Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tuyết Hoa và Cây Quạt Bí Mật - Lisa See

Câu chuyện ám ảnh, đẹp đẽ và buồn khôn xiết về nỗi khao khát khắc khoải, mãnh liệt đến mức sống để bụng chết mang đi này được viết bằng giọng văn mạnh mẽ đặc trưng của See. Với câu chuyện lay động về những người đàn bà viết nữ thư ở một vùng đất xa xôi của Trung Quốc vào thế kỷ XIX, Tuyết Hoa và cây quạt bí mật nhanh chóng cuốn độc giả vào một trải nghiệm đọc giàu có và lộng lẫy. Văn hóa Trung Quốc, những cụm từ hẳn khá quen thuộc với nhiều độc giả: “bó chân”, “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, “trọng nam khinh nữ”… bỗng ùa tới trong một không gian khác lạ của Lisa See, một người sinh ra ở Paris, lớn lên ở Los Angeles nhưng mang trong mình một phần dòng máu Trung Hoa. Không có sự phá cách ồn ã, song từ cách tiếp cận gần gũi và đậm sắc thực tế của tác giả lớn lên ở phương Tây với chính vùng đất xảy ra câu chuyện, đã đẩy cuốn sách bước ra khỏi những lối mòn nặng nề định kiến mà người ta vẫn thường hình dung về văn hóa Trung Hoa, với những hủ tục nghiệt ngã cùng thân phận đắng cay của người đàn bà trong xã hội. Trong Tuyết Hoa và cây quạt bí mật, đó là một ám ảnh mạnh mẽ về mối quan hệ lão đồng, mối kết giao đặc biệt giữa hai người con gái nguyện thề với nhau “dù cách xa vạn dặm vẫn như hai dòng suối cùng đổ về một sông, như hai đóa hoa nở cùng một vườn, sẽ ở bên nhau cho đến khi nhắm mắt xuôi tay”. Đó không chỉ là một tình bạn gắn kết và sẻ chia, nó thực sự là một liều thuốc quý, một thứ men khiến hai người phụ nữ - Bách Huệ và Tuyết Hoa - có chỗ dựa duy nhất, trong những lúc cô độc tưởng như không thể chạm vào đâu để bấu víu. Và nữ thư được sống trong những trái tim đầy khao khát của những người đàn bà ít có dịp bước ra khỏi ngôi nhà của mình ấy. Cho dù có những sự thật được che giấu suốt mười năm mới có dịp phanh phui, cho dù sự chênh lệch về địa vị giữa họ sau này, cho dù thời gian không ngừng trôi qua và cả một hiểu lầm đáng tiếc xảy đến… họ đã bằng mọi cách để ở bên nhau, hơn cả những người chị em ruột thịt. Vẻ đẹp của mối thâm tình ấy khiến câu chuyện mang đầy sức nặng trong những khát khao được yêu thương mãnh liệt, giấu mình trong những bản nữ thư, thứ ngôn ngữ độc nhất vô nhị mà người phụ nữ Trung Quốc đã sáng tạo ra để có thể bí mật liên lạc với nhau, thoát khỏi sự kiểm tỏa của nam giới. Trên hành trình mong manh song đầy sâu lắng của những bản nữ thư trên khăn thêu hay viết bằng bút lông trên quạt giấy, người đọc sửng sốt khi khám phá không gian mới mẻ trong Tuyết Hoa và cây quạt bí mật. Vẫn là đau thương bi ai của những cô gái trẻ bước vào thời kỳ đầu bó chân, có cả tiếng thét xé trời trong tiếng xương chân gẫy trước niềm vui hân hoan của người mẹ, những thì thầm an ủi về viễn cảnh có gót sen ba tấc sẽ được lấy một người chồng giàu sang cho dù các cô gái có thể bỏ mạng về điều đó, niềm hạnh phúc nhất đời của người đàn bà là đẻ con trai… Sự mới mẻ được mở ra là vẻ đẹp sâu xa trong những nỗi đau ấy. Bài học đầu tiên của những bé gái là sự cam chịu đến nhẫn nhục thân phận bị khinh rẻ của mình, mà về sau Tuyết Hoa chấp nhận để anh chồng đồ tể đánh đập tàn nhẫn, còn Bách Huệ im lìm trong mọi khoảnh khắc ân ái với chồng. Cả một thế hệ phụ nữ Trung Hoa chịu đựng và truyền lại cho nhau trong những căn buồng phụ nữ dưới sự phong tỏa của hai nguyên tắc Khổng giáo: tứ tức và tam tòng. Không một ai trong số họ muốn vượt khỏi vòng kiểm tỏa khắc nghiệt ấy, vì cho rằng đó là bổn phận, nhưng họ đã chứng tỏ vị trí của mình trong gia tộc, ngay cả anh chồng đồ tể vốn thường xuyên đánh đập Tuyết Hoa đã khóc khi đến phút cuối đời mới nhận ra giá trị của vợ mình. Nó khiến độc giả khi ngoái đầu về những ngày chưa xa ấy, hiểu hơn về những người dân Trung Quốc ấy không phải dưới ánh mắt thương hại về sự mê muội, mà ngập tràn sự chia sẻ, bởi họ thuộc một phần của nền văn hóa trong quá khứ với những nguyên tắc được xã hội chấp nhận và thừa nhận. Có lẽ Lisa See đã đi tìm nữ thư bắt đầu từ một phần dòng máu Trung Hoa chảy trong mình. Rất nhiều tình tiết trong cuốn tiểu thuyết được khởi nguồn từ thực tế, biến thành dòng chảy qua sự tái tạo của một nhà văn, càng khiến câu chuyện trở nên thật sự thuyết phục. Lồng trong bức phác họa thật đẹp về tình bạn và sức mạnh của người phụ nữ, thứ văn phong tao nhã ẩn giấu sự mạnh mẽ đặc trưng của Lisa See đã làm nên một tác phẩm mê hoặc lòng người. Tuyết Hoa và cây quạt bí mật đã được chuyển ngữ sang nhiều thứ tiếng và bản quyền được bán cho 36 quốc gia. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết nằm trong danh sách best-seller của New York Times, đồng thời được xem như "lựa chọn số một" của Booksense, giành được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế. *** Tôi là người mà dân trong thôn gọi là "kẻ lọt sổ tử thần" - một bà góa tám mươi. Sống thiếu chồng, ngày đối với tôi thật dài. Tôi chẳng buồn để ý đến những món ăn đặc biệt mà Mẫu Đơn và người khác dọn cho nữa. Tôi cũng không còn mong chờ những sự kiện vui vẻ đã thành lệ của gia đình. Giờ đây, tôi chỉ đăm đăm hướng về quá khứ. Sau ngần ấy thời gian, cuối cùng tôi cũng đã có thể nói ra những điều mà trước đây, khi còn chịu ơn sinh dưỡng của cha mẹ cũng như ơn nuôi nấng của nhà chồng, tôi không thể. Tôi có cả một cuộc đời để kể lại; tôi chẳng còn gì để mất và cũng chẳng có mấy thứ phải kiêng kỵ. Tôi đã sống đủ lâu để hiểu thấu những cái hay cái dở của bản thân, mà cái hay cái dở đó xét cho cùng cũng chỉ là một. Suốt cả cuộc đời tôi luôn khao khát tình yêu. Tôi biết khát khao và mong đợi điều đó thì thực không phải đạo chút nào, cả khi còn con gái lẫn khi đã trở thành đàn bà, nhưng tôi vẫn khao khát, và chính cái khát vọng không chính đáng này là gốc rễ của mọi muộn phiền trong cuộc đời tôi sau này. Tôi từng ước mơ rằng mẹ sẽ chú ý đến tôi, rằng bà và mọi người trong gia đình sẽ dần yêu thương tôi. Để giành được tình cảm của họ, tôi đã tỏ ra biết vâng lời - một phẩm chất lý tưởng cho những người thuộc giới nữ như tôi - nhưng tôi lại quá sẵn sàng làm bất kỳ điều gì họ bảo. Hy vọng họ sẽ tỏ ra ân cần với tôi dù chỉ là chút ân cần nhỏ bé nhất, nên tôi đã cố gắng đáp ứng mong mỏi của họ - phải có được một đôi chân bó vào loại nhỏ nhất vùng - vì thế tôi chấp nhận để cho người ta bóp vỡ xương ra rồi khuôn lại thành một hình dạng đẹp hơn. Khi nhận ra mình không thể chịu đựng thêm một phút đau đớn nào nữa, nước mắt tôi rơi xuống đôi chân bị bó nhuộm máu, mẹ thì thầm vào tai động viên tôi cố vượt qua thêm một giờ, một ngày, rồi một tuần nữa, nhắc tôi nghĩ đến những phần thưởng tôi sẽ được hưởng nếu cố thêm chút nữa. Cứ như thế, mẹ dạy tôi cách chịu đựng - không chỉ những đau đớn về thể xác như việc bó chân hay sinh nở, mà còn là những nỗi đau day dứt hơn trong tâm, trong trí và trong hồn. Mẹ cũng chỉ ra những nhược điểm của tôi và hướng dẫn tôi làm thế nào để biến chúng thành lợi thế. Ở đất nước tôi, người ta bảo những người như mẹ là thống ái. Con trai tôi bảo rằng về chữ viết thì từ thống ái gồm hai chữ, thống nghĩa là nỗi đau, ái nghĩa là yêu. Đó là tình yêu của người mẹ. Việc bó chân không chỉ làm biến đổi đôi chân tôi mà còn biến đổi toàn bộ cá tính của tôi, và theo một cách kỳ lạ nào đó, tôi cảm thấy dường như quá trình đó vẫn tiếp diễn suốt cả đời mình, biến tôi từ một con bé yếu đuối thành một cô gái cả quyết, rồi từ một người phụ nữ trẻ tuyệt đối phục tùng nhà chồng trở thành người đàn bà có địa vị thuộc hàng cao nhất trong huyện, thi hành những luật lệ và tập tục thôn xã hà khắc. Cho đến năm bốn mươi tuổi, sự cứng rắn khi bó chân từ đôi gót sen ba tấc đã ăn sâu vào trái tim tôi, vốn vẫn khư khư giữ lấy những ký ức về sự bất công và lòng oán hận dai dẳng đến độ tôi không bao giờ có thể tha thứ cho những người tôi yêu và cho những người yêu tôi. Sự nổi loạn duy nhất của tôi bộc lộ ở nữ thư, thứ chữ viết bí mật của nữ giới chúng tôi. Vụ vượt rào đầu tiên của tôi là vào lúc Tuyết Hoa - lão đồng của tôi, người bạn viết thư bí mật của tôi - gửi cho tôi một chiếc quạt đang nằm trên bàn của tôi đây, và rồi tiếp tục viết thư cho tôi trên chiếc quạt sau khi chúng tôi gặp nhau. Tuy vậy, ngoài