Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Martin Eden - Jack London

Martin Eden đề cập đến số phận của một văn nghệ sĩ trong xã hội tư sản, số phận của một con người nhằm rút khỏi cái thế giới chật hẹp của những lợi ích riêng tư. Martin xuất thân là một thủy thủ, Martin đã lý tưởng hóa cái "xã hội thượng lưu", nơi anh cảm thấy dường như có "sự hào hiệp của tâm hồn, những tư tưởng trong sạch và cao thượng, cuộc sống tinh thần khẩn trương…" Trải qua bao nhiêu thiếu thốn, vấp phải những khó khăn gian khổ không kể xiết trên đường đời, cuối cùng, anh đã đạt được vinh quang và giàu có, trở thanh một nha văn nổi tiếng. Nhưng càng gần gũi "thế giới thượng lưu" bao nhiêu anh càng cảm thấy cô đơn bấy nhiêu. Martin càng nhận thấy bộ mặt giả dối của nó. Con đường đời của Martin là cả một chuỗi vỡ mộng cay đắng và cuối cùng đã đẩy anh tới chỗ tự tử. Ngay từ khi còn là một thủy thủ bình thường, Martin đã thấy là kiến thức chân chính dường như chỉ có thể tìm thấy trong "xã hội thượng lưu". Cái vẻ học thức và tinh tế trong gia đình người chủ nhà băng Morse mà lần đầu tiên anh bước chân vào đã làm anh như mê đi. Nhưng anh càng say mê hơn đối với Ruth cô con gái nhà Morse – anh tưởng thấy tất cả sự trong trắng và cái đẹp tinh thần của cô. Nhưng rồi chẳng bao lâu sau, anh đã nhận thấy cái vẻ đẹp bên ngoài của những con người này chứa đựng cái ích kỷ, sự buôn bán bẩn thỉu và sự trống rỗng tinh thần. Trước đây, trong thời gian ngắn, anh đã nhìn vào cái xã hội bạn bè nhà Morse một cách thành kính, giờ đây anh thấy họ là những kẻ nhỏ nhen với những tư tưởng nhỏ nhen, té ra cái nền học vấn thực sự của nhà Morse, của bạn hữu và những người quen biết họ chỉ là một nền học vấn mù quáng. Martin Eden là một nghệ sĩ hiện thực chân chính đã nhìn thấy giá trị của nghệ thuật trước tiên là ở tính chân thật của nó. Trong những truyện ngắn của mình, Martin đã vạch trần khuynh hướng sợ sự thực và tô hồng cuộc sống. Nhưng nghệ thuật hiện thực chân chính thù địch với cái xã hội anh đang sống. Trong cái thế giới của đồng tiền, Martin không thể tìm được sự đồng cảm và ủng hộ. Một viễn cảnh đen tối của cái đói rét vẫn chờ đợi con người nghệ sĩ như thế. Và càng xa lánh giai cấp mình, Martin càng cảm thấy một nỗi cô đơn ghê gớm. Anh đã thấy là trong cái xã hội anh đang sống, nghệ thuật không tùy thuộc ở giá trị chân chính của nó mà là ở tên tuổi của nhà văn. Martin đã nói một cách đúng đắn rằng thành công của anh một phần cũng là do tình cờ. Anh không đánh giá quá cao sự nổi tiếng của mình. Sợi dây cuối cùng nối Martin với xã hội thượng lưu là tình yêu của anh với Ruth. Tình cảm cao quý này đã thúc đẩy anh, khiến anh có được sức mạnh sáng tạo. Nhưng sự vỡ mộng của anh càng thêm khủng khiếp khi anh hiểu rằng ngay cả Ruth cũng chỉ là một cô gái nhà giàu tầm thường với những quan điểm hẹp hòi và nhỏ nhen. Cô không thể vượt khỏi cái vòng đai của giai cấp, cô không hiểu nổi Martin, không cảm thông với nguyện vọng sáng tác của anh, xa lánh anh trong khi anh cần sự khuyến khích của cô hơn bao giờ hết. Cô quay lại làm lành với anh khi anh đã trở thành một nhà văn nổi tiếng. Nhưng Martin lại không thể làm lành với cô, cũng như anh không thể làm lành với xã hội thương lưu đã đánh lừa mọi hy vọng của anh. Anh đã hiểu sâu sắc một chân lý: những quan hệ chân chính chỉ có thể tìm thấy trong những người lao động như Lizzie Collonny, Maria Silva và rất nhiều bạn cũ cùng giai cấp anh. Họ không quan tâm tới vinh quang và sự giàu có, họ đánh giá anh trước hết là đánh giá con người anh. Martin hiểu rất rõ sự chịu đựng đau khổ của người lao động và hết sức cảm thông với họ. Chính anh cũng đã sống trong tình cảnh đó và không thể không cảm thấy sự lung lay của lập trường Nietzsche của anh. Cuối cùng, Martin đã vỡ mộng với triết học Nietzsche, nhưng anh không tìm thấy con đường đến với người cùng giai cấp, Martin thấy mình là một người xa lạ trong cái thế giới thượng lưu đầy những giả dối và lọc lừa nhưng anh lại không thể quay về với những người trong giai cấp anh. Cuộc đời của một nhà văn có tài kết thúc bi thảm: chết trong vòng vây của xã hội, và vẫn còn hoang mang trong sự tìm kiếm về triết học và lẽ sống của mình. Tiểu thuyết Martin Eden kết thúc bằng cái chết của nhân vật chính. *** Đề mục câu chuyện gã vừa nêu ra, nàng liền bắt ngay, nói thao thao, dễ dàng. Gã thấy dễ chịu hơn, khe khẽ ngồi lùi vào trong mép ghế, hai tay nắm chắc lấy thành ghế, như bộ nó có thể tuột đi hất gã xuống sàn. Gã đã làm được cho nàng nói theo lối nói của nàng, và trong khi nàng nói thao thao, gã cố gắng theo dõi, kinh ngạc sao cái đầu nhỏ xinh thế kia lại chứa đựng được biết bao vẻ đẹp thanh tao của khuôn mặt nàng. Gã đã theo dõi nàng mặc dù bị lúng túng vì những ngôn từ không quen thuộc vẫn nhẹ nhàng thoát ra từ đôi môi nàng, vì những lời phê bình và phương pháp tư tưởng xa lạ đối với gã