Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa - K. G. Paustovsky

K.G. Paustovski (31/5/1892- 14/7/1968) là nhà văn Nga rất nổi tiếng với thể loại truyện ngắn. Ẩn đằng sau vẻ băng giá bên ngoài, Konxtantin Paustovski sở hữu một tâm hồn Nga tuyệt đẹp với trái tim cháy rực lửa yêu thương. Ông biết rung cảm sâu sắc với cảnh đẹp thiên nhiên và sự hồn hậu của những con người không chỉ của nước Nga mà cả những nơi ông đã đi qua. Hai tập truyện ngắn Bông hồng vàng và Bình minh mưa của Paustovsky mang đến cho độc giả những cảm giác êm đềm, nhẹ nhàng, một thế giới thanh bình yên ả trước thế chiến thứ II, thế giới của những con người nước Nga bình dị, đôn hậu và lóng lánh chất thơ. Những truyện ngắn như: Tuyết, Chiếc nhẫn bằng thép, Bức điện, Trái tim nhút nhát… được Paustovski diễn đạt bằng lối văn chương giản đơn, dịu dàng như con trẻ, tác giả đã thể hiện được những tình cảm dung dị nhất: tình cảm giữa cha mẹ với con, tình yêu đôi lứa, tình làng nghĩa xóm… của con người nước Nga những năm đầu thế kỷ trước. Bông hồng vàng và bình minh mưa khiến bạn đọc phải giật mình và tự hỏi: thật sự trên đời này vẫn còn những câu chuyện kỳ diệu như thế? Thông qua tác phẩm, Paustovski nhắc nhở chúng ta về những điều đẹp đẽ, những niềm hạnh phúc nhỏ nhắn mà chúng ta đã bỏ quên hay xem như xa xỉ trong cuộc sống vội vã của mình.   *** Cơn bão tuyết tràn vào thành phố từ chập tối. Tắt ánh mặt trời là nhiệt độ hạ xuống đột ngột. Khi cơn bão ập tới, nhiệt độ còn xuống nữa. Không khí khô đến khó thở. Từ trong nhà nhìn ra chỉ thấy trời đất trắng bệch một màu bạc xỉn của băng bụi. Gió quyện chúng quẩn quanh trên mặt đường, xếp thành từng đống ở chân tường. Không một bóng người bóng vật ngoài phố. Thỉnh thoảng mới thấy một chiếc xe tải, chăn trấn thủ bọc kín máy, lạc lõng chạy qua, bụi trắng cuồn cuộn dưới gầm xe. Tì tay trên bậu cửa sổ, tôi bần thần nhìn ra những ngọn đèn đường vàng ệch trong bóng tối nhuốm màu trắng phản chiếu của tuyết già mà rùng mình cảm trước thấy chiều dài ghê gớm của thời gian một đêm mất ngủ. Guenađy Shpalikov, bạn cùng phòng với tôi, nhà thơ chưa được ai biết đến trong những năm xa xôi ấy, quẳng cho tôi một cuốn sách dày cộp, bìa bọc simili: - Đọc đi! Những đêm như đêm nay mà đọc Paustovsky thì đúng lúc lắm. Nếu cậu thích, có thể coi như mình tặng cậu. Đây là tuyển tập. Mình đã đặt mua toàn tập hôm qua rồi. Tôi ngần ngại nhìn cuốn sách dày cộp. Nhưng chỉ vừa đọc mấy chục trang đầu, tôi đã hiểu ngay rằng không gì có thể bắt tôi gấp cuốn sách lại chừng nào tôi chưa đọc xong. Và thế là đêm đó - một đêm giá lạnh mùa đông năm 1956 ở Moskva - tôi đã gặp Paustovsky. Từ những hàng chữ in bình thường trên trang giấy xanh lên màu chao đèn ngủ, những nhân vật sống bước ra, đi lại, làm việc, yêu, ghét, đau khổ, vui, buồn, trong những câu chuyện đầy tình cảm của những xúc động thường là thầm kín và cao cả, trên nền phong cảnh Nga với những hàng bạch dương run rẩy trong gió, những vì sao trong vũng nước đêm, mùi lá mục trong rừng... Tôi nghiễm nhiên trở thành người chứng kiến, người tham gia vô vàn chuyện đời chuyện người, rất thường mà rất lạ, không sao quên được. Là nhờ Konstantin Paustovsky. Và tôi thật sự đã không quên, bởi vì, hơn là những chuyện kể mà ta có thể nghe ở bất cứ ai, trong một đêm đó Paustovsky đã giúp tôi sống một đoạn đời tính bằng nhiều năm, mà là những năm giá trị, khi con người bỗng nhận ra rằng mình không thể giản đơn tồn tại, mà phải được sống thực, sống đầy đủ, với những rung cảm thực, cái duy nhất làm cho cuộc sống của ta phong phú thêm và vì thế có ý nghĩa hơn. Đọc Paustovsky tôi bỗng hiểu tôi hơn, tôi bỗng hiểu mọi người hơn. Và, đây mới là cái chính: tôi chợt hiểu rằng mỗi con người, dù người đó là ai, là nhà bác học, nhà thơ, là ông thợ mộc bình dị..., tất cả, đều là một thế giới phong phú. Thế giới ấy không lồ lộ dưới ánh sáng mặt trời, và ta không thể thấy được nó, càng không thể nhìn rõ nó, bằng cặp mắt lười biếng. Mỗi dòng chữ của Paustovsky nói với chúng ta một cái gì rất mới về cái thế giới không dễ thấy ấy. Tôi đọc mê mải, không biết rằng cơn bão tuyết đã lặng từ lâu, có lẽ từ nửa đêm, và khi tôi gập sách lại thì ánh bình minh màu trắng đục của riêng những chân trời phương Bắc đã tràn ngập khắp phòng. Ngọn đèn đêm vẫn cháy, nhưng ánh sáng màu xanh lơ của nó nhợt nhạt hẳn. Qua một đêm, tuyết đã xếp thành những vồng trắng mịn màng trên bậc cửa sổ. Tôi trở dậy, mở một cánh cửa, lặng ngắm những bông tuyết đang sà xuống. Chúng bay chậm, đung đưa trong gió nhẹ, rồi từ từ đậu xuống những đống tuyết lớn. Tôi chìa tay ra đón tuyết. Lúc đầu, tôi có cảm giác những bông tuyết lảng tránh tay tôi. Nhưng có những bông bạo dạn hơn đến gần, ngập ngừng trong giây lát, rồi mới nhẹ nhàng đáp xuống. Khi tôi thu tay về thì trong lòng bàn tay chỉ còn mấy vệt ướt: tuyết đã tan