Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tình Yêu Đến Muộn

Hai người đẹp đôi, đính ước vui vẻ và quan hệ với nhau ở mức hợp tác. Họ quý mến chứ không đắm say, thân thiện chứ không thân mật, và trước ngày Sara đi Pháp thì kỷ niệm nồng nàn nhất giữa nàng với vị hôn phu chỉ giới hạn vài nụ hôn phớt nhẹ dưới trăng. Nhưng vài tuần sau, Sara trở về với sức hấp dẫn hoàn toàn mới mẻ. Vẫn những đường nét ấy, nhưng Rey thấy khuôn mặt xinh đẹp của nàng trở nên mê hồn, mái tóc đỏ hung thành rực rỡ, tấm thân săn chắc trở thành mềm mại hơn và lúc nào cũng như bốc lửa. Rey không hiểu tại sao, chỉ cố cưỡng để mối quan hệ giữa họ đừng dấn sâu vào gắn bó. Nhưng một buổi tối mất kiềm chế, chàng đã ôm nàng vào lòng, và đúng khoảnh khắc môi chạm môi, chàng nhận ra người đang đứng trong tay chàng không phải là Sara, không phải người chàng đã từng đính ước... *** Trước khi kịp hiểu ra chuyện gì đang xảy ra, Rina thấy nàng bị xoay đi, tay nàng khóa chặt trong tay chàng, và cả hai đang hối hả bước về phía thang máy. “Sara, anh đã gọi cho em suốt một tiếng liền. Anh gọi cả số máy cầm tay và số ở nhà vì không biết chắc em đã quay lại đảo chưa. Anh không hiểu vì sao em không thông báo giờ bay cho anh. Anh có thể đến sân bay đón em mà. Tại sao em không hề gọi cho anh?” “Tôi...” nàng mở miệng. Đầu óc nàng đang cố sức để theo kịp với chàng. Điện thoại di dộng ư? Đương nhiên rồi, Sara chắc chắn đã lờ đi những cuộc gọi của chàng. Số hiện tại của chị ấy đăng kí ở New Zealand nhưng có thể nghe gọi quốc tế, nàng biết nàng không thể đơn giản chỉ nói chị ấy đã thay số. Hãy nghĩ đi nào! Nàng tự bảo mình, Sara sẽ nói gì, làm gì trong trường hợp này? Rina đành bám vào biện pháp đơn giản nhất, “Em xin lỗi, em đánh mất điện thoại. Anh biết em mà”. “Giờ thì chẳng quan trọng nữa. Anh rất mừng vì em đã đến đây”. “Nhưng em...” Ánh nhìn của chàng khiến nàng ớn lạnh. Chỉ một phút trước thôi, đôi mắt ấy ấm áp và chào đón là thế, giờ đã đột ngột lạnh lẽo, vùng trán giữa hai hàng lông mày của chàng nhíu lại. “Anh nhận được tin xấu. Benedict gặp tai nạn. Alex vừa gọi cho anh. Chúng ta sẽ đến thăm nó và Abuelo ở bệnh viện, ơn Chúa là em đã đến, tiết kiệm thời gian cho cả hai ta”. “Benedict ư?” “Thằng ngốc”. Reynard khẽ gật đầu, “Em biết nó lái xe như thế nào rồi đấy. Có vẻ như con đường ven biển dẫn tới vườn nho đã hạ gục nó cùng với cái đống sắt vụn chất lượng cao mà nó vẫn gọi là xe hơi”. “Cậu ấy không sao chứ?” “Có đấy. Chúng ta không biết chắc nó đã mắc kẹt trong xe bao lâu nhưng đội cứu hộ đã mất tới gần một giờ đồng hồ để lôi nó ra khỏi đống đổ nát. Nó đang trong phòng phẫu thuật”. Giọng của Reynard khô khốc khi phát âm những từ cuối Rina vô thức nắm chặt những ngón tay của chàng trong tay nàng, “Em chắc cậu ấy sẽ ổn thôi”, nàng cố gắng bình tĩnh hết mức có thể. Nhưng thực ra sâu trong lòng nàng đang hoang mang cực độ bởi tin xấu. Làm thế nào nàng có thể nói với Reynard nàng không phải người chàng đang nghĩ tới. Benedict là em út trong số ba anh em nhà Castillo, đó là tất cả những gì nàng nhớ từ một email của Sara. Nàng cũng nhớ Sara từng nói Benedict trông coi việc sản xuất rượu nho của gia đình. “Anh rất mừng vì có em ở đây”, Reynard nói, xiết chặt tay nàng, “Em cũng mừng vì mình đã đến đây”. Nàng thì thầm trả lời, và thật kỳ lạ - nhưng đó là suy nghĩ thật của nàng. Nếu đến cả cô dâu đóng thế là nàng cũng biến mất, thì đó có lẽ là điều cuối cùng chàng có thể nghĩ tới. Ngày mai vẫn còn kịp để nói với chàng sự thật, sau khi họ đã biết Benedict sẽ không sao. Reynard im lặng suốt thời gian họ đi thang máy. Rina có thể cảm nhận được sự căng thẳng và lo lắng từ chàng đang truyền sang nàng như những đợt sóng vô hình, trái tim nàng quặn thắt. Nàng biết nếu như ở vị trí của Benedict lúc này là Sara, nàng sẽ cảm thấy như thế nào. Chắc chắn nàng sẽ chẳng thể làm được gì nữa. Cuối cùng, cánh cửa thang máy cũng mở ra, phía trước là khu tầng hầm đỗ xe ô tô. Reynard đút tay vào túi quần và nàng nhìn thấy đèn pha của chiếc xe rọi sáng lối đi. Dù trong ánh sáng lờ mờ của tầng hầm, chiếc xe hơi vẫn tỏa sáng vì lớp vỏ xe tự thân nó cũng là một tấm gương sáng bóng. Biểu tượng chú ngựa đang lồng ở mũi xe đã nói lên xuất xứ xa xỉ của nó. Lòng nàng tràn đầy nỗi băn khoăn. Cho tới lúc này, Reynard del Castillo đã có đầy đủ mọi tiêu chuẩn nóng của chị gái nàng. Chàng cao ráo, lịch duyệt, và rõ ràng tiền không phải là vấn đề với chàng. Rina không thể nhận ra có điểm nào ở chàng không hấp dẫn chị gái mình. Vậy thì vì sao Sara lại băn khoăn về việc có thể chị ấy đã mắc sai lầm? Và vì sao chị ấy nghĩ đến chuyện phải ra đi để tìm câu trả lời? Sara cũng không tỏ vẻ đang trốn chạy một điều gì đó. Thông thường, chị ấy luôn đối