nhưng nó vẫn kích thích và làm trí óc gã rung động. Đây là đời sống tinh thần, gã nghĩ, đây là cái đẹp ấm áp, kỳ diệu, gã chưa bao giờ mơ tới cuộc đời có thể như vậy. Gã quên cả mình, nhìn nàng bằng con mắt khao khát. Đây là một cái gì vì nó mà sống, mà chiến thắng, mà đấu tranh, phải, vì nó mà chết nữa. Sách nói đúng. Trên đời này có những người đàn bà như thế. Nàng là một. Nàng chắp thêm cánh cho trí tưởng tượng của gã, những bức họa rộng lớn, sáng ngời trải ra trước mặt gã, trên đó hiện lên những nhân vật mờ ảo, to lớn của yêu thương, của lãng mạn và của những hành động anh hùng vì một người đàn bà - vì một người đàn bà thanh thanh, một đóa kim hoa. Và qua ảo ảnh rung rinh, bập bồng như một mộng cảnh thần tiên, gã chăm chú nhìn người đàn bà thực kia, ngồi đó bàn luận về văn chương, nghệ thuật. Gã cũng có nghe thấy, nhưng mắt vẫn nhìn chằm chằm, không biết rằng mình nhìn chăm chú quá, không biết rằng tất cả những cái gì thực là đàn ông trong bản chất của gã đang ánh lên trong mắt gã. Nhưng nàng, vốn là một phụ nữ ít biết tới cái thế giới đàn ông, đã nhận thấy rất tinh đôi mắt bốc lửa của gã. Chưa bao giờ có người đàn ông nào nhìn nàng như thế và nó làm nàng lúng túng. Nàng vấp váp rồi lắng yên không nói. Dòng tư tưởng trôi đi mất. Gã đã làm nàng sợ, nhưng đồng thời nàng cũng cảm thấy thích thú một cách lạ kỳ khi được ngắm nhìn như vậy. Là một con người có giáo dục, nàng biết rằng đây là một điều nguy hiểm, một điều sai trái tế nhị, bí hiểm, quyến rũ, trong khi bản năng của nàng lại rung vang trong cơ thể như tiếng kèn thúc giục nàng gạt bỏ đi cả giai tầng, cả địa vị để gần gũi người lữ khách từ một thế giới khác tới đây, người thanh niên vụng về này với đôi bàn tay đầy sẹo, cổ đỏ hằn vì chiếc cổ áo cứng mặc chưa quen, người thanh niên mà, không còn nghi ngờ gì nữa, cuộc sống thô tục đã làm cho nhơ nhớp, hôi tanh. Nàng là con người trong trắng và bản chất trong trắng nàng phản ứng lại, nhưng nàng cũng còn là đàn bà, và nàng bắt đầu thấy tất cả sự mâu thuẫn của một người đàn bà. "Như tôi đã nói... mà tôi đang nói gì ấy nhỉ?" Nàng đột ngột dừng lại và cười vui vẻ vì sự lúng túng của mình. "Cô nói là cái gã Swinburne không trở nên một nhà thơ lớn được và, thưa cô, cô vừa nói đến đấy... " Gã nhắc, rồi chợt thấy như đói cồn; và một niềm rung cảm nhẹ nhàng dâng tỏa nơi xương sống gã khi nghe tiếng nàng cười. "Như bạc," gã nghĩ bụng, "như tiếng chuông bạc rung nhẹ" và ngay lúc ấy, trong giây lát, gã như được mang đi tới một miền xa, nơi đấy, dưới những bông anh đào nở rộ, gã ngồi hút thuốc, lắng nghe tiếng chuông từ một tháp chùa cao gọi tín đồ đi hái rơm về cầu nguyện. "Đúng thế, cảm ơn ông," nàng nói. "Xét cho cùng, Swinburne thất bại là bởi vì, phải, vì ông ta thiếu tế nhị. Có nhiều bài thơ của ông ấy không bao giờ nên đọc. Mỗi dòng thơ của những nhà thơ thực sự vĩ đại phải mang một chân lý đẹp, phải kêu gọi tất cả những gì là tao nhã trong con người. Không một dòng thơ nào của những nhà thơ lớn có thể bỏ qua, mà không vì thế cuộc đời này nghèo nàn đi một chút." "Tôi nghĩ," gã ngập ngừng nói, "những cái tôi vừa đọc thật là tuyệt. Tôi không hề biết ông ấy lại là một - một tên đểu cáng - Tôi nghĩ những cái đó chắc là ở trong những cuốn khác của ông ta." "Ngay trong cuốn ông vừa đọc, có nhiều câu có thể bỏ đi được," nàng nói, giọng kiên quyết khẳng định. "Hẳn là tôi đã bỏ qua những câu ấy. Những đoạn tôi đọc thực là hay. Nó bừng lên, rạng ngời, rọi vào tâm hồn tôi và tỏa sáng trong tôi như ánh mặt trời hay ánh đèn pha. Nó nhập vào tôi như vậy đấy, nhưng thưa cô, tôi đâu có phải là nhà phê bình thơ." Gã ngừng lời. Gã bối rối, đau khổ thấy mình không nói nên lời. Gã cảm thấy cái vĩ đại, ánh hào quang của cuộc sống trong những vần thơ gã đọc, những lời gã nói ra không thỏa đáng. Gã không thể nào diễn tả được những điều gã cảm thấy; trong thâm tâm, gã tự ví mình như một thủy thủ trên con tàu lạ, một đêm tối trời, mò mẫm trong mớ dây buồm trơn tuột không quen thuộc. Được, gã quả quyết, làm quen với cái thế giới mới này là tùy gã thôi. Xưa nay chưa có điều gì gã đã muốn mà lại không đạt được; bây giờ là lúc gã muốn học nói những điều ở trong đầu óc gã sao cho nàng có thể hiểu được. Nàng đã choán ngợp trên chân trời của gã. "Bây giờ đến Longfellow 7 ," nàng nói. "Vâng, tôi đã đọc ông ta," gã hấp tấp ngắt lời nàng, trong lòng như có gì thôi thúc, muốn phô bày tất cả kho tàng tri thức sách vở nhỏ bé của mình, muốn tỏ cho nàng rõ, gã không phải hoàn toàn là một thằng đần ngốc. ""Bài ca cuộc sống", "Vươn lên mãi" và... tôi nghĩ tất cả có thế!" Nàng gật đầu và mỉm cười. Gã cảm thấy nụ cười của nàng có vẻ rộng lượng, thương hại mà tha thứ. Gã định khoe khoang theo kiểu đó thì thật là một thằng ngốc. Cái anh chàng Longfellow này chắc hẳn phải sáng tác cơ man nào là tác phẩm thơ. "Xin cô tha thứ, tôi đã nói liều như vậy. Tôi nghĩ thực ra