Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Tình Buồn

Tiểu thuyết lấy bối cảnh ở Landes, một vùng dân cư thưa thớt ở tây nam nước Pháp, được bao phủ rộng bởi những cánh rừng thông. Khi thiên tiểu thuyết bắt đầu, một vụ kiện đang bị bác bỏ. Người tường thuật, Thérèse có địa vị, bị xét xử tội đầu độc chồng mình Bernard bằng cách cho ông uống Fowler’s Solution quá liều, một thứ thuốc chứa thạch tín. Tuy có những bằng chứng vững vàng chống lại mình, bao gồm cả những toa thuốc cô giả mạo, vụ kiện bị ngừng lại; gia đình kết thúc các địa vị xã hội để tránh tai tiếng và bản thân Bernard cũng làm chứng cho lời biện hộ của cô. Trên đường từ tòa án về nhà, Thérèse nhìn lại cuộc sống của mình, cố gắng hiểu được điều gì đã khiến cô tiếp tục đầu độc chồng mình sau khi cô quan sát ông tình cờ uống thuốc quá liều. Cô giả thuyết rằng những hành động của cô là một phần của một “con dốc không thể nhìn thấy”, tạo nên từ những áp lực khi làm mẹ và hôn nhân và cuộc sống ngột ngạt khi làm vợ một địa chủ đạo Thiên Chúa những năm 1920 của nước Pháp thôn dã. Tuy vậy, Thérèse và cả người tường thuật không cung cấp một lời giải thích rõ ràng cho hành vi của cô. Thérèse cho rằng cô có thể âm thầm rời bỏ chồng bây giờ khi vụ kiện đã kết thúc. Thay vào đó, Bernard thông báo rằng cô sẽ sống tại nhà của gia đình ông, Argeluose, một vị trí biệt lập trong rừng thông. Ông thực sự giam cầm cô ở đó, lấy lý do rằng cô đang mắc phải bệnh thần kinh, và thường xuyên xuất hiện trước công chúng với cô để dập tắt mọi lời xầm xì. Mối quan tâm của ông là cuộc hôn nhân sắp tới của em gái ông Anne với một chàng rể được duyệt bởi gia đình, không bị ngăn cản bởi vụ tai tiếng nào hết. Ông chỉ cho phép Thérèse bầu bạn với những người hầu dễ ghét, tách cô khỏi con gái mình, và đe dọa tống cô vào ngục vì tội đầu độc nếu không hợp tác. Thérèse sống chủ yếu nhờ rượu và thuốc lá, rơi vào trạng thái ngẩn ngơ thụ động và mất ngủ. Khi cô được yêu cầu tham dự một bữa dạ yến tổ chức cho Anne, chồng chưa cưới và gia đình anh, cô đã tham dự, nhưng vẻ ngoài hốc hác khiến cho các vị khách bị sốc. Bernard quyết định, không phải bàn cãi nữa, rằng vụ bê bối sẽ không bao giờ hoàn toàn được quên lãng trừ khi Thérèse được phép biến mất. Ông hứa cô có thể rời đi sau đám cưới của Anne, và chuyển cô về Argelous để theo dõi sự hồi phục của cô. Đám cưới trôi qua, ông đưa Thérèse tớiParisvà chào tạm biệt. Không có sự ly thân và li dị chính thức, và ông sẽ chu cấp cho cô để tiếp tục sống. Cô được tự do. Thùy Andịch *** Mauriac không đòi cái tuyệt đối; ông biết rằng cái tuyệt đối không tồn tại với đức hạnh trong trạng thái thuần khiết... FRANÇOIS MAURIAC(11/10/1885 - 01/9/1970) Giải Nobel Văn học 1952 * Nhà văn, nhà thơ Pháp * Nơi sinh:Bordeaux(Pháp) * Nơi mất: Paris (Pháp) François Mauriacđược trao giải Nobel vì những tác phẩm phản ánh bi-hài kịch đời người với một tinh thần thấu suốt và nghệ thuật thuyết phục. Chủ đề chính trong sáng tác của ông là cuộc đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Xác thịt và Linh hồn của “những con người sa ngã” và “nỗi cơ cực của con người không có Thượng đế”. François Mauriacsinh trong một gia đình buôn rượu vang giàu có theo Công giáo, mồ côi bố khi chưa đầy hai tuổi, đến sống ở trang trại ông bà ngoại; bảy tuổi đi học, suốt đời mang ấn tượng về phong cảnh miền quê. Tốt nghiệp trung học,F. Mauriacvào học khoa văn chương tại Đại họcBordeaux, sau chuyển đếnParis, làm báo và sớm trở thành nhà văn độc lập. Năm 1909, theo lời khuyến khích của tòa soạn báo Thời đại chúng ta,F. Mauriacxuất bản tập thơ đầu tiênNhững bàn tay gắn kết; nhưng phải đến năm 1922 ông mới nổi tiếng là nhà viết tiểu thuyết có tài với cuốnNụ hôn cho người hủi. Trong Thế chiến I, tuy không phải nhập ngũ vì lí do sức khỏe,F. Mauriacvẫn tình nguyện tham gia tổ chức Hồng thập tự, phục vụ trong quân y viện hai năm ở Balkans, năm 1918 mới giải ngũ. Trong những năm 1920 ông viết hàng loạt tiểu thuyết, trong đó có cuốnSa mạc tình yêuđược tặng giải thưởng cao nhất của Viện Hàn lâm Pháp. Thérèse Desqueyroux(1927) cũng là tác phẩm thành công, được giới phê bình coi là tiểu thuyết Pháp hay nhất đầu thế kỉ XX. Ổ rắn độc (1932) kể về một bi kịch gia đình với nghệ thuật phân tích tâm lí sâu sắc được coi là đỉnh điểm trong sáng tác củaF. Mauriac. Năm 1933, nhà văn được bầu vào Viện Hàn lâm Pháp. Trong Thế chiến II,F. Mauriactham gia chống phát xít Đức chiếm đóng Pháp, ủng hộ De Gaulle. Tiểu thuyếtCuốn sổ đenđược trao tặng huy chương Bắc Đẩu Bội Tinh. Sau năm 1945F. Mauriaclàm đại diện Pháp trong tổ chức Liên Hiệp quốc (UNESCO). Lần đầu tiên ông được đề cử tặng giải Nobel vào năm 1946, nhưng phải 6 năm sau mới được trao giải. Từ đó đến cuối đờiF. Mauriacxuất bản thêm 2 cuốn tiểu thuyết, hàng loạt hồi kí (chủ yếu về De Gaulle) và làm báo (giữ những chuyên mục rất nổi tiếng thời bấy giờ). Nhà văn mất năm 85 tuổi, một năm sau khi xuất bản cuốn tiểu thuyết cuối cùng. Có thời kìF. Mauriacđược đánh giá là nhà văn Pháp lớn thứ hai trong thế kỉ XX (sau M. Proust), nhưng dần dần uy tín của ông bị giảm sút, theo các nhà phê bình thì chủ yếu là do đề tài và văn phong của ông hơi đơn điệu. *Tác phẩm: Những bàn tay gắn kết (Les mains jointes, 1909), thơ. Đứa con dưới gánh nặng xích xiềng (L’enfant chargé de chaines, 1911), tiểu thuyết. Thịt và máu (La chair et le sang, 1920), tiểu thuyết. Nụ hôn cho người hủi (Le baiser aux lepreux, 1922), tiểu thuyết. Sông lửa (Le fleuve de feu, 1923), tiểu thuyết. Bà cụ tổ (Genitrix, 1923), tiểu thuyết. Giông tố (Orages, 1925), thơ. Sa mạc tình yêu (Le désert de l’amour, 1925), tiểu thuyết. Điều đã mất (Ce qui était perdu, 1926), kí. Thérèse Desqueyroux (Thérèse Desqueyroux, 1927), tiểu thuyết. Những đau khổ của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances du Chrétien, 1928), tiểu luận. Chúa và Mammon (Dieu et Mammon, 1929), tiểu luận. Đau khổ và niềm vui của một tín đồ Kitô giáo (Souffrances et bonheur du chrétien, 