mặt với mọi chuyện thay vì bỏ trốn. Rốt cuộc vì sao chị làm như vậy? Dù rõ ràng chàng đang vô cùng lo lắng cho em trai và chỉ nóng lòng muốn lao tới bệnh viện, Reynard vẫn mở cửa sau xe cho nàng và đợi đến khi nàng ngồi vào ghế mới đóng cửa và tiến về phía vô lăng, điều đó khiến nàng ngạc nhiên. Nàng vốn là một phụ nữ độc lập, và luôn làm tốt việc tự chăm sóc bản thân. Nàng tôn trọng và tuân thủ sự công bằng trong mọi việc. Nhưng kiểu lịch lãm cổ điển ấy vẫn hấp dẫn một cách kỳ lạ. Và đó chưa phải là toàn bộ sự hấp dẫn ở người đàn ông này. Trong không gian khép kín của chiếc xe hoi, toàn bộ giác quan của nàng hướng về phía chàng. Dù trên xe có điều hòa, nàng vẫn nhận ra hơi ấm tỏa ra từ chàng, những chuyển động tự tin của bàn tay chàng đặt trên vô lăng và cần lái khi chàng tăng tốc đưa xe vọt khỏi bãi đỗ, hướng ra phía bên ngoài chói nắng, đó còn chưa kể đến mùi thơm tinh tế của nước hoa mà chàng sử dụng. Nàng nhắm mắt, chầm chậm hít thật sâu, bóc tách trong suy nghĩ từng tầng lớp của mùi hương ấy. Mùi hương gợi cho nàng nhớ tới cảm giác đang nhấm nháp từ từ một trái xoài chín mọng, từng lát rất mỏng, và bên dưới hương vị trái cây ấy là một hương thơm khác. Một mùi hương cay nồng. Hoắc hương ư? Có thể lắm chứ. Nhưng dù là gì đi chăng nữa, nó cũng đang khiến nàng ngây dại. Sự ngây dại hoàn toàn không nên có khi mà chính bản thân nàng vừa bị đá phăng bởi chồng sắp cưới và vẫn đang phải suy nghĩ về chị gái nàng. Rina cố mở mắt. Chuyện này thật lố bịch. Nàng không phải kiểu người dễ dàng điên đảo chỉ vì vẻ bề ngoài và sự tồn tại của một người đàn ông. Những hấp dẫn mê đắm hoàn toàn trái ngược với bản năng đầy lý trí, biết điều của nàng, và nó khiến nàng hơi lo sợ. Thậm chí ngay cả trong những ngày tháng yêu đương mặn nồng nhất, khi nàng đồng ý chung sống với Jacob phần đời còn lại của mình, nàng cũng chưa bao giờ có cảm giác mê đắm với anh ta như với người đàn ông đang ngồi cạnh nàng. Nàng cố xua đuổi ý nghĩ đó. Có lẽ do nàng quá mệt... và có thể tình cảm của nàng đang bị tổn thương sau tất cả những chuyện đã xảy ra. Đúng vậy, đó chính là nguyên nhân. Đêm nay nàng sẽ nghỉ ngơi và ngày mai sẽ nói sự thực với Reynard. Nàng hé miệng, ép mình thở bằng miệng, nỗ lực tống khứ nỗi xúc động đang ngày càng lớn bên trong nàng. Bỗng nhiên, việc phải nói sự thật với chàng vào ngày mai trở nên rất xa vời. Khi họ bước ra khỏi xe bên ngoài bệnh viện, Rina đã đứng bên cạnh xe trước khi Reynard đi vòng sang để mở cửa cho nàng. Tuy nhiên, chàng vẫn giữ bàn tay nàng trên cánh tay chàng khi họ bước qua cánh cửa bệnh viện. Quá dễ hiểu vì sao chị gái nàng lại say đắm người đàn ông này nhanh chóng đến thế. Chàng chính là hình mẫu mà chị em nàng mơ ước. Nàng không hề thấp bé, đứng chân trần cũng phải cao đến hơn một mét bảy mươi, nhưng chàng vẫn cao hơn nàng hẳn một cái đầu và có thần thái của kẻ chỉ huy, cùng với vẻ hấp dẫn giới tính tinh tế. Thế là quá đủ để mọi người phụ nữ trưởng thành phải thèm muốn. Tập trung đi, Rina tự dặn mình khi họ bước qua bàn tiếp tân sáng bóng của bệnh viện, Reynard đi thẳng tới thang máy. Tất cả các biển hiệu ở đây đều được viết bằng ba thứ tiếng: Tây Ban Nha, Pháp và Anh, nên nàng hiểu họ đang đi thẳng tới phòng phẫu thuật. Đột nhiên nỗi căng thẳng ập đến trong nàng. Điều gì sẽ xảy ra nếu những thành viên khác trong gia đình nhận ra nàng không phải là Sara? Lúc đó nàng phải làm gì? Nàng cố gắng hít thở để trấn tĩnh. Vì sao người ta cần phải nghi ngờ kia chứ? Nếu chính Reynard, hôn phu của Sara cũng không nhận ra ngay sự khác biệt, nghĩa là không ai khác có thể nhận ra. Ở tầng có phòng phẫu thuật, họ được chỉ tới một phòng đợi riêng. Rina lập tức để ý đến một người đàn ông đẹp trai khác, người mà nàng ngờ rằng chính là anh trai của Reynard, Alexander. Anh đang đứng gần cửa sổ, vòng cánh tay ôm lấy một phụ nữ mảnh mai, an ủi cô dù gương mặt anh cũng thể hiện đầy đủ mọi nỗi lo âu mà họ đang cùng chịu đựng. Mái tóc của anh sẫm màu hơn Reynard, thì đường nét của gia tộc vẫn thể hiện rất rõ ràng. Nhìn kỹ hơn, Rina nhận ra chính người phụ nữ đang an ủi anh chứ không phải điều ngược lại. Khi vừa nhìn thấy em trai, Alex rời khỏi vợ và bước tới bên em trai. Tình cảm mà anh em nhà del Castillo dành cho nhau thể hiện rõ ràng trong cái ôm dài im lặng. “Có gì mới không?”, Reynard hỏi khi họ buông nhau ra. “Không gì hết”, Alex nói, giọng khàn đi. “Bác sĩ nói chắc phải mất vài giờ”, người phụ nữ nhẹ nhàng góp lời. Bỗng cô nhận ra Rina đang đứng gần cánh cửa, cô tiến tới gần nàng, “Hẳn em là Sara. Chị rất tiếc vì lần gặp gỡ đầu tiên của chúng ta lại trong hoàn cảnh như thế này”. Lần gặp gỡ đầu tiên ư? Sara chưa bao giờ gặp gia đình của Reynard ư? “Cô ấy vừa mới trở về sau