Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Truyện Hai Người - Vũ Bằng

Nếu người ta muốn tìm ở truyện này một truyện gì, tôi xin nói ngay truyện này không có truyện gì cả . Bạn đọc xem hết, sẽ thấy nó thường lắm, bởi vì nó xảy ra luôn và còn cứ xảy ra mãi mãi. Nhưng cái đó không quan hệ. Cái quan hệ là nhân vật. Trong rừng cây, không có hai cái lá giống nhau, thì trong rừng người, làm sao mà lại có hai người giống nhau cho được ? Vậy, cái khó của một nhà văn, phải đâu là chụp lại nhân vật để các bạn khác cùng xem. Tôi nghĩ nếu công việc của nhà văn có khó thì chính ở chỗ « sáng tạo » ra nhân vật vậy. Hai người. Hai người trong truyện này là hai kẻ bị đọa đày.  Linh hồn họ đau đớn, họ là những người đáng thương. Sự đau khổ nâng cao họ gần trời. Những người thực cao thượng đều phải thấy một cái buồn mênh mông trên trái đất. *** Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Kéo cái chăn chiên lên cổ, y lắng nghe cái đêm khuya rơi não nùng ở một góc vườn. Hoa rụng, gió gào. Trời sầu thảm tựa một linh hồn đau khổ. Những hạt mưa hình như mang lại những lời trối trăn cuối cùng của cây cỏ và phố xá. Không có một tiếng rao. Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Y vò võ nằm thu hình ở trong một cái buồng con. Bóng tối đầy thăm thẳm. Ngủ được thì thực tốt. Nhưng y không ngủ được, và y nghe thấy những tiếng động chung quanh cuộc đời của y. Y nằm cái giường của y và y nghe những tiếng động ấy, y ở cái gác của y và y nghĩ miên man đến đời của y. Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Ấy chính lúc ấy, y thấy hai mươi tuổi của y tiến lại trước mặt y. tại sao? Y không phải là một người ốm quay lại nhìn dĩ vãng. Nhưng mà những hạt mưa kêu lên như một linh hồn bị xiềng xích và những tiếng kêu ấy đã làm những tiếng kêu của y thức dậy. Người ta có thể bảo rằng đời người sắp xảy ra một cái nạn gì đây. Y thấy cái tuổi hai mươi của y đến ở giữa tấm lòng giá lạnh và y buồn, bởi vì hai mươi năm mà y đã trải qua không phải là hai mươi năm y ước định. Không, cái đời của y, y định nó khác lắm, chứ có đâu như thế này …. Lúc mười tám tuổi, y nghĩ: Đến hai mươi tuổi ta sẽ lập thân ta. Ta không biết rồi ta làm gì, nhưng ta biết chắc là ta làm nên to lắm bởi vì ta theo học đến tú tài mà bất cứ về môn nào ta cũng đứng hạng nhì, ba cả. Đến mười chín tuổi, y có những ý muốn rõ ràng hơn: Hai mươi tuổi, ta sẽ đổ tú tài, ta vào học thuốc, và sau dăm bảy năm theo học, người ta sẽ thấy ta đi lại ở trong tỉnh như một bức tranh nhân đạo. Nhưng chỉ ít lâu sau, y lại đổi ý kiến ngay bởi những ông bác sĩ có cái trách nhiệm nặng nề quá và chỉ vô ý một chút cũng có thể làm chết người được như chơi. Lại nữa, y có một người bạn học ở ban văn chương tìm đủ lý lẽ để cho y hiểu rằng học luật và học thuốc đều không làm gì được cả. Y bèn sang học ban văn chương và ra công khảo về Boileau, về Rouseau, vê Goethe. Văn chương có thể đưa người ta đến tất cả các nghề: nghề dạy học, nghề thư ký, nghề tham biện, và không ngăn cấm ta làm báo, làm họa sĩ, làm giáo sư âm nhạc. Những học trò tú tài ban văn chương đi riễu trong một cánh đồng đầy mộng và chứa chan hy vọng. Y chứa chan hy vọng quá thành thử những cái thích của y không bờ bến. Nhưng mà đêm nay … Một đêm mưa gió, có một người trẻ tuổi nằm không ngủ được … Tâm hồn y rung động những tiếng vang lạnh lẽo. Từ những sự rầu lòng đến hy vọng, đó là những năm tháng bị giam hãm ở bốn bức tường trường học nó kêu rên, nó đi lại, nó kể lễ những hình phạt của những ông giám thị, nó nhắc nhở một quãng đời bó buộc và buồn rầu, nó đem diễn lại những buổi chiều ngồi ngủ gật trong "ê – tuýt". ( Tiếng Pháp Étude = nơi học tập ) Ngọn đèn hoa kỳ để ở trên bàn ngủ của người trẻ tuổi chiếu một thứ ánh sáng não nùng. Người ta thấy những quyển sách viết trong bốn năm học Bưởi của y. Gió đập cửa thình thình, mưa rào rào xuống như một người khóc không bao giờ nín. Y tưởng như nghe thấy từng bài thơ của Villon, của Chénier, của Lamennais. Y nhớ lại cả những giờ toán pháp. Nằm nghe gió thỉnh thoảng rít lên, y lại tưởng như nghe thấy những chữ X,Y,Z vậy. Những chữ x,y,z ấy ở trong những bài kỷ hà học của y: thấy chúng là những kẻ khốn nạn làm ăn vất vả quá, đến tận lúc chết có lẽ cũng không được nghỉ. Việc ấy như thế này: Hồi đó, y vừa mới lên năm thứ ba. Ông cụ sanh ra y làm chánh tổng ở một làng ở Hải Dương. Một hôm, nhân dịp được nghỉ lễ, y về quê thăm nhà, và ông bố cưỡi con ngựa đèo con đi sang làng bên cạnh để khoe con mình học ở trường Cao Đẳng trên Hà Nội về chơi. Bất ngờ đến một con dốc kia, con ngựa ngã. Hai bố con văng mỗi người một nơi. Ông cụ nói: Hải ơi, con đã thấy chưa? Thầy độ này suy lắm. Gân cốt kém, mắt mũi cũng kém, thế mà con chẳng biết thương thầy, Hải ạ! Thầy cặm cụi một sương hai nắng để gửi con lên học ở Hà Thành, thầy cho con cái vốn đấy, thế mà con không chịu khó học hành gì cả. Kỳ thi nào con cũng gần bét. Con là con cả của thầy, con còn các em, con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ! Hai bố con nói thế xong rồi về, mang một khối nặng ở trong đầu. Thế rồi, cách ba tháng sau, vào giữa lúc buổi học chiều bắt đầu, người cha khốn nạn ấy không sống nữa. Một bức điện tín đến báo tin, chính ông giám thị đã mở ra đọc trước. Nước mắt không đến được, nhưng mà hình như suốt đời, ông già đã chết ấy vẫn còn nói câu này: "Con phải nhớ lời thầy bảo: Con không treo gương tốt cho các em con đâu, con ạ!". Chịu tang đâu đấy cả rồi, Hải lại quay lại sân trường cũ. Y không kể chuyện của y cho ai nghe hết, nhưng chuyện này, đầu y không theo chân y nhưng chính là đầu y theo chân y. Y xếp hai chân ngang hàng với nhau. Còn hai tay, y để vào hai thái dương. Mười ngón tay của y kẹp chặt lấy cái trán để cho những cái gì đã đọc được ở sách, bằng hai con mắt, đều phải ở lại cả trong óc, không thoát ra được ngoài. Sự thực thì cũng hơi khó khăn một chút: những bàn tay thì ở lại, nhưng hai con mắt thì vẫn để đi đâu … Tuy vậy, cuối năm y cũng được hai giải thưởng: giải thưởng cách trí và giải thưởng sử ký và địa dư. Lúc ông hiệu trưởng gọi tên y để lên trên bục nhận thưởng, y nhìn chòng chọc vào gói sách, rồi đánh đùng một cái, y hệt một cái máy nước chảy, y khóc, khóc, khóc bao nhiêu là nước mắt, đến nỗi ông hiệu trưởng phải kêu hai người học trò lớn đến dìu y ra ngoài. Người bố đã chết rồi, y mới được thưởng thực là chậm quá. Bây giờ, Hải như một người nhà quê đã cày xong thửa ruộng của mình. Một trận gió thổi ở trên những bông lúa sắp cấy, và người nhà quê ấy tìm ở trên mặt đất xem còn có gì sót lại hay không. Nhưng mà những việc chua chát ở đời bao giờ cũng có ngày mai. Một đêm mưa gió, có một người nằm không ngủ được. Y thấy cuộc đời của y bỗng có một buổi chiều chua chát. Nhà y hết tiền. Mẹ y thì già yếu. Y lại có nhiều em. Cái chí nguyện của y lại bật rễ như một cây cổ thụ, mảnh bằng tú tái mày mong mỏi bấy giờ chỉ còn lại một cái đích để không bao giờ tới nữa. Y bỏ học. Y đem mẹ và em lên buôn bán lặt vặt ở Hà Thành. Thôi thế là thôi, bao nhiêu mộng tan tành, bây giờ y chỉ là một kẻ dở dang, những đêm mưa lạnh, nằm nghĩ đến hồi đi học trông đợi ngày thi ra. Buổi sáng, y thức dậy và hỏi bốn phương trời. Y không muốn có một ý nghĩ bi quan nào cả. Đây này: khí trời buổi sáng đem