1931), [Anguish and Joy of the Christian Life], tiểu luận. Ổ rắn độc (Le noeud de vipère, 1932), tiểu thuyết. Bí ẩn nhà Frontenac (Le Mystère Frontenac, 1933), tiểu thuyết [The Frontenac mystery]. Đêm tàn (La fin de la nuit, 1935), tiểu thuyết. Các thiên thần đen (Anges noirs, 1936), truyện. Đời Jésus (La vie de Jésus, 1936), tiểu luận. Lặn dưới nước (Plongées, 1938), tập truyện. Asmodée (Asmodée, 1938), kịch. Những con đường của biển (Les chemins de la mer, 1939), truyện. Máu Atys (Sang d’Atys, 1940), thơ. Người đàn bà đạo đức giả (La pharisienne, 1941), kịch. Cuốn sổ đen (Le cahier noir, 1943), tiểu thuyết. Nhật kí (Journal, 1934-1950), hồi kí. Con cừu non (L’Agneau, 1954), tiểu thuyết. Hồi kí nội tâm (Mémoires intérieurs, 1959), luận văn. Điều tôi tin (Ce que je crois, 1962), hồi kí. Nghiên cứu về Charles de Gaulle (1964). Một đứa trẻ ngày nào (Un adolessent d’autrefois, 1969), tiểu thuyết. Ba câu chuyện (Trois récits), tập truyện ngắn. *Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Cuộc tình buồn, Nguyễn Bích Như - Thu Uyên dịch, NXB Tổng hợp Bình Định, 1990/Người vợ cô đơn, Mặc Đỗ dịch, NXB Hội Nhà Văn, 1997. Bí ẩn nhà Frontenac, Dương Linh dịch, NXB Thế Giới, 1999. *** Yêu nhau, cả hai cũng nhìn về một hướng. Trong tình yêu chân chính không thể có sự áp đặt bởi một mãnh lực nào, càng không thể đòi hỏi trong tình yêu phải có sự trả giá bằng sự hẹp hòi, ích kỷ, quyền lợi và danh vọng... Thế nhưng, quan niệm “môn đăng hộ đối” của xã hội phong kiến đã khiến cho tình yêu chân chính bị lệch ngả, sai đường. Thérèse, một cô gái sống trong một tỉnh lẻ, có phẩm hạnh và có học thức, đã chấp nhận thành hôn với chàng trai láng giềng không phải vì tình yêu, mà vì sự gán ghép của họ hàng làng xóm theo quan niệm “môn đăng hộ đối” vô cũng nghiệt ngã, và cũng vì cha cô, một người đàn ông góa vợ muốn khỏi vướng bận vì có con gái. Bản thân cô muốn cơ nghiệp bền vững và gia tăng gấp bội... Và cũng do chính mình biếng lười đấu tranh, chấp nhận số phận như một an bài cho cuộc đời xuôi chèo mát mái, Thérèse đã phải sai lầm. Ngay sau ngày cưới, Thérèse thất vọng vì cảnh sống khuôn phép, gò bó nơi gia đình chồng, và nàng đã phải chịu đựng những tháng ngày tẻ nhạt và vô vị bên người mình không yêu. Trớ trên thay, Thérèse lại được cha mẹ chồng tin cẩn, giao cho nhiệm vụ lôi kéo cô em chồng “về với lẽ phải”, nghĩa là “phải chấp nhận sự xếp đặt hôn nhân do chính gia đình lựa chọn”! Cô em chồng buộc phải từ bỏ người mà có ấy yêu say mê tha thiết, Jean Azévédo, để lấy con trai nhà Deguzlhem. Cô gái thề bảo vệ tình yêu cho đến chết, và cô tuyên bố nhận chịu sự phán xử của chị dâu mình. Thérèse bị đặt trước tình huống nan giải: lẽ nào bắt cô em chồng đáng thương kia phải đi theo con đường buồn chán khổ đau như hiện thân của mình trong gia đình chồng hiện tại. Chính hàng đang khao khát có được mối tình say mê nồng nhiệt như cô em chồng mà không sao có được! Cuối cùng, bởi nhiệm vụ nặng nề thúc bách, Thérèse buộc phải