Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Trò Đổ Lỗi

Khi tôi đi làm được vài năm, một “đàn anh” thân thiết của tôi trong công ty có khuyên: để tồn tại và phát triển được trong môi trường công sở, cần phải biết và dùng 4 “chiêu”. Đó là “ngậm máu phun người, ném đá giấu tay, thượng đội hạ đạp, mềm nắn rắn buông.” Anh ta còn đưa ví dụ cụ thể để tôi hình dung được trong bối cảnh nào thì nên dùng “chiêu” nào, và nhắc tôi nên phối hợp nhuần nhuyễn cả 4 “chiêu”. Anh càng diễn giải thì tôi càng thấy khôi hài và đương nhiên cho rằng đó là câu chuyện phiếm, “mang tính chất giải lao” thôi. Hồi đó, tôi chưa ý thức được như thế nào là chính trị doanh nghiệp. Nhưng qua một thời gian làm việc dài hơn, tôi để ý rằng dường như các chiêu thức nói trên xuất hiện rất thường xuyên nơi công sở, nhất là “ngậm máu phun người” và “thượng đội hạ đạp”. Hóa ra, người đồng nghiệp “đàn anh” của tôi nói có lý. Để giải quyết các vấn đề trong quan hệ công việc và xa hơn nữa là chính trị doanh nghiệp, người ta sẵn sàng đổ lỗi cho người khác, một cách công khai hoặc ngấm ngầm. Song song với trò đổ lỗi là lối hành xử tranh giành thành tích và phủ nhận năng lực của người khác. Tất cả đều nhằm duy trì và đánh bóng thương hiệu cá nhân. Tôi chắc rằng những ai làm việc nơi công sở cũng đều có các trải nghiệm này, trực tiếp hoặc gián tiếp, theo một mức độ nào đó. Quyển sách Trò đổ lỗi của Ben Dattner và Darren Dahl trình bày toàn diện các khía cạnh của trò đổ lỗi và việc công nhận thành tích/ năng lực nơi công sở, đồng thời hướng dẫn độc giả hình thành các phương pháp tiếp cận hiệu quả đối với các vấn đề này. Bạn đọc chắc hẳn sẽ thấy hình bóng của mình và các đồng nghiệp trong một số tình huống minh họa của sách, mặc dù phần lớn các tình huống này diễn ra trong môi trường làm việc tại Hoa Kỳ và châu Âu. Tôi cho rằng những quan điểm trình bày trong sách đều mang tính khoa học và hữu ích cho bạn đọc, dù đang là nhà quản lý hay là nhân viên thừa hành. Hy vọng rằng với những kiến thức trong sách này, bạn đọc sẽ khéo léo xử lý được những mối quan hệ nơi công sở, với thái độ công bằng và tử tế mà không cần phải dùng đến “4 chiêu” như trên. Nguyễn Phúc Hoàng  *** Trong tiểu thuyết Moby-Dick [1] , đối với thuyền trưởng Ahab thì những gì khiến người ta giận dữ và đau khổ nhất; những gì khuấy đảo sự tĩnh lặng; mọi sự thật hàm chứa ác ý; mọi thứ bẻ gẫy các nỗ lực và khiến cho bộ não con người tê cứng; mọi niềm tin rằng có ma quỷ trong cuộc sống và trong tư tưởng; tất cả mọi tội lỗi… đều được hiển thị rõ ràng và đều là những thứ có thể bị đánh bại trên thực tế. Vị thuyền trưởng này đã trút tất cả thịnh nộ và lòng căm thù mà loài người tích lũy được từ khi xuất hiện trên thế giới lên con cá voi trắng; và sau đó quyết tâm hạ sát nó từ sâu thẳm trái tim mình. Herman Melville, Moby-Dick   Chiếc máy bay đã im lặng thật đáng sợ sau khi va chạm với một bầy ngỗng trời: cả hai động cơ của máy bay đều hỏng. Đó là sự việc xảy ra ngày 15 tháng 1 năm 2009, máy bay của Hãng hàng không Hoa Kỳ đã gặp sự cố như trên sau