thì tôi chẳng biết gì nhiều về những chuyện đó. Nó không phải là loại chuyện của tôi, nhưng rồi đây tôi sẽ làm cho nó là loại chuyện của tôi." Câu nói vang lên như một lời đe dọa. Giọng gã quả quyết, mắt gã lóe sáng lên, đường nét trên mặt đanh lại. Nàng thấy hình như quai hàm của gã đã đổi khác, nó bạnh ra, vẻ khiêu khích một cách khó chịu. Đồng thời một làn sóng mãnh liệt mang tất cả sức cường mạnh của giới đàn ông dường như trào ra từ con người gã, đổ ào tới xâm chiếm cơ thể nàng. "Tôi nghĩ rằng ông có thể sẽ làm nó thuộc loại chuyện của ông được lắm chứ. Ông có sức mạnh rất tốt." Nàng chấm dứt câu nói bằng một tiếng cười. Ánh mắt nàng ngừng lại trong giây lát trên cái cổ nổi bắp thịt cuồn cuộn như dây chão, như cổ bò tót, nâu sẫm vì ánh mặt trời, tràn trề sức sống và sức mạnh thô bạo - và mặc dầu, gã ngồi kia, vẻ thẹn thùng, nhún nhường, nàng vẫn cảm thấy bị gã lôi cuốn. Nàng ngạc nhiên vì một ý nghĩ không lành mạnh đã xô đến trong đầu. Nàng thầm nghĩ, giá mà đôi tay nàng có thể đặt lên trên cái cổ kia, để cho tất cả sức mạnh và sự cường tráng của nó trào ra, thấm vào nàng. Nàng cảm thấy ngây ngất vì ý nghĩ đó. Nó dường như đã hé lộ cho nàng rõ sự đe dọa không ngờ tới trong bản chất của nàng. Hơn nữa, đối với nàng, sức mạnh vốn là một cái gì trần tục và thô bạo. Vẻ đẹp đàn ông lý tưởng của nàng bao giờ cũng là vẻ thanh tao duyên dáng. Tuy nhiên, ý nghĩ kia vẫn cứ đeo đuổi. Nàng ngạc nhiên hết sức sao mình lại muốn đặt bàn tay lên cái cổ rám nắng kia. Thực ra, nàng đâu phải là một người khỏe mạnh. Nhưng nàng đã không biết điều đó. Nàng chỉ biết từ trước đến giờ, chưa một người đàn ông nào làm nàng rung động như anh chàng này - cái anh chàng đã làm cho nàng lúc lúc lại phải choáng váng với kiểu ngữ pháp khủng khiếp của y. "Đúng, tôi không phải là một người tàn tật," gã nói. "Những lúc túng quẫn thì ăn sắt cũng tiêu. Nhưng lúc này tôi cứ như bị chứng khó tiêu. Hầu hết những điều cô nói tôi không thể tiêu hóa nổi. Tôi chưa hề được đào luyện theo lối đó, hẳn cô cũng biết. Tôi vẫn thích sách, thích thơ, có thì giờ là đọc nhưng chẳng bao giờ nghĩ về những cái đó theo lối nghĩ của cô. Vì thế, tôi không thể nói những chuyện đó được. Tôi giống như một nhà hàng hải trên một vùng biển lạ, không hải đồ, không địa bàn. Bây giờ tôi muốn xác định phương hướng và vị trí của mình. Có thể là cô cho tôi vài lời khuyên nhủ. Cô làm thế nào mà học được tất cả những điều cô vừa nói nhỉ?" "Tôi nghĩ là bằng cách đến trường và học tập thôi," nàng trả lời. "Hồi còn bé tôi cũng đã đi học," gã cãi lại. "Vâng, nhưng tôi muốn nói đến trường trung học, và nghe những bài giảng ở trường đại học kia." "Cô đã học ở trường đại học?" Gã hỏi, vẻ ngạc nhiên rất thành thực. Gã cảm thấy nàng bỗng trở nên xa cách hơn nữa, ít nhất có đến hàng vạn dặm. "Hiện tôi đương theo học ở đó. Tôi theo những khóa học đặc biệt về tiếng Anh." Gã không hiểu "khoa tiếng Anh" là gì, nhưng gã nhẩm thầm nhớ lấy tên cái môn mà mình dốt và nói qua chuyện khác. "Thế liệu tôi phải học mất bao lâu thì mới vào được đại học?" Gã hỏi. Nàng mừng rỡ khuyến khích lòng ham học của gã và nói: "Đấy là còn tùy xem ông đã học được đến đâu. Ông chưa qua trường trung học phải không? Chắc hẳn là không rồi. Nhưng ông học hết tiểu học rồi chứ?" "Còn hai năm nữa mới hết khi tôi thôi học," gã trả lời. "Nhưng khi còn học bao giờ tôi cũng được xếp hạng cao." Liền ngay đó, gã tự giận mình vì đã khoe khoang, gã nắm chặt lấy tay ghế, điên cuồng đến nỗi đầu ngón tay đau nhói. Đúng lúc ấy gã nhận thấy một người đàn bà bước vào phòng. Gã thấy nàng đứng dậy và nhẹ lướt qua sàn đón người mới tới. Họ hôn nhau, tay quàng lừng nhau tiến về phía gã. Gã nghĩ, chắc đây là mẹ nàng. Bà ta người cao, thân hình thon thả, mái tóc nâu, vẻ đẹp đường bệ. Chiếc áo dài của bà đúng là, gã nghĩ, chỉ có được trong một tòa nhà như thế này. Gã thích thú ngắm nhìn những nếp đẹp của chiếc áo. Bà và chiếc áo của bà nhắc gã nhớ tới những người đàn bà trên sân khấu. Rồi gã nhớ lại đã từng trông thấy những người đàn bà quý phái với những chiếc áo dài tương tự bước vào các rạp hát ở London, gã đứng ngắm và bị những tên cảnh sát đẩy ra ngoài hàng hiên, dưới làn mưa bụi. Rồi trí óc gã lại gợi tới Đại khách sạn ở Iokohama, nơi đây, từ bên kia hè đường, gã cũng đã nhìn thấy các bà quý phái. Rồi thành phố và bến cảng Iokohama, trong muôn vàn hình ảnh hiện lên loang loáng trước mắt gã. Nhưng gã vội xóa đi cái ống kính vạn hoa thu hình của ký ức ấy bởi gã đang bị thôi thúc vì sự khẩn thiết của hiện tại. Gã biết mình phải đứng dậy để được giới thiệu, gã chật vật đứng lên, ống quần phình ra nơi đầu gối, cánh tay buông thõng lố bịch, mặt căng thẳng, đứng chờ sự thử thách sắp tới. ... Mời các bạn đón đọc Martin Eden của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hòn Đất