rồi. Trong khoảnh khắc ấy tôi chợt hiểu rằng tôi đã bỏ qua rất nhiều, nhiều lắm, cái đẹp trên những con đường mà tôi đã đi qua, tính cả về không gian lẫn thời gian. Cũng như trước cái đêm đáng nhớ ấy tôi đã không biết đến cái đẹp của những bông tuyết này, chỉ vì tôi không biết nhìn, chưa biết đến niềm mê say mà cái đẹp mang tới. Paustovsky chỉ cho tôi thấy cái mất mát ấy. Như một người bạn rất gần gụi với ta, như một người thân của ta, Paustovsky bước vào tâm hồn ta rồi ở lại đó, ông thủ thỉ với ta những chuyện tâm tình. Nghe xong những câu chuyện ấy, ta cảm thấy tâm hồn ta lớn thêm, rộng thêm, nhẹ hơn. °°° Paustovsky ra đời ngày 31 tháng 5 năm 1892 trong một ngõ hẻm thành Moskva. Dòng họ ông gốc kazak[1] miền Zaporozhe, sau mới chuyển tới cư ngụ ở vùng ven sông Roshi gần tỉnh lỵ Belaya Serkov. Cha ông làm nhân viên thống kê ngành đường sắt. Ông nội là một cựu chiến binh kadak dưới thời Nga hoàng Nikolaev. Cụ thân sinh ra Paustovsky là người mơ mộng và là người ở không yên chỗ. Sau thời gian tòng sự tại Moskva, ông đổi đi Vino, rồi Pskov, sau cùng mới đỗ lại Kiev. Mẹ Paustovsky lớn lên trong một gia đình tư chức ở một nhà máy đường. Tính khắc khổ, bà nắm mọi quyền hành trong nhà. Gia đình Paustovsky đông người, đủ tính đủ nết, nhưng hết thẩy đều yêu nghệ thuật. Cậu bé Paustovsky lớn lên trong tiếng đàn dương cầm, những giọng ca, những cuộc cãi vã nghệ thuật và những rạp hát. Cậu bé bắt đầu cuộc đời học trò ở trường trung học số 1 thành phố Kiev. Khi cậu học tới lớp 6 thì gia đình khánh kiệt, cậu phải tự nuôi thân bằng một nghề bất đắc dĩ không xứng với tuổi học trò là nghề "gia sư". Đó là tóm tắt mấy dòng về con người về sau này trở thành nhà văn. Tôi chép lại tiểu sử ông ở đây theo thói thường phải viết tiểu sử nhà văn mà mình giới thiệu, chứ tôi biết tiểu sử chẳng giải thích được bao nhiêu vì sao Paustovsky chọn nghề văn chứ không phải nghề nào khác. Truyện ngắn đầu tiên của Paustovsky được in khi Paustovsky còn là học sinh năm chót của trường trung học. Nó xuất hiện trong tạp chí "Những Ngọn Lửa", là tạp chí văn học duy nhất của Kiev hồi bấy giờ, vào khoảng năm 1911. Sau khi tốt nghiệp trung học, Paustovsky thi vào đại học tổng hợp Kiev. Hai năm sau, Paustovsky chuyển qua một trường đại học khác ở Moskva và ở hẳn thành phố này từ đấy. Chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Paustovsky làm nghề bán vé xe điện, rồi lái xe điện, rồi y tá trong các đoàn tàu quân y con thoi chạy đi chạy lại giữa hậu phương và tiền tuyến. Mùa thu năm 1915 ông bỏ công việc dân sự để đi theo một đơn vị quân y dã chiến và làm một chuyến đi dài suốt từ thành phố Lublin (Ba Lan) đến tỉnh lỵ Nesvizh ở Belorussya. Trên đường, tình cờ nhặt được một mẩu báo, ông mới biết hai anh ông đã tử trận trong cùng một ngày trên hai mặt trận khác nhau. Paustovsky vội vã trở về với mẹ. Bà cụ lúc đó đang ở Moskva. Nhưng Paustovsky không thể ngồi lâu một chỗ. Bệnh xê dịch giày vò ông và ông lại lên đường, tiếp tục cuộc sống nay đây mai đó. Ông đi Ekaterinoslav để làm việc trong nhà máy luyện kim của công ty Briansky. Rồi bỏ đấy mà đi Yuzovka, từ đó đến Taranrog, làm trong các nhà máy. Ở Taranrog, Paustovsky khởi viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - "Những Kẻ Lãng Mạn". Mùa thu năm 1916, Paustovsky lại một lần nữa bỏ Taranrog để đến nhận công tác tại Công ty liên hiệp hải sản Azovskoye. Cách mạng Tháng Hai bùng nổ khi Paustovsky đang ở Moskva. Lúc đó ông đã bước vào nghề báo. Ông viết: "Sự hình thành con người và nhà văn trong tôi bắt đầu từ những năm ấy, nó xảy ra dưới chính quyền xô-viết và quyết định toàn bộ cuộc đời tôi từ đấy về sau". Sau thời gian ở Moskva, ông lại quay về với mẹ, bà cụ lúc ấy đã sống ở Ukraina. Từ Kiev, nơi ông chỉ cư ngụ một thời gian ngắn, Paustovsky đi Ôđessa. Ở thành phố cửa biển này ông được sống trong môi trường các nhà văn trẻ và tài năng: Ilf, Bagritzky, Babel, Shenghel, Lev Slavin... Nhưng rồi ông lại giã từ những người bạn tuyệt vời của mình để trở về để tiếp tục cuộc hành trình vô định. Ông đi Sukhum, Batum, Tifflis. Từ Tifflis, Paustovsky đến Armenya, rồi lang bạt sang tận Ba Tư. Năm 1923, Paustovsky trở về Moskva trong một chuyến dừng chân, xin làm biên tập viên cho một tờ báo. Cũng từ đó tên tuổi của ông bắt đầu trở thành quen thuộc với độc giả qua những tác phẩm nối tiếp nhau ra đời. Cuốn sách đầu tiên được Paustovsky coi là tác phẩm thực sự của ông là tuyển tập truyện ngắn "Những Con Tàu Đi Ngược Chiều Nhau". Mùa hè năm 1932 Paustovsky bắt đầu cuốn "Kara-Bugaz" và một số truyện ngắn khác mà về sau này ông đã kể lại khá tỉ mỉ trong "Bông Hồng Vàng". Trong cuộc sống tự do khỏi công việc nhà nước Paustovsky còn đi nhiều hơn nữa. Dấu chân ông in khắp mọi miền đất nước xô-viết, từ bán đảo Konsky đến những sa mạc vùng Trung Á, từ các thành phố băng tuyết