lúc ở bên Tuyết Hoa ra, tôi quyết tâm trở thành người vợ đảm, nàng dâu thảo, và người mẹ hiền. Vào những thời kỳ khó khăn, trái tim tôi trở nên rắn như đá vững như đồng. Tôi có một sức mạnh tiềm tàng để chống chọi với đau khổ và bi kịch. Nhưng giờ tôi lại đang ở đây, là một quả phụ, ngồi im lặng theo truyền thống, và tôi hiểu rằng mình đã mù quáng suốt bao năm ròng. Ngoại trừ ba tháng khủng khiếp vào năm thứ năm thời vua Hàm Phong, tôi sống trong căn buồng phụ nữ ở trên gác. Vâng, tôi đã đi đến Miếu Cô Bà, quay trở lại nơi chôn nhau cắt rốn, thậm chí đến thăm Tuyết Hoa, nhưng tôi chẳng biết gì ngoài địa hạt của mình. Tôi nghe đàn ông bàn luận về thuế má, về hạn hán, về những cuộc nổi dậy; nhưng những chủ đề ấy quá xa vời với cuộc sống của tôi. Những gì tôi có thể làm là thêu thùa, may vá, nấu nướng, chăm lo cho gia đình chồng, con cái, cháu chắt tôi, và viết nữ thư. Cuộc đời tôi là một cuộc đời diễn tiến tuần tự bình lặng - thời ấu thơ, tuổi vấn tóc cài trâm, những tháng ngày gạo muối, và giờ đây là chuỗi ngày ngồi im lặng. Vậy nên, giờ tôi ngồi đây một mình với những ý nghĩ và chiếc quạt trước mặt. Khi tôi nhấc nó lên, thật kỳ lạ, tôi thấy nó nhẹ bẫng trên tay tôi, bởi nó đã ghi dấu biết bao sướng vui, biết bao đau buồn. Tôi xòe nó ra, và mỗi thanh âm mà các nếp gấp tạo ra lại gợi tôi nhớ về những rung động của trái tim. Những ký ức vụt qua trước mắt tôi. Bốn mươi năm nay, tôi đã đọc đi đọc lại biết bao lần đến mức thuộc lòng như những bài hát của tuổi thơ. Tôi còn nhớ cái ngày bà mối đưa nó cho tôi. Những ngón tay tôi run run khi mở các nếp gấp. Rồi tôi thấy một vòng lá giản dị được trang trí ở mép quạt và một dòng thư từ từ lộ ra sau nếp gấp đầu tiên. Lúc đó, tôi không biết nhiều chữ trong nữ thư cho lắm, nên thím tôi đã đọc cho tôi nghe. "Mình được biết trong nhà bạn có một cô bé tính tình thùy mị nết na, hiểu đạo công dung ngôn hạnh. Bạn và mình sinh cùng ngày, cùng năm. Sao chúng ta không trở thành đôi bạn tương giao của nhau nhỉ?" Bây giờ tôi nhìn vào cái nhúm lông mềm mại đã viết nên những dòng chữ này và không chỉ thấy lại Tuyết Hoa thời con gái mà còn nhìn thấy Tuyết Hoa khi đã trở thành một người đàn bà - người đàn bà bền bỉ, thẳng thắn và vị tha. Tôi đưa mắt nhìn theo những nếp gấp và thấy lại sự lạc quan phơi phới và niềm vui của chúng tôi, sự ngưỡng mộ lẫn nhau và những điều chúng tôi đã hứa với nhau. Tôi thấy chiếc vòng đơn giản này đã trở thành một kết cấu tinh xảo bằng những bông tuyết xen kẽ với bông huệ để tượng trưng cho cuộc đời của chúng tôi song hành bên nhau như một cặp lão đồng ra sao. Tôi thấy vầng trăng chênh chếch về bên phải trên bầu trời đang rọi xuống chúng tôi. Chúng tôi tựa như đôi cây dây leo rễ quấn vào nhau, như đôi cây cổ thụ đã đứng đó hàng nghìn năm, như đôi uyên ương làm bạn với nhau suốt cuộc đời. Trong một nếp gấp, Tuyết Hoa viết, chúng ta yêu thương nhau thắm thiết và sẽ mãi mãi không bao giờ lìa xa. Nhưng trong một nếp gấp khác, tôi thấy những hiểu lầm, niềm tin đổ vỡ, và cuối cùng cánh cửa khép lại. Với tôi, tình yêu là thứ tài sản quý báu mà tôi sẽ không thể chia sẻ cho bất kỳ ai, và rốt cuộc chính điều đó đã khiến tôi với người bạn giống tôi ấy chia lìa nhau. Tôi vẫn đang tiếp tục học về tình yêu. Tôi nghĩ là tôi hiểu được nó - không chỉ tình mẫu tử, mà còn là tình yêu với song thân, tình phu phụ và cả tình cảm với lão đồng nữa. Tôi đã trải nghiệm nhiều kiểu tình cảm khác nhau - nỗi trắc ẩn, sự kính trọng, lòng biết ơn. Nhưng nhìn vào những bức thư mà tôi và Tuyết Hoa đã viết cho nhau trên chiếc quạt bí mật trong nhiều năm, tôi nhận ra rằng mình đã không biết quý trọng thứ tình yêu quan trọng nhất - tình yêu từ sâu thẳm con tim. Trong những năm cuối đời này, tôi ghi lại tiểu sử hộ nhiều người phụ nữ khác chưa từng học nữ thư. Tôi lắng nghe mọi nỗi buồn và lời than vãn, mọi bất công và bi kịch. Tôi đã chép lại cuộc đời bất hạnh của những con người khốn khổ theo niên đại. Tôi lắng nghe tất cả và ghi lại tất cả. Nhưng nếu như tôi biết nhiều về chuyện của đàn bà, thì tôi lại hầu như chẳng biết chút nào về