Review Hồng Khánh: “Hòn Đất” là một khúc nhạc kiêu dũng và bi tráng về miền quê hồn hậu và anh hùng trong thời kỳ thương đau của đất nước những năm kháng chiến chống Mỹ - Nguỵ. Đọc “Hòn Đất”, tôi đã mê mải lạc về nơi hang Hòn nơi 17 người du kích đã anh dũng, kiên cường chiến đấu và bám trụ, nơi những khóm ấp ấm áp ngập tràn tình yêu thương. Ở nơi ấy, họ sống, họ yêu thương và sát cánh bên nhau dẫu chết chẳng chia lìa. Nước mắt tôi ướt đầm trang giấy nhỏ bởi sự hi sinh lớn lao, bởi tình yêu nồng nàn thấm từng con chữ. “Chị Sứ yêu Hòn Đất bằng tình yêu hầu như là máu thịt” Chị “yêu biết bao nhiêu cái chốn này, nơi chị oa oa cất tiếng khóc đầu tiên, nơi quả ngọt trái sai đã thắm hồng da dẻ chị”. Và chị, cũng như tất cả người con của Hòn Đất đã chiến đấu tới cùng vì một tình yêu sâu nặng như thế. Dù kẻ thù có mạnh đến đâu, có bạo tàn đến đâu chúng cũng không khuất phục được, không dập tắt được ngọn lửa rừng rực cháy trong mỗi người dân Hòn Đất, trong má Sáu, Út Quyên, anh Ba Rèn, Cà Mỵ, Ngạn hay San... Điều tôi yêu thích nhất ở Hòn Đất là cách viết đầy nhân đạo với những người phụ nữ nơi đây. Tất cả đều sáng trong và đẹp đẽ: tấm lòng của người mẹ, người bà, người chị, người vợ hay người yêu đều lấp lánh như sao trời và dịu êm như ánh trăng đổ tràn bên bờ suối, tắm đẫm áng tóc mây của chị Sứ. Chị Sứ, người con ưu tú của Hòn Đất yên giấc trong lòng đất mẹ, nhưng tinh thần chiến đấu, tình yêu của chị vang vọng và tỏa lan đến từng nhành cây ngọn cỏ của Hòn Đất, cũng là nguyên nhân của biết bao sự kiện khiến lính Cộng Hoà run sợ mà đỉnh điểm là cái chết của thằng Xăm - kẻ trực tiếp xuống tay tàn độc với chị Sứ, cũng là hung thần của Hòn Đất. Chiến tranh, lúc nào cũng đau thương và khốc liệt, nhưng cảnh nồi da nấu thịt luôn khiến người ta đau đớn gấp vạn lần. Và người phụ nữ khiến tôi xót thương hơn cả chính là bà Cà Xợi - mẹ thằng Xăm. Ai cũng qua một thời tuổi trẻ, bà già gàn dở Cà Xợi xưa kia là người con gái đẹp Khơ Me xinh đẹp, uyển chuyển, dịu dàng nhất vùng. Chả thế mà bà bị ép lấy tên chủ Mưu độc địa và sinh ra thằng Xăm. Dẫu hắn giống cha, ảnh hưởng của cha mà trở nên ác ôn, dẫu cô Cà Xợi bị đuổi đi khi bụng mang dạ chửa đứa con thứ 2, dẫu bà Cà Xợi - người chịu ơn cứu tử, cưu mang của mẹ con chị Sứ- đã nhiều lần van xin dân làng đừng coi hắn là con bà thì sự thật cũng chẳng thể nào thay đổi. Dù thuộc lòng vị trí từng mô đất, viên đá, bà vẫn ngã dúi dụi trên con đường quen thuộc khi hay tin thằng Xăm chuẩn bị về càn, bà ngất lên ngất xuống khi thấy vệt máu nơi khoé miệng hắn, khi hắn vừa ăn xong 1 buồng gan Việt Cộng và trở nên ngây dại từ đó. Đúng là “Cho dù ở Hòn Đất hay là ở trên khắp thế gian, người mẹ nào mà chẳng có nỗi đau khổ của riêng mình, nhưng thật cũng ít có người mẹ nào lại có nỗi đau như bà Cà Xợi”. Bà không dám nhìn bà con chòm xóm, những người mở rộng vòng tay và lòng bao dung với mẹ con bà, bà không dám đối diện với bà Sáu trong tang lễ chị Sứ, bà ngất lịm trước di vật của chị... Nỗi đau cứ lần lượt xếp chồng lên, trĩu nặng trái tim bà. Có người mẹ nào không yêu thương con hơn chính bản thân mình, có người mẹ nào không muốn con sống một cuộc đời thật tốt đẹp. Thế nhưng bà Cà Xợi đã không dưới một lần ước đứa con mình chết đi. Cái hình ảnh bà cầm con dao đứng bên cạnh thằng con say giấc sau bữa cơm rượu mẹ nấu là một hình ảnh đầy bi thương và ám ảnh. Nếu như Anh Đức để bà tự tay kết liễu cuộc đời hắn - như một bà mẹ Liên Xô nào đó đã làm, có lẽ tính tuyên truyền của tác phẩm sẽ vang dội hơn. Nhưng tác giả đã nhân đạo, đã không để bà mẹ Việt Nam lòng đầy yêu và hận làm việc đó. Cũng chính vì điều này, mà tôi thấy tác phẩm đẹp đẽ, trọn vẹn và nhân văn hơn rất nhiều. Cuốn sách, dẫu đây đó vẫn còn những hạt sạn ở tính Logic trong một vài tình tiết (lí do tên chủ Mưu đuổi bà Cà Xợi khi bà mang trong mình giọt máu của hắn chưa thật thỏa đáng, khói chẳng lùa vào hang, mùa khô mà xuất hiện mưa rào, bà Cà Xợi dễ dàng tìm ra 2 người du kích đầy đủ vũ trang...) thì “Hòn Đất” vẫn là một tác phẩm thật đẹp, rực rỡ như bông hoa Sứ thắm tươi - tên người con gái huyền thoại của Hòn Đất. *** Review Kẻ Lang Thang:   Không có cuộc chiến tranh nào là không ác liệt, nhưng khủng khiếp nhất, có lẽ, là nội chiến. Hòn Đất nói về một thời kỳ như thế, khi những người lính Việt Nam, dù là Việt Nam Cộng hoà hay Việt Nam Dân chủ cộng hoà, buộc phải giương súng bắn vào chính đồng bào của mình. Bằng giọng văn truyền cảm, nhà văn Anh Đức đã đưa người đọc tham gia vào một trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất-Kiên Giang tháng 1 năm 1962. Đắm mình vào tác phẩm, khó ai có thể nén nổi xúc động trước những bi kịch và sự thảm khốc của chiến trường miền Nam giai đoạn 1960-1965. Khi việc tiếp cận với kho tri thức khổng lồ của nhân loại là quá dễ dàng như hiện nay, thiết nghĩ, đôi khi cũng nên dừng lại để đọc một tác phẩm văn học Việt Nam như thế này, để cảm nhận, dù chỉ một phần nhỏ sự dữ dội của chiến tranh và trên hết, để trân trọng hoà bình của Tổ quốc.   