Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nhật Ký Phi Thường

Nhật Ký Phi Thường: - Tiểu thuyết tâm lý giới tính đầu tiên của sinh viên đại học Trung Quốc đương đại. - Cuốn sách cần đọc của thanh niên đương đại. - Một trong mười chủ đề nóng của các trường đại học Trung Quốc năm 2002. - Một trong các tác phẩm bán chạy được sinh viên yêu thích nhất năm 2002. - Một trong các gương mặt sách quen thuộc nhất của người Trung Quốc năm 2002. - "Nếu các tác phẩm như thế này ra đời sớm hơn, cùng với sự đánh giá và hướng dẫn của xã hội, những kẻ bi quan, kẻ tự ti, kẻ tự tử, kẻ thủ dâm sẽ giảm đi rất nhiều, trong đó bao gồm cả bản thân tôi, phương pháp giáo dục mở đã phát huy vai trò quan trọng như thế đối với sự hình thành của nhân cách lành mạnh và sự vun đắp thế giới tinh thần cao đẹp. Xét về ý nghĩa này, có lẽ Nhật Ký phi thường có thể giúp những con người tự ti lạc quan, yêu đời hơn rất nhiều" (Trích trong bài viết Phân tích tiểu thuyết tâm lí giới tính đầu tiên của sinh viên Trung Quốc đương đại - Nhật ký phi thường trên báo Thanh niên Bắc Kinh ra ngày 24 tháng 6 năm 2002). - "Nhật ký phi thường được giới xuất bản gọi là "tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của sinh viên Trung Quốc", Bộ giáo dục Trung Quốc gọi nó là "Nỗi đau của chàng Werthwer mới". Tác giả mượn lời của tiến sĩ Tâm lý học Dư Vĩ mới du học từ Mỹ về, kêu gọi phải nhanh chóng tiến hành giáo dục giới tính cho sinh viên. Sau đó tôi mới đọc cuốn sách này và cảm thấy rất cảm động về sự can đảm và tinh thần trách nhiệm của tác giả. Vấn đề giáo dục giới tính cho sinh viên đại học đã được kêu gọi từ những năm 1980, hiện nay vấn đề này đã được coi trọng hơn, một số trường đại học đã có môn học giáo dục giới tính cho sinh viên. Trong này có công lao của Nhật ký phi thường" (Lời bình của giáo sư Lưu Đạt Lâm - nhà xã hội học, nhà tình dục học nổi tiếng của Trung Quốc). "Tiếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con. "Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!" Tiểu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi. "Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài....." "Anh có thể không nói câu "Hồi anh còn ở nước ngoài" được không, nghe cứ thế nào ấy!" Tiểu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu "anh ở nước ngoài". Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi Thành, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp: "Ở nước ngoài, hiện tương này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh về tâm sinh lý, do không thể làm chủ được mình nên hành động như vậy." "Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật." "Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm - thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục - em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyện để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới." Tiểu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho bạn gái như Tiểu Nhân nghe. Bọn họ nói hay mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê gớm! Đám con gái hiếu kỳ, họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiểu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiểu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích........." *** Tiếu Nhân kể cho Dư Vĩ nghe một chuyện kì lạ. Ký túc xá nữ của cô gần đây liên tục xảy ra hiện tượng trộm cắp; quần lót, áo con của nữ nghiên cứu sinh vừa phơi ra ngoài là bị mất ngay. Cô cũng bị mất một chiếc áo con. “Thật ghê tởm! Lấy gì không lấy, lại đi lấy ba cái thứ đó của người ta!” Tiếu Nhân lắc đầu, cảm thấy không sao hiểu nổi. “Anh không nghĩ như thế. Hồi anh còn ở nước ngoài...” “Anh có thể không nói câu “Hồi anh còn ở nước ngoài” được không, nghe cứ thế nào ấy!” Tiếu Nhân càu nhàu. Đây là ngày thứ bảy sau khi họ quyết định chính thức yêu nhau. Quen nhau qua mạng được một tuần thì họ gặp nhau. Cả hai đều rất hài lòng. Điều duy nhất khiến Tiếu Nhân không thích là Dư Vĩ, cứ mở miệng ra lại nói câu “anh ở nước ngoài”. Lúc đầu, cô cũng cảm thấy tự hào, hãnh diện, nhưng sau bạn bè cùng phòng nói Dư Vĩ giống nhân vật trong tiểu thuyết Vi thành1, cô lại thấy Dư Vĩ hơi buồn cười. Dư Vĩ cũng không giận, anh nói tiếp: 1 Tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Tiền Trung Thư, nhân vật chính Phương Hồng Tiệm là một du học sinh ở châu