tìm đến gặp chàng trai đề mong thuyết phục anh ta buông thả, trả em mình về với gia đình. Ðiều bất ngờ đến thảng thốt, nàng đã khám phá ra rằng, chàng trai nọ không hề có tình yêu chân chính với em mình, và... hạnh phúc là điều không có thật! Thérèse hoàn toàn thất vọng và nàng muốn thoát khỏi kiếp sống vô vị, ảo vọng đã ràng buộc nàng bởi quan niệm gia đình không tạo bằng tình yêu chân chính. Không biết vô tình hay cố ý, Thérèse đã cho chồng uống thuốc quá liều, nhưng may thay chồng nàng thoát chết. “Vụ đầu độc” rốt cuộc được chính gia đình bên chồng dàn xếp ổn thỏa, và ngay cả cha nàng cũng đã làm như vậy. Tất cả chỉ vì muốn bảo vệ danh dự gia đình bên chồng, cũng như để khỏi ảnh hưởng đến việc thăng quan tiến chức của cha nàng đối với xã hội... Nói chung, Thérèse cũng như những người trẻ tuổi của xã hội phong kiến, bởi ràng buộc quan niệm gia đình khắt khe, vụ lợi... đã không thể sống cho chính mình bằng một tình yêu chân chính. Phải chăng, bản thân con người thiếu sự đấu tranh, dễ dàng chấp nhận sự an bài số phận, để phải trả giá đắng cay cho chính mình, và có nên cho đó là “cuộc tình buồn”? Trong tác phẩm THÉRÈSE DESQUEYROUX, Françoise Mauriac sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó. 4-1990  NHỮNG NGƯỜI DỊCH Mời các bạn đón đọc Cuộc Tình Buồn của tác giả François Mauriac & Nguyễn Bích Như (dịch) & Thu Uyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Giải Mã Mê Cung tập 3
Tên eBook: Lối thoát tử thần (full prc, pdf, epub) Tác giả: James Dashner  Thể loại: Best seller, Kỳ ảo, Giả tưởng, Tiểu thuyết, Văn học phương Tây Bộ sách: Giải Mã Mê Cung (tập 3) Công ty phát hành: Kim Đồng Nhà xuất bản: NXB Kim Đồng Trọng lượng vận chuyển (gram): 450 Kích thước: 14 x 22.5 cm Số trang: 403 Ngày xuất bản: 12-2013 Hình thức: Bìa Mềm Giá bìa: 95.000 ₫ Nguồn: fb.com/ThuNghiemDatChay.LoiThoatTuThan2015 Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: Một Kết thúc bùng nổ cho series The Maze Runner... Căng thẳng cho đến khoảnh khắc cuối cùng... Thomas và các bạn chưa bao giờ hình dung điều gì ghê gớm hơn các thách thức đã gặp phải trong Mê cung. Chúng đã lầm. Trí nhớ khiếm khuyết của bọn trẻ khiến chúng không biết đến những gì đã và đang diễn ra ở thế giới bên ngoài. Những thứ còn khủng khiếp hơn bầy Nhím sầu, lắt léo hơn các ngóc ngách Mê cung và tàn nhẫn hơn cả sự Biến đổi...   "Căng thẳng và u ám, hấp dẫn và đầy bất ngờ, đây là phần tiếp theo khiến cả Thomas lẫn độc giả đều phải tự hỏi chuyện gì đang diễn ra..." - Kirkus Reviews "Bạn đọc yêu thích tập đầu sẽ nhanh chóng bị cuốn theo những diễn biến hồi hộp và hành động không ngừng... tác phẩm này giống như một trò chơi điện tử hấp dẫn, trong đó Thomas phải đương đầu với hết hiểm nguy này tới hiểm nguy khác." - Children's Literature "Kết thúc mở sẽ khiến độc giả háo hức chờ đón phần kết của bộ tiểu thuyết ba tập.'' - School Library Journal Mời các bạn đón đọc tập 3 của Giải Mã Mê Cung, Lối thoát tử thần của tác giả James Dashner.
