Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc

Vì Sao Chúng Ta Làm Việc đưa ta đến lời giải cho bí mật của hạnh phúc nơi làm việc. Sau tất cả, Barry Schwartz đã chứng minh cho chúng ta thấy gốc rễ của thành công trong lao động hiếm khi được khuyến khích, trong khi chúng ta lại cố gắng làm những việc chỉ đem lại kết quả xấu. Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Nhưng câu hỏi tưởng như thật đơn giản và ai cũng dễ dàng trả lời. Nhưng Giáo sư Barry Schwartz lại chứng minh rằng thật ra câu trả lời chi nó lại vô cùng phức tạp, đáng kinh ngạc và vô cùng khẩn cấp. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Nhiều người làm việc vì họ thấy vui. Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Những người khác làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Nhiều người làm việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? *** Vấn đề mấu chốt Tại sao chúng ta làm việc? Tại sao mỗi sáng ta lại phải kéo lê mình ra khỏi giường thay vì sống cuộc đời ngập tràn niềm vui với hết trò này đến trò khác? Thật là câu hỏi ngớ ngẩn. Ta làm việc vì ta phải kiếm sống. Chắc chắn rồi, nhưng chỉ có vậy thôi sao? Tất nhiên là không rồi. Khi bạn hỏi những người hài lòng với công việc tại sao họ làm công việc ấy, thì gần như tiền không phải là câu trả lời. Danh sách những lý do phi-tiền-bạc rất dài và rất thú vị. Người nào hài lòng với công việc thì lao động say mê. Họ làm việc quên mình. Tất nhiên không phải lúc nào cũng thế, nhưng cũng đủ để điều đó trở thành đặc điểm nổi bật của họ. Những người này được khơi gợi tinh thần thử thách. Công việc buộc họ phát huy khả năng – bước ra ngoài vùng an toàn của mình. Những người may mắn này cho rằng làm việc thật là vui, vui như chơi trò đoán ô chữ hay Sudoku vậy. Con người làm việc còn vì lẽ gì nữa? Những người hài lòng với công việc lao động vì thấy có trách nhiệm. Công việc cho họ phương tiện để có quyền độc lập và tự quyết. Và họ sử dụng quyền ấy để nâng cao khả năng của bản thân. Họ học những điều mới mẻ, phát triển bản thân cả trong công việc lẫn đời sống. Những người này làm việc vì đó là cơ hội để hòa nhập cộng đồng. Họ làm nhiều việc với tư cách là một thành viên nhóm, và ngay cả khi làm việc một mình, trong những lúc tĩnh lặng, họ vẫn có nhiều cơ hội tương tác với bên ngoài. Cuối cùng, những người này hài lòng với công việc vì họ cảm thấy việc mình làm thật ý nghĩa. Có thể là, công việc của họ khiến thế giới thay đổi. Nó khiến cuộc sống của những người khác tốt đẹp hơn. Và thậm chí theo những cách đầy ý nghĩa. Tất nhiên, chẳng có nhiều công việc, và tôi nghi ngờ là không có công việc nào, lúc nào cũng hội tụ tất cả những đặc điểm này. Nhưng những đặc trưng nghề nghiệp như thế này chính là điều sút ta ra khỏi nhà, thúc ta cõng việc về nhà, huých ta nói về công việc của mình với những người khác, và khiến ta ngần ngừ không muốn nghỉ hưu. Ta sẽ không làm việc nếu không được trả công, nhưng đó không phải là lý do mấu chốt. Và ta hay nghĩ vật chất là một lý do làm việc chẳng đẹp đẽ gì. Thật vậy, khi nói ai đó “làm việc vì tiền”, ta không chỉ đơn thuần là giới thiệu, mà còn có ý đánh giá nữa. Những nguyên nhân phong phú khiến chúng ta thỏa mãn với công việc kể trên đã dấy lên một số vấn đề rất lớn. Tại sao trên thế giới này có vô vàn người mà công việc của họ lại chẳng có nhiều hoặc hoàn toàn vắng bóng những đặc tính này? Tại sao với hầu hết chúng ta, công việc thật là đơn điệu, vô vị và mòn mỏi? Tại sao chủ nghĩa tư bản phát triển lại tạo ra một mô hình làm việc hạn chế hoặc triệt tiêu các cơ hội nuôi dưỡng sự hài lòng phi vật chất tiềm năng – mà chính nó sẽ khuyến khích người ta làm việc tốt hơn? Những người làm kiểu công việc này – dù trong nhà máy, cửa hàng thức ăn nhanh, kho hàng bán theo yêu cầu, hay quả thực, trong những công ty luật, lớp học, phòng khám và văn phòng – là làm vì tiền. Dù có cố gắng tìm kiếm ý nghĩa, thử thách, và không gian để được tự quyết đến đâu, thì họ cũng phải đầu hàng trước điều kiện làm việc. Cách thức công việc của họ được tổ chức thực sự chẳng cho họ một lý do ý nghĩa nào ngoại trừ tiền lương. Theo một báo cáo diện rộng do Gallup, một tổ chức thăm dò ý kiến có trụ sở tại Washington, D.C xuất bản vào năm 2013, số người lao động “chống đối” trên thế giới nhiều gấp đôi so với những người lao động “gắn bó” với công việc của mình. Gallup đã đo lường sự hài lòng với công việc trên toàn cầu trong gần hai thập kỷ. Tổng cộng họ đã khảo sát 25 triệu người lao động ở 189 quốc gia khác nhau. Trong những phiên bản mới đây nhất, họ thu thập thông tin từ 230.000 người lao động làm việc toàn thời gian và bán thời gian ở 142 quốc gia. Nhìn chung, Gallup đã nhận ra chỉ có 13% số người cảm thấy gắn bó với công việc của mình. Những người này làm việc đam mê và dành trọn thời gian để thúc đẩy công ty, doanh nghiệp mình tiến lên. Phần lớn chúng ta, khoảng 63%, không cảm thấy yêu công việc. Chúng ta lờ đờ, nửa tỉnh nửa mê lê lết qua hết một ngày dài, chẳng đầu tư công sức gì lắm cho công việc. Và số người còn lại thì làm việc cực kỳ chống đối, thực sự ghét việc. Nói cách khác, công việc thường xuyên là một nguồn khó chịu hơn là nguồn vui sướng cho gần 90% người lao động trên thế giới. Hãy nghĩ đến sự lãng phí các dịch vụ xã hội, lãng phí cảm xúc và có lẽ lãng phí cả tiền bạc mà con số thể hiện. 90% người trưởng thành dành một nửa thời gian thức để làm những việc họ không muốn làm và ở những nơi mà họ không muốn ở. Những câu hỏi khảo sát của Gallup đã nắm bắt được nhiều lý do làm việc mà tôi vừa liệt kê. Những khía cạnh công việc mà bài khảo sát nói đến là: cơ hội làm việc một cách “tương xứng”, hết sức mình; cơ hội để có hứng thú học hỏi và phát triển bản thân; để cảm thấy cảm kích, vui vẻ với đồng nghiệp và quản lý; để