhỏ, hầu hết là đồ trang sức. Drea Rousseau biết thế nào là nghèo đói, và cô không bao giờ muốn chịu cảnh ấy nữa. Cô đã không còn là Andie Butts nghèo khổ ngày xưa, mục tiêu của những trò đùa quái ác chỉ vì cái tên cũng như mọi điều tệ hại khác. Cô đã biến mình thành Andrea (phát âm là anDRAYuh, nghe có vẻ Pháp Pháp) Rousseau (để vần với thanh âm hoa mỹ kia). "Cô ta," gã sát thủ lên tiếng. "Tôi muốn cô ta."Điều đó làm cô chú ý ngay lập tức - ai là cô ta? Drea ngước lên… và chới với. Gã sát thủ đang nhìn chằm chằm vào cô, vẫn với cái nhìn lạnh lẽo không chớp mắt ấy. Cơn choáng váng dội thẳng vào cô như thủy triều; cô là cô ta mà gã đang nói đến. Đâu có người đàn bà nào khác trong phòng này, gã chẳng thể ám chỉ ai ngoài cô. Những ngón tay lạnh cóng của cơn hoảng loạn kinh hoàng như lũ rắn trườn quanh sống lưng cô, nhưng rồi lý trí quay trở lại và cô thả lỏng. Ơn Chúa Rafael là một kẻ ích kỷ; hắn sẽ không bao giờ…"Chọn thứ gì khác đi," Rafael uể oải nói, vòng tay qua vai Drea và kéo cô vào gần hơn. "Đời nào ta lại cho đi bùa may mắn của mình chứ." Hắn đặt một nụ hôn lên trán cô và Drea cười rạng rỡ, người mềm nhũn ra vì nhẹ nhõm, dù gắng không để lộ ra rằng trong khoảnh khắc mình đã sợ đến lịm người."Tôi chẳng thiết giữ cô ta," gã sát thủ khinh khỉnh nói, không hề rời mắt khỏi khuôn mặt của Drea. "Tôi chỉ muốn ngủ với cô ta. Một lần thôi."Được bảo đảm lần nữa bởi lời từ chối ngay lập tức của Rafael, Drea cười. Cô có tiếng cười ngọt ngào, du dương như những tiếng chuông trong trẻo. Rafael đã từng nói rằng cô làm hắn nhớ đến hình ảnh một thiên thần, với mái tóc vàng quăn dài, đôi mắt xanh to tròn, và tiếng cười ngân vang như tiếng chuông. Cô luôn cố tình sử dụng tiếng cười đó như một thứ vũ khí, ngầm nhắc Rafael rằng cô là thiên thần của hắn, bùa may mắn của hắn.Trước tiếng cười ấy, người ngợm gã sát thủ dường như căng ra, ánh mắt gã gắt gao đến nỗi cô gần như có thể cảm nhận được sự động chạm của nó lên da mình. Mãi về sau này, nếu nghĩ kỹ, Drea sẽ hiểu gã vốn đã cảnh giác, nhưng thời điểm ấy lại càng dè chừng hơn, như thể toàn bộ các giác quan được tăng cường, sự tập trung quá dữ dội đến nỗi cô tưởng như nó thiêu đốt da mình và tiếng cười cô nghẹn lại đột ngột như thể bị một bàn tay bóp chặt cổ. "Ta không dùng chung," Rafael nói, vẻ khó chịu ngầm ẩn trong tông giọng nhẩn nha. Một con đầu đàn không bao giờ chia sẻ con cái; làm thế sẽ đánh mất một lưỡi dao sắc rất quan trọng trong uy quyền mà nó có với người của mình. Chắc chắn rằng gã sát thủ biết điều đó. Nhưng chỉ có ba người họ trong căn hộ trên tầng thượng này, sẽ không có ai chứng kiến việc Rafael đã làm hay không, có lẽ vì thế mà gã nghĩ sẽ đạt được thứ mình muốn. Một lần nữa tên sát