Người Sói
Tên eBook: Mowgli - Người Sói (full prc, pdf, epub) Tác giả: Rudyard Kipling Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Ấn Độ Dịch giả: Hoàng Hưng Nhà xuất bản: NXB Trẻ Năm xuất bản: 1999 Số trang: 250 Số quyển / 1 bộ: 1 Hình thức bìa: Bìa mềm Tạo prc: santseiya  Nguồn: vietkiem.com, thuvien-ebook.com  Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com Giới thiệu: RUDYARD KIPLING, tên đấy đủ là Joseph Rudyard Kipling, sinh ngày 30 tháng 12 năm 1865 tại thành phố Bombay, Ấn Độ, trong một gia đình trí thức người Anh. Năm lên sáu tuổi, cậu được đưa về Anh học, tuổi thơ của cậu nhìn chung là bất hạnh. Kipling trở lại Ấn Độ năm 1882, làm nghề báo. Ông đi đó đi đây, khắp Ấn Độ, rồi sang Mỹ, sang châu Phi, nhờ đó mà tích luỹ nhiều vốn sống cho các trang viết của mình sau này.     Kipling nổi tiếng trước hết là một nhà thơ. Sau khi Lord Tennyson qua đời vào năm 1892, có thể nói Kipling đã chiếm vị trí số một trong lòng công chúng yêu thơ nước Anh. Ông cũng là người viết truyện ngắn và tiểu thuyết lừng danh. Bạn đọc trẻ khắp năm châu thì yêu quí Kipling qua những tác phẩm viết cho lứa tuổi của họ: Những Thuỷ Thủ Dũng Cảm (1890), Sách Rừng (quyển 1 năm 1894, quyển 2 năm 1895), Kim (1901). Ông được trao giải Nobel văn chương năm 1907.     Từ năm 1901, Rudyard Kipling định cư ở Anh và qua đời ngày 18 tháng 1 năm 1936 tại London.     Hai quyển Sách Rừng có thể coi là tập hợp những câu chuyện thú vị, hấp dẫn bậc nhất về đời sống hoang dã trong văn chương nhân loại từ trước tới nay, mà nhân vật chính là một chú bé được bầy sói nuôi và huấn luyện giữa rừng xanh, trở thành chúa tể của rừng. Mowgli - Người Sói là bản dịch tiếng Việt hai quyển Sách Rừng, bám sát bản gốc, chỉ lược bỏ một số bài thơ quá dài chen giữa các câu chuyện. Bản dịch đã được đông đảo bạn đọc tán thưởng qua hai lần in năm 1987, 1988 của Nhà Xuất Bản Trẻ. Bản in lần thứ 3 này đã được dịch giả sửa chữa một số chỗ.     NXB Trẻ hân hạnh giới thiệu cùng bạn đọc.