khi vừa cất cánh rời sân bay LaGuardia, thành phố New York. [2] May mắn đối với toàn bộ hành khách và phi hành đoàn, người phi công chính của chuyến bay này không những có năng lực cao và đã được huấn luyện để tư duy dưới áp lực lớn, mà anh ta còn không cảm thấy sợ hãi hay sợ trách nhiệm khi ra quyết định. Cơ trưởng Chesley Burnett Sullenberger đã nhanh chóng nhận ra rằng: để cứu chiếc máy bay, hoặc phải quay lại và hạ cánh xuống sân bay LaGuardia hoặc phải đáp ngay xuống dòng sông Hudson – nơi gần nhất và không có chướng ngại vật. Đáp xuống mặt nước là cách tốt nhất để cứu mạng những người trên máy bay, nhưng chắc chắn sẽ làm hỏng máy bay. Cơ trưởng đã quyết định hạ cánh xuống dòng sông, tất cả hành khách và phi hành đoàn đều an toàn, chỉ có vài trường hợp bị thương nhẹ, và tin này được truyền đi khắp thế giới. Sau đó Sullenberger cho biết “Lúc đầu tôi đã lo lắng về việc mình sẽ bị những người giám sát và nhân viên điều tra “hỏi thăm” vì quyết định hạ cánh khẩn cấp này, nhưng tôi đã cân nhắc và không quan tâm đến chuyện đó nữa”. Mỗi chúng ta trong khi làm việc đều thích có được những quyết định mang tính tự quyết và anh hùng như trên. Nhưng rủi thay, rất nhiều người trong chúng ta lại nhận ra rằng bản thân mình đang làm việc cho các tổ chức hay những ông chủ chỉ biết đổ lỗi cho người khác khi có sự cố xảy ra, với lý do không chính đáng và thời điểm không phù hợp; điều này không những dẫn đến hậu quả là sự thất vọng, tức giận và cuối cùng là sự thiếu cam kết của chúng ta trong công việc mà còn khiến chúng ta im lặng hoặc không có hành động đúng đắn khi cần thiết phải hành động, vì chúng ta sợ bị trừng phạt. Tại nhiều cơ quan văn phòng, sự công nhận đã không được phân bổ phù hợp, khi một số người lại được công nhận năng lực và thành tích từ những đóng góp của chính chúng ta hoặc của những đồng nghiệp khác. Công bằng mà nói, họ không xứng đáng được công nhận, ngợi khen. Trong một cuộc họp, ai đó đã có một đề xuất nhưng bị phớt lờ, rồi sau đó vài phút một người khác cũng đề xuất y như vậy thì lại được hoan nghênh. Hoặc là tại một văn phòng, tất cả mọi người đều “lấn tuyến” chút đỉnh trong khi làm việc nhưng chỉ duy nhất có một người bị “thổi còi” và bị quy trách nhiệm vì đã làm việc kiểu này. Chúng ta có thể thấy ở khắp nơi: một CEO đổ lỗi cho người tiền nhiệm của mình khi công ty thất bại hoặc gặp khó khăn; một nhân viên được hoan nghênh với ý tưởng hoặc thành tích của người đồng nghiệp khác; một quan chức nhà nước cho rằng khoản tiền thuế chưa thu được là “sai lầm của khâu kế toán” hoặc một nhà quản lý của công ty dầu khí chỉ tay đổ thừa cho mọi tổ chức khác sau thảm họa tràn dầu. Hãy để ý bên ngoài cánh cửa văn phòng hoặc sau vách ngăn tại nơi bạn làm việc, bạn sẽ thấy các đồng nghiệp hoặc đang cố gắng thu thập những lời khen ngợi của bạn, của những người đồng cấp với bạn hay của các sếp dành cho những đóng góp chẳng có giá trị gì của họ; hoặc đang cố gắng chuyển hướng sự đổ lỗi – nhất là trong những giai đoạn khó khăn khi người ta sợ rằng chỉ một sai lầm duy nhất