chuyện của đàn ông, trừ chuyện họ không phải là anh nông dân chống chọi với thiên nhiên thì là người lính trên chiến trường, hoặc một người cô độc đang tự vấn chính mình... Nhìn lại cuộc đời mình, tôi thấy và con người mà tôi cần phải trở thành. Tôi viết những trang này cho những người đang an nghỉ dưới suối vàng. Mẫu Đơn, cháu dâu tôi, hứa chắc chắn sẽ đốt hết tất cả ngay khi tôi nhắm mắt xuôi tay, vì thế câu chuyện của tôi sẽ đến với họ trước cả linh hồn tôi. Hãy để những lời này giải thích cho hành động của tôi với ông bà tổ tiên tôi, với chồng tôi, nhưng trên hết là với Tuyết Hoa, trước khi tôi gặp lại họ. điều đó được rút ra từ chính những câu chuyện về đàn ông và đàn bà. Tôi chỉ là một người đàn bà hèn mọn với những ta thán đời thường, nhưng trong thâm tâm tôi cũng diễn ra một cuộc vật lộn như cuộc vật lộn của đàn ông, giữa bản chất đích thực của tôi. ... Mời các bạn đón đọc Tuyết Hoa và Cây Quạt Bí Mật của tác giả Lisa See.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tiểu Thư Victoria
Trong tác phẩm Tiểu thư Victoria, Hamsun miêu tả câu chuyện tình bi thảm của giới trẻ, ý thức của họ về mất mát và khao khát, với sự đồng cảm và chia sẻ. Đó là câu chuyện tình yêu lãng mạn, say đắm của Johannes - con trai một thợ xay bột mì nghèo và nàng Victoria xinh đẹp, con gái một chủ lâu đài. Nhưng số phận trớ trêu đã khiến họ không thể đến được với nhau. Những định kiến xã hội về tầng lớp, gia đình và những biến cố dữ dội xảy ra trong cuộc đời Victoria đã đem lại một câu chuyện buồn... Chuyện hấp dẫn người đọc với đầy đủ trạng thái của cảm giác, với hình ảnh sinh động và ngôn ngữ đầy sáng tạo. *** Knut Hamsun tên thật là Rnud Pedersen, (04.8.1859 - 19.02.1952) nhà văn Na Uy đoạt giải Nobel Văn học năm 1920. Ông là nhà văn làm đổi mới văn xuôi Na Uy và là người luôn cố gắng thể hiện đời sống tâm hồn vô thức.   Năm 1890, tác phẩm Sult (Đói) của ông được xuất bản, gây chấn động lớn trong văn giới bấy giờ với một bút pháp lạ lùng sâu thẳm, mô tả rất xác thực, tinh vi, nhưng đôi khi cũng khá hài hước những cảm xúc và ý tưởng của một nhà văn trẻ đang hồi khốn khó. Có lẽ đây là tác phẩm gây ấn tượng sâu sắc nhất cho giới phê bình học giả cũng như bạn đọc toàn cầu kể từ ngày nó ra đời cho tới nay. Tác phẩm này cũng đã được dựng thành phim hai lần. Lần thứ nhất năm 1966, do Henning Carlsen (sinh 1929) nhà sản xuất phim lừng danh người Đan Mạch đạo diễn; lần thứ hai năm 2001 do đạo diễn, biên kịch người Mỹ Maria Giese đạo diễn. Từ đó trở đi, bút lực của ông ngày càng dồi dào sung mãn. Về mặt bút pháp, ông là một trong những nhà văn cùng thời khác như James Joyce (1882-1941), Marcel Proust (1871-1922) và Virginia Woolf (1882-1941)… đã khai thác một cách tài tình thủ pháp Dòng ý thức ; hình thành nên trào lưu văn học hiện đại. Nếu không xét tới quan điểm chính trị của Knut Hamsun – vốn đã trăm phần trăm sai trái, không có gì cần bàn cãi nữa (có lẽ bản thân Knut Hamsun cũng đã nhận ra những sai lầm của ông trong quãng thời gian cuối đời), có thể khẳng định đa phần những di sản văn học mà ông để lại cho nhân loại là vô cùng quý báu. Và người đọc chúng ta có thể tri ân ông ở khía cạnh này. Một số tác phẩm: - Den Gaadefulde. En kjærlighedshistorie fra Nordland (Con người bí ẩn, dưới tên Knud Pedersen, 1877), tiểu thuyết - Bjørger (dưới tên Knud Pedersen Hamsund, 1878), tiểu thuyết  - Fra det moderne Amerikas Aandsliv (Cuộc sống tinh thần của xã hội Mỹ hiện đại, 1889), tiểu luận  - Sult (Đói, 1890), tiểu thuyết  - Fra det ubevidste sjaceleliv (Từ cuộc sống vô thức của tâm hồn, 1890), tiểu luận  - Mysterier (Những điều bí ẩn, 1892), tiểu thuyết  - Redaktør Linge (Biên tập viên Linge, 1893)  - Ny Jord (Đất mới, hoàn tất năm 1893)  - Pan (Quý ngài, 1894), tiểu thuyết  - Ved Rigets Port (Nơi cổng vương quốc, 1895), kịch  - Livets Spil (Trò đời, 1896)  - Aftenrøde. Slutningspil (Hoàng hôn, 1898), kịch  - Victoria. En kjærlighedshistorie (Victoria, 1898), tiểu thuyết  - Munken Vendt. Brigantines saga I (1902), kịch thơ  - Det vilde Kor (Bản hợp xướng hoang dã, 1904), thơ  - Under Høststjærnen. En Vandrers Fortælling (Dưới ngôi sao mùa thu, 1906), tiểu thuyết  - Benoni (1908), tiểu thuyết  - En Vandrer spiller med Sordin (Kẻ lang thang chơi đàn không dây, 1909), tiểu thuyết  - Den sidste Glæde (Niềm vui cuối cùng, 1912), tiểu thuyết  - Børn av Tiden (Những đứa con của thế kỉ, 1913), tiểu thuyết  - Segelfoss By (Thị trấn Segelfoss, 2 tập, 1915), tiểu thuyết  - Markens Grøde (Nhựa của đất, 2 tập, 1917), tiểu thuyết  - Konerne ved Vandposten (Những người đàn bà bên giếng, 2 tập, 1920), tiểu thuyết  - Siste Kapitel (Chương cuối, 2 tập, 1923), tiểu thuyết  - Landstrykere (Những kẻ lang thang, 2 tập, 1927), tiểu thuyết  - August (Tháng Tám, 2 tập, 1930), tiểu thuyết  - Ringen sluttet (Vòng vây đã khép, 1936), tiểu thuyết  - Paa gjengrodde Stier (Theo lối mòn hoang, 1949) *** Con trai người thợ xay bột mì vừa đi vừa suy nghĩ. Đó là một cậu bé có đôi vai rộng, khoảng mười bốn tuổi, da rám cháy vì gió và mặt trời, là một người có tài phịa ra đủ các chuyện. Lớn lên, cậu sẽ theo nghề làm diêm. Nghề này rất nguy hiểm, không thể đùa với nó được, vì hễ để lưu huỳnh dính vào các ngón tay, sau đó sẽ không một người nào đủ dũng cảm chìa tay cho anh bắt. Thế nhưng anh lại được bạn bè kính trọng vì thông thạo một nghề đáng sợ như vậy. Cậu vào rừng thăm các con chim của mình. Chim chóc ở đây đều là bạn cũ của cậu, cậu biết chỗ chúng làm tổ, hiểu ngôn ngữ chúng và biết bắt chước tiếng chúng để trả lời. Cậu thường cho chúng ăn các viên bột mì được xay ở chiếc cối xay nhà cậu. Những hàng cây mọc theo lối đi cũng là bạn cũ của cậu. Mùa xuân cậu lấy nhựa cây, còn mùa đông thì cậu chăm sóc chúng một cách tận tâm, rung tuyết khỏi cành để chúng khỏi gãy vì nặng. Thậm chí ở tít trên đỉnh núi, trong cái hang trước kia là nơi khai thác đá, không có hòn đá nào cậu không biết rõ. Cậu khắc chữ lên mặt các phiến đá rồi xếp lại theo thứ tự: tảng lớn chính giữa là ông linh mục, còn các tảng bé xung quanh là các con chiên ngoan đạo. Nói chung, cái hang đá bị bỏ quên này đã được chứng kiến đủ các trò chơi lạ lùng của cậu. Lúc này cậu đang rẽ sang bên và đi xuống bờ đập. Bánh xe của chiếc cối xay chạy bằng nước đang quay, tạo nên những tiếng ồn kinh khủng. Cậu thường đi dạo ở đây, vừa đi vừa nói chuyện thành tiếng với chính mình. Cậu có cảm giác như mỗi chiếc bong bóng nhỏ đều có cuộc sống riêng của mình, và có thể nói về một điều gì đấy, còn dòng nước tràn qua đập đổ xuống thì mỏng và thẳng đứng như những bó sợi trắng lấp lánh treo trên dây. Ở quãng sông phía dưới bờ đập có cá, và cậu đã nhiều lần tới câu ở đó. Lớn lên, cậu sẽ làm nghề thợ lặn. Chỉ làm nghề thợ lặn thôi, chứ không làm gì khác. Từ boong tàu, cậu sẽ nhảy ùm xuống biển để lạc vào một thế giới kì diệu, nơi các con sóng làm đung đưa các khu rừng hoang dã, còn tận dưới đáy là một lâu đài nguy nga bằng san hô, sẽ có một công chúa đứng bên cửa sổ lâu đài vẫy tay bảo cậu: "Mời chàng vào!"... Nhưng đúng lúc ấy cậu bỗng nghe có tiếng người. Đó là tiếng bố cậu đang gọi to: "Juhannes!". - Có người từ lâu đài tới tìm con. Họ cần người chở các cô cậu sang đảo. Juhannes vội rảo bước về phía lâu đài. Thế là cậu con trai của người thợ xay bỗng nhiên nhận được một ân huệ lớn. Trong thực tế, khu nhà của ông chủ trông chẳng khác gì một lâu đài nhỏ, một lâu đài đơn độc, huyền ảo giữa rừng xanh. Một dãy các cửa sổ hình bán nguyệt chạy dài theo tường và mái nhà dốc đứng của ngôi nhà gỗ được quét sơn trắng. Mỗi lần có khách, một ngọn cờ được cắm trên đỉnh chiếc tháp hình tròn. Khu nhà này được nhân dân trong vùng gọi là lâu đài, với một bên là bờ vịnh, bên kia là rừng rậm, còn thấp thoáng phía xa là những túp lều nông dân nhỏ bé. Juhannes gặp đám trẻ con nhà quyền quý ở bến và giúp chúng lên thuyền. Cậu biết chúng từ lâu - đó là con của ông chủ lâu đài và các bạn bè của họ từ thành phố tới. Mọi người đều đi giày cao cổ, và khi thuyền tới đảo, chỉ một mình Victôria - lúc ấy mới mười tuổi - đi đôi giày bé tí, nên chắc ai đó phải bế cô lên bờ. ... Mời các bạn đón đọc Tiểu Thư Victoria của tác giả Knut Hamsun.