cảm thấy được tôn trọng ý kiến; để cảm thấy công sức mình bỏ ra là cần thiết; và để có những người bạn tốt ở nơi làm việc. Và đối với phần đông áp đảo, công việc của họ thiếu – thiếu nhiều – những điều đó. Câu hỏi đặt ra ở đây là tại sao? Cuốn sách này sẽ đưa ra một câu trả lời. *** Quan niệm sai lầm Hơn hai thế kỷ nay, cả xã hội và từng cá nhân chúng ta đã thấm nhuần một số quan niệm sai lầm về quan hệ của con người với công việc. Đó là một nguyên lý kinh tế học đã được chấp nhận từ lâu, được một số học thuyết tâm lý bồi thêm cho vững chắc. Nguyên lý ấy là: nếu bạn muốn có một ai đó – nhân viên, sinh viên, quan chức chính phủ hay con cái của bạn – làm một việc gì đó, thì bạn phải đền bù xứng đáng cho họ. Con người làm việc vì được thúc đẩy, vì phần thưởng, vì tiền. Bạn có thể thấy quan điểm này vận hành trong phương pháp “cà rốt và cây gậy”, một phương pháp chủ yếu trong những nỗ lực giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời của thế giới. Để tránh tình trạng khủng hoảng tài chính tái diễn, người ta cho rằng cần phải thay thế những động cơ làm việc “ngớ ngẩn”, thủ phạm dẫn tới tình trạng khủng hoảng đó, bằng những động cơ “thông minh hơn”. Chúng ta phải có những động cơ đúng. Những thứ khác không thực sự quan trọng. Quan niệm này đã làm sống lại quan niệm của người phát kiến ý tưởng về thị trường tự do, Adam Smith. Trong cuốn Của cải của các quốc gia (The Wealth of Nations), xuất bản năm 1776, ông viết: Con người ta vốn thích được sống sung sướng nhất có thể; và nếu tiền lương vẫn như vậy dù anh ta có làm việc chăm chỉ hay không, thì anh ta sẽ lơ là và lười biếng vì được cho phép. Nói cách khác, con người làm việc vì tiền – chẳng hơn mà cũng chẳng kém. Niềm tin của Smith vào sức mạnh thúc đẩy của đồng tiền dẫn ông tới chỗ bênh vực cho cách thức phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, lặp lại dễ dàng, cơ bản là vô nghĩa. Miễn là được trả lương, còn lại công việc đó tạo ra sản phẩm gì thì người ta chẳng quan tâm nhiều lắm. Và bằng cách phân chia công việc thành những thao tác nhỏ, xã hội sẽ đạt được năng suất làm việc khổng lồ. Để tán dương lợi ích của chuyên môn hóa, Smith đưa ra một ví dụ nổi tiếng, miêu tả một nhà máy sản xuất đinh: Một người kéo sợi dây ra, người khác lần theo nó, người thứ ba cắt, người thứ tư chộp lấy mẩu cắt ấy, người thứ năm tán cái đầu nó ra để tạo phần mũ... Tôi đã nhìn một phân xưởng nhỏ làm việc kiểu ấy, họ chỉ thuê có 10 người... Bọn họ có thể làm ra được hơn 48.000 cái đinh một ngày... Nhưng nếu cho làm việc riêng rẽ và độc lập... thì chắc mỗi người không làm nổi được 20 cái. Như chúng ta sẽ thấy sau này, quan điểm của Smith về loài người tinh vi hơn, phức tạp hơn và giàu sắc thái hơn nội dung vừa trích dẫn. Ông ta không tin rằng “con người trong công việc” nói lên toàn bộ câu chuyện, hay thậm chí là chuyện mấu chốt nhất, về bản chất con người. Nhưng dưới bàn tay những kẻ hậu bối của Smith, quan niệm đó đã mai một đi phần lớn độ tinh vi và khía cạnh phức tạp của nó. Hơn một thế kỷ sau, các quan điểm của Smith đã dẫn đường chỉ lối cho cha đẻ của cái được gọi là phong trào “quản lý khoa học”, Frederick Winslow Taylor. Taylor nghiên cứu tỉ mỉ về thời gian và cử động để tinh giản nhà máy, như cách Smith hình dung, để biến nhân công thành một bộ phận của một bộ máy vận hành trơn tru. Và ông ta đã đặt ra những cơ chế khen thưởng để thúc đẩy nhân công làm việc chăm hơn, nhanh hơn, và chính xác hơn. Không lâu sau đó, quan điểm của Smith đã tác động đến suy nghĩ của một nhân vật tiếng tăm trong giới tâm lý học giữa thế kỷ 20, B. F. Skinner. Các nghiên cứu của Skinner trên chuột và bồ câu – qua những thí nghiệm đơn giản, lặp lại, hết lần này đến lần khác, với phần thưởng là thức ăn hoặc nước uống – đã khoác lên một cái áo mang màu sắc khoa học đúng đắn và phương pháp luận cho những cải cách môi trường làm việc do Taylor phát triển. Skinner đã chỉ ra rằng hành vi của con vật có thể bị ảnh hưởng mạnh mẽ và được kiểm soát chặt chẽ bằng cách điều khiển số lượng phần thưởng và tần số thưởng mà hành vi đó đem lại. Giống như Taylor phát hiện ra chế độ trả lương khoán theo sản phẩm (một số tiền cố định cho mỗi sản phẩm hoàn thành) đã nâng cao năng suất làm việc ở nhà máy, Skinner nhận ra rằng con chim bồ câu trong phòng thí nghiệm cũng nghe lời hơn với hình thức khoán tương tự. Bạn có thể hỏi tại sao lại có ai đó đi chọn làm việc trong xưởng đinh của Smith, tán đầu đinh hết phút này đến phút khác, giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác cơ chứ. Câu trả lời của Smith là, tất nhiên rồi, phàm là người thì chẳng ai thích làm việc trong xưởng đinh. Nhưng phàm là người thì cũng chẳng ai thích làm việc cho dù ở bất cứ đâu. Smith đang nói với chúng ta rằng lý do duy nhất cho việc người ta làm bất kỳ thể loại công việc nào chính là số tiền mà nó đem lại. Và miễn là số tiền ấy xứng đáng thì bản thân công việc ra sao lại chẳng thành vấn đề. Adam Smith đã nhầm về thái độ và động lực làm việc của chúng ta. Nhưng khi chủ nghĩa tư bản phát triển dưới ảnh hưởng của ông, bằng một bước xoay mình uyển chuyển của “lý thuyết động cơ cho vạn vật”, người ta đã cải tiến ra một mô hình làm việc bỏ qua hoặc xóa sổ tất cả những yếu tố tiềm năng khác có thể khiến con người ta hài lòng với công việc. Và dần dần, cả hành tinh này đều vận hành theo mô hình như thế, nên mỗi sáng người ta lê bước đi làm mà trong lòng đã chết đi mầm mống ý nghĩa công việc mình làm, đã nguội lạnh lòng thiết tha hay phai tàn những cảm giác hứng khởi do được thử thách khả năng. Vì chẳng có lý do gì để làm việc ngoại trừ tiền, nên họ sẽ làm việc vì tiền. Vậy là quan điểm sai lầm của Smith về lý do làm việc của con người đã trở thành đúng. Ở đây, tôi không định nói rằng trước cuộc cách