ở Cực Bắc đến những bờ biển ấm áp vùng Krym tới những miền rừng rậm rạp của Sibir. Ngoài ra, ông còn đến Tiệp Khắc, đi tàu biển vòng quanh châu Âu, qua các thành phố Istanbul, Athena, Napoli, Roma, Paris, Rotterdam, Stockholm... Trong đại chiến thế giới lần thứ hai, ông làm phóng viên chiến tranh của Mặt trận Nam và ở đó ông cũng đi rất nhiều. Đời ông, từ lúc còn nhỏ cho đến năm 1921, được ghi lại khá đầy đủ trong các cuốn truyện mang tính hồi ký "Những Năm Xa Xôi", "Tuổi Trẻ Không Yên", "Sự Bắt Đầu Của Thế Kỷ Ta Chưa Biết". Paustovsky nói rằng nhà văn cần phải biết tạo ra tiểu sử cho mình. Tức là, ông muốn nói, nhà văn cần phải chủ động ném mình vào trong những xoáy lốc của cuộc đời, để được sống nhiều, sống thật trong nó, tự mình tạo ra nguồn nguyên liệu dồi dào cho công việc viết văn sau này. Ông nhìn những nhà văn cạo giấy, những viên chức văn chương bằng cái nhìn khinh bỉ. Ông không chỉ viết nhiều, mà còn viết hay. Hiếm có nhà văn nào ở nước Nga được in toàn tập trong khi còn sống[2]. Paustovsky là nhà văn không biết hài lòng về mình. Ông luôn nói rằng những gì ông đã viết chỉ là bước đầu, chứ toàn bộ công việc thực sự thì bao giờ cũng vậy, còn ở phía trước. °°° Văn của Paustovsky, cũng như sự tiếp nhận cuộc đời ở trong ông, những suy ngẫm của ông, mang một sắc thái đặc biệt. Lần đầu đọc Paustovsky, trong cái đêm bão tuyết không ngừng gào thét, tung băng bụi ra khắp nơi và trùm lên tất cả, khi ngọn đèn đêm tỏa ánh sáng nhè nhẹ mơ hồ lên những trang giấy, trong cái thời gian mung lung làm cho con người dễ đi vào mình hơn cả, tôi cảm thấy cuộc sống vụt ngưng lại, nhưng bên cạnh nó lại hiện ra một cuộc sống khác, với đầy đủ đường nét, màu sắc, âm thanh và tình người. Cuộc sống ấy rõ nét đến nỗi ta có thể nhìn thấy, nghe thấy, cảm thấy tất cả những gì thuộc về nó. Nhưng đồng thời nó cũng mơ hồ, huyền ảo, như một cái gì không thực, không dễ có thực, nhưng nó làm ta tin ngay rằng nó thật sự hiện hữu, sung sướng để mà tin. Bởi vì những cái đó đúng là có thực, nhưng lại là những cái, tiếc thay, ta không thể thấy được dễ dàng. Có lẽ, tôi đã nói điều mâu thuẫn. Nhưng, thú thật, tôi không biết diễn tả thế nào những cảm giác mới sinh mỗi lần đọc Paustovsky. Nguyễn Khải nói với tôi về Paustovsky thế này: "Hình như Paustovsky thích thả sương mù vào truyện của ông ta. Cái đó làm người đọc nhiều lúc tưởng những điều ông ta nói giống như những giấc mơ, để rồi sau khi suy nghĩ kỹ, mới tin là chúng có thật, lúc đó họ mới phát hiện rằng mình đã lớn thêm một chút trong tâm hồn". Tôi thấy đó là một nhận xét xác đáng. Cái hư mà thực, thực mà hư trong Paustovsky là thế. Nói cách khác, trong văn ông thực hư lẫn lộn - trong thực có hư, trong hư có thực. Để làm được việc đó, nhà văn phải rất dày công nghiên cứu cuộc sống, nghiên cứu thật tỉ mỉ, đến chân tơ kẽ tóc, nhập tâm cuộc sống mà mình quan sát, rồi hòa mình vào nó, sống thực với nó. Đến khi ngồi vào bàn viết thì cuộc sống ấy đã thành của mình, còn hơn của mình nữa, vì nó được nghiên cứu, được suy ngẫm, để cuối cùng bật ra chỉ những đường nét chính, những màu sắc chính mà thôi. Đó là cuộc sống trong sự biểu đạt tiết kiệm, được đưa lên giấy chỉ những gì cần thiết nhất, tinh chất nhất, đẹp đẽ nhất. Cách biểu đạt này của Paustovsky giống phong cách làm việc của những họa sĩ Trung Hoa cổ trong trường phái quốc họa. Khác với bạn đồng nghiệp phương Tây, những họa sĩ quốc họa Trung Hoa không bao giờ làm phác thảo cho những bức tranh sẽ vẽ. Họ an nhiên sống trong đời, lặng lẽ quan sát nó, lặng lẽ thu nó vào lòng, nói cách khác, họ sống như mọi người, nhưng chăm chú quan sát cuộc sống đến mức thuộc lòng nó, chỉ đến lúc ấy họ mới nhả tinh chất của nó ra trên giấy trên lụa. Cuộc sống được biểu đạt theo cách ấy hiện ra ở những điểm tập trung nhất, dường như không còn lệ thuộc chủ đề. Những gì không cần thiết, những tạp chất, đều bị họ gạt bỏ không thương tiếc. Nhưng khoan, cũng không hẳn là thế. Bên cạnh những cái thuộc tinh chất ta lại bắt gặp những nét tưởng chừng chẳng có liên quan gì tới chủ đề, có vẻ như thừa. Nhưng thử bỏ những cái thừa ấy đi mà xem - tác phẩm sẽ mất đi vẻ đẹp mà ta đã được thấy. Tức là, chúng là những cái thừa cần thiết, những cái thừa có chọn lọc bằng vô thức, những cái thừa xét cho cùng là cố ý của tác giả. Thiếu những cái thừa đó văn hết là văn. Nó thành xác chết. Tôi sẽ không chứng minh điều này. Nó vô ích như khi ta cố chứng minh vẻ đẹp của một buổi bình minh chẳng hạn. Mà cũng đừng hoài công kể lại những truyện ngắn của Paustovsky. Chúng ta hãy thử nhớ lại "Chú Bé Chăn Bò", "Gió Biển", "Chuyến Xe Đêm", "Người Đầu Bếp Già"... Liệu có thể kể lại những câu chuyện trong những truyện ngắn đó không nhỉ? Có người đã kể, kể rất hay, nhưng nghe xong, tôi nghĩ rằng sự mất mát trong câu chuyện được kể lại có thể tính bằng số bách phân là 