Tiếng Nói Trong Nhà
Tiếng nói trong nhà được giải Nobel vǎn chương nǎm 1938. Jessica là con gái của bà bếp và người lái xe cho luật sư William Asher, ở Manchester, Vermont, Mỹ.  Khác với bố mẹ là những người quê mùa cục mịch, Jessica rất thanh mảnh, xinh đẹp. Lớn lên trong khu nhà của chủ nhân, Jessica được ông bà William thương mến, được gởi vào trọ học tại một Dòng Tu Nữ ở Canada. Cô hằng nuôi mộng được là con gái của chủ nhân.  Đến tuổi cập kê, Jessica bị mẹ ép gả cho Herbert, anh tài xế mới (thay thế cho bố cô đã từ trần). Bất mãn vì phải lấy một anh chàng thô lỗ, vô học, người ngợm như một con gấu, chỉ biết tình dục là trên hết, Jessica đã hoá điên.  Trong những lúc điên loạn, cô phát ngôn bừa bãi, và gieo vào lòng mọi người trong nhà mối nghi ngờ về mối quan hệ bất chính giữa cô và Edwin, cậu con trai thứ của ông William, cũng như giữa cô và ông chủ.  Phải chǎng đó là phản ứng qua mạnh của Jessica về một mộng mơ không được thoả mãn.  *** Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** N gôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biên thành phố Manchester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngay người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh.   Ngôi nhà của dòng họ Winter rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng tây. Nhờ mỏ vàng và thiết lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà.   Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thơi gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia. Ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, ba Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó.   Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thương tiếc rẻ vì trong mùa he chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manchester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay. ... Mời các bạn đón đọc Tiếng Nói Trong Nhà của tác giả Pearl S. Buck.
Tầng Đầu Địa Ngục
Bản dịch khác: Vòng Đầu Tác giả: Aleksandr Solzhenitsyn NXB Ngàn Khơi, 1971 Dịch giả: Vũ Minh Thiều Nguyên tác: В круге первом (1968) Tác phẩm Tầng đầu địa ngục do Nhà xuất bản Đất Mới chúng tôi gửi tới tay bạn đọc được dịch theo bản Anh văn The First Circle do Nhà Bantam Books ấn hành. Quyển này dày 674 trang và gồm 87 chương. Như các bạn đã thấy, tiểu thuyết Tầng đầu địa ngục của Aleksandr I. Solzhenitsyn diễn tả cuộc sống mất tự do trong tù ngục của những chính trị phạm Nga trên Liên bang Xô Viết. Chính tác giả từng sống trong những ngục tù này nên những gì ông viết lại đều rất trung thực, rất sống, làm rung động tâm hồn người đọc. Trong truyện, ông viết lại cuộc đời của rất nhiều tù nhân, mỗi tù nhân là một trường hợp đặc biệt, một cảnh ngộ riêng. Vì muốn diễn tả thật nhiều trường hợp bị tù đày nên trong The First Circle có quá nhiều nhân vật không liên lạc gì đến cốt truyện. Với mục đích làm cho cốt truyện được đúc kết hơn, có liên lạc hơn, chúng tôi đã lược bỏ một số trang khi dịch The First Circle sang Tầng đầu địa ngục. Việc lược bỏ của chúng tôi chỉ làm cho tác phẩm thêm trong sáng, chặt chẽ, cốt truyện vẫn còn nguyên, những nhân vật chính vẫn có đủ mặt. Giá trị văn chương của The First Circle, qua bản dịch của chúng tôi, theo chúng tôi nghĩ, chỉ có tăng chứ không giảm. Chúng tôi mong bạn đọc nhận xét, so sánh, nhận biết sự cố gắng của chúng tôi và đồng ý với chúng tôi rằng khi chuyển ngữ một tác phẩm tiểu thuyết ngoại ngữ sang tiếng Việt, đôi khi việc lược bỏ vài đoạn không liên hệ đến cốt truyện là việc làm cần thiết và hợp lý. Trân trọng cám ơn bạn đọc. Nhà xuất bản Đất Mới. *** Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn là nhà văn, nhà viết kịch của Liên Bang Xô Viết và Liên Bang Nga đoạt giải Nobel Văn học năm 1970. Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn sinh ở Kislovodsk, vùng bắc Kavkaz. Bố mất khi Solzhenitsyn chưa sinh, mẹ đi làm nghề đánh máy để nuôi con. Năm 1925 hai mẹ con chuyển về thành phố Rostov-trên-sông-Đông (Rostov-na-Donu). Từ năm 1926 đến 1936 học ở trường phổ thông thường bị bạn bè chế diễu vì đeo thập tự và không muốn vào Đội thiếu niên Lenin. Sau đó, nghe theo lời khuyên của các thầy cô giáo, Solzhenitsyn đã tiếp nhận lý tưởng cách mạng, năm 1936 vào Đoàn thanh niên cộng sản Komsomol. Từ nhỏ Solzhenitsyn đã muốn trở thành nhà văn nhưng có năng khiếu toán học nên năm 1936 ông theo học khoa Toán trường Đại học Rostov để sau này dễ kiếm việc làm. Những năm học ở Đại học Rostov, Solzhenitsyn luôn là sinh viên xuất sắc, được nhận học bổng Stalin.   