mạng công nghiệp, lao động là việc vui vẻ. Không hề. Tuy nhiên, lao động của những nông dân, thợ thủ công, và người bán hàng, mặc dù có thể đã từng vất vả, nhưng người ta lại khá tự do, có quyền tự quyết và công việc cũng khá phong phú. Họ có cơ hội sử dụng tài khéo léo của mình để giải quyết các vấn đề phát sinh và tìm tòi những cách thức làm việc hiệu quả hơn. Tất cả những cơ hội này đã rớt lại phía sau khi người ta bước qua cánh cửa nhà máy. Biến những quan niệm sai thành đúng Có thể bạn đồng ý với Smith. Có thể bạn tin rằng với hầu hết mọi người, về cơ bản, công việc chỉ xoay quanh tiền lương và chẳng là gì hơn. Chỉ có “giới tinh hoa” mới muốn có công việc thử thách, ý nghĩa và sự gắn bó và chỉ có họ mới có thể trông đợi những điều đó từ công việc. Không chỉ là có phần hợm hĩnh, quan điểm này còn không đúng. Nhiều người làm những việc mà chúng ta vẫn cho là tầm thường – quản gia, công nhân nhà máy, nhân viên trực tổng đài – quan tâm đến nhiều yếu tố hơn là chuyện tiền lương. Trong khi nhiều chuyên gia lại làm việc chỉ vì tiền. Những điều mà mọi người tìm kiếm phần lớn phụ thuộc vào những gì công việc của họ có thể mang lại. Và điều kiện lao động ra đời từ cuộc cách mạng công nghiệp, được kéo dài mãi một phần nhờ vào các lý thuyết từ các ngành khoa học xã hội, đã tước đoạt một cách có hệ thống niềm hạnh phúc lao động của họ. Để làm được như thế, chúng đã cướp mất của con người một nguồn vui quan trọng – và trả về những công nhân tồi tệ. Bài học ở đây là tầm quan trọng của sự khích lệ vật chất đối với con người sẽ phụ thuộc vào cấu trúc vận hành của nơi làm việc. Và nếu chúng ta tổ chức môi trường làm việc dựa trên quan điểm sai lầm rằng con người làm việc chỉ vì tiền, thì chúng ta sẽ tạo ra một nơi làm việc khiến cho quan điểm sai lầm này trở thành đúng. Bởi vậy, chuyện “người lao động không làm việc vô tư nữa” là không đúng. Cái đúng là bạn sẽ không còn có thể nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình nữa nếu bạn chỉ giao cho người ta một kiểu công việc chán chường và tẻ nhạt. Để mọi người “hỗ trợ nhiệt tình” bạn cần giao cho họ công việc mà họ muốn làm. Và ta sẽ thấy việc người lao động làm việc hết mình, vô tư, không phải vì tiền không còn là mộng tưởng kiểu “bánh vẽ”. Viễn cảnh ấy nằm ngay trong tầm với của chúng ta. Cũng nên nói rằng nhiều năm qua, lý thuyết và thực tiễn về quản lý đã đi qua những giai đoạn công nhận – thậm chí còn ca ngợi – các động lực làm việc đa dạng của con người, và các nhà quản lý được khuyến khích tạo ra một đời sống công sở có khả năng vun đắp tình cảm gắn bó và ý nghĩa công việc, vì lợi ích của cả nhân viên lẫn của tổ chức. Nửa thế kỷ trước, “Thuyết Y” của Douglas McGregor(1) đã là một nỗ lực có tầm ảnh hưởng lớn trong dòng phát triển này, còn Stephen Barley và Gideon Kunda đã xuất bản một bài báo quan trọng liệt kê diễn biến thịnh suy theo thời gian của những quan điểm quản lý công việc này. Nhưng không hiểu sao, những quan điểm như thế này chưa bao giờ hoàn toàn tàn lụi. Phong cách làm việc thoải mái và khác người của Google cùng các công ty đang phát triển như diều gặp gió khác ở thung lũng Silicon có thể sẽ khiến người ta có ấn tượng rằng những công việc lao dịch theo dây chuyền đã lùi vào dĩ vãng. Nhưng giống như lực hút trái đất, quan niệm người ta làm việc chỉ vì tiền đã hết lần này đến lần khác kéo những hi vọng về những mục đích làm việc cao cả hơn dúi dụi trở về mặt đất. Qua nhiều thế kỷ, người ta đã nhận ra những quan niệm của Adam Smith về bản chất con người quả thật rất dai dẳng. Các quan điểm hoặc lý thuyết về bản chất con người có một vị trí độc nhất trong các ngành khoa học. Chúng ta không phải lo lắng rằng trật tự vũ trụ sẽ bị biến dạng do những giả thuyết của chúng ta về vũ trụ. Các hành tinh thực sự không quan tâm đến quan niệm hoặc lý thuyết của chúng ta về chúng. Nhưng chúng ta nên lo lắng rằng bản chất con người sẽ bị thay đổi bởi các lý thuyết chúng ta đưa ra về bản chất con người. Bốn mươi năm trước, nhà nhân chủng học lỗi lạc Clifford Geertz đã nói rằng loài người là “động vật chưa hoàn thiện”. Ý ông là bản chất con người chính là sản phẩm của xã hội xung quanh chúng ta. Rằng con người tạo ra chứ không phải phát hiện ra bản chất của mình. Chúng ta “thiết kế” bản chất con người, bằng cách thiết kế nên những tổ chức mà mình sống trong đó. Bởi vậy ta nên tự hỏi bản thân là mình muốn góp phần thiết kế nên loại bản chất nào. Nếu muốn góp phần tạo nên một kiểu con người tìm kiếm những thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa, và sự thỏa mãn trong công việc, chúng ta phải bắt đầu từ việc xây dựng một con đường thoát khỏi cái hố sâu mà gần ba thế kỷ những hiểu lầm về động lực và bản chất chất con người đã đẩy chúng ta vào, và giúp bồi dưỡng những mảnh đất làm việc mà trong đó thử thách, sự gắn bó, ý nghĩa và sự thỏa mãn có thể đâm chồi. Mời các bạn đón đọc Vì Sao Chúng Ta Làm Việc của tác giả Barry Schwartz.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đời Thay Đổi Khi Chúng Ta Thay Đổi - Andrew Matthews
