Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hơn Nửa Đời Hư

Hiểu theo trong Nam Hơn nửa đời hư, có nghĩa là hơn phân nửa đời người, chưa làm gì nên thân. Giọng hàng tôm, giặm mắm muối, rõ ràng hơn; đã quá nửa đời người, hổng nên thân gì ráo trọi! Hơn nửa đời, biết làm sao mà định? Bốn mươi năm mươi cũng được, quá sáu bảy mươi cũng biết đâu chừng? Thôi thì để đó, khi đập nắp quan sẽ hiểu. Chuyện tôi viết, bắt đầu từ năm sanh (1902) đến năm đi dạy học ở Huế về (1967), thấy nhộn quá nên ở nhà, chớ dư sức hoạt động. Con đường đã trải, cũng dài khá bộn, kể tuổi đầu cho đến nay đã trên bảy mươi, như vậy lẽ đáng nên gọi, nếu mai nầy chết, là “trọn một đời hư”, mới phải. Như con bạc trúng một canh bài về khuya, đủ gỡ vốn lời, vì “nên” được vào mấy ngày chót vậy xin cho tôi ghi “Hơn nửa đời hư” làm nhan sách. Tưởng “viết để lại cho con là Bảo” nhưng nay in thành sách có nhiều mắt cùng xem, như vậy “Hơn nửa đời hư” là phải. Ngoài trời mưa, đêm vẫn lạnh. Gió mướt tỉ tê, mắt già mi ướt. Tôi chuốc đôi hài nhung, mặc thêm một lớp áo ấm, lại ngồi bàn viết: “Đêm nay gió bấc mưa dầm, Đèn khuya một bóng, bóng lầm với đêm” Dưới Mái Tây, ngọn đèn điện cứ reo vui với mấy con thiêu thân tự sát. Song cửa mở sương che mất khu phố mấy từng cao. Con mèo tam thể đi ăn vụng bị hàng xóm chém tét móng chân trước, đang nằm rên hì hì trên đầu tủ sách. Vừa viết đến đây, tôi đọc lớn. Con mèo nhướng mắt tưởng tôi ngỏ lời an ủi, nên hoà âm mấy tiếng hừ hừ, tợ chiếc ấm gần sôi. Bỗng tôi đổi sang giọng lớn, không mấy êm tai, tôi thấy vành tai con miêu đang xụ lại vành lên, trán con miêu nhăn nhăn, tam thể tựa hồ bụng bảo dạ: “Lão Vương nầy chướng, chúng cho về hưu cũng phải: Lão lai nhai những gì rỗng tuếch, chẳng bù má Năm, nói những lời đáng giá, hứa cho ăn thì no bụng đến phát ách, hăm đánh đòn thù nhừ tử nên thân; Bữa nay lão viết giống gì nữa đây, chỉ hại tốn giấy?” Ấy đó, trên bảy mươi mà còn bị chó mèo xài xể, hỏi phải hư chưa? Lúc nhỏ vì mê đọc văn Anatole France nên vướng cái nghiệp của lão già Ba Tri nầy. Tuy không hiểu hết những câu sâu sắc của lão, nhưng lại thích cái giọng trịch thượng nửa đùa nửa thật, hơi cay một tí thôi, vừa nhẹ vừa thâm, hiểu được mớ nào, thấm ý đánh đùi cái chát? Thú vị nhứt, đọc mãi không chán là bộ “Le crime de Sylvestre Bonnard”, và đoạn ly kỳ nhứt trong sách là chỗ diễn tả cách báo ân đáp nghĩa của chị ả huê khôi, nửa đời tài sắc trước nghèo xơ xác đến nỗi phải trú ngụ trên gác thượng của lão hàn lâm nầy, rồi sau đụng một ông hoàng giàu sang không mấy hồi, trực nhớ ơn xưa lão hàn tặng một chén xúp khi đói lạnh, nay biết lão ham sách bèn sai con ôm đến nhà đêm No-en dâng cho lão một cuốn sách quí đựng trong bộng một khúc gỗ củi chuyện đọc thật là khoái trá. Chương trong sách tựa là “La buche de Noel”, ai muốn thường thức hãy tìm mà đọc. Nay tôi mượn ý viết tập nầy mở đầu truyện “Anh Vương tự thuật”. “Dừng chén ngoảnh lại trời non nước, Một mảnh tình riêng: ta với ta”. (Thơ Bà huyện Thanh Quan “Qua Đèo Ngang”) Đêm nay, cớ sao hai câu thơ trên như thôi miên tôi, như vương vấn tâm hồn, ngâm đi ngâm lại mãi không biết chán. Buổi đầu hôm ăn mừng sinh nhựt, lễ trung thọ thất thập tam tuế, Năm dâng chén rượu mừng khiến cảm động, đóc giọng còn cay. Nếu đời quen lấy trăm năm làm hạn, thì kiếp sống mình kể đã hơn nửa độ đường, trời cho thêm được ngày nào, kể như là lãi. Phần còn lại, không nên tham nhiều. Ô hay! Lên chói đỉnh tự hồi nào? Và sẽ lần dốc xuống triền được bao lâu nữa? Thật là không sao nhớ xiết Và xiết bao bồi hồi. Lên đến chót đỉnh tất đã đăng cao. Lên cao rồi phải hạ. Mai nầy cất bước dò lần đường xuống. Tức nhiên câu thơ tức cảnh Đèo Ngang bà Thanh Quan làm sẵn mà nó phù hợp với cảnh ngộ của mình làm sao? Ám ảnh là phải. Đêm đã về khuya, tư bề lặng lẽ; rất phải dịp cho mình chiêm nghiệm việc đời. Thử bỏ bàn toán tính sổ: lỗ hay lời, trước giờ gác đầu về núi, ta phải biết để mà lo liệu. Nhà hiện thời đang ở, truyền đến tôi đã hơn ba đời. Thế