Âu về ‐ ND. “Ở nước ngoài, hiện tượng này rất hay xảy ra, đặc biệt là ở các nước công nghiệp phát triển như Mỹ và một số quốc gia khác. Ý của anh không chỉ nói số vụ xảy ra nhiều hơn ta, mà còn muốn nói rằng họ coi trọng nghiên cứu và trị liệu vấn đề này hơn chúng ta. Anh đã từng tiếp xúc lâm sàng với rất nhiều đối tượng. Lúc đầu, anh cũng cảm thấy hành vi của những người này thật ghê tởm; song sau này anh không nghĩ như thế nữa. Chẳng qua họ bị mắc các chứng bệnh về tâm sinh lý; do không thể làm chủ được mình nên đã hành động như vậy.” “Em không tin là họ không làm chủ được hành vi của mình. Em thấy đó là do họ thiếu đạo đức, không biết thế nào là xấu hổ, hành vi của họ đủ để kết tội rồi đấy, cần phải trừng trị trước pháp luật.” “Thế thì thật quá đáng. Em tưởng những người này không đau khổ hay sao? Em tưởng họ muốn như thế sao? Họ cũng biết làm vậy là không được, nhưng họ không thể làm chủ được mình. Hơn nữa, tại sao họ lại ra nông nỗi đó? Một trong những nguyên nhân là do sự trói buộc của đạo đức khiến họ mắc các chứng bệnh tâm lý, chẳng hạn chứng thị dâm ‐ thích nhìn trộm ngực, cơ quan sinh dục của người khác giới, chứng phơi bày cơ quan sinh dục ‐ em chưa bao giờ nghe thấy chứng phơi bày cơ quan sinh dục đúng không, tức là chuyên để lộ cái đó ra trước mặt bạn khác giới. Tiếu Nhân cười, mặc dù không trả lời Dư Vĩ, nhưng cô lại nhớ đến thời còn học cấp hai, hằng ngày phải đi xe bus. Trong lớp có mấy cậu bạn nghịch ngợm, cứ đến giờ giải lao lại tụ tập một chỗ, nói chuyện bậy bạ. Thực ra, có lúc họ cố ý nói cho các bạn gái như Tiếu Nhân nghe. Bọn họ nói hay gặp mấy gã đàn ông trên xe bus lôi cái đó ra ngoài và quệt lên người phụ nữ. Thật ghê tởm! Đám con gái rất hiếu kỳ; họ vừa không dám nhìn, vừa muốn xem thực hư ra sao. Cuối cùng cũng không nhìn thấy. Thời học đại học, trong khu ký túc xá nữ có một tầng dành cho nam sinh. Cầu thang nằm ngay bên cạnh nhà vệ sinh, có rất nhiều sinh viên nam, tối mùa hè thường cởi trần đi đi lại lại, thấy con gái đến là lại giở trò đó. Có mấy cô sinh viên cũng thích nhìn. Phòng Tiếu Nhân có một cô bạn, cứ tối đến lại kể chuyện về con trai. Thực lòng mà nói, mặc dù Tiếu Nhân cảm thấy ghê tởm, nhưng được nghe, kể ra cũng thích. Dư Vĩ cho rằng không nên có thái độ đối địch với những người đó; do bị mọi người xung quanh kì thị, khinh bỉ, do tính cách tự ti, và còn do cuộc sống bất hạnh trong gia đình nên họ mới như vậy. Đây không chỉ là lỗi của riêng họ. Nói thì như vậy, nhưng Tiếu Nhân vẫn cảm thấy rất bất bình. Nếu chuyện này xảy ra với người khác thì đã đi một nhẽ, đằng này lại xảy ra với chính cô, nên cô vẫn cảm thấy ấm ức. Để thuyết phục Tiếu Nhân, Dư Vĩ lại kể cho cô nghe các câu chuyện biến thái, ngông cuồng mà anh từng gặp; càng nghe Tiếu Nhân càng sợ. Cuối cùng, cô đã hiểu ra vấn đề, nhưng cô không dám tiếp tục ở trong ký túc xá nữa. Buổi tối, bố mẹ Tiếu Nhân muốn gặp Dư Vĩ. Dư Vĩ mời họ đến Trung tâm Âu Á ăn cơm. Bố Tiếu Nhân là một nhà văn, thuộc mẫu nhà văn nghiêm túc. Thời còn trẻ ông từng viết rất nhiều thơ trữ tình đậm màu sắc chính trị, sau đó ông còn sáng tác tiểu thuyết, chủ yếu viết về thời Cách mạng Văn hóa, về nông thôn lao động, tức là loại tiểu thuyết kết hợp cả đề tài nông thôn và đề tài thành thị. Ông luôn nghĩ mình có mặt trên thế gian này là để gánh vác một trách nhiệm nặng nề; mặc dù bản thân ông không có tác phẩm gì thực sự nổi tiếng, nhưng tinh thần của ông vẫn khiến Dư Vĩ cảm động. Ông là một người ôn hòa, nói nhiều, thích chuyện trò. Mục đích của câu chuyện cũng rất rõ ràng, đó là phát biểu ý kiến về mọi vấn đề của xã hội. Bố Tiếu Nhân rất phấn khởi, ông từng đọc khá nhiều bài viết của Dư Vĩ, kể cả luận văn Tiến sĩ Tâm lý học của anh. Dư Vĩ cũng là một người yêu văn học; thời đại học, anh theo khoa Văn, đã từng được đăng một số tác phẩm. Khi còn học tiến sĩ ở nước ngoài, anh cũng gửi rất nhiều bài cho các tạp chí trong nước và đều được đăng. Chỉ có điều những bài đó viết theo lối phát biểu cảm nghĩ, giá trị tư tưởng lớn hơn giá trị nghệ thuật. Trong bữa ăn, bằng một giọng hài hước, Tiếu Nhân đã kể cho bố mẹ nghe chuyện xảy ra trong ký túc xá của mình. Mẹ Tiếu Nhân phát hoảng, chỉ sợ sẽ có chuyện xảy ra với con gái. Bà là một công chức nhà nước, chưa nghe thấy những chuyện như vậy bao giờ. Tiếu Nhân kể xong, ông bố liền lớn tiếng chỉ trích đạo