Quyển sách này nói về việc tại sao có những người dường như lúc nào cũng ở đúng nơi và đúng lúc - và làm thế nào bạn cũng được như họ; tại sao hóa đơn tính tiền luôn luôn tới ngay tức khắc; tại sao đèn giao thông cứ ở màu đỏ hoài cả nửa ngày trong khi bạn đang trễ một cuộc hẹn làm ăn; tại sao đi du lịch Tây Ban Nha mà bạn cũng gặp người láng giềng sát bên nhà; tại sao bạn chạy chiếc xe cà tàng suốt 15 năm ròng rã mà chưa bao giờ va quẹt... thế rồi chiếc xe mới mua mới chạy có hai ngày đã đụng móp mui! Quyển sách này nói về: hiểu được bản thân, biết khôi hài về bản thân, trở nên suôn sẻ thuận lợi, biết tha thứ cho bản thân. Sách cũng bàn về việc nhận thức được các quy luật tự nhiên để chúng ta có thể điều chỉnh bản tính chúng ta tốt hơn. Đây là quyển sách nói về làm thế nào để được hạnh phúc. Một người đàn ông đang thất vọng cùng cực nói với một học giả: "Thế là hết! Tôi xong đời rồi! Tất cả tiền đã hết! Tôi đã mất tất cả!". Nhà học giả hỏi: "Thế anh vẫn còn nhìn thấy, nghe thấy, đi lại... được đấy chứ?". Một người đàn ông đáp "Vâng!?". Nhà học giả nói: "Vậy thì tôi cho là cái gì anh cũng còn, chỉ có tiền là mất!". Một câu chuyện thật hay, phải không bạn? Chỉ với một cách nhìn nhận khác hẳn mà cuộc đời một người thay đổi: từ chỗ bi quan, tưởng chừng mọi thứ đã kết thúc, sang chỗ lạc quan, có thể sẵn sàng bắt tay vào làm lại từ đầu... Sự việc thì vẫn thế, chỉ cách nhìn của chúng ta thay đổi, và thế là cuộc đời cũng thay đổi... Trong cuốn sách này bạn sẽ học cách để nhìn nhận cuộc đời và chấp nhận cuộc đời! *** Các khuôn mẫu cư xử   Hãy nhìn vào tâm trí của bạn. Khi bạn băng qua đường, bạn có tập trung vào mỗi bước đi không? Khi bạn nhai kẹo, bạn có nghĩ đến viên kẹo không? Khi bạn ăn cơm, bạn có phải nghĩ đến việc tiêu hóa nó không? Khi bạn đi ngủ, bạn có phải tập trung vào việc tiếp tục thở không?...   Bạn đâu có cần phải ý thức khi làm những việc này, đúng không? Bạn làm theo tiềm thức. Chúng ta có thể nói rằng trí óc của chúng ta giống như tảng băng. Phần chúng ta thấy là phần ý thức, và phần lớn hơn mà chúng ta không nhìn thấy là tiềm thức. Phần tiềm thức của chúng ta chịu trách nhiệm với hầu hết những kết quả mà chúng ta đạt được trong cuộc sống.   Khi có những chuyện lặp đi lặp lại trong cuộc sống của mình thì đó chính là phần trí óc ta phải chịu trách nhiệm. Rất nhiều người trong chúng ta có những khuôn mẫu cư xử - tức là những kinh nghiệm cũ hay hành vi giống nhau trở đi trở lại hoài.   Bạn có biết người nào mà lúc nào cũng đến muộn không? Tôi từng chơi tennis với một anh chàng luôn đến trễ. Chúng tôi định chơi tennis trước giờ đi làm ở sân Hilton. Tôi nói với anh ta: "David, chúng ta sẽ chơi tennis vào 7 giờ sáng mai nhé?" Anh ta trả lời: "Tôi sẽ đến đó". "Anh có nghe mấy giờ chưa?", "7 giờ sáng. Tôi sẽ đến!"   Đúng như dự đoán, lúc 7:15 sáng hôm sau David đến. Anh ta đưa ra lý do: "Con tôi mượn vợt của tôi và để dưới giường của nó". Tuần sau cũng thế. David đến lúc 7:16. Lý do là: "Tôi chỉ tìm được một chiếc giày!". Tuần tiếp theo, anh ta đến đúng 7:15. "Vợ tôi bệnh và thằng con khóc quá".Và tiếp tục là pin hết, cúp điện, mất chìa khóa xe, và đồ lót bị ướt hay còn để trong máy giặt.   Rốt cuộc tôi nói: "David, chúng ta hãy giao kèo. Cứ mỗi phút anh bị trễ thì anh phải chịu phạt 1 đô la". Anh ta bẽ mặt quá nên không bao giờ chơi tennis nữa!   David nghĩ anh ta là nạn nhân. Anh ta đã không cố gắng một cách có ý thức để đến trễ. Nhưng trong tiềm thức anh ta đã lập một chương trình luôn nói là "bạn lúc nào cũng trễ"... và chương trình đó làm chủ cuộc đời của anh ta.   Nếu David ngẫu nhiên dậy sớm và thấy mình sẽ đến đúng giờ thì chương trình bên trong này của anh ta sẽ khiến anh ta đụng phải một cái cây, lạc vào một con đường lạ. Và rồi anh ta sẽ hít sâu vào và nói "Lại thế nữa - Tôi sẽ lại bị trễ!"   Mẫu bi kịch   Có lẽ bạn biết những người có mẫu này. Cuộc sống của họ là một chuỗi bi kịch. Bạn gặp họ trên đường phố và lỡ dại hỏi họ: "Anh có khỏe không?", thì ngay lập tức bạn sẽ được biết là con mèo của họ vừa mới chết, chiếc xe họ mới phải sang lại, bố họ vô tình làm cháy nhà, và họ vừa mới được chẩn đoán là mắc một chứng bệnh gì hết sức nghiêm trọng mà bạn chưa bao giờ nghe nói đến.   Bất cứ khi nào mà cuộc sống của họ tưởng như bắt đầu trôi qua êm ả thì một giọng nói trong tiềm thức của họ thì thầm, "Ê, không dễ thế được!" và rất mau chóng, một bi kịch khác xảy đến. Họ mất việc làm, họ phải giải phẫu, họ bị bắt...và mọi thứ lại trờ lại bình thường.   Chúng ta sẽ xem chúng ta có thể làm gì với những mẫu này sau, và bây giờ thì hãy nhận dạng thêm một ít nữa.   Mẫu tai nạn   Một số người có tài gặp tai nạn. Cả đời họ cứ bị trật thang té, hay đụng xe, ngã trên cây xuống, giật điện và bị tai nạn xe hơi. Tôi biết một nhân viên bảo hiểm trong 20 năm đầu đời đã sở hữu đến 5 chiếc xe hơi từ ngày sinh nhật thứ 16 của cô ta. Cô ta bảo tôi: "Cứ mỗi khi tôi mua một chiếc xe mới thì ai đó tông vào đuôi xe tôi. Sau 5 lần tai nạn như thế, tôi không thèm mua xe mới nữa cho an toàn".   Mẫu bệnh hoạn   Bạn có biết ai có mẫu này không? Một số người cứ phải cảm lạnh 20 lần trong một năm. Một số người cứ mỗi khi có sự kiện lớn gì đó là phát bệnh. Có người thì thấy bệnh vào mỗi sáng thứ Hai.   Mẫu lộn xộn   Một số người thích sự lộn xộn. Họ không cố tình nhưng quán tính khuôn mẫu của họ quá mạnh! Bàn làm việc của họ lộn xộn, hồ sơ bề bộn, tóc tai bờm xờm. Nếu bạn đi theo sau và thu dọn mọi thứ cho họ thì rồi trong vòng 20 phút, văn phòng, giường ngủ và xe hơi, hộp đồ ăn của họ, tất cả đều lại như vừa mới qua một trận cuồng phong.   Mẫu cháy túi   Bạn có gặp ai lúc nào cũng cháy túi chưa? Đó không phải là cái chúng ta lâm vào mà là chính chúng ta tạo ra tình trạng đó cho mình! Những người có mẫu này tuân theo một chương trình tự động. Bất kỳ khi nào họ có tiền thừa là họ tìm nơi nào đó để tiêu cho sạch. Giống như bạn bị ngứa và phải gãi, họ có tiền và phải...xài. (Nếu bạn là thương gia thì coi chừng bị nhồi máu cơ tim!) Thường thì họ không bao giờ nhận biết cái gì đang xảy ra! Họ nghĩ rằng đó là do nền kinh tế, do chính phủ hay lương của họ không thỏa đáng nên đã làm họ phải khốn đốn. Nhưng nếu anh tăng lương họ gấp đôi thì họ cũng bị rỗng túi! Thật ra lý do những người trúng số thường sạch tiền, đó là do khuôn mẫu bên trong của họ nói: "Tiền này không chính đáng. Nó không có ý nghĩa. Nên tiêu vào việc gì đó cho xong". ... Mời các bạn đón đọc Đời Thay Đổi Khi Chúng Ta Thay Đổi của tác giả Andrew Matthews.