Nắng sớm đẫm chiếu người Sứ. Qua đây để thấy đó rất tốt ! Ánh nắng chiếu vào đôi mắt chị, tắm rợp mái tóc, phủ đầy đôi bờ vai tròn trịa của chị. Cuộc đời thật khốn nạn với tôi. Có những lúc, bỏ lỡ hiện tại, vĩnh viễn không còn cơ hội nữa.. Đó quả là một lựa sáng suốt.”. Cứ nghĩ là dễ dàng.. Cảm thấy bất lực khi không thể làm được.Đọc tiếp Đã lâu rồi mới có 1 cuốn sách làm mình vừa đọc vừa khóc như thế này. Khóc vì cảm phục tinh thần quyết tử của các anh du kích, khóc vì thương cho số phận của người dân trong thời chiến tranh loạn lạc, đặc biệt là khóc cho số phận của người phụ nữ Việt Nam, như mẹ Sáu, chị Sứ, Út Quyên, Cà Mỵ, Năm Nhớ, Thím Ba… những người phụ nữ thân yếu tay mềm nhưng tinh thần vô cùng bất khuất, thà chết chứ không bao giờ đầu hàng. Càng đọc truyện lại càng thấm tội ác tột cùng của tụi Mỹ-Diệm. Nó uống máu đồng bào ta, mỏ ruột moi bụng, cưỡng hiếp phụ nữ… Thật sự mình đã khóc khi chị Sứ và Đạt hi sinh, khi mẹ Sáu đau khổ vì mất con và khi trận chiến kết thúc, mọi người lại được đoàn tụ. Thật sự thì đây là cuốn truyện vô cùng cảm động và rất đáng để đọc, ngoại trừ 2 điểm mình không hài lòng lắm. Thứ nhất là bìa quá mềm và dễ rách. Thứ 2 là tác giả nên thay thế những từ như “tôi, tụi tôi” thành ” tui, tụi tui”. Vì nếu đã viết theo phong cách miền Nam thì nên thống nhất kiểu xưng hô. Còn không nên gọi là “chúng tôi”, mỗi lần đọc “tụi tôi” nghe hơi buồn cười. *** Tôi bắt đầu viết tiểu thuyết "Hòn Đất" tại Hội Văn Nghệ Giải Phóng miền Nam đóng giữa những cánh rừng già thuộc Đông Nam Bộ vào cuối năm 1964. Sang đầu năm 1965 thì tôi viết xong. "Hòn Đất" gởi ra Hà Nội và Nhà xuất bản Văn Học xuất bản đầu tiên năm 1966, đồng thời ở miền Nam tác phẩm này cùng với tập truyện và bút ký "Bức thư Cà Mau" của tôi được tặng giải chính thức giải thưởng Nguyễn Đình Chiểu. Tính đến nay, "Hòn Đất" ra mắt bạn đọc đã trên ba mươi năm và được tái bản tới lần thứ tám. Sách cũng đã được dịch và xuất bản nhiều thứ tiếng: Anh, Pháp, Espéranto, Tây Ban Nha, Nga, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản... Ngày viết "Hòn Đất" tôi còn rất trẻ, mới hăm chín. Câu chuyện Hòn Đất là một câu chuyện về một trận đánh trong hàng ngàn trận đánh xảy ra trên chiến trường miền Nam trong giai đoạn sau đồng khởi, Mỹ tiến hành chiến tranh đặc biệt. Cuộc chống cự diễn ra trong hang Hòn Đất và ngoài xóm, trong thế chênh lệch: bên ta có mười mấy người bị vây trong hang với vũ khí thô sơ, cũ kỹ, còn phía Mỹ - ngụy gồm tới gần hai ngàn quân với vũ khí tối tân. Vì sao tôi đã chọn trận đánh có thật xảy ra tại Hòn Đất - Kiên Giang vào cuối 1962 đó để viết thành một tiểu thuyết có cùng tên với địa danh ấy? Trước hết là do bản thân câu chuyện tựa như là cả miền Nam chiến đấu được thu nhỏ, có tính tiêu biểu - có khả năng từ cái tiêu biểu mà khái quát hóa, thể hiện ở các mặt: tinh thần quân dân đoàn kết chiến đấu bất khuất dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, vận dụng phối hợp ba mũi giáp công, lực lượng đôi bên chênh lệch, và điều quan trọng hơn cả là viết ra câu chuyện này như gióng lên tiếng chuông báo trước: chiến tranh đặc biệt nói riêng và chiến tranh xâm lược nói chung bất kể dưới hình thức nào do Mỹ tiến hành sẽ thất bại. Ngoài ra, về mặt dựng truyện, một yếu tố khiến tôi tin tưởng là ngay từ trong chuyện đã xuất hiện một người con gái, đã sống và đã chết như một nữ anh hùng. Đó là chị Phan Thị Ràng, mà trong tiểu thuyết tôi đặt tên là Sứ. Việc có được và hình thành vun đắp ra được một nhân vật phụ nữ như thế, từ lâu trong đời viết của tôi luôn là niềm khao khát muốn khắc họa, và đó là sự quen thuộc, gần gũi như trước kia tôi đã từng khắc họa chị Tư Hậu trong "Một chuyện chép ở bệnh viện". Bởi lẽ đó, "Hòn Đất" là một tiểu thuyết viết về một cuộc chiến đấu mà cũng là một tiểu thuyết về một đời người con gái. Tôi đã rút ra từ nhiều mẫu người con gái miền Nam anh hùng bất khuất trung hậu đảm đang để đúc lại thành một người. Đó là chị Sứ. Trong hơn ba mươi năm, tôi rất sung sướng về một chị Sứ trong Hòn Đất do tôi xây dựng nên từ một nguyên mẫu, đã trở thành nhân vật văn học đến cùng bạn đọc gần xa. Tôi hy vọng hình tượng chị Sứ sẽ sống lâu trong lòng bạn đọc, qua các thế hệ, nhất là đối với các em gái nhỏ sắp lớn lên thành những người con gái trên xứ sở xanh tươi yên bình của chúng ta hôm nay - đất nước đã thấm biết bao máu của những người cô người dì mình như Sứ. Giờ đây Hòn Đất vẫn còn đó. Trên đường đi từ Rạch Giá lên Hà Tiên, các bạn sẽ nhìn thấy trái núi xanh rì ấy mé tay trái, sát kề bên biển. Cách hang Hòn không xa là ngôi mộ chị Ràng, tức chị Sứ. Câu chuyện chiến đấu ác liệt ngày nào ở Hòn Đất đã qua lâu, nhưng chị Sứ vẫn còn. ở đó, bên vịnh biển Tây Tổ quốc ngày đêm sóng vỗ. 30 - 4 - 1998 Anh Đức Mời các bạn đón đọc Hòn Đất của tác giả Anh Đức.