thủ chẳng nói gì, chỉ đứng nhìn. Và dù gã không hề cử động, nhưng vẫn có cái gì đó ngột ngạt chết chóc trong không khí giữa ba người. Cuộn tròn bên cạnh Rafael, Drea cảm thấy hắn hơi co người lại, như thể nhận thấy sự thay đổi trong không khí giống cô. "Thôi nào," Rafael nói, giọng phỉnh phờ, nhưng Drea còn lạ gì hắn; cô nhận ra sự không thoải mái mà hắn đang cố gắng che giấu hết mức. Bởi đó không phải là điều cô quen thấy; cô suýt phóng cái nhìn hoảng hốt về phía hắn, nhưng đã kịp giữ bản thân lại và thay vào đó làm bộ săm soi cái móng tay như phát hiện ra một vết xước trên lớp sơn. "Chả đáng phải ném cả đống tiền qua cửa sổ cho cái thứ chóng vánh như thế. Tình dục quá rẻ mạt; với một trăm ngàn đô anh có thể mua được hàng tá."Nhưng gã sát thủ vẫn đợi, không nói một lời. Gã đã đưa ra lời yêu cầu, chỉ chờ xem Rafael có chấp nhận nó hay không. Bằng cách im lặng, gã tỏ rõ rằng mình không nhận số tiền thưởng thêm mà sẽ quay lưng bước đi và chắc chắn Rafael đừng hòng có được sự giúp đỡ của hắn khi cần nữa. Tình huống xấu nhất - Drea không muốn nghĩ xem điều tồi tệ nhất có thể xảy ra là gì. Với một gã kiểu này, có gì mà không thể xảy ra.Rafael bất chợt nhìn Drea, ánh nhìn nham hiểm, lạnh lùng và đầy toan tính. Cô hớp lấy không khí, hoảng sợ bởi vẻ lãnh đạm bất ngờ và sự cân đo đong đếm đó. Có phải hắn đang thực sự cân nhắc lời đề nghị, so đo cái giá phải trả nếu gã kia vẫn nói không?"Mặt khác," hắn trầm ngâm, "có lẽ ta phải tự thuyết phục bản thân. Tình dục quả là rẻ mạt, và ta, cũng có thể mua hàng tá với một trăm ngàn đô." Hắn nhấc tay ra khỏi bờ vai của Drea rồi đứng dậy, giũ thẳng quần bằng một động tác thuần thục khiến nếp quần về đúng vị trí. "Một lần thôi, chính anh nói đấy. Ta có việc ở đầu kia thành phố mất chừng năm giờ, thế là quá đủ rồi còn gì." Hắn dừng lại, rồi nhẹ nhàng thêm vào, "Đừng có làm hại cô ấy". Rồi không thèm nhìn cô lấy một lần, hắn bước qua phòng khách và tiến về phía cửa.Cái gì? Drea bật thẳng dậy, không còn nghĩ được gì. Hắn đang nói gì vậy? Hắn đang làm gì vậy? Đây chỉ là đùa thôi, đúng không? Đúng không?Drea ghim chặt ánh nhìn tuyệt vọng, sững sờ vào tấm lưng của Rafael khi hắn bước về phía cánh cửa. Hắn không có ý đó. Hắn không thể có ý đó. Rồi hắn sẽ quay người lại và bật cười, thưởng thức trò đùa của hắn trước cái giá gã sát thủ đưa ra, xem như chưa hề có chuyện vừa suýt làm tim cô ngừng đập. Cô sẽ không để bụng chuyện hắn đã dọa cô sợ gần chết, không nói lại một lời nào về chuyện này, chỉ cần hắn dừng trò này lại, chỉ cần hắn nói, "Mày thực sự nghĩ tao đang nói thật đấy à?"Không thể nào hắn lại đem cô cho gã sát thủ, không đời nào…Rafael đi đến mở cánh cửa… và bỏ đi. Nỗi sợ hãi trào dâng như sóng triều bóp