Thuyết Phục Bằng Tâm Lý - Robert B. Cialdini
Thuyết phục bằng tâm lý - cuốn sách kinh điển về nghệ thuật thuyết phục, sẽ giải thích khía cạnh tâm lý mỗi khi chúng ta đưa ra câu trả lời là «có» và làm thế nào để bạn cũng nhận được sự đồng tình đó. Với 35 năm nghiên cứu tìm tòi và 3 năm quan sát các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của con người, tác giả, đồng thời là nhà tâm lý học nổi tiếng Robert B. Cialdini đã đúc kết và trình bày những thông tin quý báu đó trong cuốn sách Thuyết phục bằng tâm lý. Cuốn sách tập trung nêu bật 6 nguyên tắc chủ yếu của nghệ thuật thuyết phục như: sự nhất quán, sự khan hiếm, sự đáp trả, bằng chứng xã hội, uy thế và thiện cảm. Mỗi loại lại bị chi phối bởi một nguyên tắc tâm lý cơ bản điều khiển hành vi con người và nhờ đó cũng tạo nên sức mạnh cho mỗi thủ thuật. Các nguyên tắc tâm lý này có ảnh hưởng đến người khác khiến họ phải tuân theo một yêu cầu nào đó. Và theo Cialdini, các nguyên tắc này nên được kết hợp với nhau để tạo ra ảnh hưởng lớn nhất. Bạn cũng sẽ được học cách làm thế nào để sử dụng 6 nguyên tắc trên để trở thành một nhà thuyết phục tài ba đồng thời làm thế nào để giúp bạn bị thuyết phục bởi người khác. Các nguyên tắc của Thuyết phục bằng tâm lý là một cuốn sách tuyệt vời để đồng hành cùng bạn trên đường đời. *** Bây giờ tôi có thể tự do thú nhận mình chẳng khác nào một thằng khờ. Theo những gì tôi nhớ được thì tôi rất dễ trở thành mục tiêu cho những người bán hàng, những người gây quỹ, những nhân viên hoạt ngôn của các công ty. Thực tế, chỉ một số ít người có mục đích xấu. Còn những người như đại diện cho các tổ chức từ thiện đều có mục đích tốt. Và thường thì cuối cùng tôi đã đặt mua dài hạn những tạp chí mà tôi không hề cần hay vé tham dự buổi khiêu vũ của công nhân vệ sinh. Có lẽ việc làm chàng khờ trong thời gian dài đã khiến tôi có cảm hứng nghiên cứu về sự chấp thuận: lý do gì khiến một người đồng ý với yêu cầu của người khác? Và những yếu tố nào hiệu quả nhất khiến người khác phải theo y mình? Tôi tự hỏi tại sao một lời đề nghị được nói theo cách này bị từ chối, nhưng khi nói theo cách khác lại thành công.    Vì vậy, với vai trò nhà tâm lý xã hội thực nghiệm, tôi bắt đầu nghiên cứu về tâm lý của sự đồng thuận. Ban đầu, phần lớn thời gian tôi thực hiện nghiên cứu trong phòng thí nghiệm với sự cộng tác của các sinh viên. Tôi mong muốn tìm ra các yếu tố tâm lý cơ bản hay các nguyên tắc tâm lý có ảnh hưởng đến người khác khiến họ phải tuân theo yêu cầu nào đó. Đến nay, các nhà tâm lý học cũng đã biết về những nguyên tắc này – chúng là gì và có tác dụng như thế nào? Tôi coi những nguyên tắc tâm lý như vũ khí của nghệ thuật gây ảnh hưởng và trong các chương sau, tôi sẽ nói cụ thể hơn.    Sau một thời gian, tôi nhận ra thí nghiệm chỉ là cần thiết nhưng chưa đủ cho nghiên cứu này. Bởi các thí nghiệm không giúp tôi đánh giá được tầm quan trọng của những nguyên lý trong thế giới bên ngoài phòng nghiên cứu hay trường học, nơi tôi đang khảo sát chúng. Nếu muốn hiểu đầy đủ các nguyên tắc của nghệ thuật thuyết phục, tôi cần mở rộng phạm vi khảo sát. Tôi cần phải nghiên cứu và học hỏi từ những "chuyên gia" thuyết phục – những người đã áp dụng các nguyên tắc đó với tôi trong suốt cuộc đời tôi. Họ biết cái gì hiệu quả và cái gì không; quy luật tồn tại của cái phù hợp nhất đảm bảo cho điều đó. Công việc của họ là khiến chúng ta phải tuân theo và sinh kế của họ phụ thuộc vào điều đó. Những người không biết cách làm cho người khác chấp thuận không sớm thì muộn sẽ bị tụt hậu, còn những người biết cách sẽ trụ lại và thăng tiến.    Không phải chỉ có những chuyên gia thuyết phục mới biết và áp dụng những nguyên tắc tâm lý gây ảnh hưởng để công việc tiến triển thuận lợi. Ở một mức độ nào đó, trong các mối quan hệ thường ngày với hàng xóm, bạn bè, người yêu, con cháu, tất cả chúng ta cũng vừa áp dụng những nguyên tắc tâm lý gây ảnh hưởng và vừa là nạn nhân của chúng. Tuy nhiên, chỉ những chuyên gia thuyết phục mới am hiểu tường tận nguyên tắc tâm lý này. Họ có kiến thức về nghệ thuật thuyết phục sâu sắc nhất. Sau đó, trong gần ba năm, tôi kết hợp thí nghiệm nghiên cứu với một chương trình thú vị vào thế giới của những người có tài thuyết phục như nhân viên bán hàng, người gây quỹ, nhà tuyển dụng, người làm quảng cáo, v.v...    Mục đích của tôi là tìm hiểu sâu những phương pháp phổ biến và hiệu quả nhất mà các "chuyên gia" thuyết phục sử dụng. Đôi khi tôi thực hiện một vài bài phỏng vấn các chuyên gia thuyết phục và cả những người thuộc phe đối lập với họ như các sĩ quan cảnh sát, đại lý người tiêu dùng... Ngoài ra, tôi cũng xem xét kỹ lưỡng các tài liệu chép tay về các phương pháp khiến người khác phải phục tùng được truyền lại cho tới tận ngày nay.    Việc này thường được tiến hành dưới hình thức quan sát – người nghiên cứu tham gia vào nhóm và đóng vai trò như một điệp viên. Người điều tra thâm nhập vào các tình huống mình quan tâm và trở thành thành viên chính thức của nhóm đối tượng nghiên cứu. Chẳng hạn, nếu muốn biết những thủ thuật thuyết phục trong các tổ chức bán hàng, tôi sẽ tìm đến nơi đào tạo bán hàng và học phương pháp của họ. Sử dụng cách tương tự nhưng không rập khuôn, tôi có thể thâm nhập vào ngành quảng cáo, quan hệ công chúng, các tổ chức gây quỹ nhằm tìm hiểu các kỹ thuật của họ. Do đó, hầu hết các bằng chứng trong cuốn sách này đều là từ những kinh nghiệm của chính tôi, trong vai trò chuyên gia thuyết phục hay một chuyên gia tận tụy trong nhiều tổ chức làm công việc là khiến chúng ta chấp thuận.    Sau ba năm quan sát, tôi nhận thấy mặc dù các chuyên gia có hàng nghìn thủ thuật khác nhau để khiến người khác đồng thuận, song tựu trung, chúng gồm sáu loại chính. Mỗi loại lại bị chi phối bởi một nguyên tắc tâm lý cơ bản điều khiển hành vi con người và nhờ đó cũng tạo nên sức mạnh cho mỗi thủ thuật. Cuốn sách này nêu ra và phân tích sáu nguyên tắc cơ bản, như sự nhất quán, sự đáp trả, bằng chứng xã hội, uy quyền, thiện cảm và sự khan hiếm. Chúng ta sẽ thảo luận về các chức năng của chúng trong xã hội và cách thức mà các chuyên gia sử dụng để thuyết phục được mọi người, khi họ khéo léo kết hợp những nguyên tắc trên với đề nghị mua hàng, hiến tặng, nhượng bộ, bầu cử, tán thành, v.v... Cũng phải lưu ý là trong số sáu nguyên tắc tôi không đưa ra quy luật đơn giản của tính tư lợi vật chất – đó là con người thường muốn nhận nhiều nhất và trả ít nhất cho lựa chọn của tôi. Tôi bỏ qua điều này hoàn toàn không phải vì cho rằng mong muốn tối đa hóa lợi ích và tối thiểu hóa chi phí không ảnh hưởng nhiều đến việc ra quyết định của chúng ta. Tôi không phân tích riêng rẽ quy luật tư lợi cá nhân bởi nó đã có sẵn động lực, giống như một yếu tố được hiểu, cần được thừa nhận chứ không cần miêu tả kỹ lưỡng.    Cuối cùng, mỗi nguyên tắc sẽ được xem xét khả năng tạo ra một loại tuân thủ tự động và vô thức từ người khác, đó là sẵn sàng đồng thuận mà không suy nghĩ. Các bằng chứng cho thấy, trong nhịp sống hiện đại luôn đổi thay và thời đại bùng nổ thông tin, dạng tuân thủ vô thức này sẽ ngày càng thịnh hành. Do đó, việc hiểu rõ ảnh hưởng tự động diễn ra như thế nào và tại sao sẽ trở nên ngày càng quan trọng với xã hội.    Trong cuốn sách này, ở cuối mỗi chương, tôi sẽ cung cấp các câu chuyện của một số độc giả, để giúp các bạn thấy chúng ta có thể dễ dàng và thường xuyên trở thành nạn nhân của quá trình gây ảnh hưởng trong cuộc sống hàng ngày.    ROBERT B. CIALDINI  Mời các bạn đón đọc Thuyết Phục Bằng Tâm Lý của tác giả Robert B. Cialdini.