Hồ Ly Háo Sắc
Giới thiệu: – Sách xuất bản: “Phụng thiên thừa vận, Hoàng đế chiếu viết. Lệnh cho Nhị Công chúa Tô quốc đến Nam triều địch quốc giết Thái tử Tần Liễm.” “Giết Thái tử, giết thế nào???” Tô Hi mờ mịt hỏi. “Nhị Công chúa người dáng dấp không tệ, cầm kỳ thi họa cũng thông, có thể lợi dụng mỹ mạo…” Tô Hi thuận lợi gả cho Thái tử Nam triều Tần Liễm, vốn tưởng rằng có thể giả heo ăn thịt hổ, ai ngờ Tần Liễm phúc hắc như một con hồ ly xảo quyệt, áp chế và phản kháng, đùa bỡn và bị đùa bỡn… Tại đông cung sắc xuân dạt dào, mỗi ngày đều diễn ra tiết mục heo bị hồ ly ăn, Tô Hi à Tô Hi, lần này hoàn toàn trốn không thoát, chỉ đành chờ hoa lê thấm hạt mưa cầu xin tha thứ thôi! Nhưng quân cờ tóm lại vẫn là quân cờ, sẽ có ngày bị vứt bỏ. “Tần Liễm, nếu có một ngày ta rời xa chàng, chàng sẽ làm sao?” Tần Liễm bình tĩnh nói: “Thiên hạ đều là của ta, nàng có thể đi đâu? Đi rồi bắt trở lại, càng bắt nạt thậm tệ hơn.” – Tấn Giang: Ta vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng, ta sẽ thích Tần Liễm. Nhưng mà, đến lúc ta thích hắn, lại cũng là lúc ta phải rời khỏi hắn. Tỷ tỷ Tô Tư từng nói, nếu muội không muốn khổ sở vì một người, biện pháp đầu tiên là quên, biện pháp thứ hai là chết trước hắn. Nói tóm lại, đây là một câu chuyện mỹ nhân giả heo ăn thịt hổ. GHI CHÚ: Tác giả bảo HE, còn lại tuỳ vào cách nhìn độc giả  *** Thật ra REVIEW đã viết đc hơn phân nửa, nhưng cuối cùng lại ko đăng vì hình như nó… spoil gần hết truyện.Vì truyện ko phải giật gân kịch tính gì nên thôi, cũng ko nhất thiết phải nói nhiều, vì 2 cái văn án trên đã nói rõ hết rồi. Tính ra thì mình rất kén truyện viết ngôi 1, vì thường những truyện này mình rất khó nắm bắt diễn biến tâm lý nam chính. Hơn nữa mình ít khi edit truyện hài, vì mình rất sợ… hài nhảm. Rất nhiều bộ ngôn tình tràn lan bây giờ đều hài theo kiểu vớ vẩn, chỉ nghe tên là mình đã muốn drop chứ đừng nói là đọc. Nhưng sau khi vòng vèo mấy hồi thì mình cũng quyết định edit bộ này, vì nhiều lý do sau đây. - Nam chính – Tần Liễm là 1 con đại hồ ly, vô cùng phúc hắc, nữ chính ko có cơ hội phản kháng. Nữ chính – Tô Hi tuyệt đối ko phải tiểu bạch, nhưng lớn lên trong 1 hoàn cảnh ko đc sáng sủa mấy thì bản tình bị chèn ép cũng đc tạo nên. Vì sao ko đc sáng sủa, là vì bên cạnh cô nàng trước khi gặp nam chính còn có 1 con đại hồ ly khác. Cuộc đời nữ chính có thể tóm gọn như sau: Con mồi ko tự sinh ra cũng ko tự mất đi, nó chỉ chuyền từ tay con hồ ly này sang con hồ ly khác. - Thường khi đọc truyện, có 1 loại nam phụ mà nam chính luôn phải dè chừng, cái loại nam phụ này thường ko xơ múi đc gì, nhưng lại có sức đe dọa ko hề nhỏ với nam chính, là ai? Anh trai nữ chính – Tô Khải, con hồ ly còn lại. Thật ra trong bộ này, ng` đc lòng dân tình nhất ko phải nam chính, mà chính là Tô Khải. Bao nhiêu năm sống dưới sự chèn ép của ông anh này, tiền đồ nữ chính có thể nói là hoàn toàn ko còn hy vọng Mình dạo thử 1 vòng trên Tấn Giang, rất nhiều độc giả đã kêu gào tác giả vì sao ko viết… huynh muội luyến?  Hoặc là viết hẳn 1 bộ cho anh chàng này. Nói chung là #team_Tô_Khải hơi đông & hùng hậu. Chàng ta đáng yêu thế nào ư? Xin mời theo dõi truyện để biết thêm chi tiết lxhtouxiao_thumb Đặc biệt đừng bỏ lỡ những màn đấu khẩu “mạt cưa mướp đắng” của anh vợ – Tô Khải & em rể – Tần Liễm. - Về nội dung thì từ văn án có thể hình dung đc rồi Tuy rằng đây là truyện hài, nhưng vẫn có những đoạn u ám nặng nề do gánh nặng giang sơn. Với Tần Liễm và Tô Hi, ai trong 2 người họ yêu đối phương trước thì sẽ thua cuộc. Đứng trước chữ tình và chữ quốc, cả 2 đều chọn lối đi khác nhau cho mình. Có người đáng trách, có người đáng thương, nhưng số phận bọn họ sinh ra đã thế. Cả 2 đều là người lớn lên trong gia đình bậc đế vương, trước sau đều ko thể vẹn toàn. Như tác giả bảo HE, thì các bạn cứ có niềm tin là HE. Trọn vẹn hay ko sẽ tùy vào cách nhìn của độc giả. Nhưng nếu bạn là độc giả thân quen với những bộ edit trước của mình thì có thể lờ mờ suy đoán đc phong cách kết thúc mình khoái (vì khoái nên mới edit, nhể? ) Có 1 câu trong văn án thế này: “Tỷ tỷ Tô Tư từng nói, nếu muội không muốn khổ sở vì một người, biện pháp đầu tiên là quên, biện pháp thứ hai là chết trước hắn.” Nói để cho các bạn độc giả chuẩn bị tinh thần trước. Đây chính là hướng đi của truyện, đi hướng nào, truyện sẽ từ từ giải đáp. gza_thumb - Cá nhân mình đánh giá cao truyện này vì cách tác giả xây dựng mối quan hệ huyết thống trong tuyện. Trong truyện này, thật ra chẳng có nhân vật phụ nào đáng ghét cả. Dù cả 2 bên chiến tuyến đều là những người sinh ra trong gia đình đế vương, đều có những quyết định thân bất do kỷ nhưng nam chính có dàn anh trai rất dễ thương. Và nữ chính thì có 1 ông anh trai & 1 bà chị biến thái chả kém (2 người này có cách thương em gái út rất… dị, làm anh nam chính trầy trật lên xuống mấy bận heia_thumb, đặc biệt là ông anh, trấn lột đàn áp em gái thế chứ có thằng khác nhảy vào cuỗm đi là xù lông ngay. - 1 vài vấn đề ngoài lề: Bộ này có 1 mẩu truyện ngắn nhỏ đã đc đăng trên DĐLQĐ, có thể tóm gọn sự lưu manh vô sỉ của bạn Tần Liễm. Và còn chuyện anh ấy sạch hay ko, e hèm, nói thật là bình thường mình chả quan tâm vấn đề này, vì truyện mình edit chưa anh nào sạch cả & bạn Tần Liễm này là ngoại lệ đầu tiên. Mình chỉ đang cứu vớt hình tượng của anh ấy thôi, vì dự báo #Team_Tô_Khải sẽ rất hùng hậu. P/S: Vì truyện viết theo giọng hài, cho nên những đoạn tưởng chừng như bi kịch lại ko hề thấy buồn, mà có 1 chút cảm giác thanh thản Vì đc viết đan xen quá khứ & hiện tại nên nhiều đoạn hơi khó nắm bắt, nhưng nhìn chung mạch truyện thế với mình là ổn. Tác giả sáng tác bộ này từ 2011, đăng dần trên mạng đến tận 2014 (xuất bản vào tháng 5.2014), bìa truyện khá dễ thương nên cũng ko nặng nề quá đâu. Mời các bạn đón đọc Hồ Ly Háo Sắc của tác giả Chiết Hỏa Nhất Hạ.
Người Trong Đêm Hè
Người Trong Đêm Hè là cuốn tiểu thuyết đã góp phần đưa giải Nobel Văn học năm 1939 về cho Frans Emil Sillanpää và về cho đất nước Phần Lan. Chính Sillanpää đã gọi "đứa con tinh thần" này là "chuỗi thơ mang tính tự sự" bởi sự đan kết tự nhiên giữa bốn mươi tám văn khúc tả cảnh, đối thoại, độc thoại, có lúc đầy kịch tính, khi lại man mác, nên thơ. Tuy là một tác phẩm ngắn trong địa hạt tiểu thuyết, Người trong đêm hè vẫn dựng được tuyến nhân vật phong phú và sinh động. Trước hết, Sillanpää dành nhiều trang viết cho những phụ nữ ở miền quê: cô thiếu nữ Helka đang trải qua quãng đời thanh xuân yên bình; còn hai người vợ - Hilja và Santra - mỗi người đối diện với một hoàn cảnh, đeo nặng một tâm tư. Song hành cùng các nhân vật nữ, dĩ nhiên, là bóng hình những người đàn ông: chàng sinh viên Arvid hào hoa (bạn trai Helka); anh nông dân Jalmari ngu ngơ, vụng về (chồng Hilja); Jukka - người chồng thờ ơ của Santra. Họ cùng xuất hiện trên nền bối cảnh điền trang, một không gian tưởng chừng đơn sơ, yên ả song lại làm nảy lên bức tranh nội tâm sâu kín, đa chiều. *** Frans Sillanpää sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo, thuộc xứ đạo Hämeenkyrö. Cuộc sống vất vả khiến bố mẹ ông chỉ có thể nuôi ông ăn học trong 5 năm đầu tại trường trung học Tampere, 3 năm sau đó ông phải tự kiếm tiền để học tiếp. Năm 1908, ông đỗ vào Đại học Helsinki, ngành sinh vật học, với số điểm loại ưu. Nhưng chỉ theo học được một thời gian ngắn, ông đã phải bỏ, về nhà mở cửa hàng văn phòng phẩm kiếm sống. Ở nhà, ông bắt đầu viết truyện và ngay từ truyện ngắn đầu tiên, ông đã được tổng biên tập một tờ báo lớn đánh giá cao và mời cộng tác. Tiểu thuyết đầu tay của ông là Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời), in năm 1916. Năm 1919, tiểu thuyết Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao) đã đưa ông vào hàng ngũ những nhà văn danh tiếng, khiến một nhà xuất bản nổi tiếng đề nghị ông viết sách cho họ và sẵn sàng ứng tiền để ông chuyên tâm vào công việc; từ năm 1920 ông được chính phủ Phần Lan trao một khoản trợ cấp trọn đời. Tiểu thuyết đỉnh cao giúp ông đoạt giải Nobel năm 1939 là Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ), kể về số phận bi thảm của những gia đình nông dân Phần Lan bị những mối quan hệ tư bản thâm nhập vào nông thôn tàn phá. Cuối đời ông viết nhiều tiểu luận và hồi ký tự thuật. Trong các tác phẩm của mình, Frans Sillanpää luôn khẳng định sức mạnh bản năng và tư tưởng thần bí, bi quan. Năm 1936, ông được Đại học Helsinki trao bằng Tiến sĩ Danh dự và năm 1939 được Viện Hàn lâm Thụy Điển trao giải Nobel. Do chiến tranh, buổi lễ trao giải không tổ chức được nhưng ông đã nhận bằng trong một cuộc họp của Viện Hàn lâm Thụy Điển vào tháng 12 năm 1939. Thời gian này, sức khỏe của ông giảm sút, ông rơi vào trạng thái trầm cảm nặng vì vợ mất và đất nước bị chiến tranh tàn phá, phải điều trị tại bệnh viện tâm thần đến năm 1943. Tác phẩm cuối cùng của ông là bộ hồi ký gồm ba cuốn xuất bản từ năm 1953 đến năm 1956. Frans Sillanpää được toàn thể nhân dân Phần Lan yêu quý, ông thường được mời phát biểu trên đài phát thanh. Ông mất ở Helsinki năm 66 tuổi. Tác phẩm: Elämä ja aurinko (Cuộc sống và mặt trời, 1916), tiểu thuyết Ihmislapsia elämän saatossa (Những con người trong đường đời,1917), tập truyện Hurskas kurjuus (Cái nghèo thanh cao, 1919), tiểu thuyết Rakas isänmaani (Tổ quốc yêu dấu, 1919), tiểu thuyết Hiltu ja Ragnar (Hiltu và Ragnar, 1923), tiểu thuyết Enkelten suojatit (Sự bảo trợ của các thiên thần, 1923), tiểu thuyết Omistani ja omilleni (Về chính tôi và cho chính tôi, 1924), tiểu thuyết Maan