đức xã hội xuống cấp. Ông cho rằng không thể tha thứ hành vi đó, nhưng xét cho cùng là do xã hội gây ra. Ông nói: “Thời còn lao động ở nông thôn, tôi đã từng nghe vài chuyện tương tự. Cũng do môi trường xã hội dạo ấy không tốt, những kẻ làm việc đó đều là người chẳng ra gì. Nhưng khi lên đại học, tôi không còn nghe thấy những chuyện như vậy nữa. Làm sao chuyện này có thể xảy ra trong học đường? Mọi người cùng vùi đầu vào sách vở, học hành bận rộn, quý trọng thời gian, đâu như sinh viên bây giờ, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện yêu đương, lãng phí tuổi trẻ. Bà xem, thật không thể ngờ lại có chuyện như vậy!” “Ông thì lúc nào chẳng nói thời đó tốt; môi trường xã hội bây giờ khác xưa rồi, đầu óc ông vẫn cổ hủ quá.” Mẹ Tiếu Nhân trách. Nghe vậy, bố Tiếu Nhân càng bực mình hơn. “Ông Chu, hàng xóm nhà mình – cái ông diễn viên kịch nói có thời đoạt giải Hoa Mai gì gì ấy, có một đứa cháu gái mới chín tuổi. Một hôm, ông bực tức kể đã gặp mấy đứa trẻ đứng ở cửa cầu thang đang bắt chước cảnh làm tình trên tivi, ông ấy không dám tin vào mắt mình. Ông ấy bảo rất lo cho đứa cháu gái, chỉ sợ xảy ra chuyện gì. Nhưng phòng tránh thế nào? Mình không thể theo sát nó ngày ngày, cũng không thể cấm nó tiếp xúc với xã hội. Thật đáng ngại quá!” Dư Vĩ nói: “Ở nước ngoài thì khác; ngay từ nhỏ người ta đã tiến hành giáo dục giới tính cho trẻ. Không chỉ nhà trường dạy các kiến thức đó, mà cả phụ huynh cũng không né tránh; thế nên suy nghĩ của họ rất cởi mở, không thần bí hóa, cũng không kiêng kị nó như chúng ta ở đây. Cần phải hiểu một tâm lý phổ biến của con người là: càng cấm lại càng muốn lao đến.” Dư Vĩ kể cho bố mẹ Tiếu Nhân nghe những chuyện mình được tận mắt chứng kiến ở nước ngoài, nhưng chắc bố Tiếu Nhân đã mất hứng từ lâu, ông ngắt khéo lời Dư Vĩ: “Thanh niên bây giờ, động một tí là lại nói nước ngoài, cứ như nước ngoài cái gì cũng tốt, còn ta cái gì cũng xấu.” Tiếu Nhân cũng lườm Dư Vĩ một cái. Dư Vĩ vừa ấm ức vừa ân hận, vội giải thích: “Dạ không phải thế, ý cháu muốn nói rằng, chuyện này ở nước ngoài là rất bình thường, nhưng ở trong nước thì mãi gần đây mới được mọi người chú ý. Thực tế ở nước mình, chuyện này không hiếm. Tuy nhiên từ trước tới nay, người ta mới chỉ nói về nó một cách bông đùa chứ chưa chú trọng nghiên cứu.” “Nghiên cứu thì được, để cho thoải mái thì không được. Lấy ví dụ ở nước ngoài nhé, từ nhỏ đã coi những chuyện đó như chuyện thường nhật, thanh thiếu niên mới tí tuổi đầu đã có quan hệ tình dục. Cháu bảo như thế có hay không? Nước ngoài có rất nhiều người đang nghiên cứu về vấn đề này, kết quả nghiên cứu ra sao? Càng mở cửa thì càng nảy sinh nhiều vấn đề.” Rõ ràng bố Tiếu Nhân cũng đang cố gắng kìm chế mình. “Nhưng mở cửa còn tốt hơn là không mở cửa.” Tiến sĩ Tây học không chịu nhường lời. “Chưa chắc. Việc gì cũng phải có cái “độ”’ của nó. Đạo trung dung mà tổ tiên chúng ta nói chính là ám chỉ ý đó.” “Chính vì phải chú trọng cái “độ” đó nên mới cần người nghiên cứu.” Không khí có phần căng thẳng. Cả hai người phụ nữ đều cảm thấy khó xử. Lần đầu gặp nhau đã tranh cãi, bảo vệ ý kiến của mình, có thể thấy tư tưởng không phải là thứ hay. Nhưng hình như đàn ông lại không nghĩ như thế, cứ đòi phải thắng bằng được đối phương về mặt tư tưởng.   Mời các bạn đón đọc Nhật Ký Phi Thường của tác giả Từ Triệu Thọ.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Phút Một Đời - Pearl S. Buck
Từ hai thế giới khác biệt nhau, William và Ruth đã đến với nhau. Chàng tốt nghiệp đại học Mỹ thuật, là một thanh niên nhạy cảm con một gia đình giàu sang nhưng ích kỷ, chủ một hệ thống hỏa xa tại Hoa Kỳ. Nàng là cô gái nông thôn ít học, khỏe mạnh, đầy sức sống, con của một trại chủ ở Pennsylvavia. Trong một buổi đi du họa ở cùng quê, William đã gặp Ruth. Và ngay khi nhìn thấy nàng, chàng biết rằng đó là người đàn bà của mình, mặc dầu chàng đã có bạn gái là Elise - người mà gia đình chàng đinh ninh sẽ là con dâu tương lai của mình. Bất chấp sự phản đối kịch liệt của gia đình, William đã mạnh dạn bỏ nhà đi theo Ruth, một cô gái ăn nói dịu dàng và đầy hấp dẫn, một cô gái quê chẳng biết gì về nghệ thuật và cuộc sống sang giàu, nhưng là một cô gái hoàn toàn biết cách tận hiến cho tình yêu. *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi Mời các bạn đón đọc Một Phút Một Đời của tác giả Pearl S. Buck.