bao nhiêu là sự mát mẻ ở những phương trời xa lại. Y, một người đã đỗ bằng thành chung và đã học ba năm ban tú tái! Có chức thư ký nhà nước, thăng từng trật một, mà trật nào cũng chứa một mẩu tương lai. Có chức thư ký nhà buôn, mới nghe thì tưởng chẳng nên trò gì cả, nhưng chính ra thì lương bổng hậu lắm, lấy được vợ đẹp và làm được nhà cho thuê là khác. Có chức giáo học tư gia nhàn rỗi, cơm ăn nước uống tử tế, mà mỗi tháng, nếu chịu khó thì lại con để được ra vài chục. Này này, đời nhiều hứa hẹn lắm! Chỉ sợ mình không có sức mà thôi, chứ có sức thì trăm hai mươi chỗ làm vừa Nhà nước, vừa tư gia kia kìa. Người ta không thiệt gì cả. Một ông cử nhân luật chẳng đã bảo y rằng những bực tài giỏi xưa nay đều là những hạng rẽ ngang ư? Mà chính vì có rẽ ngang như thế mà một người bạn của ông ta mới xoay làm nghề báo, mỗi năm kiếm đến vài ba nghìn đồng. Hải sống với cái tâm trạng ấy trong hai năm. Mẹ y cũng vậy, nhưng hơi lo một chút... - Đời mỗi lúc một khó khăn, con ạ. Hải cười. Y đứng lên. Mẹ ơi, cuộc đời nó có những lý luận ấy và thấy nó đi qua cửa sổ. Mẹ nghi ngờ sự thực. Hải lấy làm phiền không làm cho mẹ hiểu rõ hơn. Y có năm vạn ước vọng, mà ước vọng nào cũng bị mẹ hơi ngờ cả. Tại sao? Y cũng có những lý luận riêng. Mỗi lý luận, Y lại tìm ví dụ cho thâm cứng. Những bạn cũ của y bây giờ đều có việc làm cả. Y cũng như họ, y sẽ theo những đường mà họ đã đi. Tiện lắm. Mà y lại lợi hơn là khác: bởi vì y đi sau, y chỉ bắt chước những người đi trước, chứ không phải nghĩ ngợi mưu cơ gì cả. Bà cụ già, nghe nói mà sợ hãi thay.Gần trải hết một cuộc đời rồi, bà còn lạ gì cái nghề nghiệp nó cũng như của cải ở đời. Những người nghèo không có nghề. ... Mời các bạn đón đọc Truyện Hai Người của tác giả Vũ Bằng.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển - Chyngyz Torekulovich Aytmatov
Chyngyz Torekulovich Aytmatov (12/12/1928 - 10/6/2008) là một nhà văn người Kyrgyzstan. Ông đã viết các tác phẩm của mình bằng tiếng Nga và cả tiếng Kyrgyzstan, nổi tiếng với những sáng tác văn học về quê hương ông. *** Tác phẩm Truyện núi đồi và thảo nguyên (1963) Jamilya (1958) Cây phong non trùm khăn đỏ (1961) Người thầy đầu tiên (1962) Mắt lạc đà Vĩnh biệt Gyulsary (1966) Con tàu trắng (1970) Lên núi Phú Sĩ (đồng tác giả với Kaltay Mukhamedzhanov) Sếu đầu mùa (1975) Con chó khoang chạy trên bờ biển (1977) Và một ngày dài hơn thế kỷ (1980, sau đổi tên là Буранный полустанок) Đoạn đầu đài (1986) Тавро Кассандры, (1996) Встреча с одним бахаи (trò chuyện với Feyzolla Namdar, 1998) Когда падают горы (2006) Материнское поле (2012) *** Đêm ven biển tối như bưng bão hoà hơi ẩm và khí lạnh bay lang thang, trên suốt vùng duyên hải Ôkhôt, trên toàn mặt trận của biển và đất liền diễn ra cuộc đấu tranh muôn thuở, không gì kiềm chế được giữa hai lực lượng thiên nhiên: đất liền ngăn trở chuyển động của biển, biển tấn công đất liền. Biển ì ầm lồng lộn trong bóng tối, xông tới lao mình vào các mỏm đá, làm tung lên muôn vàn tia nước. Đất rắn như đá rên rỉ, gầm gào đánh bật những đòn dữ dội của biển. Biển và đất cứ quần nhau như thế kể từ thủa khai tịch, từ khi đêm bắt đầu là đêm, ngày bắt đầu là ngày và sẽ còn như thế mãi, ngày ngày và đêm đêm, chừng nào vẫn còn đất và nước trong dòng thời gian vô tận. Ngày ngày và đêm đêm… Lại một đêm nữa trôi qua. Đêm trước hôm ra khơi. Đêm ấy nó không ngủ. Lần đầu tiên trong đời, nó không ngủ, lần đầu tiên trong đời nó biết thế nào là mất ngủ. Nó háo hức mong ngày chóng đến để được băng ra biển. Nằm trên tấm da hải báo, nó cảm thấy đất rung chuyển nhè nhẹ, hầu như khó nhận biết do những đòn va đập của biển