mà mình vẫn tưởng là một dịch đình tạm, dừng chén đêm nay để mai nầy trẩy bước. Nơi phòng bên cạnh, mẹ con chúng đang ngon giấc. Hơi thở đều đều của một mớ tóc bông của người hiền phụ và làn môi son của trẻ. Nhớ đến trẻ, cục máu thâm tình duy nhứt, đứa con muộn màng mà cũng là cái mốc ăn chịu với đời của tôi. Bao nhiêu tình yêu buổi thanh xuân đã như giọt sương buổi sáng bao nhiêu người thương cũ đã rớt rơi hoặc nằm yên nơi bên kia triền dốc: mẹ tôi mất năm 1913, tôi biết khóc tiếc người hiền mẫu khi tuổi độ vừa mười một. Năm tản cư 1946 khi hồi cư về nhà thì chịu tang cậu tôi. Nhưng chưa thảm bằng năm ấy mất đứa em trai mười chín tuổi, Vương Hiển Vinh, tuy khác mẹ nhưng xem dường ruột thịt. Làm thanh niên tiền phong, lánh giặc Tây rút chân theo đồng chí, đang cữ rét hành, trốn lính Tây nhảy vào bụi ô rô, Tây đi mất là tử thần vội đến, Vinh thở hơi cuối cùng, nay nắm xương lạc loài còn vùi đâu đó nơi cù lao Dung lạnh lẽo, chưa được mang về. Thời gian mãi như vầy, khi hết chiến tranh, dễ gì tìm thấy xác. Ba tôi tám mươi sáu tuổi, mất năm 1961, là người thân yêu khoá tạm cuốn sổ nầy. Hồn mẹ có linh, phách Ba dầu hiển, lại với mấy dì và mười đứa em trai sanh chưa kịp đặt tên đã trở về âm cảnh, bao nhiêu ấy là cốt nhục tình thâm nay gom lại làm mười mấy núm mộ nằm lúp xúp trên đất nhà ở Sốc Trăng, xin hãy về cùng tôi đêm nay nhấp chén mừng trung thọ. Nhưng xin đừng làm động giấc ngủ ngây thơ phòng bên cạnh. Hiền thê và Bảo con, hãy ngủ cho ngon, mai nầy chúng mình sẽ trẩy một khúc đường mới lạ còn dài lắm. Tôi khoác thêm áo ấm, kéo ghế tránh bóng đèn, đêm nay nguyện thức viết cho thật nhiều, kể lại cuộc đời đã qua, lưu lại cho vợ hiền con thơ được biết. Ô hô? Tuổi chẳng chờ ta... Tôi nghe nhiều người phàn nàn, cho rằng không hơi đâu nhắc lại chuyện cũ. Cái gì đã qua, hãy để cho nó qua. Hãy nhìn tới tương lai mới phải. Tương lai! Tương lai! Cách nay ba chục năm, tôi cũng say mê về tương lai, về ngày mai sẽ đến. Nhưng trải qua nhiều biến cố, từ năm 1945 cho đến nay, tuổi mòn chồng chất, tuy chưa đến độ chồn chân mỏi gối, tuy vẫn còn đi bộ hàng cây số không mệt, ngồi đánh máy suốt ngày không đau lưng, nhưng quay đầu ngó lại buổi đã qua, mới thấy cái hay của dĩ vãng. Đời vẫn không cay nghiệt gì với tôi. Tôi phải biết ghi ân rằng đời đã dành riêng cho tôi khá nhiều hạnh phúc. Nhưng khi ai kia nhắc đến buổi tương lai, bỗng khiến tôi lại bùi ngùi lo sợ. Bất giác tôi lại hồi tường tới chuyện đâu đâu. Tôi đã hết trông cậy vào tương lai, và nếu phải ước mong, hoạ là gởi hết vào cái đầu non và mớ tóc xanh của trẻ đang say giấc nồng bên cạnh. Xin ơn trên ban tôi thêm vài tuổi, có thì giờ đủ thấy đứa trẻ nên người.     2. Kiếng họ Vương ở Sóc Trăng     Lai lịch Họ Vương của chúng tôi, chỉ ở Sốc Trăng, vốn xuất thân từ tay trắng. Xét cho kỹ, không làm gì có gia phả để lại. Sự ấy cũng dễ hiểu:       a) Ông tổ của chúng tôi, - chỉ biết được đến đời ông sơ, tức không hơn năm đời - từ Trung Quốc sang đất Miên rồi đất Việt một khi tách bước ra đi trên con đường vô định - nói ra không sợ xấu đã dấn thân trên đường lưu lạc, phiêu lưu, đi tha hương cầu thực, đi để tìm lẽ sống mà tại nơi nhau rúm không sao tìm thấy, nói thẳng ra, đi hoang làm vậy, thì cần gì đem theo gia phả? Giắt lưng cái tờ tộc phái ấy chỉ thêm bận chân vướng cẳng, ích gì? Và thương thay cho những người lang thang trên bước giang hồ,       b) Đến đời ông nội chúng tôi, sẵn tánh bần bạch kiêu nhân, dám đứng làm tùa-hia (đại ca) của chi nhánh Thiên Địa Hội tại Sốc Trăng, thì càng không nên cất giữ gia phả trong nhà. Nơi xứ lạ quê người, thù nhiều bạn ít, đã quyết chí chống triều đình Mãn Thanh, thì dẫu có bao nhiêu gia phả cũng phải thủ tiêu, để tránh liên luỵ gia đình thê tử.       c) Họ Vương, tiếng rằng sang, kêu lắm, giòn lấm, nhưng có giàu chăng là giàu hai chữ “thanh bần”. Từ ông sơ xuống đến ông cố, lang bạt kỳ hồ, làm miễn đủ ăn là đủ mừng, đèo bòng chi cái gia phả, chúng cười: “sang không phải chỗ”,       