chuyến thăm bạn bè ở Pháp. Em thậm chí còn không để cho cô ấy kịp thở”. Reynard quay về phía Rina và kéo nàng về phía mình, “Alex, Loren, đây là Sara Woodville, vợ sắp cưới của em . “Mừng em đến với gia đình của chúng ta”, Alex nói, cầm tay nàng và cúi xuống để đặt lên má nàng một nụ hôn kiểu châu Âu, “Loren nói đúng, anh rất tiếc khi gặp em như thế này, nhưng anh mừng em đã đến đây vì Reynard”. “Cảm ơn anh”, nàng đáp, nhưng trước khi nàng kịp nói gì thêm, tiếng ồn ào ngoài phòng đợi khiến họ phải chú ý. Khi cánh cửa mở ra, từng tràng tiếng Tây Ban Nha liến thoắng vang lên. Những đường nét của người nhà del Castillo hiện rõ trên gương mặt người đàn ông lớn tuổi vừa đẩy cửa bước vào. Cả người ông đổ dồn lên một chiếc gậy bằng gỗ sáng bóng phía trước, theo sau là một người đàn ông trung tuổi, với gương mặt vừa lo lắng lại vừa như có lỗi. “Tôi đến thăm ông ấy ở bệnh viện để trực tiếp báo tin, ông ấy đã đánh cắp chìa khóa xe của tôi. Tôi cố gắng ngăn ông ấy lại rồi, thưa các cậu, nhưng ông ấy không nghe”, người trẻ hơn nói. “Nghe ư? Hừ!”. Người tóc bạc nạt, “Cậu nghĩ là ta đã quá già, không hỗ trợ được các cháu trai của ta khi chúng cần đến nữa ư?” “Đừng lo, Javier, Abuelo ở cùng chúng tôi là được rồi. Sao ông không đi tìm xem quanh đây có cà phê tử tế để uống không?”, Reynard nói, bước lên trước đỡ lấy cánh tay của ông mình. “Tôi biết khẩu vị của tất cả những người khác rồi, nhưng còn tiểu thư, cô thích dùng cà phê như thế nào?”, Javier hỏi. “Cà phê đặc có sữa, cám ơn ông”, Rina khẽ cười mỉm trả lời. “Cháu quên hết lễ nghĩa rồi phải không?”, ông già quở trách cháu trai, “Cô gái này là ai?” Giọng nói hơi run với một ngữ điệu Anh đặc sệt của ông trái ngược hẳn với ánh mắt soi thấu sắc lẻm khi ông nhìn Rina. Trong khoảnh khắc, nàng tự hỏi liệu có phải ông đang nhìn xuyên qua nàng không, nhìn ra việc nàng đang giả mạo chị gái sinh đôi của mình. “Đây là Sara Woodville, hôn thê của cháu”, Reynard nhẹ nhàng đáp. “Đã đến lúc cô ấy trở lại. Ta bắt đầu nghĩ cô ấy là sản phẩm do trí tưởng tượng của cháu. Bà gia sư đó không chờ đợi ai, cháu biết đấy. Hãy nhớ lấy lời của ta. Vụ tai nạn này của Benedict”, ông vừa nói, vừa vung tay chém vào không khí, “nó thực ra không phải là vụ tai nạn, ta đảm bảo”. “Abuelo, đủ rồi”. Giọng của Alex sắc lạnh, “Benedict luôn liều lĩnh với tính mạng của mình mỗi khi ngồi sau tay lái. Không sớm thì muộn nó cũng lĩnh đòn đau. Chẳng liên can gì tới việc..”. “Cháu muốn phủ nhận đến bao giờ cũng được, cháu của ta. Nhưng sự thật thì sờ sờ trước mặt cháu đó. Còn bây giờ, cháu trai của ta đâu? Ta muốn gặp nó”. Ông già hung hăng giậm mạnh chiếc gậy bằng bàn tay xương xẩu lên sàn nhà bóng láng, và Rina bỗng nhận ra vì sao mấy anh em không muốn ông đến bệnh viện. Ông hoàn toàn không biết tình trạng thật sự của Benedict nguy hiểm như thế nào. Nàng hết đưa mắt nhìn ông lại nhìn sang các cháu trai của ông, đặc biệt là Reynard. Gương mặt chàng tràn ngập lo âu, bóng đen phủ tối đôi mắt nâu của chàng. Rõ ràng thương tích của Benedict rất nặng, đe dọa tới tính mạng. Tại sao nhất định cả chàng và Alex phải giữ kín bí mật với ông của họ? Và giờ đây, ông đang yêu cầu được gặp mặt cậu cháu út của mình. Rõ ràng họ vô cùng tôn trọng ông, điều này thấy rõ trong cung cách xử sự của họ, làm thế nào để nói với ông sự thật. Không cần suy nghĩ đến lần thứ hai, Rina tiến lên phía trước, vòng tay qua cánh tay của ông già, “Thưa ông del Castillo, cháu đã đi cả ngày hôm nay và rất mệt. Cháu muốn ngồi. Ông có thể cùng cháu ngồi xuống mấy chiếc ghế kia và chúng ta có thể trò chuyện để hiểu rõ về nhau hơn không?” Thực ra nàng không hề phóng đại sự việc. Nàng đã kiệt sức, nàng đã phải di chuyển liên tục, và vẫn đang phải đứng trong suốt hai ngày qua. “Cái gì thế này?”, ông già nhảy dựng lên. Rina lập tức bắn một cái nhìn lo lắng về phía Reynard trong khi chàng chỉ khẽ nhướn lông mày lên. “Cháu xin lỗi. Cháu đã nói gì sai phải không?”, nàng vội vàng nói. “Rey, cháu có thể giải thích không? Tại sao vợ sắp cưới của cháu lại gọi ta là ông del Castillo?” Đôi môi quyến rũ của Reynard giãn ra thành một nụ cười khẽ, báo cho Rina chút thông tin về lý do nàng khiến ông già bực bội. “Cháu nên gọi ông là xê-ni-ô đúng không? Cháu xin lỗi, tiếng Tây Ban Nha của cháu...”