và nghe thấy sóng ầm ầm vật vã trong vịnh. Nó không ngủ, lắng nghe đêm tối… Ấy thế mà xưa kia, có một thời thế gian hoàn toàn khác. Bây giờ thật không thể tưởng tượng nổi một cảnh tượng như thế, bây giờ không ai hay biết điều đó, không ai ngờ đâu rằng nếu như thủa xa xưa đó, không có con vịt Luvrơ thì thế giới đã có thể được an bài khác hẳn: đất liền không chống lại nước, và nước không chống lại đất liền. Bởi vì thoạt kỳ thuỷ, thủa ban sơ, trong thiên nhiên không có đất, thậm chí không có lấy một hạt bụi. Bốn bề nước ngập mênh mông, chỉ toàn là nước. Nước từ nước sinh ra, trong cái vòng chu chuyển của mình, trong những vực thẳm đen ngòm, trong những xoáy nước vô lượng. Và sóng cuốn theo sóng, sóng tràn lan về mọi phía trong cái thế giới vô bờ bến lúc bấy giờ: chẳng từ đâu ra và chẳng đi về đâu. Còn con vịt Luvrơ, phải, đúng là thứ vịt trời bình thường, mỏ to bè mà ngày nay ta vẫn còn thấy bay từng đàn trên đầu chúng ta, hồi ấy nó bay lượn trên thế gian, trơ trọi có một mình và không biết đẻ trứng vào đâu. Khắp cõi trần chẳng có cái gì khác ngoài nước, không có lấy một cây sậy để có thể làm tổ. Vịt Luvrơ vừa kêu càng cạc vừa bay lượn, nó sợ nó sẽ không cố được, sẽ đẻ rơi trứng xuống cái vực biển không đáy. Bất kể nhằm hướng nào, bay tới đâu, vịt Luvrơ cũng chỉ thấy sóng vỗ dạt dào dưới cánh, bốn bề là nước cả mênh mông, không bờ không bến, không đầu không cuối. Vịt Luvrơ kiệt lực, thấy rõ rằng khắp thế gian này không có chỗ nào cho nó làm tổ. Thế là vịt Luvrơ đáp xuống nước, vặt lông ngực làm tổ. Chính từ cái tổ trôi nổi ấy mà đất đã bắt đầu hình thành. Dần dần đất lan rộng ra, dần dần mặt đất trở thành nơi cư ngụ của các sinh vật khác nhau. Trong số đó con người vượt hơn tất cả: con người biết dùng bàn trượt đi trên tuyết, biết dùng thuyền đi trên mặt nước. Người bắt đầu săn bắt thú, đánh bắt cá, nhờ đó tự nuôi sống mình và làm cho dòng giống mình sinh sôi nảy nở. Ôi, giá như vịt Luvrơ biết được thế gian sẽ khổ sở như thế nào khi đất rắn xuất hiện giữa vương quốc bao la của nước. Thật thế, từ khi đất xuất hiện, biển không thể yên lòng, biển tấn công đất liền, đất liền chống lại biển. Bị kẹt giữa hai lực lượng đó – giữa đất liền và biển, giữa biển và đất liền, con người lắm khi rất cực. Biển không ưa con người vì con người gắn bó với đất liền nhiều hơn… Sắp sáng rồi. Lại một đêm nữa qua đi, một ngày nữa ra đời. Giống như vành môi hươu trong làn hơi thở mờ mịt màn khói lam, trong bóng tối xám nhạt đang hửng sáng dần dần lộ rõ khoảng tiếp giáp dữ dội của biển và bờ biển. Biển thở phập phồng. Trên suốt khoảng tiếp giáp sục sôi giữa đất liền và biển hơi sương nhẹ bỗng, lạnh giá bốc lên cuồn cuộn, và khắp vùng duyên hải, suốt dọc bờ biển không ngớt dậy lên tiếng xậm xịch dai dẳng của sóng vỗ bờ. Sóng rất mực kiên gan: hết đợt này đến đợt khác, mỗi lúc một mãnh liệt hơn xông lên công phá, chồm lên bãi cát bồi rắn chắc, lạnh lẽo, vọt qua những đống đá chồng chất, trơn nhẫy màu nâu xạm, chồm lên với tất cả sức mạnh và khí thế của chúng, rồi theo nhau tàn lụi đi ở giới hạn tận cùng của mình như một hơi thở ra tụt lịm, để lại một lớp bọt tiêu tan trong khoảnh khắc và mùi ủng rữa của rong rêu bị khuấy đảo. Đôi lúc, sóng ném lên bờ cả những mảnh băng bị cuốn từ đâu tới không rõ theo dòng chuyển vận của đại dương mùa xuân. Những mảnh băng lạc loài bị vứt lên cát lập tức biến thành những mẩu kỳ quặc, bơ vơ của biển đã đông kết. Những đợt sóng tiếp theo nhanh chóng ào đến và lôi chúng trở lại thế giới tự nhiên của chúng. ... Mời các bạn đón đọc Con Chó Khoang Chạy Ven Bờ Biển của tác giả Chyngyz Torekulovich Aytmatov.