90 phần trăm. Paustovsky có thể từ một chi tiết rất nhỏ mà dựng thành một truyện ngắn. Nhưng qua truyện ngắn đó ta được biết không phải một người - nhân vật chính - mà nhiều người, và hơn thế nữa, dấu vết của cả một khoảng thời gian. Cái "hư" trong văn Paustovsky có một đặc tính được nhiều người nhận xét. Dường như ông khám phá được trong tâm hồn ông, và trong tâm hồn người nói chung, sự ưa thích bản năng những cái không bình thường. Cho nên nói về cái bình thường bằng con đường tìm kiếm, lựa chọn để rồi đưa ra cái có vẻ không bình thường lại là con đường ngắn nhất của sự biểu đạt cái đẹp. Nhưng nếu cái không bình thường ấy quá xa lạ với trí tưởng tượng của người đọc thì cũng hỏng, người đọc sẽ đẩy nó ra và người viết thế là hoài công. Cần phải chọn cái không bình thường bình dị, nghĩa là cái có thể có, có thể xảy ra, dường như người đọc có thể thấy nó, nhưng do vô tình đã đi lướt qua nó, đi lướt qua cái đẹp, một cách hững hờ, và giờ đây, khi được nhà văn chỉ cho thấy, mới biết ra để mà nuối tiếc. Khả năng nhìn thấy cái không bình thường trong cái bình thường ở trong ông làm nên nét độc đáo của văn ông. Paustovsky thú nhận rằng khả năng đó bắt nguồn từ tính chuộng lạ vốn có trong ông từ thuở thiếu thời. Ông thuật lại: "Thế giới sặc sỡ của những cái lạ chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng của tôi". "Môn học mà tôi thích nhất ở trường trung học là môn địa lý. Môn này khẳng định với tôi rằng trên trái đất có những xứ sở kỳ lạ. Tôi biết rằng cuộc sống nghèo nàn và vất vưởng của gia đình tôi hồi ấy không thể cho phép tôi nhìn thấy những xứ sở ấy. Mơ ước của tôi không thể thực hiện được. Nhưng không phải vì thế mà nó chết dần chết mòn đâu". "Tâm trạng tôi khi ấy có thể định nghĩa bằng hai từ: hào hứng và buồn rầu. Hào hứng trước cái thế giới mà mình tưởng tượng ra, buồn rầu vì không thể nhìn thấy nó. Hai cảm giác ấy chiếm thế thượng phong trong những vần thơ thuở thiếu thời của tôi và trong những tác phẩm văn xuôi đầu tiên còn non nớt của tôi". "Những năm tháng qua đi và dần dần tôi rời bỏ tính chuộng lạ, vẻ diêm dúa, hương vị làm ta mê mẩn, chất bốc của nó và thái độ dửng dưng đối với con người bình dị, không có gì đáng chú ý. Nhưng trong một thời gian dài, trong những truyện dài và truyện ngắn của tôi vẫn cứ còn rơi rớt những sợi chỉ mạ vàng của nó." Paustovsky kể rằng lần cắt đứt quyết liệt và cuối cùng với tính chuộng lạ ở trong ông xảy ra trong lần ông đi xem nhà chiếu hình vũ trụ Moskva. Cũng như mọi người, ông bị lóa mắt bởi sức sáng tạo của con người với những máy móc kỳ diệu đó. Ông ra về khi trời đã khuya. Một buổi tối tháng Mười với mùi lá rụng trên đường. Paustovsky ngẩng đầu lên. Ông bàng hoàng. Tưởng chừng ông được trông thấy,lần đầu tiên trong đời, một bầu trời thực sự - một bầu trời sống - với muôn vàn vì sao lấp lánh. "Và thế là tôi thấy tất cả những gì tôi viết từ trước tối hôm đó chỉ là giả tạo, hệt như cái nhà chiếu hình vũ trụ với những chòm sao giả của nó". Sau đêm đó, ông vội vã hủy đi một số truyện ngắn quá diêm dúa và giả tạo mà trước kia ông thích thú. Tuy nhiên, không phải cái gì khác, mà chính lòng ham mê cái lạ trong buổi thiếu thời đã dạy cho ông biết cách nhìn thấy những nét đẹp, và hơn nữa, những nét hoàn toàn không dễ thấy đối với người khác, trong những sự vật tầm thường. Những nét đẹp đó chúng ta gặp luôn luôn trong những tác phẩm của ông, hầu như trên mỗi trang giấy. Chúng làm nên cái thần thái đặc sắc của văn ông. Ngay ở trong những truyện dài "Những Kẻ Lãng Mạn", "Những Vầng Mây Lấp Lánh", mà ông than phiền rằng trong đó tính chuộng lạ còn để lại nhiều dấu vết, chúng ta vẫn thấy những nét đẹp nhờ lòng ham mê tính chuộng lạ mà có. Có lẽ cái hại của tính chuộng lạ chỉ ở chỗ nó dễ làm người viết ham cái bề ngoài hào nhoáng mà quên mất cái bề trong còn đẹp hơn rất nhiều của cuộc sống. Về vấn đề này Paustovsky viết: "Tôi cho rằng một trong những đặc tính thuộc sáng tác văn xuôi của tôi là cái thần thái lãng mạn của chúng"... "Cái đó, tất nhiên, là chất riêng của từng người. Đòi hỏi người nào cũng vậy, nhất là nhà văn, phải từ bỏ cái thần thái ấy là lố bịch. Chỉ có dốt nát mới đi đòi hỏi như thế"... "Cái thần thái lãng mạn không hề sống chung dưới một mái nhà với sự quan tâm cấp thiết đối với cuộc sống "thô thiển" và tình yêu đối với cuộc sống ấy. Trong hết thảy lĩnh vực của thực tại và hoạt động của con người, trừ một vài trường hợp ngoại lệ, bao giờ cũng sẵn có những hạt giống lãng mạn... Vì không nhận thấy những hạt giống ấy, người ta có thể giày xéo lên chúng, nhưng cũng có thể ngược lại, tạo điều kiện cho chúng nở rộ, cho chúng lấy mùa hoa của mình làm cho thế giới bên trong của con người đẹp thêm, cao thượng hơn ". Ông phải bộc bạch tâm sự mình như thế, ông phải lớn tiếng bảo vệ phong cách lãng mạn trong văn học như thế là để