. Nàng thấy mình suy sụp hẳn. Nếu tiếng Tây Ban Nha của Sara đã vượt xa trình độ mới bắt đầu mà hai chị em nàng từng học cùng nhau từ xưa trong thời gian sống ở nước ngoài thì sao? “Là lỗi của cháu. Lẽ ra cháu nên giới thiệu cẩn thận cả hai người thay vì chỉ làm một nửa trách nhiệm. Sara, đây là ông của anh, Aston del Castillo”, Reynard chen vào. “Cháu phải gọi ta là Abuelo”, ông già trả lời, mắt đột nhiên lấp lánh, “Nếu cháu thực sự muốn kết hôn với cháu trai của ta”. Từ phía bên kia phòng, Rey quan sát Sara mặt đang tái đi vì những lời của ông chàng, lòng tràn ngập sợ hãi. Đương nhiên nàng sẽ không thể hiện bản chất cuộc đính hôn bốc đồng của họ. Chàng biết cả hai đã nhập cuộc với một chút phóng túng, cả hai đều không có ý định thực sự nghiêm túc trong việc này. Thậm chí Sara từng nói, để xem gió sẽ thổi hai người tới đâu. Chính thái độ ấy đã biến nàng vào vai hôn thê một cách hoàn hảo. Chàng cần một lễ đính hôn mà cô dâu tương lai không đòi hỏi quá nhiều sự cam kết trong khi vẫn đảm bảo ông của chàng thôi hò hét việc chàng phải kết hôn. Chàng ngờ rằng ngay thời điểm này, Sara cũng chẳng kỳ vọng gì ở một đám cưới, cũng như chàng. Nếu Abuelo ngừng kêu than về lời nguyền kì quặc, cả hai lại có thể trở về như bình thường. Và trong vòng vài tháng, chàng và Sara có thể chia tay trong vui vẻ, không để lại những cảm giác nặng nề cho nhau. Đương nhiên, kể từ sau hôn lễ thành công của Alex và Loren, ông già Abuelo còn tranh đấu mạnh mẽ hơn vì lời nguyền ấy. Không thể phủ nhận rằng kể từ sau đám cưới của hai người - tuy chỉ một thời gian ngắn - nhưng tình hình tài chính của gia đình họ cũng như nền kinh tế của toàn đảo Isla Sagrado đã vững mạnh lên rất nhiều. Abuelo càng vin vào cớ đó để tuyên bố nếu cả ba anh em chàng đều kết hôn, lời nguyền sẽ được hóa giải và đem lại sự thịnh vượng cho cả gia tộc. Nhưng Reynard vẫn nghi ngờ về lời nguyền của bà gia sư. Abuelo đã bị ám ảnh quá mức bởi vấn đề này trong những tháng qua, thậm chí ông già còn tuyên bố đã nhìn thấy bóng ma của bà ta. Nếu như lời của ông già là đáng tin, thì những lời nói cuối cùng của bà ta với người tình mang họ del Castillo của mình là nguyên nhân gây ra mọi cái chết trong dòng họ của chàng, đó là chưa kể sự tuột dốc của cả nền kinh tế trên đảo Isla Sagrado. Suy nghĩ đó quá nực cười, nhưng chàng và các anh em của mình rất yêu ông già, cả ba đều chuẩn bị tinh thần làm tất cả mọi việc nếu cần để biến những ngày tháng cuối của ông thật hạnh phúc. Thậm chí cả khi đối với chính Reynard, việc đó đồng nghĩa với chuyện chàng phải kết hôn. Rey tự nhiên nhận ra sự im lặng kéo dài trong căn phòng. Chàng tiến tới phía bên kia của Sara và hôn lên chóp mũi lốm đốm tàn nhang của nàng, chàng thích thú phát hiện ra gò má của nàng đang ửng hồng.Mời các bạn đón đọc Wed At Any Price #2: Tình Yêu Đến Muộn của tác giả Yvonne Lindsay.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Công Chúa Gỗ Đàn Hương - Loretta Chase
Nỗi buồn phải rời khỏi đất nước Ấn Độ thân yêu sau năm năm tuyệt vời đã dịu đi đáng kể khi Amanda Cavencourt nhận một món quá có ý nghĩa từ người bạn thân yêu nhất của cô: bức tượng nàng công chúa tạc từ gỗ đàn hương. Tuy nhiên ngay đêm đó, bức tượng đã bị đánh cắp bởi một tên đạo chích khét tiếng tên là Chim ưng. Amanda tự hỏi tại sao một gã đàn ông được chính phủ giao cho những nhiệm vụ nguy hiểm và tinh vi nhất lại có thể thực hiện một vụ trộm nhỏ nhặt thế này. Bị tò mò bởi sự bí ẩn và lời đồn đại về sự quyến rũ và đẹp trai chết người của Chim ưng, Amanda lên kế hoạch lần theo dấu tên trộm táo tợn. Tên trộm đẹp trai cũng phát hiện ra một nàng Amanda mưu mẹo không kém. Quả là một sự tương xứng hoàn hảo! *** Loretta Chase tên thật là Loretta Lynda Chekani, sinh năm 1949 tại Hoa Kỳ. Bà là một trong những nhà văn nổi bật nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn ở Mỹ. Loretta Chase có bằng Cử nhân Văn chương của trường đại học Clark University, nơi bà theo học khoa Tiếng Anh và tham gia thêm lớp nghệ thuật thị giác. Sau khi rời trường đại học Clark, Loretta Chase viết kịch bản cho chương trình tự giới thiệu của các công ty. Nhờ công việc này mà bà gặp gỡ và yêu một nhà sản xuất chương trình, người sau này trở thành chồng bà. Sự kết hợp này là động lực và nguồn cảm hứng để Loretta Chase viết nên rất nhiều tác phẩm lãng mạn thuộc hàng best-seller của tạp chí New York Times. Bà đã giành được nhiều giải thưởng văn học, trong đó có giải RITA Award cho Tác giả Lãng mạn Xuất sắc nhất nước Mỹ. *** Hai người đàn bà quấn sari đứng trong lối đi đầy cỏ vetiver. Dưới anh trăng khu vườn trở thành một xứ sở thần tiên nhuộm màu bạc và bóng tối. Mùi hương hoa khêu gợi theo làn gió nhẹ, ấm áp tìm đến bên họ. "Đêm của Anumati," Rani nói. "Đã đến lúc kết thúc câu chuyện chưa kể của ta." "Bà bắt con đợi đủ lâu rồi," Amanda nói. "Con đã ở đây được gần một tháng." "Gần một tháng ở đây, năm tháng trên tàu, và con vẫn khóc." Rani quay bước khỏi lối đi. "Chúng ta phải tìm một người yêu để lau khô nước mắt cho con." "Con có khá đủ tình yêu rồi, cám ơn người." Amanda theo công chúa trở lại trong phòng. "Cần một chút mê li quý giá để đền bù cho sự