Những Đứa Trẻ Bị Bỏ Rơi Trong Tủ Gửi Đồ
Tên eBook: Những Đứa Trẻ Bị Bỏ Rơi Trong Tủ Gửi Đồ (full prc, pdf, epub) Tác giả: Ryu Murakami  Thể loại: Tiểu thuyết, Văn học Nhật bản  Người dịch: Trần thị chung Toàn, Nguyễn thị hạnh Vân  Giá bìa: 88,000 VNĐ  Số trang: 519  Ngày Xuất Bản: 04-2010  Nhà Xuất Bản: NXB Lao Động   Nguồn + Tạo prc: Hoa Quân Tử - fb.com/nhut.huynhminh.129 Ebook: Đào Tiểu Vũ eBook - www.dtv-ebook.com  Giới thiệu: Ryu Murakami, một trong những nhà văn nổi bật của xu hướng: Một nền văn học không ranh giới. Ông sinh năm 1952, văn tài sớm được khẳng định giữa những năm 70, qua tác phẩm "Màu xanh trong suốt", đoạt giải Akutagawa 1976. Tiếp theo là các tác phẩm "Những đứa bé bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" (1980), Khách sạn Raffles (1989)... Với tác phẩm "69", ảnh hưởng phong cách Mark Twain, ông viết về lớp trẻ trong một trường Trung học tỉnh lẻ, đã đứng lên phản đối sự hiện diện của một căn cứ quân sự Mỹ. Còn đời sống Mỹ hóa trong đô thị, chúng ta sẽ thấy rõ qua "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" (Coin Lockers Babies). "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ" - đó là Kaku và Hashi, hai đứa trẻ bị mẹ chúng bỏ rơi trong ngăn cho thuê gửi đồ tạm, cũng là hai trong số rất ít ỏi còn sống sót vào thời gian đó. Sự trưởng thành của hai đứa luôn gắn với cuộc sống đầy phức tạp, biến động của nước Nhật, vào thời kỳ cuộc sống Mỹ hóa mạnh mẽ. Hai đứa trẻ luôn bị ám ảnh, tra vấn về nguồn cội, về sự tồn tại phi lý của chúng, về người mẹ nào đã đang tâm bỏ rơi chúng, bỏ chúng đến chết... và chúng chỉ may mắn vượt qua tay thần chết có khi chỉ nhờ sự đánh hơi ngẫu nhiên từ một chú chó ! Hình như một nhân vật của Nhà văn Hermann Hesse nói lời này: ''Không có Mẹ người ta không sống được, không có Mẹ người ta không chết được", có lẽ đúng với trường hợp Kaku và Hashi. Chúng lớn lên với một trái tim thương tổn, tật nguyền, từ đó cơn lốc của cuộc sống Mỹ hóa đã lôi cuốn chúng đến những tình cảnh khủng khiếp và nghiệt ngã nhất, số phận, lần nữa như chơi trò tai ác, tiếp tục ám ảnh chúng với chất Dature (một loại chất độc ảnh hưởng thần kinh, một loại thuốc gây hưng phấn lạ lùng, biến con người nhiễm nó trở thành một sinh vật mới mang hình hài con người, và muốn hủy diệt tất thảy). Và cuộc đời những "đứa con căm thù" này, thoát được tay Thần chết nhưng lại phải sống trong Địa ngục trần gian. Chỉ với một góc, bên lề Tokyo Thiên đường diễm lệ, một Khu Chợ đen nhớp nhúa, thác loạn, đã thấy thấp thoáng những tầng địa ngục đang đầy ải, bòn rút con người, từng giây phút, từng ngày, biến họ thành những hình nhân, những bóng ma ! Sẽ thật ngạc nhiên, nếu những Kaku, Hashi...còn sót lại một chút gì được gọi là ký ức tốt đẹp. Với tài năng dẫn kể lôi cuốn, cùng những quan sát tinh tế, sự am hiểu sâu sắc nhiều lĩnh vực đời sống, Ryu Murakami đã khảm một bức tranh hết sức kỳ công, biến ảo của Địa ngục trần gian. Bức tranh có tính nhân loại. Một lời cảnh báo về sự hủy hoại nhân tính. Liệu con người có thể ngoảnh mặt, làm ngơ ? Trân trọng giới thiệu "Những đứa trẻ bị bỏ rơi trong tủ gửi đồ", một tác phẩm văn học đặc sắc của nhà văn Ryu Murakami cùng bạn đọc.