Tôi Tự Học
Sách “Tôi Tự Học” của tác giả Nguyễn Duy Cần đề cập đến khái niệm, mục đích của học vấn đối với con người đồng thời nêu lên một số phương pháp học tập đúng đắn và hiệu quả. Tác giả cho rằng giá trị của học vấn nằm ở sự lĩnh hội và mở mang tri thức của con người chứ không đơn thuần thể hiện trên bằng cấp. Trong xã hội ngày nay, không ít người quên đi ý nghĩa đích thực của học vấn, biến việc học của mình thành công cụ để kiếm tiền nhưng thực ra nó chỉ là phương tiện để đưa con người đến thành công mà thôi. Bởi vì học không phải để lấy bằng mà học còn để “biết mình” và để “đối nhân xử thế”. Cuốn sách này tuy đã được xuất bản từ rất lâu nhưng giá trị của sách vẫn còn nguyên vẹn. Những tư tưởng, chủ đề của sách vẫn phù hợp và có thể áp dụng trong đời sống hiện nay. Thiết nghĩ, cuốn sách này rất cần cho mọi đối tượng bạn đọc vì không có giới hạn nào cho việc truy tầm kiến thức, việc học là sự nghiệp lâu dài của mỗi con người. Đặc biệt, cuốn sách là một tài liệu quý để các bạn học sinh - sinh viên tham khảo, tổ chức lại việc học của mình một cách hợp lý và khoa học. Các bậc phụ huynh cũng cần tham khảo sách này để định hướng và tư vấn cho con em mình trong quá trình học tập. *** Tôi còn nh ớ một câu chuyện ngụ ngôn Ả Rập rất ngộ nghĩnh sau đây do văn sĩ Anatole France thuật lại: Có một Nhà Vua gọi các bậc trí giả trong nước, bảo tìm tòi và mang lại cho ông sự khôn ngoan. Các bậc bác học ấy sưu tầm tất cả sách vở hay nhất trong nước để chở đến cho Nhà Vua. Nhà Vua đang bận vui chơi trong một yến tiệc nên không có ngày giờ đọc: “Nhiều quá! Làm sao đọc hết được? Suốt đời ta cũng không đọc hết. Các người hãy tuyển lại trong đống sách ấy những quyển nào hay nhất và cần thiết nhất thôi!” Các nhà bác h ọc mới ngày đêm tuyển chọn, còn được một mớ sách hay nhất, bèn đem chở đến Nhà Vua. Bấy giờ Nhà Vua đang mơ màng buồn ngủ, bèn bảo: “Vẫn còn nhiều quá! Các khanh cố gắng thêm lên, đọc lại thật kỹ các sách này và tóm tắt lại tinh hoa của nó, viết thành một quyển sách thôi, rồi ta sẽ đọc quyển ấy để thu thập sự hiểu biết của những bậc thông minh nhất thế giới từ cổ chí kim, có phải tiện hơn không?” Các nhà bác h ọc uyên thâm nhất, cặm cụi cả năm trường mới rút đặng tinh hoa vào một bộ sách duy nhất. Lòng mừng khấp khởi, vị cao niên nhất trong các nhà thông thái ôm bộ sách quýấy vào đền. Nhà Vua cũng vẫn chê là còn dài dòng lắm: “Khanh hãy c ố gắng rút tất cả tinh hoa bộ sách này làm thành một câu thôi, như thế ta chỉ học lấy câu ấy để biết được tất cả cái biết của con người từ xưa đến nay, trong khắp thiên hạ”. Nhà thông thái tr ở về, và sau một tháng trở vào đền, cầm theo câu tư tưởng tinh hoa của tất cả sự hiểu biết của con người, viết trên một tấm lụa ngà: “Con người sinh ra, yếu đuối, trần truồng. Càng ngày càng lớn hơn, về sức mạnh cũng như về dục vọng, nhưng lòng tham muốn lại không bao giờ thoả mãn. Rồi tàn tạ, rồi tiêu vong”. Nhà Vua đang bận sửa soạn ra quân tỏ vẻ giận dữ nói: “Điều ấy có gì mà phải nói. Ta đã biết dư rồi! Chúng anh toàn là bọn láo cá!”. ... Mời các bạn đón đọc Tôi Tự Học của tác giả Nguyễn Duy Cần.