điên rồ kia." "Đó là vì con chưa đưa anh ta vào giường," Rani lạnh nhạt đáp lại. "Nhưng thật vô ích để nói với con về những chuyện này. Con đã lẫn lộn các khái niệm về tội lỗi." Khi họ ngồi lên những tấm nệm, công chúa ra hiệu cho một người hầu mang hookah vào. Thêm một ra hiệu nữa, mọi người hầu đều biến mất. Hai người họ hàng lặng lẽ hút một lúc, âm thanh duy nhất trong căn phòng là tiếng sùng sục của tẩu. "Ta đã dối con," cuối cùng Rani nói. "Ta là một kẻ nói dối siêu hạng. Kỹ năng này đã cứu sống ta nhiều lần. Những lần khác thì nó đem lại cho ta những gì ta muốn. Tuy nhiên đêm nay ta sẽ không cố gắng nói dối nhiều quá." Amanda bật cười. "Tại sao thế, xin cảm ơn, thưa Mẹ?" ... Mời các bạn đón đọc Nàng Công Chúa Gỗ Đàn Hương của tác giả Loretta Chase.
Con Bạc - Fyodor Mikhailovich Dostoevsky
Tiểu thuyết "Con Bạc" nằm trong khuôn khổ seri "cuộc đổ bộ của chàng Dostoievski" trong hình dạng ba cuốn sách bìa giống hệt nhau, chỉ khác nhau tên sách, bao gồm: Con Bạc, Người Chồng Vĩnh Cửu, Chàng Ngốc Hữu Ích". Ba đầu sách này thuộc tủ sách được “Quỹ Hỗ Trợ Quảng Bá Văn học Nga-Văn học Việt Nam” tài trợ xuất bản hồi 2015 nhưng hai năm qua chỉ lưu hành nội bộ, nay NXB Văn học mới in đại trà cho quần chúng nhân dân được đọc. Với nguyên mẫu trực tiếp của một con người đã phát triển đa dạng, nhưng nhiều mặt lại chưa hoàn chỉnh, không tin gì, nhưng lại không dám không tin, chống lại quyền lực nhưng lại sợ quyền lực. Anh ta tự huyễn hoặc mình rằng ở nước Nga anh ta chẳng có việc gì làm và vì thế anh ta chỉ trích gay gắt những người từ trong nước Nga kêu gọi ngoại kiều Nga về nước. ...Vấn đề chính là ở chỗ tất cả những tinh túy cuộc sống của anh ta: sức mạnh, niềm hăng say, lòng dũng cảm lại đổ vào trò chơi rulet. Anh ta là con bạc, nhưng không phải con bạc tầm thường, cũng như tên hiệp sĩ keo bẩn của Pushkin không phải là tên keo bẩn tầm thường. Anh là nhà thơ có đẳng cấp riêng biệt, nhưng vấn đề là ở chỗ chính anh lại xấu hổ với thơ anh, bởi vì anh cảm thấy sâu sắc cái thấp hèn của loại thơ ấy, mặc dù nhu cầu phiêu lưu đã làm tăng phẩm giá cho anh trong con mắt của chính anh. Toàn bộ câu chuyện là chuyện anh chơi rulet ở các sòng bạc đến năm thứ ba. *** Fyodor Mikhailovich Dostoevsky (1821- 1881), sinh ngày 11.11.1821, là nhà văn nổi tiếng người Nga. Cùng với Gogol, L. Toystol, ông được xem là một trong ba văn hào vĩ đại của Nga thế kỉ 19. Dostoevsky sinh tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông Mikhail là một con người cứng rắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, bà ta rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này. Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng Anh Em Nhà Karamazov. Fyodor Dostoevsky rất yêu thích văn chương. Vào tuổi 25, Fyodor đã cầm bút, sáng tác ra cuốn tiểu thuyết đầu tiên với tên là Những kẻ bần hàn xuất bản vào năm 1846. Đây là một câu chuyện tình cảm mô tả một cách bóng bẩy các cảnh tàn phá của kiếp nghèo. Cuốn truyện này đã được các nhà phê bình khen ngợi, đặc biệt là Vissarion Belinsky, và nhà văn trẻ tuổi Dostoevsky được gọi là một "Gogol mới", tác phẩm của ông trở nên bán chạy nhất, bởi vì từ xưa tới nay chưa có một nhà văn người Nga nào cứu xét một cách kỹ càng sự phức tạp tâm lý của các cảm xúc bên trong tâm hồn con người. Fyodor Dostoevsky đã dùng tới phương pháp phân tích tâm lý để tìm hiểu các hoạt động rất tinh tế của tâm lý mọi người. Sau tác phẩm Những kẻ bần hàn , Fyodor Dostoevsky sáng tác ra cuốn Con người kép đề cập tới sự phân đôi cá tính và đây là căn bản dùng cho nhân vật Raskolnikov của đại tác phẩm Tội Ác và Trừng Phạt. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga, được xem là người sáng lập hay là người báo trước cho chủ nghĩa hiện sinh thế kỷ 20. Tác phẩm tiêu biểu: Những kẻ bần hàn (1846) Con người kép (1846) Đêm trắng (1848) Ghi chép từ Ngôi nhà chết (1862) Những kẻ tủi nhục (1861) Con bạc (1867) Hồi Ký Viết Dưới Hầm (1864) Tội ác và trừng phạt (1866) Gã Khờ (1868) Lũ người quỷ ám (1872) Anh em nhà Karamazov (1880) Là Bóng Hay Là Hình ***   Ý tưởng viết truyện Con bạc xuất hiện từ mùa thu năm 1863. Ngày 18 tháng Chín năm 1863 từ Roma, Dostoievski viết cho N.N. Strakhov “Tình tiết câu chuyện là thế này: có một người Nga ở nước ngoài. Ông hãy hình dung rằng vấn đề ngoại kiều Nga được bàn nhiều trên báo chí. Tất cả sẽ được phản ánh trong truyện của tôi. Nói chung là tôi sẽ mô tả thời điểm hiện tại (với khả năng có thể) của đời sống của đất nước chúng ta. Tuy nhiên, tôi lấy nguyên mẫu trực tiếp của một con người đã phát triển đa dạng, nhưng nhiều mặt lại chưa hoàn chỉnh, không tin gì, nhưng lại không dám không tin, chống lại quyền lực nhưng lại sợ quyền lực. Anh