Năm 1970, Alekxandr Solzhenisyn được tặng giải Nobel nhưng ông không đến Thụy Điển nhận lễ trao giải vì sợ sau đó không trở về nước được; hai năm sau ông mới đến nhận giải và đọc Diễn từ. Năm 1974, sau khi công bố bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá (Жить не по лжи) và cho in tác phẩm Quần đảo GULag (Архипелаг ГУЛаг) ở Paris, Solzenitsyn bị bắt, bị nhà nước Liên Xô tước quyền công dân và bị trục xuất sang Cộng hòa Liên bang Đức, sau đó ông định cư ở Hoa Kỳ. Bản tuyên ngôn Không sống bằng dối trá được viết ngay trước khi ông bị trục xuất khỏi nước Liên Xô đã thể hiện tâm tư của ông, có đoạn viết Chúng ta đã bị phi nhân tính một cách tuyệt vọng tới mức chỉ vì một khẩu phần ăn khiêm tốn hàng ngày cũng sẵn lòng đánh đổi mọi nguyên tắc của mình, tâm hồn của mình, những nỗ lực của tiền nhân và cơ hội dành cho hậu thế - cốt sao sự tồn tại mong manh của mình không bị phá vỡ. Chúng ta chẳng còn lấy một chút vững vàng, một chút tự hào và một bầu nhiệt huyết. Chúng ta thậm chí còn chẳng sợ cái chết vì vũ khí hạt nhân, không sợ thế chiến thứ ba (còn có thể trú ẩn trong những kẽ hầm mà!), thế nhưng lại sợ những hành động can đảm của công dân! Bài viết này được các báo chí trên thế giới đăng lại hoặc nhắc đến, gồm The Washington Post [2], Time [3]. NewYork Times [4] *** Đôi kim đồng hồ chỉ bốn giờ năm phút. Trong ánh sáng hấp hối của một ngày tháng Chạp, mặt đồng của chiếc đồng hồ đặt trên giá trông như có màu đen. Hai cánh cửa kiếng của khung cửa sổ cao nhìn xuống dãy phố đông đảo, nhộn nhịp bên dưới, nơi những người gác cửa đang dồn những mảnh tuyết nâu lại thành từng đống, tuyết tuy mới rơi nhưng đã ướt và dơ bẩn, những cây cào gỗ đẩy tuyết ngay dưới chân những người qua đường. Innokenty Volodin, cố vấn Quốc gia đệ nhị, nhìn ngây xuống cảnh đó nhưng không ghi nhận gì hết, chàng đứng dựa vài vào thành cửa sổ, miệng khẽ huýt gió một điệu nhạc mệt mỏi. Những ngón tay chàng lật mở từng từ giấy trắng bóng, in sặc sỡ nhiều màu của một tập san ngoại quốc. Nhưng mắt chàng cũng không nhìn thấy những hình ảnh in trên những trang báo đó. Cố vấn Quốc gia đệ nhị hạng Innokenty Volodin, chức vụ này của chàng trong ngành ngoại giao tương đương với cấp Trung tá trong quân đội, là một thanh niên cao và mảnh mai. Không bận đồng phục và bận bộ y phục may bằng một thứ hàng len dệt, trông chàng có vẻ là một công tử hào hoa hơn là một viên chức trung cấp trong Bộ Ngoại giao. Bây giờ đã đến lúc chàng phải bật đèn trong văn phòng nếu chàng muốn ở lại làm việc ngoài giờ, nhưng chàng không bật đèn, hoặc rời văn phòng để về nhà. Chàng cũng không để lộ vẻ gì là sửa soạn ra về. Bốn giờ chiều không có nghĩa là giờ làm việc trong ngày đã hết, bốn giờ chiều chỉ có nghĩa là ánh sáng của một ngày đã tắt, hoặc mờ đi, vào giờ nay tất cả mọi người đều về nhà ăn bữa tối để rồi bắt đầu từ mười giờ đêm, cả ngàn khung cửa sổ của sáu mươi nhăm cơ quan chính phủ ở Mạc Tư Khoa lại sáng đèn. Chỉ có một người, một người mà thôi, sống ở giữa khoảng một tá tường thành ở Mạc Tư Khoa, không ngủ được ban đêm, và người này đã làm cho tất cả những viên chức chính phủ lớn nhỏ ở Mạc Tư Khoa cũng phải thức với y cho tới ba, bốn giờ sáng. Vì đã biết rõ thói quen thức đêm của Vị Chúa Tể, đêm nào cũng vậy, khoảng ba mươi ông Tổng trưởng ngồi như những chú học trò được gọi đến tên. Để cho khỏi buồn ngủ, những ông Tổng trưởng này hành hạ những ông phụ tá, những ông phụ tá hành hạ những ông trưởng phòng và những nhân viên phụ trách lưu trữ hồ sơ vất vả leo lên những bậc thang mở những ô kéo tìm những tấm phiếu lý lịch hồ sơ, trong hành lang có những viên thư ký hấp tấp đi lại và trong văn phòng có những viên thư ký hồi hộp làm gãy những ngọn viết chì. ... Mời các bạn đón đọc Tầng Đầu Địa Ngục của tác giả Aleksandr Isayevich Solzhenitsyn.