d) Thuở đó, trước đây một thế kỷ, sống trên đất lạ, vùng Sốc Trăng vừa mới phát, việc khai hoang chưa hoàn thành, ở chung đụng với người Miên người Thổ, họ quen dùng bùa ngải tà thuật, khi thư da trâu vô đầy bụng mà chết, khi trù ẻo dùng thiên linh cái bắt hồn, để tránh các tai hoạ dữ kia, muốn sống yên lành vô sự, tất nhiên phải giấu tên giấu họ, mai danh ẩn tích là hơn. Cho nên nói chung, tại Miền Nam chúng tôi không có tục lập gia phả, vì xét rằng tờ tộc phái có ghi tên họ năm sanh năm tử của ông bà để lại rủi lọt vào tay kẻ thù muốn hại mình thì quả là lợi ít hại nhiều, nên không lập. Tờ gia phả xét kỹ ra, chỉ dành cho các dòng họ lớn nào sống nơi thái bình yên định, không gặp cảnh loạn ly. Tuy vậy không phải người miền Nam không biết quý trọng tổ tiên, duy không chép ra thành sách. Người tộc trưởng của một họ thường thuộc nằm lòng để truyền khẩu giữa con cháu hoặc kỹ hơn, dùng thẻ giữ kín ghi những ngày kỵ huý giỗ quải, và ít khi bằng lòng lấy ra cho người ngoại tộc xem. Sau đây, tôi xin tóm tắt những gì tôi từng nghe phụ thân tôi thuật lại về chi họ Vương ớ Sốc Trăng, dòng ông Vương Thoại là ông cố của chúng tôi.      a) Kể về chi lớn, thì được biết vẫn ở tại Phước Kiến (Trung Hoa), và có thể nói, gồm trong mười lăm chữ: “Phước kiến tỉnh, Tuyền Châu phủ, Đồng Ân huyện, Lâm Mễ thôn, Quan Khảo lý”. Như vậy, không phải bất cứ người nào hễ sanh tại Phước Kiến và cùng một họ Vương là một dòng với chúng tôi. Phải sanh từ Lâm Mễ thôn, từ Quan Khảo lý mới đủ điều kiện. Bây giờ thử hỏi: Một người như tôi, máu Hoa pha máu Việt đã bốn đời, không nói được tiếng Phước Kiến, giá thử có dịp qua bên ấy, vậy chớ có nhìn đồng tông đồng tánh với người bên ấy được chăng? Giấy tờ chứng minh không có, nói miệng tài ai tin vả lại nhìn bà con ở xa mút bên Tàu để làm gì? Khi đã xa cách nhau suốt nhiều đời, dẫu tình đậm cũng hoá lợt; thêm vấn đề ngôn ngữ bất đồng, phong tục cách ăn thói ở không giống, “y ăn xì-dầu, tôi húp nước mắm”, lại nữa tỉnh Phước Kiến là đất tiêm nhiễm lâu năm chủ nghĩa khác với tôi. Vương nầy Vương kia, tôi tưởng gặp nhau e không dám ngó ngay mặt chớ đừng nói chi chuyện bất tay nhau nhìn một họ một dòng. Gặp nhau, câu thi Học Lạc ngâm suông: “Hoá An-nam, lữ khách trú”... rồi huề. Không nói thêm được nửa lời. Không phải cốt ý để khoe khoang, nhưng Ba tôi có thuật lại rằng xưa kia kiếng họ Vương ở Phước Kiến vốn có địa vị khá. Giữa triều Thanh đang thịnh cũng không bị bạc đãi. Một chi tiết nhỏ: Thuở ấy, cặp lồng đèn giấy treo trước cửa, được phép kẻ một chữ Vương duy nhất, thay vì các họ khác phải viết kèm chữ “phủ”, tỷ dụ Phạm phủ, Trần phủ, Quách phủ, v.v... Và đó là đặc ân dường như do bà Tây Thái Hậu ban ra, vì bà cho rằng hễ Vương thì ở phủ là cố nhiên, hà tất viết dư chữ “phủ”. Một giai thoại khác thuật luôn là cũng bà Tây Hậu khi sắp hạng những mười tám tỉnh dâng lễ khánh thọ cho bà, thì tỉnh Phước Kiến được sắp đứng đầu vì chữ “Phước” không thể sắp sau chữ khác. Một đặc ân khác dành cho chi họ Vương quán ở Quan Khảo lý, là được dùng bốn chữ “Khai Mân đệ nhứt” là biển treo nhà, vì tương truyền họ nầy xưa kia có công khai phá mở mang đất Mân (Phước Kiến), biến hoang địa thành lương điền. Nói để nghe chơi chớ không dám vẽ viên nhiều, bằng sắc đâu có hòng chứng minh, khoác lác là tội. Không nên “thấy người sang, bắt quàng làm họ”,       b) Nay nói về chi thứ là chi xuất dương, vốn cùng một đầu ông sơ. Hiện biết có ba chi ở ba chỗ khác nhau: chi Nam Vang, chi Gia Định, chi Sốc Trăng. Nhưng đã tản lạc, chưa thấy ngày trùng phùng.      1) Ông sơ (?