ta tự huyễn hoặc mình rằng ở nước Nga anh ta chẳng có việc gì làm và vì thế anh ta chỉ trích gay gắt những người từ trong nước Nga kêu gọi ngoại kiều Nga về nước. ‹…› Vấn đề chính là ở chỗ tất cả những tinh túy cuộc sống của anh ta: sức mạnh, niềm hăng say, lòng dũng cảm lại đổ vào trò chơi rulet. Anh ta là con bạc, nhưng không phải con bạc tầm thường, cũng như tên hiệp sĩ keo bẩn của Pushkin không phải là tên keo bẩn tầm thường. (Nói chung đó không phải là việc so sánh tôi với Pushkin. Tôi nói chỉ để làm rõ thôi). Anh là nhà thơ có đẳng cấp riêng biệt, nhưng vấn đề là ở chỗ chính anh lại xấu hổ với thơ anh, bởi vì anh cảm thấy sâu sắc cái thấp hèn của loại thơ ấy, mặc dù nhu cầu phiêu lưu đã làm tăng phẩm giá cho anh trong con mắt của chính anh. Toàn bộ câu chuyện là chuyện anh chơi rulet ở các sòng bạc đến năm thứ ba”. Mùa hè năm 1865, bị xiết nợ dữ dội, Dostoievski buộc phải bán cho “chủ nợ” và cũng là “con người khá tồi tệ” F.T. Stellovski quyền xuất bản toàn tập sáng tác của mình. Thế nhưng trong hợp đồng có một khoản mục đặc biệt, Dostoievski kể trong bức thư gửi A.V. Korvin Krukovskaia ngày 17 tháng Sáu năm 1866, trong đó tôi hứa với ông ta rằng muốn in toàn tập thì tôi phải chuẩn bị xong một cuốn tiểu thuyết không dưới mười hai tay sách, và nếu tôi không kịp nộp vào ngày 1 tháng Mười một năm 1866, hạn chót, thì ông ta, Stellovski, có quyền được tiếp tục in trong chín năm liền không phải trả tiền, và tôi còn nghĩ ra rằng ông ta được in cả những gì tôi sẽ viết ra mà không phải trả một đồng nhuận bút nào nữa”. Đang say sưa viết Tội ác và hình phạt, Dostoievski chưa bắt tay vào viết tiểu thuyết mới cho đến đầu tháng Mười năm 1866. Khi thời hạn hoàn thành cam kết chỉ còn chưa đầy một tháng, ông bắt buộc phải mời người phụ nữ viết tốc ký Anna Grigorievna Snitkina (sau này là vợ ông) để đọc cho cô chép cuốn tiểu thuyết trong vòng 26 ngày, từ ngày 4 đến hết ngày 29 tháng Mười. Có thể cho rằng đến trước thời điểm này Dostoievski đã chuẩn bị được những bản nháp hoặc những phương án tỉ mỉ cho tác phẩm, cho nên mới có thể xây dựng được Con bạc trong thời gian ngắn đến thế. Trong hồi ký của mình bà A.G. Dostoievski kể về quá trình viết cuốn Con bạc. Trước ngày bà đến làm việc, Dostoievski đã có các phác thảo, sau đó từ 12 giờ đến 4 giờ chiều mỗi ngày, nghỉ ngơi rất ít, ông đọc cho bà ghi tốc ký, rồi khi về nhà, bà giải mã và viết lại cho sạch đẹp. Những phần bản thảo Con bạc mà bà viết tay và sau trở thành bản thảo cho thấy rằng trước khi đem nộp cuốn tiểu thuyết cho nhà xuất bản Dostoievski lại một lần nữa sửa chữa bản thảo. Ngày 1 tháng Mười một năm 1866 bản thảo được nộp cho Stellovski với tựa đề Ruletenburg (có nghĩa là Thành phố rulet). Nhưng nhà xuất bản yêu cầu ông phải đổi tên sách thành “một cái tên gì đó, nghe có vẻ Nga hơn” (xem thư của Dostoievski gửi V.I. Gubin ngày 8 tháng Năm 1871). Dostoievski đồng ý và rồi tác phẩm được in trong Toàn tập Dostoievski do F. Stellovski ấn hành tại Saint Petersburg (1866) với nhan đề Con bạc. Trong hổi ký của mình bà Dostoievskaia A.G. (Moskva, 1871) có viết: “… Trung tâm câu chuyện là “con bạc”, một trong những mẫu người Nga hải ngoại. Bên cạnh đó là gia đình một tướng quân người Nga, cũng là hải ngoại. Đó là một gia đình ngẫu nhiên đã tách khỏi nếp sống truyền thống sau cuộc cải cách nông dân, vấn đề này ở những tác phẩm về sau Dostoievski có những phần nghiên cứu đáng kể. Trong chuyến đi đầu tiên sang châu Âu năm 1862 ông đã quan sát nhiều gia đình Nga kiều và đã viết trong bài Ghi chép mùa đông về những ấn tượng mùa hè. Theo thống kê của tờ Người đưa tin Nga số tháng Mười năm 1862, thì chỉ riêng năm 1860 đã có hơn hai trăm ngàn người Nga đi ra nước ngoài…” Có một điều thú vị là chủ đề “người Nga ở nước ngoài” cũng đã được I.S. Turgenev khai thác, mặc dù ở khía cạnh khác, trong tác phẩm Khói (1867), được viết và được xuất bản gần như đồng thời với Con bạc của Dostoievski. Những diễn biến của câu chuyện tình của nhân vật lúc làm việc trong gia đình tướng quân với tư cách gia sư và cô con gái nuôi của tướng quân là Polina có nhiều điều được lấy ra từ những quan hệ phức tạp giữa Dostoievski với Apollinariya Prokohevna Suslova. Trong một bức thư Dostoievski đã viết về cô: “Cô ấy đòi hỏi mọi người đủ thứ, cái gì cũng phải hoàn hảo, không tha thứ bất kỳ một thiếu sót nào…” (thư gửi N.P. Suslova ngày 19 tháng Tư năm 1865). Những lời này có thể hoàn toàn phù hợp với Polina. Một số tình tiết liên quan đến Polina, như việc cô bị anh chàng người Pháp De-Grie quyến rũ, việc cô muốn trả anh ta một khoản tiền, đều có nguồn gốc từ cuộc đời của A.P. Suslova và được Dostoievski hư cấu thêm (xem Suslova A.P. Những năm tháng gần