Tình Khúc Mùa Thu - Danielle Steel
Thần tượng của hàng triệu độc giả nữ Danielle Steel rất “được lòng" phái đẹp toàn thế giới bởi những câu chuyện đầy tinh tế của bà khi viết về họ với sự thấu hiểu và đầy lòng trắc ẩn. Danielle Steel là một trong những nữ nhà văn thành công nhất và được xếp thứ tư trong danh sách 10 tác giả kiếm tiền giỏi nhất thế giới trong năm 2009-2010 của tạp chí Forbes với hàng trăm triệu USD. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York, sống thời thơ ấu ở Pháp, nơi bà bắt đầu viết thơ và truyện ngắn khi mới lên 9 tuổi. Đến nay, bà đã là tác giả của hơn 113 đầu sách với hơn 800 triệu cuốn được xuất bản, được dịch ra 28 thứ tiếng khác nhau ở tại 47 quốc gia và đã có 22 tác phẩm được chuyển thể thành phim. Là tác giả của đầu sách góp mặt trong danh sách bán chạy nhất của tờ New York Times trong 390 tuần liên tiếp, tài năng của Danielle Steel đã được công nhận Kỷ lục Guinness vào năm 2008. Ngoài viết tiểu thuyết, Steel còn là tác giả của 10 tập truyện tranh Max and Martha dành cho thiếu nhi và cũng là tác giả của Freddie - 4 cuốn sách về những tình huống khác nhau xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Danielle còn cho ra đời cuốn His Bright Light kể về cuộc sống cùng cái chết của chính con trai bà (Nicholas Trainna) và một tập thơ mang tên Love: Poems. Những tác phẩm của nữ nhà văn này luôn nhận được sự đón nhận nồng nhiệt của hàng triệu độc giả, đặc biệt là những độc giả nữ xem bà như thần tượng và háo hức chờ đợi từng cuốn tiểu thuyết của bà. Là một phụ nữ tài sắc, nhạy cảm, một cây bút nhiệt tâm, giàu cảm xúc nhưng Daniel Steel lại gặp phải một cuộc đời “đầy giông bão”. Trải qua 5 lần kết hôn và làm mẹ của 9 đứa con, thấy được hết những mặt tốt xấu của cuộc sống hôn nhân và gia đình dường như khiến nhà văn thấu hiểu và mang nhiều lòng trắc ẩn hơn đối với cuộc đời của những người phụ nữ. Từ hình ảnh nhân vật Solange xinh đẹp buồn phiền vì hạnh phúc gia đình tan vỡ trong cuốn Những cánh hoa lạc loài (Kaleidoscope) đến hình ảnh một người phụ nữ mạnh mẽ, nghị lực dám vươn lên và chiến thắng nghịch cảnh để tồn tại như nhân vật Annabelle Worthington trong cuốn Người phụ nữ tốt bụng (A Good Woman); hay những suy nghĩ của nhân vật Jessie về tình yêu và niềm hạnh phúc vĩnh cửu trong cuốn Bây giờ và mãi mãi (Now And Forever) đến những nỗi đau xen lẫn vị ngọt của thứ tình yêu chân chính mà nhân vật India phải nếm trải trong cuộc hành trình tìm lại ước mơ và khát vọng sống của chính mình trong cuốn tiểu thuyết Nỗi đắng cay ngọt ngào (Bittersweet),… đều thể hiện ngòi bút tinh tế của Daniel Steel. Danielle Steel viết nhiều về phụ nữ. Bà viết về niềm vui hay nỗi đau, khát vọng hay tuyệt vọng, tất cả đều mãnh liệt và ám ảnh. Những người phụ nữ trong trang sách của bà thường ở trong tình huống éo le của cuộc sống, nhưng họ đều mạnh mẽ vươn lên và chiến thắng số phận. Nói về người phụ nữ lý tưởng, nữ nhà văn quan niệm rằng: “Cuộc sống là một trò chơi mở, mọi thứ đều có thể xảy ra. Đừng bao giờ chắc chắn điều gì đó về bạn hay bất kỳ ai khác. Hiểu và tin điều quý giá đối với trái tim bạn và nỗ lực để bảo vệ nó. Hạnh phúc không phải là vĩnh viễn. Có thể có những thời điểm khó khăn, nhưng đừng bao giờ để bạn bị những khó khăn của cuộc đời cuốn trôi đi.” *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Phòng triển lãm hội họa Suvery ở Paris được thiết lập trong một tòa nhà rất ấn tượng, một Hotel Particulier lịch sự của thế kỷ 18 tại khu Fauourg St. Honoré. Chỉ những nhà sưu tầm danh tiếng mới được mời đến đây. Họ đi qua bộ cửa bằng đồng khổng lồ để vào sân trong. Ngay trước sân là phòng triển lãm chính, phía bên trái là phòng làm việc của Simon de Suvery, chủ nhân của ngôi nhà. Và cánh nhà bên trái là phần con gái ông ta phụ thêm vào buổi triển lãm, ở đây trưng bày các sản phẩm đương đại. Phía sau nhà là một khu vườn đẹp rộng lớn có đầy những tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là của Rodin. Simon de Suvery ở đây đã hơn 40 năm. Bố ông, cụ Antoine, là một trong những nhà suy tầm hội họa danh tiếng nhất châu Âu, và Simon là nhà nghiên cứu hội họa thời Phục hưng về các kiệt tác của nước Hà Lan trước khi ông khai trương phòng triển lãm này. Bây giờ ông được các viện bảo tàng khắp châu Âu hỏi ý kiến, được các nhà sư tầm tư nhân kính nể, và được hết thảy những người biết ông ngưỡng mộ, mặc dù họ thường sợ ông. Simon de Suvery có vóc dáng oai vệ, thân hình lực lưỡng, nét mặt nghiêm nghị, cặp mắt đen nhìn thấu tâm can người khác, Simon lấy vợ muộn, vì trong thời thanh niên ông mãi miết lo gầy dựng sự nghiệp, không có thời giờ dành cho những chuyện yêu đương. Đến năm 40 ông mới lấy con gái một nhà sưu tầm hội họa danh tiếng. Cuộc hôn nhân của ông thật hạnh phúc. Marjorie de Suvery vợ ông không bao giờ tham gia trực tiếp vào công việc của phòng triển lãm, phòng này được thiết lập trước khi Simon cưới bà. Bà rất say mê phòng triển lãm, ngưỡng mộ việc trưng bày của ông. Bà yêu ông tha thiết, quan tâm sâu sắc đến bất cứ điều gì ông làm. Marjorie là hoạ sĩ, nhưng bà cảm thấy không yên tâm khi đem triển lãm tác phẩm của mình. Bà vẽ phong cảnh và chân dung rất đẹp, nhưng thường là để tặng bạn bè. Thực ra, Simon thấy tranh bà đẹp nhưng không gây ấn tượng mạnh cho ông. Ông rát gắt gao trong việc đưa tác phẩm nào ra trưng bày. Ý chí của ông rất sắc đá, tinh thần cứng rắn như kim cương, hoàn toàn đặt vấn đề nghệ thuật lên trên hết, dù vậy dưới bộ mặt sắc đá ấy, luôn luôn ẩn giấu một tấm lòng vàng. Hay là Marjorie đã nói thế. Mặc dù không phải mọi người đều tin lời bà. Ông rất tốt với nhân viên, thành thật với khách hàng, và theo đuổi đến cùng bất cứ cái gì mà ông thấy cần có cho phòng triển lãm. Nhiều lúc ông bỏ ra nhiều năm trời để có được một bức tranh hay một tác phẩm điêu khắc có giá trị, nhưng ông không bao giờ ngồi chờ cho đến khi tác phẩm ấy đến tay mình. Ông đã theo đuổi vợ ông như thế cho đến khi ông cưới được bà. Và khi cưới bà, ông xem bà như báu vật – chỉ dành riêng cho ông. Chỉ khi nào ông cảm thấy cần giới thiệu bà với ai, ông mới đưa bà ra, nhất là để làm vui lòng khách hàng ... Mời các bạn đón đọc Tình Khúc Mùa Thu của tác giả Danielle Steel.