tự vệ, để chống trả sức mạnh của trào lưu thời thượng "hiện thực xã hội chủ nghĩa" muốn áp đặt phong cách của nó như là một phong cách duy nhất cho nền văn học xô-viết. Paustovsky không rời con đường riêng mà ông đã chọn. Ông cho rằng nó hoàn toàn không có gì trái ngược với con đường chung của các nhà văn của bất kỳ nước nào, bất kỳ thời đại nào, là hướng tới và vẫy gọi mọi người cùng nhau hướng tới Cái Đẹp[3]. Từ lâu Paustovsky đã có ý định viết một cuốn sách về nghề văn. Không phải một cuốn sách dạy viết văn, không phải thế, ông không có ý định dạy bảo ai, mà là một cuốn khảo cứu nghiêm túc nói về lao động đặc thù của những người cầm bút và vai trò của họ trong đời sống tinh thần của cộng đồng nhân loại. Trong bài "Thơ Của Văn Xuôi" đăng trong tạp chí "Ngọn Cờ" (Znamya) số ra tháng 9 năm 1953, ông viết rằng ý sáng tác một cuốn sách về nghề văn đã nảy ra trong ông ngay từ trước Thế chiến thứ hai. Ông đã bắt đầu, nhưng chiến tranh đã ngăn trở ông hoàn thành nó. Trong một thời gian hơn mười năm Paustovsky dạy nhiều khóa học văn xuôi tại Học viện văn học Gorky. Nhiều vấn đề có liên quan tới nghề văn và tâm lý sáng tác đã được đề cập. Vì các bài giảng của thầy, cũng như những lời phát biểu của trò, đều không được ghi lại, Paustovsky lấy làm tiếc, mới nảy ra ý tập hợp những tư liệu phong phú đó, bằng hình thức này hay hình thức khác, miễn sao chúng trở thành có ích cho những người viết văn, nhất là cho những người viết văn trẻ, và cho cả những ai yêu thích văn học. Mùa thu năm 1955, tại tỉnh Dubunty, một tỉnh nhỏ nằm bên bờ vịnh Riga, Paustovsky hoàn thành cuốn sách mà ông thai nghén từ lâu. "Bông Hồng Vàng" ra mắt bạn đọc lần đầu trong tạp chí "Tháng Mười"(Oktiabr). Trong bản dịch này, giống như trong nhiều bản dịch ở các nước khác mà tôi được biết ("Bông Hồng Vàng" đã được dịch ra nhiều thứ tiếng), tôi bỏ qua hai chương "Ngôn Ngữ Kim Cương" và "Những Cuốn Từ Điển". Tác giả dành hai chương này cho việc nghiên cứu những nét độc đáo của tiếng Nga liên quan tới sự thể hiện văn học, xem xét nhiều mặt ngữ nghĩa, các gốc từ, âm hưởng, tiết tấu... của văn ngôn tiếng Nga. Tôi rất tiếc những chương này, nhưng tôi nghĩ không có cách nào truyền đạt cái đẹp thuần khiết của từ ngữ thuộc một ngôn ngữ này bằng những phương tiện không tương thích của một ngôn ngữ khác. Nói chung, trong khi dịch cuốn sách, cảm giác đuối sức là cảm giác tôi thường gặp. Thậm chí ở một vài đoạn tôi cảm thấy hoàn toàn bất lực. Ai cũng biết rằng dịch nếu không phải là phản thì cũng là một cái gì mất mát so với nguyên bản. Trong "Bông Hồng Vàng", sự mất mát đó không phải là ít. Khi bản dịch hoàn tất, tôi mới hiểu rằng trong việc làm này của tôi chính tác giả đã giúp tôi rất nhiều. Bởi vì mỗi lần đọc đi đọc lại một đoạn văn khó, một hình ảnh đẹp được miêu tả một cách khác thường, cần phải tìm cách để truyền đạt cho tốt nhất, tôi lại phát hiện trong lòng mình một niềm vui, niềm vui này đã giúp tôi vượt qua những khó khăn. Bởi vì trong khi dịch "Bông Hồng Vàng", tôi hiểu thêm được rất nhiều cái lao động nặng nhọc nhưng cao quý và vi thế tuyệt đẹp của nghề văn (nếu có thể coi nó là một nghề). Tôi sẽ sung sướng nếu qua bản dịch này những ý nghĩ tốt lành của tác giả tới được với bạn đọc. Bởi vì, sau hết, tôi rất yêu Paustovsky. VŨ THƯ HIÊN Chú thích:[1] Người Nga, xuất thân từ các chiến binh chống lại các cuộc xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ và người Tartar, sống thành một cộng đồng lớn ở vùng Nam Nga, thường được gọi là cô-dăc (cosaques) trong các bản dịch từ tiếng Pháp. Phân biệt với người Kazakh, cư dân nước Kazkhstan [2] Hiện nay ở Moskva có một đường phố mang tên Konstantin Pautovsky. [3] “Lời Nói Đầu” này được in trong lần xuất bản thứ nhất của bản dịch “Bông Hồng Vàng”. Lần xuất bản thứ hai nó bị bỏ đi, liên quan đến việc tên người dịch bị cấm. Trong lần xuất bản này có một số sửa chữa nhỏ. Mời các bạn đón đọc Bông Hồng Vàng và Bình Minh Mưa của tác giả K. G. Paustovsky.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tử Tước Chẻ Đôi - Italo Calvino
Thuộc bộ ba tiểu thuyết “Tổ tiên của chúng ta”.  