Dostoievski. Moskova, 1928). Tác giả Con bạc còn có một niềm đam mê giống như nhân vật của mình, Aleksei Ivanovich, đó là thói đánh bạc. Về thú chơi rulet, trong những chuyến đi của mình Dostoievski thường vẫn kể lại cho những người thân. Trong một bức thư gửi từ Paris cho V.D. Konstant đề ngày 20 tháng Tám năm 1863, kể về lúc thắng bạc ở Viesbaden, Dostoievski viết: “… trong suốt bốn ngày này tôi chỉ chú mục vào các con bạc. Số người đặt tiền có tới mấy trăm. Thật tình mà nói, biết chơi thì chỉ có vài người thôi. Tất cả đều thua cháy túi vì không biết chơi. Hai người thắng là một bà người Pháp và một huân tước người Anh, họ chơi giỏi, không hề thua, ngược lại, nhà cái suýt vỡ trận. Tôi nói điều này, xin đừng bảo rằng vì vui sướng mà tôi quá lời, tôi không bị thua vì tôi biết mánh lới để không thua, mà lại thắng cuộc. Mánh lới ấy tôi biết, thật là dễ hiểu và đơn giản, đó là biết tự kiềm chế một phút, dù ở bất kỳ thời điểm nào của cuộc chơi, không được nóng vội. Vấn đề chỉ có thế…” “Lý thuyết” chơi rulet của tác giả trong bức thư trích dẫn trên đây trùng hợp với lý thuyết của nhân vật Aleksei Ivanovich, đặc biệt là trong chương cuối. Bà A.G. Dostoievskaia nhớ lại rằng trong quá trình viết tác phẩm, khi bàn đến số phận của các nhân vật, thì “Fiodor Mikhailovich hoàn toàn đứng về phía “con bạc” và nói rằng có nhiều tình cảm và ấn tượng của anh ta là chính ông đã trải nghiệm. Ông khẳng định rằng ông có thể có được cá tính mạnh, chứng minh được cá tính bằng chính cuộc đời mình, nhưng ông lại không có sức mạnh để chiến thắng đam mê chơi trò rulet”. Hình tượng “con bạc” của Dostoievski có lịch sử văn học lâu đời. Trong văn học thế giới, danh sách những tác phẩm khai thác chủ đề này có thể kể ra không bao giờ hết. Chính Dostoievski đã nói đến mối quan hệ giữa tác phẩm của ông với các tác phẩm của Pushkin. Ngoài Những bi kịch nhỏ phải kể đến Con đầm Pích. Giữa Con đầm Pích với Con bạc có những chi tiết gần nhau. Tuy nhiên Germann của Pushkin chỉ có một say mê duy nhất là làm giàu để có quyền lực đối với mọi người. Còn Aleksei Ivanovich thì vừa thắng được hai trăm ngàn đã lập tức tiêu hết. Dostoievski coi đó là biểu hiện của nét tính cách Nga thuần túy. Khi xây dựng hình tượng Aleksei Ivanovich, Dostoievski cho thấy đã có những mối liên hệ với hình tượng “Dubrovski” của Pushkin. Troekurov gọi Dubrovski là “gia sư” với hàm ý miệt thị. Aleksei Ivanovich cũng tự gọi mình là “gia sư”, một cách tự ti trong những trường hợp muốn nhân mạnh vị thế phụ thuộc của mình. Trong truyện của Pushkin (chương XI) và trong Con bạc từ “gia sư” đều được viết theo kiểu phiên âm sang tiếng Pháp là “outchitel”. Cũng như nhiều tác phẩm khác của giai đoạn này, Con bạc có liên quan đến các bài báo chính luận của Dostoievski những năm 1861-1864, đặc biệt là bài Ghi chép mùa đông về ấn tượng mùa hè. Vấn đề chủ đạo là ở chỗ trong tác phẩm, Dostoievski muốn đối lập nước Nga hiện đại với châu Âu. Nhiều hình tượng trong tiểu thuyết dường như là bản minh họa cho những kết luận của Dostoievski trên mặt báo và trong tổng kết chuyến đi đầu tiền của ông ra nước ngoài. Aleksei Ivanovich là hình ảnh độc đáo của những thanh niên mà Dostoievski nói đến trong Ghi chép mùa đông…, những người này, cũng như Chatski, không tìm được con đường sự nghiệp ở Nga, đã đi sang châu Âu để “tìm một cái gì đó”. Nhân vật này được đối lập với nam tước Vurmergelm và De-Grie. Con bạc không muốn cúi đầu trước thần tượng Đức và không muốn dấn thân vào việc kiếm tiền… Theo Dostoievski, tính cách của những người Pháp, Đức, Anh trong quá trình phát triển lịch sử của đất nước họ đã được “định hình” rõ rệt, còn tính cách dân tộc của Nga thì lại đang trong quá trình phát triển, từ đó mà có “tính không định hình” của Aleksei Ivanovich và Polina, cũng từ đó mà người Nga có hoài bão sâu sắc muốn khắc phục tính thiến giao trong các hình thái xã hội phương Tây, và ông nhìn thấy tính ưu việt lịch sử của nước Nga, tiền đề để trong một thời gian ngắn nữa nước Nga sẽ tìm được những con đường tiến tới những lý tưởng cao cả của toàn nhân loại. Về mặt này, đóng vai trò quan trọng là hình tượng tiêu biểu: “bà già” Antonida Vasilevna. De-Grie và mademoiselle Blanche là những nhân vật mà Dostoievski châm biếm. Khi đặt tên cho tên hầu tước tự phong chuyên lèo lá và cho vay cắt cổ De-Grie, bằng cái tên của nhân vật hào hiệp trong tiểu thuyết thế kỷ mười tám Manon Lescaut[1], Dostoievski đã châm biếm mức độ xuống cấp đạo đức của giai cấp tư sản Pháp. Hình ảnh ngài Astley người Anh, là người chiếm được cảm tình của cả Aleksei Ivanovich, cả “bà già” và cả Polina, làm ta nhớ đến các nhân vật hào hiệp và tốt bụng trong các tiểu thuyết mà Dostoievski rất yêu thích của Dickenst[2] và Thackeray.