cũng có thể phải trả giá bằng chính công ăn việc làm của mình. Khi khách hàng không nhận được đơn hàng, lỗi không phải là do người nhân viên phụ trách vận tải, mà là do công ty dịch vụ giao nhận. Bạn cũng không thể quy trách nhiệm cho phòng Phát triển Sản phẩm vì kết quả hoạt động yếu kém – rõ ràng nguyên nhân là tại nhóm Sales. Khi nghe hai đồng nghiệp nói chuyện với nhau lúc đi đường hoặc cùng đi ăn, một người than phiền về công việc của mình, bạn sẽ nhận ra trong câu chuyện luôn luôn có sự trách móc vì người đó đã không được ghi nhận năng lực và thành tích một cách công bằng hoặc bị đổ lỗi oan, sau đó cảm thấy không được đánh giá cao và còn bị “làm khó”. Và trong khi các xu hướng đang thắng thế nơi công sở là: giành lấy sự ngợi khen không xứng đáng về mình và đẩy trách nhiệm sang những người khác; chúng còn khốc liệt hơn bao giờ hết khi trong giai đoạn tồi tệ: rủi ro cao, thời gian bị bó hẹp, cần có niềm tin, sự hợp tác và các phương pháp tiếp cận mới mẻ. Cách thức chúng ta quản lý sự công nhận và việc đỗ lỗi cũng mang tính lan truyền; nó có thể nhanh chóng lan tràn và ảnh hưởng rộng khắp trong nơi làm việc. Chẳng hạn, có lần tôi được một vị CEO của một doanh nghiệp trong ngành công nghệ cao mời đến tư vấn cho một khối chức năng ứng dụng khoa học hiện đại, đây cũng là nơi đã cầm chân nhiều nhà khoa học nổi tiếng thế giới và các nhà quản lý giàu kinh nghiệm trong vòng vây của trò đổ lỗi. Vị giám đốc khối trước kia đã ra đi để làm việc cho một doanh nghiệp mới thành lập khác, và những người ở lại phải đối mặt với sự thiếu hụt ngân sách khi cố gắng tuyển dụng người thay thế. Quá xa cách CEO và trụ sở chính của công ty, những người làm việc tại khối chức năng này cảm thấy bị cấp trên quên lãng và ngày càng lo lắng về việc khối sẽ bị xóa sổ hoặc bán cho công ty khác. Tuy nhiên, thay vì cố gắng cùng nhau làm việc và cùng hy sinh để gìn giữ công ăn việc làm, các nhà khoa học và những người quản lý tại đây lại đổ lỗi cho nhau về việc giám đốc cũ đã từ nhiệm và tình hình tài chính ngày càng xấu đi của khối. Ngay cả những ứng viên đến phỏng vấn vào vị trí giám đốc khối cũng nhìn thấy rõ điều đó. Hầu hết ứng viên đều quay lưng khi thấy một tổ chức có bầu không khí độc hại, trong đó các thành viên hằn học khi nói về nhau. Động cơ để giành được sự công nhận và đổ thừa trách nhiệm theo kiểu này còn làm cho cơn khủng hoảng tài chính của khối trở nên tệ hại hơn và mất nhiều thời gian hơn cho việc tuyển dụng giám đốc mới, khả năng hoàn thiện bản thân của mỗi thành viên rơi vào vòng xoáy trôn ốc theo chiều đi xuống và nỗi hoài nghi về sự tồn tại của khối là lớn hơn bao giờ hết. Là một nhà tâm lý học tổ chức, tôi đã tư vấn cho nhiều doanh nghiệp lớn nhỏ, hoạt động vì lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận, trong và ngoài lãnh thổ nước Mỹ. Mỗi khi điện thoại của tôi reo thì đó là lúc có một cá nhân, một nhóm hay một tổ chức đang tìm kiếm sự hỗ trợ về vấn đề công nhận hoặc quy trách nhiệm. Cho dù khách hàng là vị CEO đang phân vân không hiểu tại sao nhóm quản lý của