Người Thông Minh Học Tập Như Thế Nào - Ronald Gross
Cuốn sách này được viết nhằm mục đích rất đơn giản: thay đổi những quan niệm về phương pháp học tập nhằm tạo ra một phong cách học tập nhanh, hiệu quả, toàn diện, có năng suất cao, và thú vị hơn nhiều những gì bạn đã biết. Hệ thống các phương pahps học tập đỉnh cao được miêu tả ở đây là tập hợp cách thức bạn có thể sử dụng để đạt được những kỹ năng học tập rộng, sâu và phù hợp với cá nhân hơn bất cứ phương pháp nào bạn từng thử nghiệm trong quá trình học tập trước đây. Phương pháp học tập đỉnh cao là cách thức học tập mới mẻ ngày càng được các nhà giáo dục công nhận là cần thiết cho mọi cá nhân. Đây là một chương trình tự định hướng sự phát triển của mỗi cá nhân. Điều đó nghĩa là nắm bắt những kỹ năng mới để hiểu bản thân mình và thế giới - thứ tài sản đích thực mà có thể bạn chưa bao giờ đánh mất. Những kỹ năng học tập đầy hiệu quả dựa trên khám phá mới về cách thức hoạt động của não bộ và các phương pháp bạn áp dụng khám phá đó cho phong cách học tập của riêng mình. *** Cuốn sách này được viết nhằm mục đích rất đơn giản: Tôi mong muốn thay đổi những quan niệm của các bạn về phương pháp học tập. Tôi muốn chỉ cho bạn cách tạo cho mình một phong cách học tập nhanh, hiệu quả, toàn diện, có năng suất cao, và thú vị hơn nhiều những gì bạn đã biết. Tôi muốn chỉ cho các bạn thấy cách học tập suốt đời.  Hệ thống các phương pháp học tập đỉnh cao được miêu tả ở đây là tập hợp cách thức bạn có thể sử dụng để đạt được những kỹ năng học tập rộng, sâu và phù hợp với cá nhân hơn bất cứ phương pháp nào bạn từng thử nghiệm trong quá trình học tập trước đây. Mỗi ngày qua đi đều có thể trở thành một cuộc hành trình đầy ắp khám phá, với những cơ hội thu nạp thêm kinh nghiệm và kiến thức, tạo dựng thêm nhiều mối quan hệ mới và thấy được những khuôn mặt mới của bản thân cũng như thế giới quanh bạn. Thay vì phải nỗ lực để theo đuổi những cách học thông thường, bạn có thể biến mỗi tháng qua đi trở thành một cột mốc đánh dấu quá trình thám hiểm, tìm tòi và phát triển liên tục không ngừng của bạn.  Phương pháp học tập đỉnh cao là cách thức học tập mới mẻ ngày càng được các nhà giáo dục công nhận là cần thiết cho mọi cá nhân. Đây là một chương trình tự định hướng sự phát triển của mỗi cá nhân. Điều đó nghĩa là nắm bắt những kỹ năng mới để hiểu bản thân mình và thế giới – thứ tài sản đích thực mà có thể bạn chưa bao giờ đánh mất. Đó là sự đầu tư vào chính bản thân mình để tận dụng tốt hơn cơ hội phát huy hết năng lực của mình.  Ban đầu, rất nhiều người gặp rắc rối với ý tưởng tự định hướng việc học tập, bởi vì họ được đào tạo trong một xã hội mà kiến thức thu được chỉ ngang bằng với những điều được dạy trong trường học. Họ tin rằng cách học đúng nhất là ngồi trong lớp học nghe thầy cô giảng bài, xem sách giáo khoa, nghe lời những chuyên gia uy tín, đọc phần tài liệu được giao, ghi nhớ những thông tin nhàm chán, cũ rích cần cho những bài kiểm tra và thi lên lớp. Nhưng trong phương pháp học tập đỉnh cao không tồn tại cách học có chủ ý bắt buộc hay phải ghi nhớ những điều người khác nói với bạn, hay theo đuổi một hệ thống môn học cố định mà một số trường cho là quan trọng. Thay vào đó là một phương pháp học tập độc lập, không ràng buộc, không bị thể chế hoá và đó chính là cách giáo dục đúng đắn nhất hiện có. Từ những quan điểm và kỹ thuật được miêu tả trong những chương sau đây, các bạn có thể tự mình đạt được những điều sau: Sự tự tin mới mẻ về bản thân bạn như là một người có khả năng tự học. Bạn sẽ từ bỏ được những quan điểm sai lệch và cách học tự hạn chế bản thân đã đeo bám bạn từ ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Bạn được thử nghiệm phương pháp học tập mới – một con đường rộng mở hướng bạn trở thành mẫu người bạn mong muốn.  Những kỹ năng học tập đầy hiệu quả dựa trên khám phá mới về cách thức hoạt động của não bộ và các phương pháp bạn áp dụng khám phá đó cho phong cách học tập của riêng mình. Để phát triển phong cách học tập của riêng bạn, bạn cần phải tìm hiểu xem làm thế nào để mình có thể học tốt nhất và làm sao có thể sắp xếp việc học tập của mình đạt hiệu quả cao, dễ dàng và hứng thú nhất. Những cách thức để tìm nguồn tài liệu học tập từ khắp nơi trên hành tinh luôn sẵn sàng khi bạn cần đến chúng. Bạn sẽ khám phá ra cách sử dụng kiến thức trong “trường đại học vô hình”, nơi tập hợp vô số nguồn thông tin, những lời khuyên và sự trợ giúp cho bạn trong học tập.  Những hướng dẫn chi tiết sẽ cho phép bạn ứng dụng những kỹ năng học tập đó trong chính cuộc sống của mình. Khi đọc cuốn sách này, bạn sẽ tìm thấy những bài tập giúp bạn biến kỹ năng học tập trở thành một phần trong hoạt động hàng ngày của bạn. Tự mình ứng dụng chúng sẽ giúp bạn thấu hiểu và cảm thấy thích thú hơn tất cả những chỉ dẫn trừu tượng mang nặng tính lý luận.  Tôi có cảm hứng viết cuốn sách này từ một loạt trải nghiệm phương pháp học tập đỉnh cao trong cuộc đời mình. Đó là những lúc tôi thu được kiến thức, hiểu biết hay tri thức có tác dụng làm thay đổi sâu sắc con người tôi.  Những trải nghiệm đầu tiên là với cha tôi, ông Michael Gross, một người tự học theo phong cách riêng, tự đào tạo mình có được trình độ kiến thức cao nhất ở bậc đại học (sau khi bỏ học ở trường từ năm lớp 6). Cha đã cho tôi thấy chúng ta có thể học được bao nhiêu điều trên xe điện ngầm từ nhà tới công sở và từ công sở về nhà, hay trong phòng đọc sách của thư viện công cộng lớn nằm trên phố 42 ở đại lộ 5. Trải nghiệm thứ hai về phương pháp học tập đỉnh cao đến với tôi khi tôi đang làm việc tại Ban giáo dục của quỹ Ford và viết một số sách về cải cách trường học vào các buổi tối. Chính vào thời điểm đó tôi đi đến kết luận rằng nâng cấp trường học và cao đẳng, thậm chí với nguồn trợ cấp đáng kể, cũng không phải là lời giải cho các vấn đề giáo dục. Thay vào đó, giáo dục cần phải trở thành hoạt động kéo dài suốt đời trong toàn thể xã hội. Con người ở mọi lứa tuổi và trong mọi hoàn cảnh sống đều cần được trợ giúp để có khả năng học tập, thay đổi và phát triển. Tôi đã thành lập một khoá học thử nghiệm tại Đại học New York – khoá học đại học đầu tiên không có giáo trình cụ thể, không có sách giáo khoa, không có những bài giảng được soạn sẵn cũng như không có các kỳ kiểm tra và không phân chia thứ hạng. Thay vì cho sinh viên học những gì giáo viên muốn dạy, chúng tôi giúp họ học những gì họ muốn. Thử nghiệm học tập, theo nghĩa nào đó, là khoá học cho những người tốt nghiệp chỉ bằng việc tham gia vào khoá học mà không cần qua các kỳ thi.   