Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chết ở Venice - Thomas Mann

Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Eun-Kyo Bởi Vì Đau Nên Mới Là Yêu - Park Bum Shin
Dựng nên một câu chuyện yêu đương lạ lùng để khai phá vấn đề dục vọng trong mỗi con người, tác giả Park Bum Shin bày tỏ ông sáng tácEun-Kyo [Bởi vì đau nên mới là yêu] trong trạng thái không bình thường: "Tôi quá điên cuồng, cuốn tiểu thuyết này chỉ viết trong một tháng, như một trận cuồng phong... Dường như tôi ngồi một mình trong cái động đen tối nào đó của vũ trụ. Những lời lẽ trong nội tâm đẩy hành trình của tôi tiến đến phía trước một cách tàn bạo". Nội dung tác phẩm xoay quanh nhà thơ Lee Joek-yo, một người luôn theo chủ nghĩa "diệt dục", nên 70 tuổi ông vẫn chưa có một tình yêu đích thực. Khi được ngắm nhìn cô gái 17 tuổi Eun-Kyo trẻ trung, mong manh, hồn nhiên đang say ngủ trên chiếc ghế dựa dưới ánh nắng chói lòa xen lẫn vết lốm đốm của bóng râm tán lá tùng trước hiên, nhà thơ già thấy huyết quản trong mình bỗng chảy rần rật. Thứ tình cảm khác lạ ấy bùng cháy, thiêu đốt cơ thể và tâm hồn một người chưa từng nếm trải vị ngọt của tình yêu trai gái đích thực. Nhưng cô gái đã qua lại với Seo Ji-woo - cậu học trò của nhà thơ. *** Nút thắt của câu chuyện xảy ra khi nhà thơ phát hiện cậu học trò yêu quý đã trộm tác phẩm của mình đăng báo. Trước đó hai thầy trò gửi tác phẩm dự thi và đạt giải thưởng khá cao. Tác phẩm do nhà thơ sáng tác, còn danh nghĩa đạt giải đứng tên cậu học trò. Nhờ tác phẩm mà cậu học trò trở nên nổi tiếng, nhưng mối quan hệ hai thầy trò dần xấu đi. Giữa họ nảy sinh sự khinh thường và dè chừng nhau. Trong đêm sinh nhật lần thứ 70, nhà thơ phát hiện Seo Ji-woo đã ngủ với Eun-Kyo ngay tại nhà mình. Ông chỉ nghĩ cậu học trò đã hủy hoại một "đồng trinh", chứ đó không phải là tình yêu. Kế hoạch trả thù được vạch ra và cái chết của cậu học trò khép lại tấn bi kịch của mối tình tay ba ấy.  Lee Joek-yo bị dày vò bởi ông tưởng mình là người đã giết học trò. Nhà thơ sống những ngày còn lại của cuộc đời trong sự buông thả với men rượu. Cái chết đó hóa ra chỉ là sự ngẫu nhiên. Trước khi qua đời, Seo Ji-woo đã hiểu lý do mình bị đào thải triệt để khỏi trái tim và cuộc sống của thầy mình. Đó mới là lý do giết chết cậu. Xuyên suốt tác phẩm là khát khao trở lại tuổi thanh xuân của Lee Joek-yo. Nhà thơ già muốn được trở lại làm một người bình thường để được yêu đương cuồng nhiệt, chăn gối mặn nồng với người mình yêu. Câu chuyện kể dưới dạng "Bút ký của thi nhân", mỗi một chương truyện là một phần bút ký, khiến người đọc đồng cảm với nhân vật, như nhói lòng với nỗi đau, tâm sự của nhà thơ 70 tuổi. Các nhân vật trong sách là những nhà thơ, nên cả cuốn tiểu thuyết tràn ngập những thi tứ, các bài thơ, hoặc trích dẫn thơ của các thi hào nổi tiếng thế giới.  Tác giả Park Bum Shin là nhà văn nổi tiếng, cố vấn văn hóa phủ tổng thống, là chủ nhân nhiều giải thưởng văn học uy tín Hàn Quốc. Tác phẩm của ông mỗi lần xuất hiện đầu nhận được sự hưởng ứng từ độc giả, gây ra những tranh luận về giá trị. Bên cạnh Eun-kyo [Bởi vì đau nên mới là yêu], Park Bum Shin có một số tác phẩm nổi tiếng như Đống đổ nát của ngày hè, Giấc ngủ còn sâu hơn cái chết, Bông tuyết trên Kilimanjaro. Điểm đặc sắc trong tác phẩm của ông là phơi bày những mâu thuẫn xã hội trong tiến trình hiện đại hóa, khai thác những dục vọng trần trụi nhất nơi thẳm sâu con người.  Mời các bạn đón đọc Eun-Kyo Bởi Vì Đau Nên Mới Là Yêu của tác giả Park Bum Shin.