Bàn Có Năm Chỗ Ngồi - Nguyễn Nhật Ánh
Tác giả quen thuộc của thiếu nhi, của tuổi ô mai. Những tập truyện của anh luôn dí dỏm, hài hước, đem lại nhiều cảm xúc, nhiều bài học nhẹ nhàng cho lứa tuổi học trò. Hãy đọc để cùng gặp những nhân vật rất dễ thương, hoặc phải vượt qua những hoàn cảnh khó khăn, hoặc sẵn lòng chia sẻ với bạn bè, người thân… Thậm chí cả những nhân vật tạm gọi là “phe xấu” với nhiều trò đùa nghịch… cũng mang dáng dấp hồn nhiên. Tất cả hướng về Chân - Thiện - Mỹ. Họ là năm người bạn với năm cá tính và hoàn cảnh khác nhau cùng chung trong một lớp học. Những trò nghịch ngợm trẻ con đôi khi gây ra mâu thuẫn, nhưng trên tất cả đó là những đứa trẻ ham học, giàu lòng nhân ái và biết quan tâm đến bạn bè. Cảm thông với hoàn cảnh của nhau, từng bạn nghĩ ra cách giúp đỡ bạn mình theo khả năng để tình bạn ấy lớn dần theo năm tháng. *** Nguyễn Nhật Ánh là tên và cũng là bút danh của một nhà văn Việt Nam chuyên viết cho tuổi mới lớn. Ông sinh ngày 7 tháng 5 năm 1955 tại huyện Thăng Bình, Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh. Từ 1973 Nguyễn Nhật Ánh chuyển vào sống tại Sài Gòn, theo học ngành sư phạm. Ông đã từng đi Thanh niên xung phong, dạy học, làm công tác Đoàn Thanh niên Cộng Sản Hồ Chí Minh. Từ 1986 đến nay ông là phóng viên nhật báo Sài Gòn Giải Phóng, lần lượt viết về sân khấu, phụ trách mục tiểu phẩm, phụ trách trang thiếu nhi và hiện nay là bình luận viên thể thao trên báo Sài Gòn Giải Phóng Chủ nhật với bút danh Chu Đình Ngạn. Ngoài ra, Nguyễn Nhật Ánh còn có những bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc, Sóc Phương Đông,... Tác phẩm mới nhất của Nguyễn Nhật Ánh được NXB Trẻ ấn hành mang tên Ngồi khóc trên cây, xuất bản ngày 27 tháng 6 năm 2013. *** Kể từ ngày đi xem triển lãm về, tật làm biếng rời bỏ tôi, tất nhiên không phải cùng một lúc. Với những chuyện đã trải qua trước đó, tôi cũng mơ hồ nhận ra rằng chỉ có siêng năng, chịu khó mới thành công ở đời (thằng Quang là một tấm gương trước mắt, kể từ ngày kiên trì học nhóm, nó tiến bộ thấy rõ) và tính lười nhác không được ai nể nang. Nhưng phải đến khi "gặp" bà Võ Thị Thơi thì mọi chuyện mới rõ ràng đối với tôi. Từ việc học tập, lao động đến sinh hoạt, kiểm điểm lại, tôi thấy mình còn thua xa so với thiên hạ. Đầu đuôi cũng tại tôi ít chịu cố gắng. Tôi nhớ lại chuyện thằng Thành hôm trước. Nó với thằng Tú đều ở tổ mười, đều nghịch như nhau, nhưng thằng Tú nghịch mà siêng, còn Thành thì lười. Nó lười còn "ác" hơn tôi. Ai đời trực quét sân mà nó bỏ tới ba buổi liền. Thầy Dân nhắc nhở, cảnh cáo hai, ba lần nó vẫn không chừa. Tới lần thứ ba, thầy Dân gởi sổ liên lạc về nhà mời ba nó lên. Nó giấu biến sổ và nói dối thầy là ba nó bận. Thầy Dân tới nhà, mới rõ đầu đuôi sự việc. Thế là thằng Thành bị đưa ra hội đồng kỷ luật nhà trường. Bữa đó ba nó phải hứa hẹn đủ điều, lại phải làm tờ cam đoan nữa, thằng Thành mới được học tiếp. Nghĩ tới chuyện đó, tôi phát ớn lạnh. Gì thì gì, tôi không bao giờ để bị đưa ra hội đồng kỷ luật. Nghĩ tới cảnh ba tôi phải ngồi trong văn phòng ban giám hiệu, đau xót nghe các thầy cô kể tội con mình, tôi thấy thà độn thổ cho xong. Thấy tôi tự dưng đâm ra gọn gàng, ngăn nắp, chịu mó tay vô chuyện nhà, má tôi mừng lắm: - Thằng Huy độ rày thay đổi quá xá! ... Mời các bạn đón đọc Bàn Có Năm Chỗ Ngồi của tác giả Nguyễn Nhật Ánh.