Khúc Quanh Của Dòng Sông - V. S. Naipaul
Cuốn sách miêu tả những vết thương lâu năm, khó lành lẫn vết thương mới của một châu Phi ngây thơ và già cỗi, có độc lập rồi vẫn còn nguyên mặc cảm tự ti. Ở một khúc quanh mới trong kỷ nguyên tự trị, cay đắng thay, châu Phi ngơ ngác tìm kiếm những hình bóng cũ châu Âu, nơi đã giam hãm mình trong nhiều thế kỷ nô lệ thuộc địa. Salim từ vùng biển phía Đông châu Phi đi sâu vào lục địa, đến một thành phố nằm bên khúc quanh của một dòng sông lớn, để tìm cách kinh doanh, để tìm kiếm chỗ đứng cho mình trong thế giới và để tìm hiểu bản thân mình. Ở thành phố đó, Salim phải sống trong bầu không khí ngột ngạt của một chế độ hậu thực dân, bàng hoàng trước nền độc lập lạ lẫm, loay hoay không biết phải bắt đầu từ đâu, chủ động hay thụ động trước những biến chuyển, và bạo loạn chắc chắn sẽ xảy ra. Anh tiếp xúc với người dân bản địa, như cô Zabeth và đứa con trai Ferdinand, như cặp vợ chồng Mahesh và Shoba… Anh tìm hiểu thành phố, từ Quảng trường đến trường Trung học, từ khách sạn Van der Wyeden đến bến tàu…Rồi không gian được mở rộng ra với việc xây dựng Khu mới bên ngoài thành phố, sự xuất hiện trở lại của người da trắng, sự thay da đổi thịt của giới trẻ châu Phi, sự biến động chính trị của vị Tổng thống vĩ đại. Không gian được tiếp tục mở rộng khi Indra, người bạn thời thơ ấu của Salim xuất hiện, thoạt tiên trong hào quang của một người học ở Oxford về, sau đó dưới hình dạng thảm hại của một kẻ hoang mang trước tất cả, không chắc chắn về điều gì hết. Không gian còn mở rộng tới châu Âu, nhưng đến đó thì Salim đã hiểu ra mình không thể chạy thoát những ràng buộc vô hình. Thế giới dù rộng lớn vẫn không có chỗ cho anh, anh vẫn phải đóng đinh vào cái thành phố bên khúc quanh của dòng sông. *** Vidiadhar Surajprasad Naipaul mang quốc tịch Anh, sinh năm 1932 ở Chaguanas gần Port of Spain thuộc Trinidad, trong một gia đình di cư từ miền Bắc Ân Độ, song không ít tác phẩm của ông lại lấy bối cảnh Châu Phi. Con người V.S. Nailpaul bao gồm nhiều nền văn hóa, cuộc đời ông trải rộng trên cả bốn châu lục lớn - ông từng du lịch khắp Châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Sự đa dạng đó khiến Naipaul luôn băn khoăn về vị trí, gốc gác của mình. Khi còn trẻ ông đã từng chán nản với sự nghèo nàn về tinh thần ở Trinidad, bỏ sang Anh học đại học, nhưng khi đã định cư tại đó ông lại thấy mình không thể hòa đồng được với lối sống bản địa, trong khi đó dòng máu Án Độ vẫn chảy mạnh trong huyết quản. V.S. Naipaul, với tư cách nhà văn, thường đặt ra những câu hỏi về đa dạng văn hóa, đặc tính tâm lý phức tạp của các nhóm và tộc người, sự hòa trộn và đặc điểm tiêu biểu không thể nhầm lẫn, cả đến những mặc cảm mang tính bộ tộc, dân tộc… tất cả đều được miêu tả kỹ lưỡng và tinh tế trong Khúc quanh của dòng sông. V.S.Naipaul bắt đầu cầm bút từ rất sớm, sau khi học xong Universtity College of Oxford. Cả đời ông gần như không làm công việc nào khác ngoài viết văn. Sau tiểu thuyết đầu tay, The Mystic Masseur (Người thợ mát xa bí ẩn - 1957), Naipaul trở nên nổi tiếng với cuốn A House for Mr. Biswas (ngôi nhà của ngài Biswas - 1961), tiểu thuyết thứ nhất của ông. Những tác phẩm đầu tay này thường lấy bối cảnh vùng Tây Ấn, sau đó Naipaul mở rộng địa lý văn chương của mình, hướng tới chủ đề hậu thuộc địa nóng bỏng, nhất là tại châu Phi. Hai tiểu thuyết của ông về đề tài này là Guerillas và nhất là A bend in the River, một phẫu thuật tài tình trưng bày những ung nhọt, từ các vết thương lâu năm khó lành lẫn các vết thương mới của châu Phi già nua mà ngây thơ, đã giành được độc lập nhưng vẫn còn nguyên vẹn mặc cảm nô lệ - tự ti và thấp kém. Lẫn trong sự miêu tả tinh vi, thấu đáo là một niềm thương cảm kín đáo, một day dứt cho số phận một châu lục đang trong giai đoạn bế tắc. Việc ông giành được giải Nobel văn chương năm 2001 (chưa kể trước đó 30 năm, ông đã đoạt giải Booker 1971) không nằm ngoài dự đoán của các nhà nghiên cứu văn học thế giới. Naipaul đã đóng góp to lớn cho một dòng văn học đau đớn nhưng có ích, dòng văn học nhìn trực diện vào các xã hội lạc lõng giữa thế giới, đứng bên lề sự phát triển chung và còn lâu năm nữa mới thoát được vũng lầy đó. *** Công dân Théotime đến vào buổi sáng, mắt đỏ mọng và trông như bị tra tấn, lơ lửng với ly bia uống vào bữa sáng, với vài quyển truyện cười hoặc tiểu thuyết minh hoạ bằng ảnh để giết thời gian ở văn phòng. Có một hệ thống trao đổi tạp chí không chính thức ở thị trấn. Théo luôn luôn có