tasalta (Từ độ cao của Trái Đất, 1924), tiểu thuyết Töllinmäki (Ngọn đồi ổ chuột, 1925), tiểu thuyết Rippi (Xưng tội, 1928), tiểu thuyết Kiitos hetkistä, Herra... (Cảm ơn Chúa đến đúng lúc..., 1930), tiểu thuyết Nuorena nukkunut (Thiếu nữ chết trẻ, 1931), tiểu thuyết Miehen tie (Con đường của người đàn ông, 1932), tiểu thuyết Virran pohjalta (Dưới đáy sông, 1933), tiểu thuyết Ihmiset suviyössä (Người trong đêm hè, 1934), tiểu thuyết Viidestoista (Thứ mười lăm, 1936), tiểu thuyết Elokuu (Tháng Tám, 1944), tiểu thuyết Ihmiselon ihanuus ja kurjuus (Hạnh phúc và đau khổ của đời người, 1945), tiểu thuyết Poika eli elämäänsä (Cậu bé đã sống cuộc đời mình, 1953), hồi ký Kerron ja kuvailen (Tôi kể chuyện và tôi mô tả, 1954), hồi kí Päiva korkeimmillaan (Ngày cực điểm, 1956), hồi kí *** Review SP: Tác phẩm văn học “Người trong đêm hè” – bản giao hưởng cho mùa hạ trắng Phương Bắc.Tiểu thuyết cũng đã nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng. “Mùa Hè phương Bắc gần như không có đêm, chỉ có ánh sáng mờ ảo ngập ngừng, chầm chậm trôi qua. Nhưng trong chạng vạng vẫn ngời lên tia sáng không ngôn từ nào có thể tả nổi. Đó chính là lời thì thầm của sáng Hè đang đến gần. Khi giai điệu hoàng hôn lắng lại thành nốt mềm xanh tim tím màu hoa violet, mê say dịu dàng ngân dài ngay trong quãng ngắt ngắn ngủi, là lúc violon chính bừng tỉnh và bắt vào giai điệu cao nghiêng nghiêng, để cho violon xen nhanh chóng hòa nhịp. Ta cảm nhận được từ trong sâu thẳm tâm hồn bức tranh giai điệu đó” trích Tiểu thuyết, tác phẩm văn học, “Người trong đêm Hè” của Frans Emil Sillanpää, (người dịch: Tiến sĩ Bùi Việt Hoa) Tiểu thuyết hay còn được gọi là “chuỗi thơ mang tính tự sự” với 48 bài văn dài ngắn khác nhau của nhà văn Frans Emil Sillanpää (1888 – 1964) cùng với những sáng tác trước đó đã đem giải Nobel văn học đầu tiên vào năm 1939 và cho đến giờ vẫn là giải Nobel duy nhất của Phần Lan. Mùa Hè, tháng Bảy ở Phần Lan, đất nước Cực Bắc của châu Âu, gần như không có đêm nên thường được gọi là mùa hạ trắng với những đêm trắng khi mặt trời gần như không ngủ và thiên nhiên được miêu tả đẹp như tranh vẽ. Tại vùng nông thôn, thiên nhiên êm đềm, không gian tĩnh lặng, trong lành, cũng có nhiều người không ngủ với nhiều lí do khác nhau. Có những lí do rất đẹp và lãng mạn như khi đôi lứa yêu nhau, cô gái mải suy tư mà không dỗ được giấc ngủ, có người mải chèo thuyền trên hồ và đi ngắm nghía đất đai, người đi dự tiệc đính hôn, người trò chuyện, khiêu vũ, người trở dạ sinh con, và có cả những thương đau như đứa trẻ không được chào đời hay người đàn ông mắc tội giết người, người chồng đi không trở về … Người kể chuyện, kể về các cảnh khác nhau với những giọng điệu khác nhau từ trẻ tới già, từ giàu tới nghèo, từ người không có học đến người học thức, có cả mặt tốt và mặt xấu. Ngôn ngữ của tác giả rất chân thật, biểu cảm và giàu chất thơ ngay từ những đoạn văn khởi đầu của cuốn tiểu thuyết mini đã tạo nên một tấm gương phản chiếu đời sống nông thôn điển hình của Phần Lan những năm 30’ nơi thiên nhiên và con người gần như hòa làm một, nơi mọi hoạt động đều chứa đựng nhiều xúc cảm, nơi trong sinh, yêu và tử có đan xen trong niềm vui, nỗi đau, sự trăn trở, tiếc nuối, những khát khao giới tính kỳ lạ… ”Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng trong Người trong đêm Hè thiên nhiên mới là nhân vật trung tâm xuyên suốt tiểu thuyết. Ánh sáng và âm thanh, mặt trời và đêm trắng, cánh đồng lúa, rừng cây, mặt hồ nước, trang viên… một vùng quê với đủ mọi thăng trầm và cuộc sống của những người dân đủ mọi tầng lớp trong ánh sáng mờ ảo của đêm Hè hiện lên thật hoàn hảo dưới ngòi bút của Sillanpää. Đây là tác phẩm văn xuôi mang tính trữ tình đậm đặc nhất, nhiều tính nhạc nhất của nhà văn”. Dịch giả Bùi Việt Hoa, người đã có nhiều năm sống và làm việc ở Phần Lan, nghiên cứu văn hóa và văn học Phần Lan, cho biết. Tác phẩm văn học không chỉ đem đến những áng văn tả cảnh tuyệt đẹp, những câu chuyện đời sinh động, chân thực mà còn nêu ra những triết lý vô cùng đơn sơ mà sâu sắc: “Trên thế gian này ai cũng có lúc nghĩ họ đau khổ nhất trần gian – khi không nghĩ đến người khác, mà chỉ chăm chăm nghĩ về mình”. Chỉ một năm sau khi ra đời, tác phẩm văn học Người trong đêm Hè đã được dịch và xuất bản ở Thụy Điển năm 1935 và hai năm tiếp theo được dịch và xuất bản ở Estonia (1936), Đan Mạch (1937), Na Uy (1937) và Latvia (1937), Anh (1966). Cho đến nay, tiểu thuyết này đã được dịch ra 17 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Tiểu thuyết được chuyển thể thành phim cùng tên vào năm 1948 và nhận được nhiều giải thưởng cũng như đánh giá tích cực của công chúng.   Mời các bạn đón đọc Người Trong Đêm Hè của tác giả Frans Emil Sillanpää.