Tập Truyện Tình Yêu
Tập truyện tình yêu này gồm có: Ai Mà Chịu Nổi Rigoletta Một Cái Hôn Anh Yêu Cuộc Hẹn Hò Ở Florence Những Vì Sao Ma Thuật Đôi Mắt Lụa Nàng Đi Mất Rồi! Mảnh Thu Trả Thù Lily Khoảnh Khắc Chóng Mặt Người Đàn Bà Cầm Chiếc Dù Chúc Anh Vui Người Chồng Lý Tưởng Emma Sun Kẻ Chia Rẽ Chăm Sóc Chồng Thế Nào? Trong Vườn Tình Yêu Và Môn Lôgic Gạt Bỏ Mối Tình Qua Những Bức Thư Ruđenxơ Nhút Nhát Sau Buổi Chiếu Chiếc Thang Máy Xuống Địa Ngục Cứu Rỗi Thiên Thần Yêu Mơ Ước Tình Yêu Chị Em Đám Cháy Căn Phòng Kín *** Vợ chồng Vacherot đang ăn tối ở phòng ăn trong căn nhà của họ trên phố Vaugirard tại Paris. Ở tuổi 28, Gaston Vacherot là một người đàn ông điển trai: mái tóc và chòm râu màu nâu, cái nhìn nồng cháy, bộ ria thanh mảnh, người cao lớn và tư thế lịch sự. Anh ăn mặc cũng sang trọng. Gaston mau chóng quen với những bộ quần áo thượng hạng từ khi kết hôn với Augustine. Anh đã sống rất thoải mái cả một thời trẻ trung nhờ có tài sản của vợ. Nhưng lúc này, vẻ mặt không vui, anh lấy chiếc đồng hồ bỏ túi ra xem giờ. - Em yêu, anh buộc phải tạm xa em trong nửa tiếng đồng hồ. Anh cần ra ga Orsay đón một khách hàng ở tỉnh lẻ lên. Augustine Vacherot ngạc nhiên: - Một khách hàng! Thế là thế nào? Ông Constat không tự đi đón được sao? Gaston mỉm cười: - Đây là một chứng cớ của lòng tin cậy, em ạ. Anh là thư ký thứ nhất. Anh phải đi thay ông ấy chứ. Augustine thở dài: - Em biết thế, Gaston. Nhưng dù sao… chúng mình bị mất một buổi tối cùng nhau… Sau khi chồng đi, Augustine ngồi thêu cho quên tâm trạng nóng ruột. Thời gian cứ trôi… cô cảm thấy trống trải khi Gaston vắng nhà. Đã 11 giờ! Tiếng chuông cửa xiết bao chờ đợi không thấy reo lên. Cô ra cửa sổ để rình đón xem có chiếc xe nào đang chạy tới không. Nhưng đường phố vắng tanh. Năm phút rồi mười phút, một tiếng đồng hồ rồi hai tiếng nối tiếp nhau trôi qua. Augustine khốn khổ mỗi lúc thêm sợ hãi, thoạt tiên, tự nhủ chắc chồng mình chỉ về trễ thôi. Đến sáng, cô chạy lên đồn cảnh sát… Thanh tra Cournet chăm chú nghe cô kể. Rồi ông nói: - Nếu chồng bà gặp tai nạn, chúng tôi sẽ được thông báo rất nhanh… Và Augustine ngồi đối diện, ông nói tiếp: - Nhưng theo tôi, nhiều khả năng đây là một vụ bỏ nhà ra đi. Một tiếng kêu phẫn nộ đáp lại lời ông: - Gaston của tôi không bao giờ làm một điều như thế! Anh ấy là một người chồng mẫu mực. Thanh tra Cournet tiễn khách ra cửa: - Vai trò của tôi là xem xét tất cả các giả thiết, thưa bà. Tạm thời, tôi muốn nghĩ tới giả thiết nào ít bi thảm nhất. Bà cứ về nhà đi, nếu có tin gì mới, tôi sẽ đến gặp bà… Sự việc mới xảy ra vào buổi chiều. Một người đem tới nộp cảnh sát một chiếc ví anh ta nhặt được trên quãng bờ sông ở gần cầu cạn Auteuil. Trong ví có các giấy tờ của Gaston. Trên đường tới phố Taugirard, thanh tra Cournet cảm thấy bối rối! Ông ít khi đoán nhầm. Ông đã nghĩ ngay Augustine thuộc kiểu người vợ thường bị bỏ rơi. Nhưng bây giờ, ông phải thừa nhận vụ này đã chuyển sang hướng khác. Augustine suy sụp hẳn khi thấy ông thanh tra đem chiếc ví của chồng tới. Sau giây phút tuyệt vọng, cô cố trả lời các câu hỏi của ông. - Thưa bà, hai ông bà có chuyện bất hoà gì không? - Hoàn toàn không. Gaston rất hiền lành và tốt nết. - Bà có nhận thấy ở chồng bà một sự thay đổi tâm trạng gì không, một chút sầu muộn chẳng hạn? Augustine sửng sốt trước câu hỏi ấy. Gaston không thể tự tử. Hôm qua, anh ấy vẫn như mọi khi: vui vẻ, vô tư. Thanh tra Cournet ghi câu trả lời vào sổ, vẻ thản nhiên. Ông cũng không tin là có