-?) . Khuyết danh, khuyết ngày sanh, ngày tử. Giỗ chung với bà sơ, huý nhựt: ngày hai mươi lăm tháng chạp âm lịch. Theo Ba tôi kể lại, ban đầu ông sang ngụ đất Nam Vang, nhưng kể từ năm nào không rõ. Về sau, chi nầy tách ra một nhánh xuống định cư ở đất Gia Định. Hiện chi nầy ở đâu? Khi lên viếng Sài Gòn độ năm 1901, Ba tôi có gặp, hai đàng nhìn nhau mừng mừng tủi tủi rồi cũng chia tay từ đó rồi bặt vô âm tín, cũng không biết địa chỉ để liên lạc, nay kể như thất lạc, mất còn chẳng hay. Từ ngày tôi lên ở Gia Định, tôi cố gắng hỏi thăm nhưng chưa gặp một ai chỉ bảo. Ông sơ chúng tôi ở Nam Vang một thời gian không biết bao nhiêu lâu, bỗng nhớ chén cơm lưu lạc động gót giang hồ, lại một gói một xách, một thân một mình, cất bước lên đường một phen nữa. Có lẽ nghe lời đồn đãi nên chuyến nầy, ông xuống Miền Ba Thắc (nay có miếu thờ ở Chợ Cũ Bãi Xàu), Thổ gọi Sroc Bassac, hoặc sroc khléang, là tên cũ xứ Sốc Trăng (nay là Khánh Hưng, Ba Xuyên). Thuở đó, vừa hơn một thế kỷ, vùng nầy là một đồng ruộng mênh mông, người thưa rừng nhiều, đất tốt “làm không hết” cá tôm, thịt rừng khỏi mua mạnh ai nấy bắt, đời sống dễ dãi như cảnh thiên đàng, khiến ông lưa gót lại đây, lập thêm một gia đình nữa với bà sơ chúng tôi. Ở như vậy bao lâu không biết, rồi đến lúc tuổi già sức yếu, biết đã gần ngày quay đầu về núi, ông bèn “qui cố hương” rồi mất luôn bên ấy. Có nên trách ông hai lần tạo lập gia đình rồi bỏ về chết ở bên Tàu không? Xin đáp rằng không. Ông vả chăng là người Phước Kiến. Tháp cánh bay xa để thử sức, khi sức kiệt thì bay về ổ cũ. “Phú quý không về làng thì khác nào áo gấm mặc đêm”. Người Âu khi xưa đĩ lập Tân thế giới cũng thế. Nếu đã trót để lại hai nơi hai giọt máu tươi, thì may thay trời sanh trời dưỡng, hai giọt ấy hoa đơm kết trái cháu chất nối dòng, bổn phận kẻ sau phải nhớ câu “mộc bổn thuý nguyên”. Dẫu tôi quá hư, cũng không dám buộc tội ông, duy dám hỏi “Sao ông không nói cũng không để lại dấu tích nào?” Họ tên để khuyết, vậy xin giỗ ông chung với bà. Mộ ông ở bên Tàu, có còn hay đã san bằng lấy chỗ trồng rau cỏ? Mộ có người giữ gìn ấm cúng hay đã xiêu lạc mồ hoang? Ông hãy yên giấc ngàn thu. Tại Sốc Trăng, chúng tôi vẫn giữ nhang khói đều đều và giỗ quải không sơ sót. Bà sơ (?-?) - Cũng không biết họ tên và không biết luôn năm sanh năm tử, duy nghe dặn lại ngày giỗ là ngày hai mươi lăm tháng chạp. Nhờ một chi tiết nhỏ có thể truy nguyên năm mất là Ba tôi có nói bà từ trần đúng năm ông nội chúng tôi được mười lăm tuổi đầu. Vả chăng ông nội tôi sanh năm 1848. Cộng thêm mười lăm năm nữa là năm 1863. Ba tôi kể lại lịch sử của bà chỉ có chạy giặc: hết giặc Thổ dậy đến giặc Tây qua lấy nước. Việc nầy trùng hợp, vì năm Tây xâm chiếm ba tỉnh Miền Tây đúng là năm 1862. Tội nghiệp bà chạy mãi thở chưa hết mệt, kế bà gặp một trận bão to bồi tiếp. Thân già sức mòn, tài nào chịu nổi? Phần thì lạnh, phần thì sợ, phần thiếu thuốc men, thiếu săn sóc, nên bà sơ chúng tôi tất hơi thở trong cảnh hãi hùng, duy bà khỏi thấy nước nhà mất độc lập, lọt vào tay Tây. Chị em bà cả thảy bốn người: bà là chị cả, kế là mẹ vợ ông Châu Đức, kế nữa là mẹ ông Lưu Hỷ, và út chót là mẹ vợ xã Sức. Con của Số là xã Kóln, người nầy có lập một gánh hát dù kê tức hát cải lương Khmer. Như vậy chi ngoại nầy có một nhánh trở về nguồn, trở lại Khmer. Đó là những gì Ba tôi thuật lại về bốn chị em của bà sơ chúng tôi, còn họ tên là gì, Ba tôi cũng không biết. Nay mộ của bà vẫn nằm lên sở đất của mẹ vợ ông Châu Đức. Cuộc đất giồng (cương) nầy, Thổ gọi sốc Phno Tin, cách xa chợ Sốc Trăng độ bảy tám cây số ngàn. Phải chăng đây là vị trí xóm xưa bà ở? Phải chăng đây là quê ngoại của ông nội chúng tôi? Năm trước đây, nhơn dịp lễ Thanh Minh, tôi có về tảo mộ thì thấy thì thấy cuộc đất nầy đã thay đổi chủ. Con cháu ông Châu Đức đã sang nhượng cho một Huê kiều tên là Xiều (Thiều). Ông nầy lập nơi đây một sanh phần vĩ đại, may sao ngôi mộ lúp xúp của bà sơ chúng tôi không án, nên được chủ đất mới để nằm yên chỗ cũ. Không như các mộ tổ tiên khác chôn nơi Trường đua, vốn là đất nghĩa địa thí, nhưng đến năm 1964, chánh quyền cần mở rộng sân phi trường và ra lịnh sung công, buộc lòng chúng tôi phải hốt cốt đem về đất nhà nơi miếng rẫy sau chùa bà Tu Định, đường cũ đi Bạc Liêu, an táng lại. Phen nầy cầu xin nằm đó được vĩnh viễn. Mời các bạn đón đọc Hơn Nửa Đời Hư của tác giả Vương Hồng Sển.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Phải Sống - Van B. Choat