nghẹt hai lá phổi Drea khiến cô không thở nổi. Cô nhìn cánh cửa không chớp mắt. Rafael sẽ mở nó ra ngay bây giờ và cười. Hắn sẽ quay lại ngay thôi.Cô không nhìn gã sát thủ, không cử động, không cả chớp mắt, tê liệt hoàn toàn. Cô nghe thấy mạch đập thình thịch bên tai, và nhịp tim thì thùng thùng như sấm dậy. Toàn thân và phần lớn não bộ của cô tê cứng, chỉ một phần nhỏ trí óc còn hoạt động nhưng vẫn đủ để hiểu rằng Rafael đã ném cô vào miệng cọp rồi bước đi, không hề do dự hay ngoảnh lại một lần.Gã sát thủ di chuyển đến tầm mắt của cô, lặng lẽ tiến về phía cánh cửa và khóa nó lại - tất cả các loại khóa, khóa chống trộm, thậm chí trượt cả xích an toàn vào. Không kẻ nào vào được, kể cả có chìa khóa, mà không đánh động gã.Cơ thể Drea dần sống lại và cô chạy, đôi giày gót nhọn hơn mười phân gõ lộp cộp lên nền đá cẩm thạch. Cơ thể cô tự động phản ứng, theo sự điều khiển nỗi tuyệt vọng, mà không kịp suy nghĩ hay tính toán gì. Cô lao về phía hành lang, rồi nhận thức khiến cô đột ngột dừng lại khi lý trí theo kịp bản năng. Cuối hành lang là phòng ngủ, nơi cuối cùng cô muốn lao vào.Cô tuyệt vọng nhìn quanh. Căn bếp… nơi có những con dao, một cái búa dần thịt - có lẽ cô có thể dùng để tự vệ… Chống lại gã ư? Nỗ lực thế nào cũng chỉ làm trò cười cho gã thôi - hoặc, tệ hơn, khiến gã điên lên, rồi kết liễu cô luôn không chừng. Trong phút chốc, mục đích của cô không còn là trốn chạy mà đơn giản là sống sót. Cô không muốn chết. Bất kể gã có hung bạo với cô thế nào, bất kể gã giở trò gì, cô cũng không muốn chết.Chẳng có nơi nào an toàn cả, không có chốn nào cho cô dung thân. Dù biết rõ điều đó và thừa nhận nó, Drea cũng không thể cứ đứng đó. Và rồi cô phóng thẳng ra ban công nhìn xuống thành phố xa tít ở bên dưới. Cô chạy tới bờ tường và cùng đường, trừ khi cô gắng sức bay lên, bản năng sống quá mạnh thừa sức cho phép cô dám thử việc đó. Chỉ cần được sống, cô sẵn sàng tồn tại bằng cách ấy.Cô mò mẫm vươn ra và nắm lấy chấn song trên gờ tường, những ngón tay cô giữ chặt thanh kim loại khi đôi mắt nhìn chằm chằm vào hư vô. Công viên Central trải dài dưới kia, một ốc đảo xanh tươi, mát mẻ giữa rừng bê tông sắt thép của Manhattan. Những chú chim bay liệng phía dưới, còn trên cao từng đám mây trắng khổng lồ đang lững lờ trôi qua bầu trời xanh trong vắt. Những tia nắng chói chang rọi lên mặt cô, lên bờ vai và cánh tay trần, một cơn gió nhẹ thổi qua khẽ vờn những lọn tóc cô. Drea cảm thấy như bị tách rời khỏi tất cả những thứ ấy, như thể không gì trong số đó là thật cả, ngay cả sức nóng của mặt trời đang bỏng rát trên má cô.Cô cảm thấy gã tới gần và dừng lại ngay phía sau. Chẳng có một âm thanh nhỏ nào ngoài tiếng gió xào xạc và những tiếng ồn xa xăm của thành