cái gì mới để xem. Và thật lạ, những truyện cười hoặc tiểu thuyết – ảnh của ông ta, lăn lóc, đã khiến ông ta có cái vẻ bận rộn, giống như những thương gia khi ông ta đến cửa hiệu. Ông ta đi thẳng vào phòng kho, và có thể ở lại đó không hề đi ra suốt cả buổi sáng. Thoạt tiên tôi nghĩ bởi vì ông ta muốn không bị quấy rầy. Nhưng rồi tôi hiểu không phải vậy. Ông ta thích ở trong phòng kho tối tăm chẳng làm việc gì cụ thể, chỉ nhìn vào những quyển tạp chi của mình trong khi tâm trạng say sưa lan toả con người ông ta. Sau đó khi ông ta đã thoải mái và bớt rụt rè hơn với tôi , cuộc sống trong căn phòng kho trở nên phong phú hơn. Ông bắt đầu có đàn bà đến viếng thăm. Ông thích họ nhìn thấy ông thực sự là một directeur – giám đốc – với một nhân viên và một văn phòng, và điều đó cũng làm những người đàn bà thích thú. Một chuyến viếng thăm có thể mất cả một buổi chiều, mà chỉ là Théotime và người đàn bà chuyện gẫu theo cách người ta vẫn chuyện gẫu khi đang trú mưa – với những lần dừng lại rằng lâu và những cái nhìn thôi miên dài theo những hướng khác nhau. Đó là một cuộc sống dễ dàng với Théotime, dễ dàng hơn bất cứ gì ông ta có thể tưởng tượng khi còn là một thợ máy ở sở y tế. Nhưng khi ông ta có được sự tự tin, và không còn sợ hãi việc Tổng thống lại sẽ tước mất cửa hiệu từ tay ông ta, ông ta trở nên khó tính. Ông ta bắt đầu nghĩ rằng là một directeur ( Giám đốc )mà không có xe thì không thể được. Có lẽ một người đàn bà nào đó đã khiến ông ta nghĩ vậy, hoặc có thể là tấm gương từ những người chủ Nhà nước khác, hoặc có thể là điều gì đó ông ta rút được từ những cuốn truyện cười. Tôi có một chiếc xe, ông ta bắt đầu hỏi mượn tôi, và rồi đòi tôi chở ông ta đi đây đó khỏi nhà và về nhà. Tôi có thể từ chối. Nhưng tôi tự nhủ đó là một việc nhỏ để làm ông ta trật tự. Những lần đầu tiên ông ta ngồi hàng ghế trên, rồi ông ta chuỷên xuống ngồi hàng ghế sau. Đó là công việc bốn-lần-một-ngày. Ông ta không im lặng được lâu. Có thể là do tôi tỏ ra thoải mái, chỉ mong muốn không bị làm nhục. Théotime tìm thấy những cách mới để tự thể hiện mình. Giờ đây điều rắc rối là ông ta không biết phải làm gì. Ông ta có thể thích sống bên ngoài vai trò thực của mình – chiếm đoạt sự điều hành của cửa hiệu, hoặc cảm thấy (trong khi vẫn vui thú với cuộc sống trong nhà kho) rằng ông ta đang điều hành cửa hiệu. Dù vậy ông ta cũng biết rằng ông ta chẳng biết gì cả, ông ta biết rằng tôi biết ông ta không biết gì cả, và ông ta giống như một người giận dữ với sự không biết gì của mình. Ông ta lặp đi lặp lại một vài trò. Ông ta say sưa, tức tối và đe doa, và là một kiểu tức tối có tính toán như là một quan chức đã quyết định phải malin. Thật là lạ. Ông ta muốn tôi công nhận ông ta là chủ. Và cùng lúc ông ta lại muốn tôi phải đoái hoài đến ông ta, một người đàn ông không được giáo dục. Ông ta muốn có cả sự kính trọng lẫn sự bao dung của tôi, thậm chí cả lòng thương xót của tôi. Nhất là khi ông ta muốn tôi cư xử như một thuộc hạ và ủng hộ ông ta. Nếu như đáp lại, tôi làm vậy, nếu tôi mang một thứ giấy tờ đơn giản nào đó của cửa hiệu đến cho ông ta, quyền lực của ông ta hẳn là sẽ có thật lắm. Ông ta thêm điều đó vào ý tưởng về vai trò của mình, và ông ta có thể sử dụng quyền lực đó sau này để nặn ra một sự nhượng bộ. Như là ông ta đã làm với chiếc xe. Còn tệ hơn là làm việc với một quan chức malin. Vị quan chức vờ như bị xúc phạm – và gào vào bạn, chẳng hạn, rụt tay khỏi bàn ông ta – chỉ đơn giản là đòi tiền mà thôi. Théotime, nhanh chóng chuỷên từ một sự tự tin đơn giản vào vai trò của mình đến chỗ hiểu ra sự vô dụng của mình, muốn bạn phải vờ coi ông ta là một kiểu người khác. Điều này không có gì đáng buồn cười. Tôi đã giải quyết nó để được yên tĩnh với việc riêng của mình, để đặt đầu óc vào mục tiêu riêng của mình. Nhưng thật không dễ để có thể được yên ổn. Cửa hiệu trở thành một nơi thật đáng ghét với tôi. Còn tệ hơn với Metty. Những công việc nhỏ nhặt nó làm cho Théotime thoạt tiên đã trở thành những việc nó bị đòi hỏi phải làm và bị nhân lên rất nhiều. Théotime bắt đầu bắt Metty đi làm những công việc lặt vặt rất đáng ngán. Buổi tối muộn, khi nó trở về nhà sau khi ở chỗ gia đình nó, Metty vào phòng tôi và nói "Cháu không chịu được nữa rồi, patron. Rồi một ngày cháu sẽ làm điều gì đó khủng khiếp. nếu Théo không chịu dừng lại, cháu sẽ giết lão. Cháu thà cày cuốc ở ngoài đồng còn hơn là làm người hầu cho lão". ... Mời các bạn đón đọc Khúc Quanh Của Dòng Sông của tác giả V. S. Naipaul.