Chuyện Despereaux - Kate DiCamillo
Ngày xửa ngày xưa, trong những bức tường của một lâu đài nọ có một chú chuột tên là Despereaux hay Nỗi thất vọng đã ra đời. Chú nhỏ bé một cách buồn cười trong khi tai thì to đến kỳ dị, và ngay từ lúc mới sinh ra, hai mắt chú mở thao láo thay vì nhắm chặt run rẩy như họ nhà chuột vốn thế. Càng lớn, Despereaux càng có nhiều nét khác biệt với anh chị em, thay vì mải mê kiếm vụn bánh, Despereaux bé nhỏ lại đam mê âm nhạc và thơ ca, thay vì lẩn lút vội vàng, Despereaux mơ mộng lại thích thơ thẩn dưới những ô kính màu để tắm mình trong ánh sáng, và thay vì an phận làm một chàng chuột nhắt bình thường, Despereaux đa tình lại đem lòng yêu một nàng- công- chúa-người tên là Hạt Đậu. Tình yêu mãnh liệt ấy được khơi gợi bằng những trang truyện cổ tích, dẫn dắt bằng âm nhạc, bắt đầu bằng cái chạm nhẹ dịu dàng và trải qua một hành trình đầy thử thách, một hành trình cần tới lòng dũng cảm vô song của một chàng hiệp sỹ thực thụ và món súp chứ danh của bếp trưởng lâu đài để cứu thoát công chúa thoát khỏi bóng tối tù ngục. Lối kể chuyện duyên dáng, những chi tiết hài hước và ý tứ sâu sắc được đan dệt khéo léo đã tạo nên một trong những câu chuyện hấp dẫn nhất của người kể chuyện Kate DiCamillo. Chuyện Despereaux trước hết là một lễ hội hóa trang đầy màu sắc với những nhân vật lạ lùng như hiệp sỹ chuột tí hon, nàng công chúa hiện thân của ánh sáng, nhà vua mít ướt, Mig heo nái với cái tai kỳ dị, con chuột cống Chiaroscuro có tấm vải đỏ và cái thìa súp bằng vàng nghễu nghện trên đầu. Trong lễ hội hóa trang ấy, các nhân vật được chia làm hai tuyến với cuộc phân tranh không ngừng nghỉ giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái thiện và cái ác. Một chút hoài niệm về những câu truyện cổ của anh em nhà Grimms, thoáng liên tưởng tới Nhắt Steward, cách kể chuyện đối thoại cùng độc giả, thật nhiều những chi tiết buồn cười và không thiếu những đoạn “triết luận kiểu Kate” như thế này “Có những trái tim, thưa độc giả, không bao giờ lành lại được một khi chúng đã vỡ. Hoặc nếu có lành, chúng lại tự gắn theo một cách cong queo lệch lạc, như thể được khâu lại bởi một thợ thủ công vụng về vậy. Đó cũng chính là số phận của Chiaroscuro. Trái tim của nó đã tan vỡ. Nhặt chiếc thìa và đội lên đầu mình, nói về chuyện trả thù, những điều đó giúp nó gắn trái tim mình lại. Nhưng, than ôi, nó lại bị gắn nhầm.”… *** Một sự thể hiện tuyệt đỉnh” - The New York Times “Thú vị, đầy khích lệ và trên hết, vô cùng buồn cười.” - School Library Journal “Tác giả Because of Winn-Dixie và The Tiger Rising trong cuốn truyện này đã làm một cuộc chuyển biến - bà thể hiện sự linh hoạt đồng thời một lần nữa chứng minh thiên tài trong việc khai thác những chủ đề phổ biến của tuổi thơ.” - Publishers Weekly   Mời các bạn đón đọc  Chuyện Despereaux của tác giả  Kate DiCamillo.
Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda
Tác giả của “Chuyện con mèo dạy hải âu bay" trở lại với độc giả Việt Nam bằng tác phẩm mới nhất về chú ốc sên có tên "Dũng Khí". Ngày xửa ngày xưa, mà thực ra là vào một thời điểm nào đó, tại một nơi nào đó trên Trái đất được gọi là Quê hương Bồ Công Anh, có một bầy ốc sên. Chúng vốn vẫn sống một cuộc đời chậm chạp, lặng lẽ, và chỉ gọi nhau đơn giản là “sên”, cho tới khi một con trong số chúng nghĩ rằng thật bất công khi không có một cái tên riêng và nhất là nó muốn biết được lý do tại sao loài sên lại chậm chạp đến thế. Bỏ ngoài tai mọi lời chế giễu của những đồng loại đã quá quen với cuộc sống chậm chạp và lặng lẽ vốn có, kẻ “nổi loạn” quyết chí rời xa gia trang ô rô, lên đường kiếm tìm cho mình một cái tên riêng cùng lời giải đáp cho thắc mắc bấy lâu. Trên hành trình ấy, nó gặp một bác rùa già, người đã đặt cho nó cái tên “Dũng Khí” và chỉ cho nó thấy tận mắt một hiểm họa lớn đối với mọi loài sinh vật của đồng cỏ: con người! Chú ốc sên nhỏ quyết định quay về báo tin cho đồng loại, cùng với đó là cả nhà kiến, bọ hung, và chuột chũi… mà nó gặp trên đường.  Mượn câu chuyện về loài vật, cuốn sách mới của Luis Sepulveda với tựa đề Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp dành cho mọi lứa tuổi. Mỗi người đọc ở mỗi thời điểm sẽ có góc nhìn khác nhau về câu chuyện chú sên “Dũng Khí”. Với giọng kể trong sáng, nhẹ nhàng, Luis Sepúlveda mở ra trước mắt chúng ta một thế giới thiên nhiên gần gũi, sinh động, ẩn chứa một câu chuyện ngụ ngôn mang triết lý sâu xa về cuộc sống, về bản chất mỗi loài, lòng dũng cảm, khát vọng và nhu cầu khẳng định cái tôi.  Ý tưởng cuốn sách ra đời từ gợi ý rất nhỏ trong cuộc sống của tác giả khi cậu cháu trai hỏi: “Ông ơi, vì sao con ốc sên lại chậm chạp như vậy?” Và thế là hành trình giản dị nhưng ý nghĩa của chú ốc sên “Dũng Khí” bắt đầu… Mời các bạn đón đọc Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp của tác giả Luis Sepúlveda.
Nếu Đời Anh Vắng Em - Guillaume Musso
Gabrielle, 33 tuổi.Cuộc đời cô chỉ có hai người đàn ông.Một là cha và một là mối tình đầu của cô.Số phận đã đẩy cả hai rời xa cô.Rồi rất nhiều năm sau…Hai người đàn ông bất ngờ trở lại,Cùng một ngày, cùng một nơi,Một tên trộm khét tiếng và một cảnh sát chiến tích lẫy lừng,Họ truy lùng nhau và cả hai đều quyết tâm tiêu diệt người còn lại.Gabrielle phải lựa chọn. Nhưng…Từ những mái nhà cổ kính của Paris hoa lệ đến ánh nắng chan hòa trên bờ biển San Francisco.Một mối tình ám ảnh suốt cuộc đời.Một câu chuyện có sức mê hoặc, đầy kịch tính và cũng không thiếu những diệu kỳ. Tác giả Guillaume Musso là nhà văn trẻ người Pháp, sinh năm 1974 tại Antibes, trị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh lại theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, “Skidamarink”, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được những tín hiệu tốt từ giới phê bình. Và tác phẩm thứ hai “Rồi sau đó” (2004) đã đưa tên tuổi Musso đến với công chúng và dần trở thành cái tên ấn tượng của của văn học lãng mạn đương đại nước Pháp. Các tác phẩm của Musso được nhiều độc giả yêu mến và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.“Nếu đời anh vắng em?” (2009) là tiểu thuyết thứ sáu của Musso được xuất bản tại Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Nếu Đời Anh Vắng Em của tác giả Guillaume Musso.