phố tít dưới kia vẳng lên; dẫu vậy cô vẫn biết kẻ đáng sợ đó đang cận kề. Mọi dây thần kinh dưới da cô thét lên báo động rằng cô sắp rơi vào tay Thần Chết.Bàn tay gã đặt lên bờ vai trần của cô.Cơn hoảng loạn nổ tung trong đầu Drea, lấn át hoàn toàn mọi suy nghĩ và hành động. Cô không phản ứng gì, không thể phản ứng, chỉ đứng đó, run lên cầm cập. Thật chậm rãi, dường như gã đang thưởng thức làn da mịn màng của cô, rồi ve vuốt dần xuống cánh tay. Bàn tay gã rắn đanh và ấm nóng, năm đầu ngón tay và lòng bàn tay ram ráp những vết chai nhưng sự đụng chạm lại đầy kiểm soát, thậm chí là… dịu dàng? Cô đã lường trước sự hung bạo, chuẩn bị đối phó với nó và dồn hết sức để được sống sót đến mức không thể hiểu được thực tế là hắn đang vuốt ve âu yếm mình. Những giác quan của cô quay cuồng.Bàn tay gã trượt xuống, chạm tới những ngón tay đang bấu chặt quanh chấn song của cô, nhẹ nhàng mơn trớn chúng rồi từ từ chuyển hướng lên trên. Lên tới bả vai gã tiếp tục vuốt ve lên cổ, vén những lọn tóc sang một bên và lướt đầu ngón tay qua cổ họng cô, qua đường cong nơi quai hàm. Gã lần theo những cơ bắp mảnh dẻ và đường gân mỏng manh, đem đến những cơn rùng mình chạy khắp thân thể Drea. Rồi gã chuyển sang quai áo lụa của cô, chơi đùa và luồn những ngón tay qua nó, lần theo đường viền vải xuống dưới. Nếu lúc trước gã chưa nhận ra cô không mặc áo ngực, thì bây giờ gã hẳn là đã biết. "Thở," gã nói, từ đầu tiên gã nói với cô. Chất giọng trầm, hơi khàn của gã khiến từ ấy nghe chẳng khác gì mệnh lệnh.Cô làm theo, hổn hển hớp lấy không khí và giải thoát cho hai lá phổi khỏi sự đau đớn. Cô vừa nín thở lâu đến nỗi sắp ngất đi.Thật chậm rãi, vẫn thật chậm rãi, gã lướt bàn tay xuống hai bên hông cô, hơi nóng từ những cái vuốt ve của gã lan qua lớp lụa mỏng. Gã chạm đến gấu áo, rồi những ngón tay luồn xuống dưới lớp vải, khám phá phần cạp co giãn của chiếc quần xếp nếp mềm mại, trượt sâu xuống bên dưới và xung quanh. Bây giờ gã cũng đã biết cô không mặc quần lót rồi. Drea nuốt cục nghẹn trong cổ họng xuống, mắt nhắm nghiền. Nhắm mắt là một hành động bản năng để cô lờ gã đi, ngăn cách cô với những gì đang xảy ra tại đây, ngay lúc này, nhưng thay vì thế, dường như nó càng khiến giác quan của cô nhạy bén hơn. Vì không có gì khiến cô xao nhãng, mọi sự tập trung lập tức dồn hết vào bàn tay đang thong thả lướt trên bụng cô, cảm giác mãnh liệt gần như đau đớn. Cơ bắp cô siết lại, toàn thân căng ra khi tay gã lên cao dần, cao dần, và một lần nữa cô nín thở chờ đợi.Bàn tay gã ôm trọn bầu ngực trái của Drea, và không khí đột ngột rút hết khỏi phổi cô. Gã vừa ôm vừa vuốt ve nó, khum khum lòng bàn tay lại như để ướm, rồi lướt ngón tay cái trên đầu nhũ hoa nhạy cảm cho đến khi nó