Khi Người Con Gái Lên Núi - Pearl S. Buck
Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ; Những mảnh hồn sầu xứ. Khi người con gái lên núi *** Viên phi công bay lượn vòng chầm chậm để tìm kiếm, vì bây giờ họ ở ngay trên đỉnh núi. Ðó là một dãy núi trơ trụi, chỉ có một vài bụi cây xanh. Viên phi công gật đầu, và nàng nhìn xuống. Kìa, ở giữa hai mỏm núi là một thung lũng thấp, và trong thung lũng có nhiều căn nhà thấp xây bằng đá. Một bức tường bao quanh những căn nhà này. Ðây đúng là trại của đảng cướp Sói Xanh. Quanh gần đấy chẳng có gì cả. Hơn nữa, viên phi công đã tới văn phòng của tòa án và hỏi địa điểm chính xác của ngọn núi. Họ đã cho viên phi công một bản đồ. Mọi người đều biết nơi những tên cướp sống, vì các thương gia đã được cảnh cáo không được đi qua cái đèo của ngọn núi. Viên phi công bắt đầu bay thấp xuống. Gió bắt đầu giảm và bây giờ nàng có thể hét to vào tai viên phi công: “Anh phải chờ tại đây và để máy nổ sẵn sàng. Ngay lúc chúng tôi ra, anh phải sẵn sàng cất cánh ngay! Chúng tôi có lẽ phải chạy ra thật nhanh mới thoát chết.” Viên phi công gật đầu. Bên dưới họ, những hình dáng người nhỏ bé đang tụ tập bên ngoài những căn nhà đá. Nàng có thể trông thấy mặt họ ngẩng lên, những cánh tay giơ lên chỉ trỏ. Chiếc phi cơ bỗng nhiên hạ xuống, và những người đang tụ tập bên dưới hoảng hốt tản mát ra. Nàng bảo viên phi công, “Họ sợ đấy. Họ chưa bao giờ trông thấy phi cơ. Nhớ để máy lúc nào cũng sẵn sàng!” Viên phi công lại gật đầu, và nàng cảm thấy phi cơ đụng vào mặt đất một hai lần rồi dừng lại và tiếp tục rung chuyển. Những người đàn ông nhìn ra cửa và bước lại phía họ, nửa tò mò nửa sợ sệt. Nàng nhảy xuống đất một cách nhẹ nhàng, bước lại phía họ, và mạnh dạn hỏi họ. “Chủ tướng của các ngươi đâu? Ta tới gặp ông ta.” Nàng định không nói gì tới tên Thiếu Hổ, sợ có thể bị bắt làm tù binh. Không, hãy để mặc họ đoán xem nàng là ai.     Không một người nào trả lời. Họ nhìn lẫn nhau. Nếu nàng chưa bao giờ trông thấy loại người như họ thì nàng đã sợ hãi họ rồi. Nhưng nàng biết họ - họ cùng là một loại người thô lỗ, những người hung dữ bất mãn, sẵn sàng đi theo bất cứ tướng cướp nào. Nàng nhắc lại, nhỏ nhẹ, “Các người nên nói đi. Ta tới đây với tin tức quan trọng cho ông ta. Các ngươi thấy đó, ta tới đây một cách vội vàng, bằng một con tầu, bay trong không khí.” Một tên tò mò hỏi, “Cái đó là gì thế? Khi tôi trông thấy nó, tôi tưởng nó là một con chim đại bàng.” Một tên khác nói, “Chúng tôi từng nghe nói đến tầu bay, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy.” Cả bọn giống như những đứa trẻ lớn con, chỉ muốn sờ vào cái vật lạ mà chúng sợ hãi. ... Mời các bạn đón đọc Khi Người Con Gái Lên Núi của tác giả Pearl S. Buck.