mình sa lầy vào chuyện đổ trách nhiệm và không làm việc nhịp nhàng với nhau, hoặc là một nhà phân tích tài chính của một quỹ đầu tư lo lắng rằng mình sẽ không nhận được một khoản tiền thưởng đủ lớn, thì đó cũng không phải là trường hợp duy nhất mà tôi tư vấn cho các khách hàng rằng sự công nhận và quy trách nhiệm là những điều quan trọng, nếu không muốn nói là then chốt nhất đối với các rắc rối như trên. Qua nhiều năm tư vấn cho nhiều doanh nghiệp lớn và tư vấn ngay tại nơi làm việc cho Đài phát thanh Công cộng Quốc gia (National Public Radio), chuyên mục Buổi sáng, tôi đã học được một điều rằng “trò đổ thừa” – một tập hợp phức tạp của các nguyên tắc tư lợi và những nhu cầu đánh giá chủ quan có ảnh hưởng đến cách thức mà chúng ta quy trách nhiệm hay công nhận bản thân chúng ta và những người khác – là một yếu tố then chốt quyết định các mối quan hệ trong công việc: thân thiện và hợp tác hoặc khắc nghiệt và cố chấp. Các động cơ của sự công nhận và đổ lỗi – cụ thể là bản thân chúng ta có vượt qua được trò đổ thừa hoặc học được cách né tránh sức quyến rũ của nó hay không – cũng liên quan nhiều đến việc chúng ta rốt cục có thể thành công như thế nào. Trong phạm vi các nhóm, sự công nhận và đổ thừa có thể quyết định việc các “nạn nhân” có “bị lộ” và bị xử lý hay không, hay là khi có sai sót thì đó là trách nhiệm tập thể. Giữa các nhóm với nhau, động cơ của sự công nhận và đổ lỗi có thể giúp lý giải khi nào thì người ta hợp tác và tin cậy, hoặc khi nào thì các nhóm ngày càng cáo buộc lẫn nhau nhiều hơn. Cách thức công nhận hoặc quy trách nhiệm thậm chí còn quyết định việc liệu toàn bộ công ty đều có quan điểm rằng: cần phải quan tâm đến các thách thức và có hành động thích hợp; hay tất cả họ đều dùng “chiêu đổ thừa” và “dàn xếp tỷ số”. Nhiều nhà nghiên cứu đã tìm hiểu về “sự trật đường ray trong công tác quản lý”, điều này diễn ra khi sự nghiệp của các nhà quản lý đi lệch khỏi quỹ đạo và khi đó hoặc là họ sẽ thất bại trong công việc hoặc không phát huy được tối đa tiềm năng của mình trong tổ chức. [3] Một khía cạnh thường thấy nhất trong số những nhà quản lý “trật đường ray” này là: bản thân họ không chọn lựa để tạm dừng quá trình phát triển của mình – thay vào đó, cách họ hành động đã dẫn đến hậu quả vô tình là sự rời bỏ tổ chức hay bị giáng chức. Chẳng hạn, một số nghiên cứu tại Trung tâm Lãnh đạo Sáng tạo (Center for Creative Leadership – CCL) đã cho thấy yếu tố chính trong nguyên nhân thất bại của các nhà quản lý này là sự yếu kém của họ trong việc quản lý các mối quan hệ: họ đã không công nhận, hoan nghênh một cách thích hợp những người mà họ trông cậy trong công việc, nhưng lại đổ thừa cho một số người khác vì những thiếu sót của chính mình. [4] Như những nội dung được trình bày chi tiết hơn trong Chương 6, chúng ta sẽ thấy cách thức mà các nhà quản lý tiến hành việc khen ngợi, công nhận hoặc quy trách nhiệm cũng có thể là một yếu tố then chốt quyết định đến sự thành bại trong sự nghiệp của họ. Cũng như vậy, Howard Tennen và Glenn Affleck đến từ đại học Y khoa