"Phải Sống"_Hành trình từ Chiến tranh đến Tự do của một bé gái mồ côi là một cuốn hồi ký kể về cuộc đời nhiều mất mát, đau thương của tác giả Vân B. Choat nhưng thay vì đầu hàng số phận, cô vẫn luôn nỗ lực để sống và vươn lên hết lần này đến lần khác. Ngôi mộ không phải là mục đích của cuộc đời. “Con sẽ sống bởi vì con là một người con gái và là một người chị, và ngôi mô không phải là mục đích của con.” (tr.221) Đối với một đứa trẻ mồ côi từ khi lên 4 trong chiến tranh, việc có thể sống sót thôi đã là một kỳ tích. Nhưng Vân Bích Choat còn làm được hơn thế nữa khi cô luôn mạnh mẽ, đầy nghị lực để không chỉ sống mà còn sống tử tế và đạt được nhiều thành công. Giờ đây, Vân viết Phải Sống như một lời khích lệ cho những ai đang cảm thấy tồi tệ trước cuộc sống khó khăn. Cuộc đời đã nợ Vân quá nhiều khi an bài cho cô một số phận là sự cộng gộp những bất hạnh của mọi đứa trẻ mồ côi nói chung và của những đứa trẻ mồ côi do chiến tranh nói riêng trên khắp thế giới này.  Những ký ức đầy ám ảnh về chiến tranh, sự đói nghèo, những trận bạo hành, lạm dụng của bác dâu, của dượng; hay trận đụng xe kinh hoàng từng hủy hoại khuôn mặt cô, . . Những “cơn ác mộng”, những Con Quái Vật ấy cứ thi nhau đổ trút xuống đời Vân, không cho cô có ít thời gian “nghỉ giữa hiệp” nào để lấy lại sức, tiếp tục chiến đấu.  Và sự ghẻ lạnh của họ hàng, sự dè bỉu, khinh rẻ của người đời dành cho trẻ mồ côi vẫn luôn song hành cùng Vân kể cả trong những khoảng lặng ngắn ngủi giữa hàng loạt biến cố. Không dừng lại ở đó, số phận lại có ý khác khi để cho một đứa trẻ với “ba ngôi sao chiến trận” xứng đáng được nghỉ ngơi tiếp tục bị dày vò bởi những trận bạo hành, sự day dứt về bà ngoại bị bỏ lại quê nhà kể cả khi Vân đã đặt chân đến Mỹ.  Và thường thì, nếu một người có tuổi thơ bất hạnh, họ sẽ được Trời “đền” lại cho một người chồng tuyệt vời, một gia đình riêng hạnh phúc. Vân cũng có một và chỉ một mối tình khiến cô có thể viết ra hẳn một cuốn tiểu thuyết lãng mạn.  Nhưng không có gì kéo dài mãi mãi, và hạnh phúc có thể biến thành nỗi đau chỉ trong một chớp mắt. Người yêu từ thời Trung học, người chồng tuyệt vời của cô sớm ra đi với căn bệnh nan y, để lại cho cô 2 đứa con trai thơ dại. Dù vậy, chưa bao giờ chúng ta thấy chút suy nghĩ từ bỏ cuộc sống nào ở người phụ nữ kiên cường này. Một mình nuôi dạy 2 con trưởng thành, cố gắng học tập, làm việc và đạt được nhiều thành công. Đó, là lời đáp trả tốt nhất của cô đối với nghịch cảnh đời mình. Không chỉ vậy, ở Vân còn có một điều khiến chúng ta khâm phục đó là cách cô nhìn cuộc đời và hành xử một cách đầy lý trí, tỉnh táo, cứng rắn nhưng không tuyệt tình, sắt đá. Trong vô vàn những tháng năm đau thương đó, Vân vẫn nhặt nhạnh ra được những mẩu kí ức hạnh phúc, yên bình hiếm hoi và lưu giữ trong tim tựa như cách cô cất giữ hình của cha mẹ cho đến tận bây giờ dẫu có những lúc tưởng chừng không biết phải đi đâu về đâu và đến cả tính mạng mình cũng không có gì bảo đảm. Cô vẫn sống, vẫn yêu thương bà ngoại và các anh em, vẫn bảo vệ em gái mình và chống trả lại nghịch cảnh một cách đầy quyết liệt, cứng cỏi.  Còn với những bàn tay từng nắm lấy tay mình, dẫu thỉnh thoảng những bàn tay ấy cũng chẳng dịu dàng gì, cô vẫn luôn biết ơn và đủ bao dung để hiểu cho những nỗi đau, khó khăn đã biến họ thành Quái Vật dù họ không muốn thế. Không hận người, không trách đời, không đổ lỗi cho hoàn cảnh và luôn cố gắng sống tốt với tất cả sự mạnh mẽ, nghị lực, sự lạc quan là những gì chúng ta có thể tìm được trong Phải Sống - Hành trình từ Chiến tranh đến Tự do của một bé gái mồ côi.  Nếu cha mẹ vẫn còn bên chúng ta hay ít nhất là còn có một người để yêu thương, một người thân hay một mái nhà để nương náu thì chúng ta đã quá may mắn và đừng tuyệt vọng, hãy xốc lại tinh thần để đương đầu với mọi khổ đau, khó khăn trong đời. "Phải sống", vì chết chưa bao giờ là mục đích của đời người! Mời các bạn đón đọc Phải Sống của tác giả Van B. Choat.