Kinh Thánh Của Một Người - Cao Hành Kiện
Cao Hành Kiện trò chuyện tại New York City: Hỏi: Vì sao cuốn tiểu thuyết có tên gọi là "Kinh Thánh Của Một Người", vì sao trong hồi ức khủng khiếp về những đau khổ, buồn bã và bạo tàn xuyên suốt ba thập niên đầu của nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Hoa này ông lại dùng phụ nữ, nhất là những chuyện tình dục với phụ nữ, làm cách lấy lại ký ức đã mất, thu góp lại những kinh nghiệm đã mất? Trả lời: Câu hỏi rất hay và rất đáng chú ý, và tác giả phải nói rằng đó tất nhiên là kinh thánh của một người. Nhưng mặt khác, nó không giới hạn ở kinh thánh của một người. Đó còn là nói về một cá nhân, một dân tộc nói chung, về cách nhân dân đã sống qua được những khủng hoảng và sống qua được những tai hoạ và bạo tàn. Điều tác giả quan tâm hơn nhiều là họ không phải là những anh hùng, như vậy câu hỏi là: làm thế nào sống qua được các thảm hoạ và khủng hoảng lại là anh hùng được, bởi vì đây là cách phát hiện chỗ yếu của con người? Nếu ai cũng là anh hùng thì các thảm hoạ mà loài người phải đương đầu mới có ý nghĩa được. Vì thế một mặt tác giả trần thuật, mô tả các cuộc khủng hoảng chính trị và tình hình chính trị, và mô tả nó thật chi tiết và cẩn trọng. Mặt khác, tác giả cũng mô tả các đặc điểm và chỗ yếu của cá nhân, và cũng muốn nắm bắt chúng thật cặn kẽ. Và khi đó vấn đề đặt ra là anh dùng tiêu chuẩn nào để phán xét những con người này, dùng loại tiêu chuẩn đạo đức hay luân lý nào để phán xét họ. "Không phải anh không nhớ rằng mình đã từng có một cuộc đời khác, giống như vài tấm ảnh của gia đình chưa bị tiêu huỷ nay đã ố vàng, nghĩ lại khiến người ta ít nhiều âu sầu thương cảm, nhưng vời vợi quá và tựa hồ cách xa nhau cả kiếp sống. Tất cả đã mãi mãi tiêu vong. Nhà anh ở Bắc Kinh bị cảnh sát lục soát niêm phong, nơi ấy đã lưu giữ một tấm ảnh chụp chung cả gia đình mà người cha quá cố còn để lại, đó là tấm hình đầy đủ nhất các thành viên trong đại tộc. Lúc ấy ông nội anh còn sống, đầu bạc phơ, vì bị trúng gió không thể nói năng gì nữa, nằm trên một chiếc ghế xoay. Anh là con cả, cháu đích tôn, là đứa trẻ duy nhất trong tấm ảnh, đứng chen giữa ông bà nội, mặc quần hở đáy, bày cả chim ra ngoài, nhưng trên đầu lại đội mũ calô kiểu Mỹ. Đó là cái thời kháng chiến tám năm vừa chấm dứt và một cuộc nội chiến khác sắp bắt đầu, nở rộ cúc vàng hoàng kim và mào gà đỏ tím, ánh nắng một ngày cuối hạ còn vô cùng rực rỡ chiếu rọi khắp thế gian. Những gì gọi là kí ức của anh về hoa viên là như vậy, tấm ảnh bị dính nước đã ngả sang màu vàng xám. Cảnh phông của tấm ảnh là toà lầu hai tầng kiểu Anh quốc nằm phía sau cổng tròn, dưới có hành lang vòng, trên có lan can và cả đại gia đình anh đã sống ở nơi ấy. Anh nhớ số người trong tấm ảnh là mười ba, một con số không lấy gì làm may mắn cho lắm, có cha mẹ anh, đầy đủ các cô, chú và một người thím. Ngoại trừ cô cả đang ở Mỹ và anh ra, toàn bộ những người trong ảnh, cùng toà lầu phía sau cổng tròn ấy đều đã bị xoá hết dấu vết trên thế gian này... Ngân Xuyên dịch từ tiếng Anh *** Cao Hành Kiện (4/1/1940) là một nhà văn, nhà viết kịch, nhà phê bình người Trung Quốc đầu tiên và là công dân Pháp thứ 13 được trao Giải Nobel Văn học trong suốt 100 năm qua. Ông cũng còn được biết đến với tư cách là một dịch giả, đạo diễn sân khấu và họa sĩ. Ông sinh ra và lớn lên ở Cống/Cám Châu, Giang Tây, Trung Quốc. Ông tốt nghiệp trường Đại học Ngoại ngữ Bắc Kinh năm 1962 ngành tiếng Pháp. Sau khi tốt nghiệp ông được phân công đến Cục xuất bản ngoại văn làm phiên dịch. Trong thời kỳ Cách mạng Văn hóa (1966-1976) ông đã bị đưa vào trại học tập cải tạo và phải âm thầm thiêu hủy cả một va-li đầy bản thảo tác phẩm của mình, trong đó có một vài cuốn tiểu thuyết chỉ chờ ngày xuất bản và 15 vở kịch. Sau đó, ông bị gửi vào trại cải tạo giáo dục mất 7 năm. Năm 1975 ông trở về Bắc Kinh, làm việc tại Cục xuất bản Ngoại văn. Đến năm 1978 ông nhận chức phiên dịch cho Hiệp hội tác gia