chuyện tự tử. Khi nhảy xuống nước, ít ai lại bỏ ví ra. Quá lắm, người ta cũng chỉ cởi quần áo. Thêm nữa, còn một điều khác… - Bà nói ông ấy ra ga Orsay đón một khách hàng của bà Constat? - Vâng, thưa ông thanh tra. - Tôi rất lấy làm tiếc, thưa bà, nhưng trước khi tới đây tôi đã cho điều tra và được biết tối qua bà Constat không chờ một khách hàng nào cả. Augustine cảm thấy hụt hơi. Trong một tình trạng giống như chóng mặt, cô lờ mờ thấy một Gaston bí mật mà chưa bao giờ cô lại nghĩ là có tồn tại, bèn kêu lên: - Thế thì anh ấy nói dối tôi! Nhưng tại sao mới được chứ? Ông thanh tra buông một tiếng thở dài: - Đó cũng là điều mà tôi hy vọng sẽ mau chóng biết được. Bà cho phép tôi tìm trong các giấy tờ riêng của chồng bà chứ? Augustine buồn bã gật đầu và dẫn viên thanh tra vào một văn phòng bày biện lộng lẫy. Sau khi nhanh nhẹn xem xét, ông thanh tra lấy ra một bó thư buộc bằng dãy lụa, rồi ông đọc lướt qua các bức thư. - Bà có nghe nói tới một cô Hortense Lemoine nào đó không? Augustine buông phịch người xuống một chiếc ghế: - Không, chưa bao giờ. Đó là… người tình của anh ấy? - Vâng, nhưng bà yên tâm. Những bức thư này được viết từ trước khi bà lấy ông Gaston. Thêm nữa, chính vì ông ấy lấy bà mà ông ấy đã cắt đứt với cô gái. Đôi mắt Augustine như cầu khẩn: - Và ông cho rằng cô gái đó có thể liên quan tới việc Gaston biến mất? Thanh tra Cournet làm một cử chỉ bất lực. - Tôi không biết, thưa bà. Nhưng tất cả mọi hướng đều được chúng tôi theo dõi. Tôi hy vọng chẳng bao lâu sẽ báo cho bà những tin tức tốt lành. Xin bà cho phép tôi giữ bó thư này… Mời các bạn đón đọc Tập Truyện Tình Yêu.
Sulamif - Aleksandr Kuprin
Sulamif là câu chuyện tình giữa vua Solomon và một cô gái dân thường, một tình yêu cháy bỏng, trong sáng, cao cả đầy chất thơ, truyện kết thúc buồn nhưng đầy chất nhân văn. Từ bấy đến nay đã nhiều thế kỉ trôi qua. Đã có biết bao vua chúa và vương quốc tồn tại trên trái dất này và tất cả đầu như những ngọn gió thổi ngang sa mạc, không để lại một dấu vết nào. Đã có biết bao những cuộc chiến tranh tàn khốc, lâu dài để lại tên tuổi những thống soái sáng chói qua các thế kỉ như những ngôi sao bầm máu, nhưng rồi ngay cả những kỉ niệm về họ đến nay cũng đã bị thời gian xóa sạch. Còn tình yêu của một cô gái nghèo con người gác nho và nhà vua vĩ đại sẽ không bao giờ bị phai mờ và quên lãng, vì rằng tình yêu đó mạnh như cái chết, vì rằng mỗi người đàn bà đang yêu đều là một nữ hoàng, và vì rằng tình yêu là đẹp nhất trên đời! *** TỦ SÁCH ĐÔNG TÂY TÁC PHẨM​ Nền văn học phương Tây đã sản sinh ra biết bao thi hào, văn hào có tầm ảnh hưởng sâu rộng tới trào lưu văn học của cả thế giới. Tủ Sách Đông Tây tác phẩm sẽ giới thiệu tới các độc giả yêu văn học phương Tây những tác phẩm của những nhà văn nổi tiếng này. Thi hào Alexandr Pushkin - mặt trời của nền thi ca Nga, ngọn cờ của dòng văn học lãng mạn Nga thế kỉ XIX, sẽ được giới thiệu tới độc giả Việt Nam qua tuyển tập Truyện ngắn Alexandr Pushkin nổi tiếng gồm 6 truyện: Con đầm bích, Phát súng, Bão tuyết, Ông chủ hiệu đám ma, Người coi trạm, Cô tiểu thư nông dân. Mikhail Prishvin là một trong những nhà văn Nga viết về thiên nhiên nổi tiếng nhất. Và thế là Giọt rừng ra đời như một trải nghiệm nghiên cứu đầy chất thơ cái thiên nhiên được hiểu trong sự hoà hợp với con người sống trong nó và tạo ra nó... William Thackeray, tác giả tiểu thuyết kinh điển Hội chợ phù hoa, một trong những nhà văn Anh quan trọng nhất thời Victoria, nổi tiếng về