Sáu, bảy năm trời cho một bộ sách, giờ nhìn thấy nó được tạo hình hoàn chỉnh, thấy vui thì ít hơn là thấy oải. I nostri antenati (Tổ tiên của chúng ta) gồm Nam tước trên cây, Tử tước chẻ đôi và Hiệp sĩ không hiện hữu (thứ tự hơi lệch so với nguyên tác, ở đó Tử tước là tập trước của Nam tước). Quá trình hoàn thành bộ sách này trong tiếng Việt cũng đi cùng với một giai đoạn cực kỳ phức tạp của xuất bản và dịch thuật Việt Nam. *** Với gần hai trăm trang sách, Italo Calvino đã tạo dựng mọi giá trị về một câu chuyên mang đậm tính dụ ngôn của thời hiện đại. Tác phẩm mang vẻ đẹp ẩn tàng đằng sau mọi thứ triết lý về Thiện-Ác. Nó như một bể chứa thủy tinh trong suốt đẹp đến ức chế rồi vỡ tung thành từng mảnh ghép, ở đó sự “lưỡng cách” là những điều mở rộng của một cuộc chạy đua đưa linh hồn đến sự nhiệm màu. Một câu chuyện mang đậm hơi thở của cuộc sống và sự vĩnh cửu đơn giản chỉ là những đổi thay... “Tử tước chẻ đôi” được Italo Calvino lấy từ bối cảnh là cuộc chiến với quân Thổ Nhĩ Kỳ làm cuộc sống của tử tước Medardo bị phân đôi thành hai nửa khác nhau. Tác phẩm mở đầu từ những phân cách của số phận và chiến tranh, nó được viết bằng một thứ ngôn ngữ mang đậm vóc dáng của đời sống và lịch sử. Tác giả đã sử dụng một hàm lượng điển tích khi tạo dựng các bối cảnh của tác phẩm. Ông đã khéo léo kéo người đọc vào trong câu chữ của quyển sách bằng một thứ dụ ngôn về: Đời sống, Tình yêu, và các giá trị của Bản ngã. Các chi tiết trong “Tử Tước chẻ đôi” được Italo Calvino đẩy lên đến tận cùng của hiện thực: Hình ảnh của người lính trong đội quân Kitô cho đến tử tước Medardo, giây phút ấm cúng hiếm hoi “ở cái độ tuổi mà mỗi trải nghiệm mới, ngay cả chết chóc và vô nhân cũng đều phập phồng và nồng cháy tình yêu cuộc sống”. Từ Bác thợ cả ThạchĐầuĐinh “làm những giá treo cổ như một tuyệt tác” đến Bác sĩ Trelawney “đi tìm mai vỏ sinh vật biển hóa thạch” là các khái niệm bị đánh tráo, nó mang khoảng lùi lặng lẽ của đời sống; những tín đồ Huguenot “an tâm với thứ tôn giáo thầm kín của chính mình” đến ông cùi Galateo tạo nên sự chất chứa và lưu trữ của một “phúng dụ tự truyện về gia đình”. Từ tôi, nhân vật kể lại câu chuyện đến Esaù “những tội lỗi mà họ bảo tao chưa đủ lớn để hiểu”. Cặp đôi nhân vật này, được xem là trục xoay cho tất cả các nhân vật khác trong tác phẩm di chuyển, đối thoại, tồn tại và phát triển. Italo Calvino đã dệt nên chuyện tình yêu giữa: Cô gái chăn dê Pamela với tử tước Medadro. Nó óng ánh với tất cả những trạng thái: từ hẹn hò, đến rượt đuổi, cuối cùng là tranh đấu. Ý tưởng trong phân đoạn này mang Môtíp cũ: Hiệp sĩ và công chúa để “sáng tạo ra những phương thức mới sống bên nhau”. Nhưng cách viết của tác giả không vì vậy mà trượt theo một lối mòn quen thuộc, cũ kĩ. Tình yêu giữa tử tước Medadro và Pamela là sự đấu tranh giữa yêu thương và thù ghét, tính ích kỷ và lòng vị tha, sự độc ác và nét nhân từ hiền lành, khờ khạo. Sự tồn tại song song hai nửa của một con người, được tác giả cài đặt như một ám hiệu mà ở đó tính Thiện-Ác được tự bộc lộ những mặt mạnh và điểm yếu của nó. Lối viết của Italo Calvino đưa câu chuyện tới một kết cấu nhân bản: điều hoàn hảo thật sự là những giá trị xác nhập, nơi cái Thiện-Ác là một, tình yêu là một, đời sống là một. Mời các bạn đón đọc Tử Tước Chẻ Đôi của tác giả Italo Calvino.
Nam Tước Trên Cây - Italo Calvino
Thuộc bộ ba tiểu thuyết “Tổ tiên của chúng ta”, Nam tước trên cây lấy bối cảnh một vùng quê nước Ý thế kỷ XVIII.  Sáu, bảy năm trời cho một bộ sách, giờ nhìn thấy nó được tạo hình hoàn chỉnh, thấy vui thì ít hơn là thấy oải. I nostri antenati (Tổ tiên của chúng ta) gồm Nam tước trên cây, Tử tước chẻ đôi và Hiệp sĩ không hiện hữu (thứ tự hơi lệch so với nguyên tác, ở đó Tử tước là tập trước của Nam tước). Quá trình hoàn thành bộ sách này trong tiếng Việt cũng đi cùng với một giai đoạn cực kỳ phức tạp của xuất bản và dịch thuật Việt Nam. *** Tại xứ Bóng Râm, vị nam tước trẻ tuổi Cosimo ở độ tuổi lên mười quyết định chỉ sống trên cây không đặt chân xuống mặt đất, để phản đối gia đình. Quyết định này sẽ kéo dài suốt cả cuộc đời Cosimo. Ở trên cây, Cosimo học được cách sống trong thiên nhiên, trở thành một nhà bác học, vẫn giữ đầy đủ tính chất quý tộc của mình, và vẫn có những mối tình nồng nhiệt. Trải qua vô số biến cố lịch sử, Cosimo vẫn giữ được bản tính của mình, và nhất là không một lần nào rời khỏi các cành cây. *** “Một cậu bé trèo lên một ngọn cây, đu bám trên cành, chuyền từ cây này sang cây kia, quyết định không xuống nữa. Tác giả quyển truyện không làm gì khác hơn là khai triển hình ảnh giản dị này và đẩy nó đến một hệ quả tối cực: nhân vật sống cả đời trên cây, một cuộc đời không hề đơn điệu, thật vậy: sôi nổi phiêu lưu; không hề ẩn dật, song luôn duy trì một khoảng cách giữa mình và đồng loại: tối thiểu mà không thể vi phạm.” (Italo Calvino) “… Nam tước trên cây là tác phẩm của Italo Calvino mà tôi yêu thích hơn cả; với tôi, nó luôn là một văn bản đồng hành cùng mình theo dòng đời như một loại tuyên ngôn đạo đức và chính trị…” (Umberto Eco) “… Italo Calvino – qua những ngụ ngôn triết lý cũng như những chuyện kể tưởng tượng tuyệt vời của mình – đang bảo với chúng ta rằng luôn có một độc giả giả định, kẻ xét cho cùng, không chỉ đọc hôm nay mà còn sẽ đọc ngày mai…” (Carlos Fuentes) “… Tính tưởng tượng, tính ngụ ngôn, tính trò chơi, những tác phẩm của Italo Calvino, với tôi, dường như không bao giờ bỏ sót những gì là chân thực, những gì là giả tạo.” (Salman Rushdie)  Mời các bạn đón đọc Nam Tước Trên Cây của tác giả Italo Calvino.