ửng hồng, se lại và cương cứng. Với bầu vú bên kia gã cũng làm y hệt.Một lần nữa những giác quan của cô quay cuồng. Khoái cảm từ sự mơn trớn ấy làm hỗn loạn mọi suy nghĩ khiến cô hổn hển, hổn hển tìm chỗ bấu víu, hay một thứ gì đó giữ cô không khuỵu xuống. Cô tưởng hắn sẽ giở trò gì chứ không phải là… việc này. Gã sát thủ cúi đầu xuống, hơi nóng từ miệng cùng đôi môi mềm mại chạm vào sợi dây chằng nhạy cảm bên cổ Drea cùng lúc gã rướn người ép toàn bộ cơ thể vào sau người cô. Ôi, Chúa ơi, người gã nóng bừng. Cô cảm thấy lạnh, nhưng hơi nóng ấy làm cô bị thiêu đốt. Cô tưởng sẽ phải đối mặt với sự hung bạo, vậy mà gã đã lách qua bức tường tự vệ của cô chỉ bằng một cái chạm nhẹ tràn trề khoái cảm. "Tôi sẽ không làm cô đau," gã thì thầm, bờ môi mơn man trên da thịt cô trong khi bàn tay trượt xuống dưới lớp áo, âu yếm ngực cô, ve vuốt chúng, kéo nhẹ hai đầu vú. Miệng gã đặt lên cổ cô khiến một lần nữa bụng dạ cô chao đảo, như thể cô đang cưỡi trên một con tàu nâng lên hạ xuống theo từng đợt sóng khoái cảm ngất ngây. Drea không biết họ đã đứng đó bao lâu, chỉ cảm thấy sự lâng lâng choáng ngợp cứ mỗi lúc một trào dâng. Cô chìm đắm giữa đại dương bao la không biết đâu là bờ. Điều này vượt quá xa so với trải nghiệm và dự đoán nên cô chẳng biết phải làm sao. Khoái cảm ư? Quan hệ với Rafael chỉ là làm sao thỏa mãn hắn; cảm giác của cô chả có ý nghĩa gì cả. Cô chấp nhận, chỉ chăm chăm làm mọi thứ để hắn mãn nguyện. Lần cuối cùng một người đàn ông cố gắng thỏa mãn cô là khi nào nhỉ? Những ký ức lờ mờ, phai nhạt theo thời gian, lâu tới nỗi cô đã không còn mong mỏi được hưởng nó cho riêng mình. Giờ đây khi được cảm nhận nó, dưới đôi tay - theo đúng nghĩa đen - của một gã sát thủ máu lạnh, cô thực sự sửng sốt. Gã kéo đầu vú cô, nhẹ nhàng vân vê giữa những ngón tay và cảm xúc mạnh mẽ ấy tạo nên một luồng kích thích xuyên thẳng xuống phần bụng dưới. Cô thấy mình rướn người lên và ngả ra đằng sau, cơ thể tự động uốn cong trong vòng tay gã còn bàn tay lướt quanh gáy gã, cảm nhận sự rắn chắc, vạm vỡ của những cơ bắp. Cô áp sát vào người gã, nghe những âm thanh gọi mời khe khẽ thoát ra từ chính miệng mình. Cơ bụng thắt lại, cô cố quay người về phía gã.Gã vẫn giữ chặt lấy cô, bắt cô quay mặt về phía lan can, cả thành phố trải dài trước mặt và xung quanh họ. Gã tụt mạnh cạp quần cô, không khí mát lạnh đột ngột trùm lên cặp mông trần của cô khi lớp lụa rơi xuống dưới. Sự sợ hãi lại cồn cào, một lần nữa hòa quyện với nỗi hoài nghi xen lẫn khiếp sợ? Ở đây ư? Ngay trên ban công, giữa thanh thiên bạch nhật, nơi kẻ nào cũng có thể nhìn thấy ư? Đường phố ở bên dưới quá xa, nhưng còn người ở những tòa nhà xung quanh thì sao? Ống nhòm nhan nhản trong thành phố này, có