Năm đầu tiên tôi làm việc với 20 người, từ những tiến sĩ khoa học đến những học sinh trung học bỏ học nửa chừng, trong số đó có vài người là bạn thân nhất của tôi. Kinh nghiệm này dạy cho tôi rằng bất cứ lĩnh vực nào mà chúng ta quan tâm, với cùng những khái niệm cơ bản và cách thức áp dụng cho tất cả mọi người – chúng ta đều cần phải có mục đích, kế hoạch học tập cho phù hợp với phong cách học tập của từng người, thiết lập và truy cập nguồn dữ liệu và kiểm tra cách thức chúng ta đang tiến hành những điều đó. Tôi cũng nhận thức được rằng việc học tập suốt đời là điều hoàn toàn có thể và cực kỳ thoải mái, nhưng nó đòi hỏi đi kèm những kỹ năng mới cùng những sáng kiến mới. Những học viên xuất sắc cần có kỹ năng đặc biệt để kiểm soát sự tiến bộ của bản thân suốt đời  Cuối cùng, tôi cũng trở thành Tổng biên tập của tờ Adult and Continuing Education Today (Học tập suốt đời dành cho người đã trưởng thành). Tôi đã có cơ hội được gặp, được giúp đỡ và học hỏi từ nhiều học viên xuất sắc nhất trên khắp nước Mỹ và ở nước ngoài. Bất cứ khi nào và ở đâu, tôi đều thấy những người đàn ông và phụ nữ sử dụng kiến thức để trở nên giàu có hơn, khoẻ mạnh hơn, thành công hơn, và sống có ích hơn. Một số những hiểu biết sâu sắc của tôi được lấy từ trong cuốn sách tôi viết năm 1977 với nhan đề The Lifelong Learner (Học tập suốt đời), được giới thiệu lần này để giúp truyền bá những ứng dụng của nó. Được khuyến khích bởi những khám phá này, tôi bắt đầu mở các cuộc hội thảo, lớp học và các khoá đào tạo giáo viên. Năm 1980, tôi được Liên bang tài trợ khoản đầu tiên để điều tra về những học viên vượt trội và nhận dạng những kỹ năng và năng khiếu giúp họ học tập tốt đến như vậy. Hơn hai trăm cuộc phỏng vấn đã cho tôi câu trả lời. Trong suốt mười năm gần đây, tôi đã áp dụng rất thành công những phương pháp này cho các học viên ở đủ mọi thành phần khác nhau, từ người đứng đầu các tổ chức, hiệp hội, người điều hành các khu vực công cộng, cho đến những người thiểu năng trầm trọng về trí tuệ và thể chất. Trong suốt một tuần tổ chức hội thảo chuyên đề thường niên, tôi thường làm việc với các nhà lãnh đạo cấp cao của McDonnell-Douglas Cooperation hay United Way of Greater New York vào thứ hai và thứ ba, và vào thứ năm hay thứ sáu thì làm việc với những cụ già hưu trí 80 đến 90 tuổi, một vài người trong số đó có dấu hiệu của căn bệnh Parkinson. Họ đều rất hứng thú học tập và sử dụng những kỹ năng cơ bản để tự chịu trách nhiệm phát triển và rèn luyện bản thân. Khi cuốn sách này được xuất bản, băng ghi âm hướng dẫn một vài kỹ năng chính trong sách đã trở thành sản phẩm bán chạy nhất trong nước như là minh chứng cho tính hữu dụng của những phương pháp trên. Mỗi ngày có hàng nghìn người đang tìm hiểu về những phương pháp này và sử dụng chúng để có được những gì họ muốn biết và cần phải biết. Thêm vào đó, tôi có một vài phương pháp học tập đỉnh cao phát triển khoảng chục năm gần đây trong một số lĩnh vực như phát triển con người, đào tạo trong các tổ chức kinh doanh, chính phủ, quân đội, và các liên hiệp. Tới thời điểm này, có thể bạn sẽ thắc mắc có gì mới mẻ và khác lạ đến vậy trong cách tiếp cận phương pháp học tập đỉnh cao tôi trình bày ở đây so với hệ thống những phương pháp học tập đỉnh cao và các học thuyết khác. Từ kinh nghiệm phát triển và ứng dụng, tôi xin đưa ra bốn lý do tại sao phương pháp học tập đỉnh cao đã chứng minh được sức mạnh và làm cho những học viên của tôi cảm thấy hứng thú nhất. Đầu tiên, hệ thống này được thiết kế dành cho nhu cầu học tập của người trưởng thành. Bạn sẽ được lựa chọn những phương pháp và tư liệu phù hợp với dạng môn học mà bạn muốn theo đuổi. Phần lớn các hệ thống học tập khác đưa ra một biện pháp như chiếc chìa khoá dẫn đến thành công. Ví dụ như nhà giáo dục nổi tiếng Mortimer Adler sẽ nói cho bạn rằng có một môn học đáng để học hơn cả (những tác phẩm nghệ thuật kinh điển theo trường phái tự do) và cách để học môn này (thông qua đọc sách và thảo luận). Tôi tin rằng, chính bạn là người đưa ra quyết định cái gì đáng để học nhất. Theo đó, những phương pháp của tôi khuyến khích các bạn quyết định và lên kế hoạch dự định học tập của mình, cả những phương pháp và tư liệu cần thiết kèm theo. Phương pháp học tập đỉnh cao đưa ra cho bạn hệ thống công cụ để bạn quyết định cái gì giúp ích nhiều nhất cho phong cách học tập của bạn và môn học bạn muốn nghiên cứu. Thứ hai, không giống như các hệ thống khác, phương pháp học tập đỉnh cao đề cập đến cả kỹ năng tâm lý nhằm cải thiện việc học tập và lên danh sách những nguồn tư liệu sẵn có ngày nay để khơi nguồn cảm hứng và làm giàu thêm tri thức của bạn. Việc học tập có thành công hay không phụ thuộc nhiều vào khả năng tìm kiếm thông minh tư liệu học tập tốt nhất cũng như phụ thuộc vào những kỹ năng tâm lý. Hệ thống của tôi chỉ ra cách sử dụng thế giới như một kho tư liệu học tập. Thứ ba, phương pháp học tập đỉnh cao giúp bạn khám phá phong cách học tập cá nhân của mình. Một vài hệ thống nói đến ở trên có cân nhắc đến vấn đề này. Đối với tôi, hiểu chính bản thân mình là một lời dạy bảo cơ bản. Bởi mỗi chúng ta đều khác nhau, nên không có một phương pháp toàn năng nào khả thi nhất cho việc học tập. Phương pháp học tập hiệu quả, năng suất và thoải mái đến trực tiếp từ việc lựa chọn những phương pháp phù hợp với bạn cũng như cho môn học mà bạn muốn học. Cuối cùng, một vài phương pháp học tập phụ thuộc chủ yếu vào chuyên gia như giáo viên hay vào trang thiết bị đắt tiền, hoặc đôi khi cả hai. Thường thì các nhà cải cách kèm theo trong hệ thống của họ một vài yếu tố phát triển từ kinh nghiệm và phong cách riêng của bản thân mình thay vì từ những bằng chứng thực nghiệm hay học thuyết đúng đắn. Những nhân tố này có thể vô dụng, hoặc chỉ có tác dụng khi các giáo viên diễn đạt chúng. Bằng cách tổng hợp từ nhiều nguồn tốt nhất khác nhau, cuốn Người thông minh học tập như thế nào? tách biệt các phương pháp khỏi những người tạo nên chúng. Trong khi tôi miêu tả nhiều loại tư liệu nguồn, bạn có thể lựa chọn để sử dụng, những điều cần thiết nhất trong phương pháp học tập đỉnh cao không yêu cầu đến các trang thiết bị đặc biệt. Bất cứ công cụ nào bạn cần đều dễ dàng tìm được ở khắp mọi nơi.  Mời các bạn đón đọc Người Thông Minh Học Tập Như Thế Nào của tác giả Ronald Gross.