Ngày Hôm Qua... Đã Từng (My Life)
“Mỗi người trên thế giới này đều có một ai đó lặng lẽ yêu thương ở đâu đó, có lúc ta sẽ nhận ra, đôi lúc lại chẳng hề hay biết người ấy, có bao giờ bạn nhìn lại phía sau, có bao giờ bạn biết rằng ai đó vừa đi ngang qua cuộc đời bạn… như cách mà họ đến.” Đó là điều mà tác giả trẻ Nguyễn Moon luôn tâm niệm. Với Nguyễn Mon, “Ngày hôm qua… đã từng” (My Daisy) là cuốn hồi ký, nhưng có thể với một số bạn đọc, cuốn sách này như là tiểu thuyết với rất nhiều cung bậc cảm xúc của một người trẻ đã từng trải qua. Có nước mắt, có máu, có những hờn ghen, những toan tính và có cả những yêu thương chân thành.  Nếu cuốn một “My Life” là câu chuyện tình đẹp nhưng dang dở của hai người trẻ, để lại trong lòng bạn đọc cảm giác nuối tiếc, day dứt khiến người ta muốn khóc, thì với cuốn thứ hai “My Daisy” lại là một màu trắng trinh nguyên của thứ tình cảm nhẹ nhàng, thầm kín nhưng đẹp đến nao lòng, hay đâu đó là vẻ đep của một chuyện tình đơn phương. Để rồi cuốn ba “My Angel” là một câu chuyện bình dị với muôn vàn câu chuyện trong đời thường.  Với lời kể dung dị, thân thuộc, bộ ba cuốn sách trong “Ngày hôm qua… đã từng” sẽ kể cho bạn về tình yêu thương, cũng như sự bình yên khi vượt qua những giông bão của cuộc đời. Và tình yêu là món quà dành cho những ai dũng cảm sống với nhịp đập trong trái tim mình.  Mời bạn đón đọcNgày Hôm Qua... Đã Từng (My life) của Tác giả: Nguyễn Mon . Review Thụy Oanh: Yêu thương và cùng nhau đi hết quãng đường dài rộng của cuộc đời là hai câu chuyện rất khác nhau. Có những mối tình đẹp vì nó đã trở thành hồi ức. Nếu tuổi trẻ là ánh cầu vồng thì tình yêu là màu đỏ chói chang trong bảy sắc màu rực rỡ ấy. Người chúng ta yêu năm 20 tuổi có thể không cùng ta đi hết cuộc đời, nhưng nếu đã từng thật lòng với nhau thì những yêu thương vẫn sẽ còn ở đó, dù chẳng vẹn nguyên. Tiểu thuyết Ngày hôm qua… đã từng của tác giả Nguyễn Mon giống như một điệu nhạc da diết về những năm tháng thanh xuân. Người ta gặp gỡ nhau, phải lòng nhau và mơ về hạnh phúc ở tương lai. Tình yêu nếu chỉ có hai người thì đơn giản lắm. Thế nhưng, cuộc sống này phức tạp hơn rất nhiều. Bởi thế, tình yêu không còn là chuyện riêng của đôi lứa. Khi con tim loạn nhịp trên mảnh đất Sài Gòn phồn hoa Nhân vật chính của tác phẩm là Mon một chàng trai miền tây lên Sài Gòn học đại học. Anh chàng đã đặt chân đến thành phố này với tất cả sự háo hức của tuổi đôi mươi. Xa nhà, xa vòng tay của mẹ là cơ hội tốt để trưởng thành. Vừa lên thành phố, Mon đã sốt sắng tìm việc làm thêm. Anh chàng may mắn xin được chân chạy bàn ở quán cafe Windown. Nơi đây, chính là điểm bắt đầu cho chuyện tình của Mon và Thy. Thy là một cô gái có vẻ ngoài xinh xắn, pha nét mong manh, dễ khiến những chàng trai rung động và muốn che chở, trong đó có Mon. Nhưng sự thật đôi khi khác rất nhiều với những thứ mà chúng ta mơ mộng. Hóa ra, Thy mới là người che chở và chăm sóc cho Mon. Không may, ở quán cafe Windown xảy ra xô xát, Mon không may bị thương ở tay và chảy rất nhiều máu. Thy không ngần ngại xé ngay chiếc váy cô đang mặc để băng bó cho anh.  Đưa Mon đến bệnh viện, mà lòng Thy nóng như lửa đốt. Cô còn lo lắng hơn cả người bị thương. Suốt thời gian Mon nằm viện, Thy luôn ở bên anh không rời, cô cẩn thận tỉ mỉ chăm sóc cho người mình yêu từng chút một. Hóa ra, cô gái nhỏ dễ thương hơn vẻ ngoài lạnh lùng mà Mon vẫn thường thấy. Tình yêu nảy nở trong lòng họ một cách rất tự nhiên, như mầm cây non được tắm mát bằng cơn mưa rào của Sài Gòn. Họ đã bên nhau cùng cười đùa và tận hưởng những phút giây được gọi là hạnh phúc. Tình yêu ấy, cũng có những giận hờn, hiểu lầm và trách móc. Những thử thách cứ thế đến rồi đi, để người ta biết rằng họ thương ai đó thật lòng! Nhưng tình yêu vốn không phải là câu chuyện của riêng hai người. Nếu được như vậy, thì trên đời này đã không có những kẻ phải dằn vặt, khổ sở vì tình ái. Giữa Thy và Mon có quá nhiều khoảng cách: tiền bạc, địa vị xã hội, gia cảnh, xuất thân…. Giữa những khúc mắc và cách ngăn ấy, Quang xuất hiện. Anh ta trưởng thành và giàu có. Người đàn ông ấy có thể chăm sóc cho Thy tốt hơn Mon rất nhiều. Liệu anh có thể buông tay và cô có thể chấp nhận. Tình yêu đâu phải là thứ chỉ có được và mất, đúng và sai?... Tình yêu cho ta nhiều thứ hơn cảm xúc Dõi theo câu chuyện tình của Mon và Thy trong Ngày hôm qua… đã từng, người đọc, đặc biệt là các bạn trẻ, sẽ nhận ra nhiều điều. Tác phẩm không chỉ là mối tình đầy màu sắc của những năm tháng thanh