cả ngàn, cả ngàn người dò xét nhà hàng xóm của họ, và chắc chắn là có cả FBI, DEA hoặc ai đó đang rình rập Rafael nữa, thế thì họ cũng đang canh chừng cô - và gã đàn ông đang giữ cô trong tư thế gần như trần truồng ngay trên ban công này. ©STE.NTGã lại xích gần hơn nữa, khẽ thì thầm câu gì đó rất êm ái, rồi áp sát lên phần thân thể trần trụi của cô, bàn tay luồn vào giữa. Cô nghe thấy tiếng khóa kéo loạt xoạt, sau đó khớp ngón tay gã đột ngột đẩy vào khe mông cô, làm cô giật mình hét lên, rồi chẳng còn cảm thấy gì ngoài sự lõa lồ nhục nhã và lực ấn dữ dội của vật đó ở cửa mình. "Cúi xuống một chút."Gã đè tay lên gáy cô để đảm bảo cô sẽ vâng lời. Chân gã luồn vào giữa và tách hai chân cô ra xa, chiếc cạp quần quanh đùi dãn hết sức. Gã chùng gối xuống, hạ thấp người ở tư thế thuận hơn, rồi đẩy lên và nhích sâu vào trong cô một cách khó khăn, chậm chạp. Drea đau nhói, bị giữ chặt như một con sâu mắc vào lưỡi câu. Cơ đùi cô căng lên rồi nhũn ra, bủn rủn. Gã túm lấy cô, kéo về phía mình. Tay phải ghì chặt cô vào người, tay trái gã đưa xuống và luồn vào hai cánh môi mềm mại giữa chân cô. Gã mơn trớn những ngón tay quanh đó, vừa giữ chặt nó vừa di chuyển vào trong. Chúa ơi, cô không biết, cô không còn biết gì ngoài chuyện đang tới cao trào nhanh đến không ngờ, rồi cô lên đỉnh dữ dội, cơ bắp bên trong cô quấn chặt lấy gã, những tiếng rên bản năng trong cổ họng vỡ ra.Drea suýt nữa khuỵu về phía trước nếu không có vòng ôm của gã. Gã rút ra và quay người cô lại, ôm lấy cô cho đến khi cô thôi hổn hển, run rẩy và ngừng khóc. Cô khóc vì cái quái gì chứ? Cô chưa bao giờ khóc, ít nhất là khóc thật. Vậy mà giờ đây hai má cô ướt đẫm, hơi thở nặng nhọc và thổn thức. Cố lấy lại bình tĩnh, cô mở mắt ra nhìn lên, và bắt gặp ánh nhìn chăm chú của gã sát thủ. Một lần nữa cô ngạt thở.Cô cứ nghĩ mắt gã màu nâu, nhưng giờ lại thấy chúng màu nâu pha lục nhạt, từ ấy vẫn chưa thật chuẩn để diễn tả màu mắt đó: không chỉ có màu nâu, xanh lá và vàng, mà còn có xanh dương, xám và đen nữa, và cả những đường sọc trắng. Cô nhớ đến loại ngọc opal sẫm, đầy những sắc màu kỳ lạ. Ánh nhìn của gã cũng không hề lạnh lẽo; cô cảm thấy bị thiêu đốt bởi sức nóng trong đó và cả sự khao khát mãnh liệt. Gã vẫn chưa xuống, điều này trái ngược hoàn toàn với những điều cô biết. Một khi đàn ông lên đến đỉnh, họ sẽ chẳng còn hứng thú làm tiếp. Nhưng gã đàn ông này vẫn cứng, vẫn sẵn sàng, và…"Anh chưa lên đỉnh," cô buột miệng, thình lình nhận ra.Gã bắt đầu đưa cô bước về phía cánh cửa kính, nhấc cô lên khi cái quần sắp tuột hẳn xuống. "Chỉ có một lần thôi, nhớ không?" gã nói, ánh mắt lấp lánh với ý định nóng bỏng và dữ dội. ... Mời các bạn đón đọc Thiên Sứ Tử Thần của tác giả Linda Howard.