nghệ thuật châm biếm. Nhờ được hưởng một gia sản thừa kế khá lớn, ông đã dành nhiều thời gian đi du lịch, sang Paris và Weimar. Ông viết nhiều thể loại, cả truyện thiếu nhi và lịch sử, những hầu hết đều có tính chất châm biếm, nhằm đả kích xã hội tư sản quý tộc Anh đương thời. Tủ sách Đông Tây tác phẩm lần này sẽ giới thiệu tới độc giả Việt Nam một trong những tác phẩm viết cho thiếu nhi nổi tiếng của ông: Chiếc nhẫn và bông hồng, một câu chuyện châm biếm và đầy kịch tính. Chiếc nhẫn và bông hồng là truyện cổ tích đầy kịch tính, xoay quanh cuộc phiêu lưu của hai chàng hoàng tử Giglio và Bulbo, hai công chúa Rosalba và Angelica. Câu chuyện kết thúc có hậu, hoàng tử Giglio lấy Rosalba; hoàng tử Bulbo lấy Angelica khi đã trải qua nhiều khó khăn, nguy hiểm. Chiếc âu vàng là một trong những áng văn xuôi hay nhất của nước Đức trong thế kỷ XIX, tinh hoa của một trí tưởng tượng cực kỳ phong phú và khoáng đạt, đầy sức hấp dẫn bởi sự biến hóa khôn lường giữa cái ảo và cái thực, giữa vô thức và hữu thức, giữa cái nội tại và cái ngoại tại. Hai trăm năm qua, Chiếc âu vàng- món quà tặng của tình yêu luôn được nhìn nhận là tuyệt tác của nhà ảo thuật phương Đông... Có người nói, E.T.A. Hoffmann là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng, thậm chí có nhà nghiên cứu coi ông như một bậc tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, và gần đây nhất, trong một công trình giới thiệu Hoffmann với đông đảo bạn đọc Đức qua tủ sách phổ thông Reclam, nhà phê bình K. Nussbaecker còn khẳng định tác phẩm Chiếc âu vàng là một điển hình của chủ nghĩa siêu thực trong văn học. Các bạn độc giả cũng sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon trong Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc… Với Đêm trắng của Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky lại là một câu chuyện tình đẹp và buồn được viết theo phong cách lãng mạn tình cảm. Vanina Vanini được viết năm 1829 là một tác phẩm ngắn nhưng ấn tượng. Thông qua câu chuyện tình của một công nương La Mã trẻ với chiến sĩ Carbonari kiên cường bị tù tội, Stendhal bày tỏ thiện cảm và sự ủng hộ của mình đối với cuộc đấu tranh vì tự do của nhân dân Italia mà ông gắn bó. Chiếc vòng thạch lựu là thiên truyện tình hay nhất của nhà văn Aleksandr Kuprin, một mối tình trong sáng, mãnh liệt, cao cả, đẹp và buồn, sẵn sàng hi sinh bản thân bởi tình yêu, câu chuyện nhẹ nhàng đầy tính chất nhân văn. Còn Sulamif lại là câu chuyện tình giữa vua Solomon và một cô gái dân thường, một tình yêu cháy bỏng, trong sáng, cao cả đầy chất thơ, truyện kết thúc buồn nhưng đầy chất nhân văn. Trái tim chó - Mikhail Bulgakov kể về câu chuyện xảy ra khi nhà bác học Preobrajenski qua thí nghiệm kết hợp thể xác chó với tuyến yên não người đã tạo ra một sinh vật biết sử dụng ngôn ngữ người. Qua "Trái tim chó" tác giả cảnh báo về nguy cơ "Saricov", một dạng người có trái tim chó, hay nói đúng hơn là một dạng người mang tâm lí chó vốn không quá hiếm trong cuộc đời xung quanh. Cánh Buồm Đỏ Thắm của Aleksandr Grin là câu chuyện cổ tích trở thành hiện thực. Một cô gái cô đơn giàu mơ ước và niềm tin có thể trở thành nàng công chúa, một chàng trai có tâm hồn bay bổng là chàng hoàng tử. Đây là câu chuyện nhẹ nhàng có thể khiến bạn mỉm cười khi đọc. Bộ sách do các dịch giả có danh tiếng trong làng dịch thuật chuyển ngữ: Thái Bá Tân, Đoàn Tử Huyến, Nguyễn Duy Bình, Phương Hồng và Quang Chiến. Mời các bạn đón đọc Sulamif của tác giả Aleksandr Kuprin.