Vũ Khí Bóng Đêm Tập 5: Linh Hồn Lạc - Cassandra Clare
Lilith bị tiêu diệt và Jace thoát khỏi tầm khống chế. Tuy nhiên khi các Thợ Săn Bóng Tối tới, họ chỉ thấy máu và những mảnh kính vỡ. Người mất tích không chỉ có cậu con trai Clary yêu, mà còn có người cô ghét: ông anh Sebastian, kẻ rắp tâm bắt toàn bộ Thợ Săn Bóng Tối quỳ gối dưới chân mình. Phép thuật của Clave không tìm được vị trí của hai cậu con trai, nhưng Jace không thể rời xa Clary. Khi họ gặp lại, Clary phát hiện ra điều kinh khủng do ma thuật của Lilith đem lại - Jace và Sebastian giờ bị ràng buộc với nhau, và Jace trở thành bầy tôi của quỷ dữ. Clave muốn diệt Sebastian, nhưng không có cách nào để chỉ giết một và chừa lại một… Chỉ vài người tin Jace còn cứu được. Cùng nhau, Alec, Magnus, Simon và Isabelle mặc cả với Nữ Hoàng Seelie xảo quyệt, thử thỏa thuận với quỷ và cuối cùng, nhờ tới hội Nữ Tu Sắt - những người phụ nữ không có lòng thương, chuyên rèn vũ khí cho Nephilim - mong họ có thể tạo ra thứ gì đó cắt đứt liên hệ giữa Sebastian và Jace. Nếu Nữ Tu Sắt không thể giúp, hi vọng cuối cùng của họ là thách thức Thiên Đàng và Địa Ngục - mà điều đó chẳng khác nào lấy mạng sống của họ ra đánh cược. Và họ phải làm tất cả mà không có Clary. Vì Clary đang đơn độc chơi một canh bạc nguy hiểm. Cái giá cô phải trả nếu thua không chỉ là mạng mình, mà còn có linh hồn của Jace. Cô sẵn lòng làm tất cả vì Jace, nhưng cô có thể tin anh không? Hay Jace thật sự đã biến mất? Liệu cái giá đó có quá cao, kể cả để đánh đổi lấy tình yêu? Tình yêu. Máu. Phản bội. Trả thù. Bóng tối đe dọa sẽ bao trùm toàn bộ giới Thợ Săn Bóng Tối trong tập truyện thứ năm đầy những vương vấn đau thương của loạt tiểu thuyết Vũ Khí Bóng Đêm. Mời các bạn đón đọc Vũ Khí Bóng Đêm Tập 5: Linh Hồn Lạc của tác giả Cassandra Clare.
Vị Hạt Táo
Bí ẩn, nên thơ và lôi cuốn - ba từ mới hình dung về văn học Đức qua Vị Hạt Táo. Triết lý, khô khan và ảm đạm - đó là những từ thường được dùng để miêu tả nền văn học Đức. Song với Vị Hạt Táo, cuốn tiểu thuyết đầy sức hút của Katharina Hagena, người đọc có thể quên đi ấn tượng ấy. Như tựa sách, hương táo và vị táo vấn vít lấy câu chuyện về ba thế hệ nữ nhân trong một gia đình: không nồng gắt nhưng ám ảnh. Mỗi cá nhân là một thế giới nội tại mờ biệt, khó lí giải, chính vì vậy khiến ngôi nhà cũng mang vẻ u ẩn. Sau khi Bertha - bà ngoại qua đời, nhân vật xưng Tôi về lại ngôi nhà của gia đình mà nay cô được thừa kế. Từng bước khám phá điền sản này là từng bước bóc tách quá khứ lèn xếp những bí mật và nỗi đau gắn với những thế hệ trước, hoặc người đã khuất. Tôi muốn gọi lại dòng kí ức đang trườn ra khỏi vùng nhớ, để chí ít không bị đẩy xa thêm khỏi gia đình; ngược lại, kí ức cũng vẫy Tôi bằng đôi cánh miên màng của nó. Bà ngoại Bertha hiện lên trong mối quan hệ với chị gái bà - bà Anna, với ông ngoại hay ông giáo già Lexow; mẹ Tôi cùng các dì được khắc họa thông qua những suy nghĩ, xúc cảm dành cho nhau; tới lượt Tôi, một cách vô tình, tự bộc lộ mình trên nền mối liên kết với những người phụ nữ trong gia đình và bè bạn thuở ấu thơ. Tựu lại, mỗi số phận không được kể riêng mà chăng cài tạo nên lớp lang cho câu chuyện, độc giả dõi theo một nhân vật cũng là dõi theo nhiều nhân vật khác. Dĩ nhiên, bên cạnh ba thế hệ phụ nữ, cây táo xứng được coi là một “nhân vật” - nó cũng quan sát, lắng nghe, lên tiếng, nếu ta lưu tâm đến thứ hương vị đan mắc khắp tiểu thuyết. Cây táo biểu hiện căng nét nữ-tính trong lối viết của Katharina, sự nữ tính ngay cả khi tác giả mô tả cái u ám lịch sử như dòng chữ về Đức quốc xã do ai đó lén khắc lên chuồng gà nhà Tôi. Thật khó chỉ ra cho hết chất nữ tính ấy (việc lựa chọn các nhân vật nữ chỉ là điểm ban đầu), liệu có thể nói Vị Hạt Táo mang một sức nặng rất tinh nhẹ và mềm mại, sự quyết liệt lại ẩn sau vẻ lãng đãng, thậm chí nỗi đau cũng tới thật từ tốn. Katharina viết về nỗi đau nên thơ vô ngần, đồng thời có những đoạn điểm xuyết nét hóm hỉnh “đắt giá”. Nắm bắt tròn vẹn tinh thần Vị Hạt Táo ấy, thể hiện hầu như nguyên chất tính-nữ ấy (công việc vốn dĩ được chờ đợi nhiều hơn ở một nữ dịch giả), dịch giả Lê Quang, dù là một dịch giả hàng