Trung Quốc. Năm 1980 ông về làm công tác biên kịch tại Kịch viện Nghệ thuật Nhân dân Bắc Kinh. Cao Hành Kiện là một trong những văn nghệ sĩ tiền phong của Trung Quốc đã cổ vũ, đấu tranh cho quyền sáng tác văn nghệ tự do và đích thực. Chính phủ Trung Quốc đã từng coi ông là một phần tử chống đối và các tác phẩm của ông đã bị cấm lưu hành từ năm 1986. Ông đã bỏ Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1989 sau vụ thảm sát Thiên An Môn. Năm 1988, ông sang Pháp sinh sống và nhập quốc tịch Pháp từ 1998, hiện cư ngụ tại ngoại ô Paris, khu Bagnolet. Mười chín năm sống ở Pháp, ông đã tập trung vào viết sách, soạn kịch và triển lãm nghệ thuật. Vào năm 1992 ông đã giành được giải Chevalier de l'Ordre des Arts et des Lettres (Huân chương về Văn học và Nghệ thuật) của Chính phủ Pháp. Sau khi ông đoạt giải Nobel năm 2000, báo chí Trung Quốc không rầm rộ về việc này, nhưng tờ báo ra hằng ngày Tin tức buổi chiều Dương Thành, vào năm 2001, trong một cuộc chỉ trích về Linh Sơn đã gọi ông là một "nhà văn dở tệ" và nói rằng việc ông đoạt giải Nobel thật là lố bịch. Linh Sơn là một tác phẩm nổi tiếng của ông, tổng hợp nhiều hình thái và thể loại văn chương gồm hồi ký, chuyện tình, phóng sự xã hội, thực tế, hư cấu, triết lý, đối thoại, độc thoại... hoà quyện vào nhau. Giáo sư Lee Mabel, người dịch tác phẩm Linh Sơn sang tiếng Anh (Soul Mountain) đã nhận định: "Linh Sơn là câu chuyện của người đi tìm sự an bình và tự do bên trong". Cao Hành Kiện còn là một họa sĩ vẽ tranh thủy mặc độc đáo. Ông đã cho tổ chức khoảng 30 cuộc triển lãm tranh khắp nơi trên thế giới và nhận được nhiều lời khen ngợi. *** Một mùa đông nữa lại đến. Đêm đã về khuya, anh vặn nhỏ đèn bàn, chui vào chăn thì nghe tiếng gõ nhẹ lên kính cửa. - Ai ngoài đó? - Dạ em. Anh đoán không ra giọng người con gái ấy là ai, vẫn quần đùi, chân trần anh vội mở cửa, rồi để mặc cho cô ta khép lại, gài then, còn mình thì lao vào ổ chăn vì lạnh và xấu hổ. Cô gái đó là Tiêu Tiêu, nữ sinh trung học. Tiêu Tiêu tháo khăn len trùm kín đầu làm lộ rõ khuôn mặt trắng bạch, giá lạnh. Anh hốt hoảng hỏi gấp: - Có chuyện gì phải không, Tiêu Tiêu? - Dạ không - Tiêu Tiêu ngẩng đầu nhìn anh, lúc này anh vẫn ngồi trên giường và đôi chân giấu kín trong chăn. - Mở lò sưởi đi, chết cóng rồi kìa. Tiêu Tiêu cùng một toán học sinh trung học tự nguyện đến cơ quan anh đi thực tế tham gia phong trào, và nhanh chóng cũng phân chia thành hai phái. Cô bé này và một vài bạn nữa ngã về phe anh, nhưng rồi như gió thổi, dao động không kiên định, ồn ào được mấy hôm là chuồn thẳng, chỉ mỗi Tiêu Tiêu còn ở lại. Khác với bạn học của mình hung hăng sôi nổi, Tiêu Tiêu rất tĩnh lặng ngồi nghe, xem báo, hoặc sao chép đại tự báo; cô gái viết bút lông cũng khá, và nhẫn nại, chịu khó. Lần ấy chép xong loạt bài đại tự báo, căng dán đây đó hoàn tất thì đã chín giờ đêm, Tiêu Tiêu bảo nhà cô ta ở Cổ Lâu, thuận đường về anh đã đèo Tiêu Tiêu luôn một thể, anh bảo Tiêu Tiêu cùng vào phòng mình nấu tí mì lót dạ. Anh tiếp tục đèo Tiêu Tiêu đến một con hẻm thì cô ta nhảy xuống, chưa kịp nghe hai chữ “đến rồi”, anh chẳng còn thấy Tiêu Tiêu đâu nữa. - Em ăn uống gì chưa? Tiêu Tiều gật đầu, lửa lò sưởi làm ấm căn phòng và làm đôi má cô ta ửng đỏ. Cũng đã lâu anh và Tiêu Tiêu không có dịp gặp nhau nên rất nóng lòng muốn biết lí do vì sao giữa đêm hôm khuya khoắt thế này mà cô bé phải đường đột xuất hiện. - Dạo này đang làm việc gì? - Dạ không làm gì cả. - Thế ở nhà trường cũng không nốt hay sao? - Tất cả các cánh cửa kính đều bị đập vỡ tan tành, gió lùa vào lạnh ngắt, chẳng ai buồn đến lớp; chỉ chạy lung tung đây đó, không còn biết làm gì. - Như vậy lại càng tốt, được nghỉ học, không thích à? Tiêu Tiêu im lặng, anh rướn lên kéo cái quần dài định mặc vào để xuống giường thì cô gái ngăn anh: - Anh cứ nằm thế, chẳng có việc gì đâu, đến nói chuyện với anh cho đỡ buồn. ... Mời các bạn đón đọc Kinh Thánh Của Một Người của tác giả Cao Hành Kiện.