xuân. Tình yêu dạy cho ta nhiều thứ hơn là chỉ nuông chiều cảm xúc. Và bài học lớn nhất của quãng đời tươi đẹp ấy, có lẽ là sự trưởng thành. Ở bên một người, yêu thương và che chở cho họ đồng nghĩa với việc chúng ta phải mạnh mẽ. Thanh xuân sẽ trọn vẹn hơn nếu chúng ta có ai đó ở bên để cùng chia sẻ những vui buồn. Thế nhưng, những năm tuổi trẻ của Mon, Thy, Hân, Phương, Phong hay Duy không chỉ có tình yêu. Họ còn có ước mơ cùng bao nhiêu hoài bão. Chúng ta không thể chỉ nói suông về tương lai, hãy chuẩn bị kĩ càng cho những ngày tháng sau này. Có như vậy, hạnh phúc mới có thể được bảo vệ. Yêu thôi chưa đủ, trong tình ái luôn cần đôi phần dũng cảm. Bên cạnh những cung bậc cảm xúc đa dạng của tình yêu, Nguyễn Mon còn đem đến cho độc giả một bức tranh sống động về cuộc sống của những bạn trẻ rời quê lên thành phố lập nghiệp. Họ ra đi để trưởng thành và tìm kiếm cho mình những cơ hội mới. Để có được chúng, người ta đã phải đánh đổi cả thanh xuân, máu và nước mắt.
Hồi Tưởng Về Cha Tôi Hồ Học Lãm - Hồ Mộ La
Chí sĩ yêu nước Hồ Học Lãm sinh năm 1884 tại Quỳnh Lưu - Nghệ An. Những năm đầu thế kỷ XX, ông cùng một số người trẻ tuổi sớm đi theo tiếng gọi Đông Du của cụ Phan Bội Châu, xuất dương tìm đường cứu nước. Tuy không phải là một Đảng viên Cộng sản nhưng chí sĩ Hồ Học Lãm đã sống như người Cộng sản chân chính. Suốt đời chiến đấu, dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà mình đã lựa chọn là giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc. Tuy ra đi khi nghiệp lớn chưa thành nhưng Hồ Học Lãm vẫn mãi là tấm gương sáng về tinh thần yêu nước mà mỗi thế hệ hôm nay cần soi vào, học tập. “Hồi Tưởng Về Cha Tôi Hồ Học Lãm” là những dòng hồi ức chân thực và xúc động của bà Hồ Mộ La về người cha kính yêu của mình - chí sĩ Hồ Học Lãm. Thông qua những câu chuyện nhỏ, bạn đọc sẽ có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc hơn về chí sĩ Hồ Học Lãm. Đồng thời các bạn sẽ biết thêm nhiều thông tin thú vị về những thanh niên Việt Nam yêu nước đã đi theo lời kêu gọi của cụ Phan Bội Châu trong phong trào Đông Du.  *** Từ nhiều chục năm nay, tôi rất muốn tự tay viết một cái gì đó về cha mình - Chí sĩ Hồ Học Lãm - người đã cùng một số người trẻ tuổi sớm theo tiếng gọi Đông Du của cụ Phan Bội Châu xuất dương tìm đường cứu nước vào những năm đầu thế kỷ XX. Nay đã quá tuổi "cổ lai hy" (tôi sinh năm 1930), với đôi mắt mờ lòa, ước nguyện đó của tôi mới thành hiện thực. Cuốn sách nhỏ này là những hồi tưởng của tôi về người cha kính yêu đã quá cố, những hồi tưởng không hoàn chỉnh và có phần lộn xộn. Ở tuổi ngoài bảy mươi, tôi cố gắng để không giấu diếm những cảm xúc và những suy nghĩ thật của mình. Biết có ai đó chăng thương cảm với kẻ ra đi tìm đường cứu nước những năm đầu thế kỷ XX, thời kỳ Tổ quốc ta lầm than, thời kỳ đế quốc thực dân đang hoành hành trên những miền đất hoang sơ lạc hậu ở Châu Á như Trung Quốc, Việt Nam... Kẻ ra đi, và suốt 37 năm trời ở quê người đất khách, ông sống giữa những người xa lạ "Đồng sàng dị mộng"; chỉ muốn tung hoành mà lực bất tòng tâm. Cuối cùng cha tôi phải nằm bỏ xương quê người, phải ngậm ngùi đau khổ vì mình chưa làm được gì nhiều cho công cuộc cứu nước, cứu nòi và không được gặp lại người mẹ mà ông vô cùng yêu thương và kính trọng - Bà đã là ngọn đuốc soi đường, là tấm gương sáng cho cha tôi noi theo và cố gắng làm những việc có ích cho đời, cho nhân dân và cách mạng hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Cha tôi không phải là đảng viên cộng sản, nhưng ông sống như người cộng sản chân chính theo tiêu chí của chủ nghĩa Mác. Suốt cuộc đời ông đã chiến đấu, dâng hiến tất cả cho lý tưởng cao quý mà ông đã lựa chọn. Tôi rất tự hào và cảm phục cha mình. Những dòng cuối của "Hồi tưởng" này tôi phải viết bằng bút dạ ngòi to với sự trợ giúp của kính phóng đại. Sau gần ba năm, giờ khi đã 80 tuổi mụ tôi mới hoàn thành ý nguyện. Một sự hồi tưởng ít vui sướng, nhiều đau đớn, dường như cả cảm xúc nữa cũng đã quá sức chịu đựng của tôi. Tôi biết ngày tôi ra đi đã rất gần, ngày đó tôi sẽ tìm thấy cha, sẽ gặp chị và mẹ ở thế giới bên kia, thế giới của Tâm linh - Siêu vật chất "... Sắc bất dị không, không bất dị sắc...". Tất cả tôi xin dâng tặng hương hồn cha tôi - Chí sĩ Hồ Học Lãm. Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các bạn bè, người thân đã hỗ trợ, giúp đỡ tôi hoàn thành cuốn hồi tưởng này. Nguyên Tiêu Kỷ Sửu HỒ MỘ LA Mời các bạn đón đọc Hồi Tưởng Về Cha Tôi Hồ Học Lãm của tác giả Hồ Mộ La.