[3] Hình tượng ngài Astley được tác giả xây dựng không cần nhiều chi tiết là phù hợp với quan niệm trong giới dân chủ Nga về người Anh. Saltykov Schedrin trong bài Đời sống xã hội của chúng ta (tháng Năm 1863) đã viết rằng một người Anh đi du lịch “thì ở đâu cũng tự hào, tự tin, ở đâu cũng mang đến một kiểu mẫu riêng với tất cả các mặt mạnh yếu của nó”. Con bạc đã nhiều lần được đưa lên sân khấu. Năm 1916, S.S. Prokofiev dựa vào tiểu thuyết này đã viết một vở opera và đã được trình diễn trong nhà hát hoàng cung Saint-Petersburg. Còn về bút pháp của Dostoievski thì đã có biết bao nhiêu người bàn đến, tựu trung lại, ai cũng cúi đầu bái phục và tôn ông là bậc thầy về phân tích tâm lý nhân vật. Sách của ông hay về tình tiết thì ít, mà hay về nội tâm thì nhiều. Tác phẩm này không phải ngoại lệ. Người dịch  (Theo tư liệu của E.I. Kiko) Mời các bạn đón đọc Con Bạc của tác giả Fyodor Mikhailovich Dostoevsky.
Ảo Vọng - Pearl S. Buck
Pearl Buck, nữ nhà văn Mỹ, được tặng giải thưởng Nobel Văn học vì các tác phẩm mô tả cuộc sống đa diện mang tính sử thi của người dân Trung Quốc trong những biến động dữ dội đầu thế kỉ XX và vì những kiệt tác tự truyện. Bà là nhà hoạt động xã hội tích cực, được coi là một chiếc cầu nối văn hóa Đông-Tây. Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Ngôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biển thành phố Manhester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngày người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt, thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh. Ngôi nhà của dòng họ Winsten rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng Tây. Nhờ mỏ vàng và thiếc lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà. Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thời gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia, ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, bà Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó. Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thường tiếc rẻ vì trong mùa hè chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manhester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Vọng của tác giả Pearl S. Buck.
Emily ở trang trại Trăng Non - Lucy Maud Montgomery
“Mọi người không bao giờ đúng khi nói tôi là Anne. Nhưng trên một số phương diện, họ sẽ đúng nếu cho rằng tôi là Emily.” - Lucy Maud Montgomery Khi biết tin cha chỉ còn sống được vài tuần nữa, Emily quyết tâm dành toàn bộ khoảng thời gian ít ỏi hai cha con còn được bên nhau để yêu thương cha bằng tất cả trái tim, khiến hai tuần cuối đời của ông Douglas Starr trở thành những ký ức đẹp và quý báu nhất. Nhưng, Emily ngây thơ, mơ mộng và dạt dào tình cảm sẽ sống thế nào khi hai tuần ấy đã qua đi, khi cô đã mồ côi cả cha lẫn mẹ lúc mới mười một tuổi, khi phải rời mái nhà nhỏ bé ấm cúng giữa thung lũng lòng chảo để đến với trang trại Trăng Non rộng mênh mông và quá xa lạ, với những người họ hàng đã căm ghét cha cô và chối bỏ mẹ cô, với những tâm hồn khô khan quá giàu lòng kiêu hãnh và những trái tim đã quá quen khép cửa? Đẹp, xúc động, giàu tính nhân văn và phảng phất màu sắc bí ẩn, Emily ở trang trại Trăng Non là tiểu thuyết thiếu nhi dành cho mọi lứa tuổi, một tác phẩm kinh điển của nền văn học Canada đủ sức chinh phục trái tim độc giả trên khắp thế giới - một cuốn sách vẫn vẹn nguyên sức hút bất chấp sự tàn phá khốc liệt của thời gian. *** Lucy Maud Montgomery (30/1/1874 – 24/4/1942), được biết đến rộng rãi dưới tên L.M. Montgomery. Bà là nhà văn người Canada nổi tiếng với sê-ri truyện viết về cô bé Anne tóc đỏ (hai trong số đó đã được dịch ra tiếng Việt). Bà tiếp tục viết 20 cuốn tiểu thuyết cùng với khoảng 500 truyện ngắn và thơ. Lucy Maud Montgomery sinh ngày 30/1/1874 tại Cliffon (nay là New England), thuộc đảo Hoàng Tử Edward, Canada. Mẹ của bà là Clara Woolner Macneill Montgomery mất vì bênh lao khi bà mới 21 tháng tuổi. Bố của bà, Hugh Montgomery, gửi bà cho ông bà ngoại chăm sóc. Mặc dù sống với ông bà nhưng tuổi thơ của bà khá đơn độc, vì vậy bà thường tạo ra một thế giới tưởng tượng xung quanh để vơi đi nỗi cô đơn, và từ đó trí tưởng tượng phong phú của bà được phát triển. Tháng 11 năm 1890, Lucy Maud Montgomery viết bài đầu tiên cho một tờ báo địa phương ở Charlottetown là Daily Patriot. Năm 1883, bà được nhận vào trường đại học Prince of Wales ở Charlottetown. Năm 1895 và 1896, bà theo học khoa văn tại trường đại học Dalhousie ở Halifax, Nova Scotia. Bộ Emily gồm có: Emily ở trang trại Trăng Non Emily Trên Dải Cầu Vồng Emily Và Ngôi Nhà Không Còn Tuyệt Vọng Mời các bạn đón đọc Emily ở trang trại Trăng Non của tác giả Lucy Maud Montgomery.