đầu của văn học Đức, vẫn gây bất ngờ với bản chuyển ngữ của ông. Và cuối cùng, sự đọc là dành cho độc giả. Không thể đoán trước những cảm xúc mà Vị Hạt Táo mang đến, song có thể dám chắc họ sẽ muốn nhớ câu chuyện mở đầu bằng lãng quên này. *** Tiểu thuyết "Vị hạt táo" của nữ nhà văn người Đức Katharina Hagena do dịch giả Lê Quang chuyển ngữ, được NXB Phụ nữ ấn hành vào quý II-2016, là bức tranh hồi tưởng về quá khứ của một gia đình ẩn giấu nhiều bí mật. Ở đó, bạn đọc cảm nhận được hương vị của tình yêu, tình cảm gia đình và cả nỗi ám ảnh. Cái chết của bà ngoại ngẫu nhiên là nguyên cớ cho quá trình tìm hiểu, làm hồi sinh miền ký ức trong người cháu gái được thừa kế căn nhà. Với tài sản thừa kế cũ kỹ, có giá trị không lớn ấy, cô gái đã nghĩ rằng mình sẽ không ở lại nơi này. Nhưng rồi, có điều gì đó đã khơi gợi, níu kéo cô trong những buổi sáng đầu tiên ở trong ngôi nhà ấy với tư cách là một người chủ mới, nó khiến cô nghĩ đến việc mở dần những cánh cửa quá khứ... Rồi, câu chuyện xưa được chắp nối, có khi thông qua những đồ vật còn lại trong nhà và ngày hôm qua của những người thân bỗng hiện lên, sống động lạ thường. Theo mạch tình cảm ấy, kỷ niệm về những năm tháng ấu thơ ùa về. Quá đỗi xúc động, cô gái đã quyết định ở lại căn nhà cũ và tìm thấy hạnh phúc trong không gian đầy ắp kỷ niệm. Không gợi liên tưởng về những chuyển rung lớn của thời cuộc, không có khủng hoảng, biến cố, mưu toan, câu chuyện của các nhân vật diễn ra chủ yếu trên những con đường nhỏ, bên hồ nước ven rừng, trong khu vườn bao quanh ngôi nhà đã là nơi dung thân của vài thế hệ. Những người, vật, việc được nhắc đến, quá đỗi đời thường. Nhưng sự thu hẹp không gian và cái cách bình thường hóa mọi thứ ấy hóa ra lại là tấm màn ngụy trang, là xuất phát điểm cho những trang viết giàu tính bất ngờ, cuốn hút người đọc với cách truyền tải tinh tế về xúc cảm và đời sống nội tâm phức tạp của các nhân vật.  Cô cháu gái ở trong ngôi nhà thừa kế, ngày nọ bỗng được biết người dì của mình có thể không phải là con của ông, bà ngoại như cô thường nghĩ. Đó có thể là kết quả của một cuộc tình "chớp nhoáng" chưa hẳn đã xuất phát bởi tình yêu. Xúc cảm đưa cô chủ mới trở lại những ngày tháng xa xôi, dõi theo mối tình mà bà ngoại và người chị gái yểu mệnh cùng dành cho một thầy giáo trẻ mới được nhận về dạy ở địa phương. Tình yêu thoắt hiện thoắt ẩn, như dấu nhấn vào ba thế hệ phụ nữ của một dòng họ. Những rung động ở tuổi vị thành niên, những thấp thỏm, lo lắng, sợ hãi nhưng đầy háo hức và nỗi niềm dâng hiến...  Tác giả truyền tải nội dung câu chuyện bằng khả năng miêu tả tỉ mỉ, tinh tế. Đồng thời, với cách dẫn giải tưởng như chuyên chú vào hiện thực, nữ nhà văn đã tạo dấu nối hiện thực và dĩ vãng một cách tự nhiên, như thể một ý nghĩ vụt đến. Cuộc trở lại với quá vãng càng cho cô gái thấy rõ hơn chân dung của những người thân yêu. Hóa ra, không phải điều gì cũng như ta tưởng, mà mỗi hồ sơ của một con người có thể ẩn chứa nhiều điều phức tạp. Ta hiểu điều đó để thấy yêu thương họ hơn, cho đời sống hôm nay thêm hương vị tình yêu, thêm xúc cảm.  Một câu chuyện đầy yêu thương, vỗ về ký ức. Có cả nỗi hoang mang, hoảng sợ và sự cằn cỗi khi ký ức bị đánh mất. Câu chuyện gia đình nhỏ, nhưng dường như phản chiếu cả ý thức hệ thời kỳ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Có nhiều điều để soi chiếu và cũng có thể liên tưởng để nghĩ về chính quá khứ của mình, gia đình mình qua cuốn tiểu thuyết này.   Katharina Hagena sinh năm 1967, là nữ nhà văn người Đức. Tiểu thuyết "Vị hạt táo" được đánh giá là cuốn sách tạo sự đột phá trong văn nghiệp của bà. Tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Một số bài báo quốc tế dành cho tác phẩm sự đánh giá cao: "Hagena viết theo lối văn xuôi giàu chất thơ, mang tới một màu sắc cổ tích cho câu chuyện Gothic về những dối gạt và bí mật gia đình", "Mọi từ ngữ đều tải nặng ký ức", "Không lạ khi cuốn tiểu thuyết saga (tiểu thuyết về dòng họ) đầy mê hoặc này nằm trong danh sách bestseller của Đức suốt 2 năm liền"... Lưu Nguyễn - hanoimoi.com.vn Mời các bạn đón đọc Vị Hạt Táo của tác giả Katharina Hagena & Lê Quang (dịch).