Gió Ơi, Cứ Thổi - Kim Hye Jung
Lấy bối cảnh là một đất nước khác - đất nước Trung Quốc - chứ không phải mảnh đất Hàn Quốc quen thuộc như bao tiểu thuyết đương thời, tác phẩm đã đưa đến cho nền văn học hiện đại Hàn một luồng gió mới thật lạ lẫm và cuốn hút. Tác phẩm viết về chuyến bộ hành của những cô gái đến “con đường tơ lụa” của đất nước Trung Hoa. Đó là Lee Eun Sung - một đứa trẻ ưa bạo lực, thích dùng nắm đấm để giải quyết mọi việc, từ lâu đã trở thành nỗi ám ảnh của bạn bè trong lớp. Là cô bé Bo Ra bị bọn trẻ cô lập, mỗi khi bị ức hiếp, bắt nạt, cô bé lại phải ăn cắp một món đồ nào đó của bọn bạn thì mới cảm thấy lòng nhẹ nhõm. Là Mi Ju, người chị dẫn đầu cho cuộc hành trình mang nét chín chắn vì đã từng trải qua một tuổi trẻ đầy nông nổi, cũng từng in dấu trên con đường đầy gian khổ này. Hai đứa trẻ đó, thay vì phải vào Trung tâm giáo dục trẻ vị thành niên, chúng đã chọn chuyến bộ hành dài dằng dặc trên “con đường tơ lụa” dài những 1200km. Với hình dung ban đầu về một con đường tơ lụa đẹp và mềm mại, một địa danh du lịch đáng để đến một lần trong đời. Cô bé Eun Sung đã bị thất vọng tràn trề bởi đến cả trong mơ cô bé ấy cũng chưa từng nghĩ mình phải cuốc bộ mỗi ngày trên con đường hun hút đầy cát và gió bụi trong thời tiết nóng nực và khô hạn của vùng sa mạc và sự lạ lẫm với những món ăn không hợp khẩu vị. Đã có những lúc nản định bỏ cuộc, đã có những giây phút muốn quay trở lại, thà đối mặt với sự mất tự do, sự giáo dục nghiêm khắc của Trung tâm, nhưng mỗi bước đi lại là một bước trưởng thành, một sự mở mang tầm nhìn về cuộc sống và những suy nghĩ, tình cảm đã thay đổi như một “người lớn” thực thụ. Tác phẩm có sự đan xen, hòa quyện tuyệt vời giữa quá khứ và hiện tại, mạch truyện đi về tự nhiên giữa một bên là ký ức tuổi thơ, một bên là những suy nghĩ và trải nghiệm ở cuộc sống hiện tại. Sau chuyến hành trình đầy gian khổ ấy, cô bé Eun Sung đã thấu hiểu và có ý đón nhận tình cảm của người mẹ mà bấy lâu nay mình từng căm ghét, xa lánh, đã thấy được sai lầm của bản thân khi trước đây luôn dùng cú đấm để giải quyết tất cả mọi việc như một kẻ côn đồ. Còn Bo Ra, một người đã từng trốn chạy, không muốn quay về mảnh đất mà mình bị cô lập ấy cuối cùng cũng đã đi hết cuộc hành trình và trở về. Dõi theo từng bước chân nhân vật, người đọc như thấy được sự nông nổi, bồng bột tuổi trẻ của mình ở trong đó, thấy chuyến đi như một phép nhiệm màu đã làm thay đổi hoàn toàn những suy nghĩ và nhận thức của những đứa trẻ đã từng mắc lỗi. Xét cho cùng, tác phẩm đã xây dựng nên một phương pháp giáo dục trẻ vị thành niên hoàn toàn mới và hiệu quả trong xã hội hiện đại. Với văn phong  nhẹ nhàng, trong sáng và đậm chất tự nhiên của hội thoại đời thường, tác giả Kim Hye Jeong đã khiến cho độc giả tò mò ngay từ phần đầu của câu chuyện. Hơn thế, mỗi bước đi của mạch truyện dường như men theo con đường tơ lụa để đến với từng vùng miền khác nhau, và rồi từng nét  Mời các bạn đón đọc Gió Ơi, Cứ Thổi của tác giả Kim Hye Jung.