Connecticut, khoa Tâm thần học, cũng đã phân tích các kết quả thu được từ 22 nghiên cứu về ảnh hưởng của việc đổ lỗi cho người khác. [5] Có đến 77% trường hợp trong các nghiên cứu này cho thấy khi đổ lỗi cho người khác thì bản thân người đổ lỗi cũng chẳng cảm thấy dễ chịu chút nào, cả về tinh thần lẫn thể chất. Trong 23% còn lại, người đổ lỗi không có bất cứ lợi ích nào, bất kể người bị đổ lỗi là vợ/chồng, là bác sĩ của họ hay một người xa lạ nào khác. Nói cách khác, các nghiên cứu trên cho thấy sự đổ lỗi chẳng mang lại hiệu quả gì tốt đẹp cả, và còn có nhiều khả năng gây ra tác hại. Nghiên cứu này cho thấy thêm bằng chứng rằng bất chấp nét hấp dẫn trước mắt của trò đổ lỗi, cách hành xử này không giúp gì cho người đổ lỗi và trong dài hạn còn có thể khiến anh ta/cô ta phải trả giá. Một ví dụ có liên quan khác: nhà tâm thần học George Vaillant của trường Y khoa Harvard đã tiến hành nghiên cứu và cho thấy rằng những người quy trách nhiệm hoặc đổ lỗi cho người khác khi họ gặp xui xẻo cũng chính là những người rất kém năng lực trong việc điều chỉnh mình trước các biến cố, biến động trong cuộc sống. Vaillant đã viết “rất khó có thể tranh luận với những người không thừa nhận trách nhiệm về mình”, [6] và ông đặt tên cho xu hướng này là sự phòng thủ của người chưa trưởng thành, bởi vì sự phủ nhận hoặc “phòng thủ tới cùng” chỉ thường thấy ở trẻ em hoặc thiếu niên. Một nghiên cứu khác của bác sĩ tâm thần Leslie Phillips tại bệnh viện Worcester lại cho thấy: khi người ta càng sa đà vào trò đổ lỗi cho người khác mỗi khi gặp rắc rối, thì họ lại càng trở nên khó khăn hơn khi đối mặt với cuộc sống nói chung. [7] Nói cách khác, những người đổ lỗi cho người khác, suy cho cùng, phải trả giá đắt cho hành động này. Lần đầu tiên tôi tìm hiểu về tầm quan trọng của sự công nhận và quy kết trách nhiệm là khi tôi làm việc cho ngân hàng Republic National Bank of New York trong 3 năm, lúc đầu là quản trị viên tập sự và sau đó là trợ lý cho CEO. Khi được luân chuyển qua nhiều phòng ban trong ngân hàng, tôi vẫn nhớ là mình đã rất quan tâm về việc ai được công nhận thành tích và năng lực khi công việc tốt đẹp, và ai bị quy trách nhiệm khi có trục trặc. Một ngày kia, tôi để ý thấy một đồng nghiệp đã gắn mẩu giấy nhỏ lên tường, trên đó ghi: “Sáu giai đoạn của một dự án: 1. Nhiệt tình 2. Vỡ mộng 3. Hoảng sợ 4. Truy tìm thủ phạm 5. Trừng phạt người vô tội 6. Khen thưởng những người không liên quan”. Mặc dù đã nghiên cứu nhiều lý thuyết hàn lâm chính thống về nhóm và sự phát triển nhóm từ sau khi nhìn thấy mẩu giấy này, tôi cũng chưa tìm thấy một sự miêu tả nào chính xác hơn nội dung trên. Nó cho thấy hầu hết các kịch bản đã diễn ra như thế nào tại nơi công sở. Không may là trong rất nhiều tổ chức, các quy trình khen thưởng và quy trách nhiệm vừa bất công vừa tai hại đã ấn định ai được khen, ai bị phạt theo cách thức hoàn toàn không tương quan với tài năng hoặc hiệu quả làm việc. Sức sáng tạo và việc chấp nhận rủi ro một cách hợp lý đã bị bóp nghẹt, con người không cảm thấy tự tin để ra các quyết định cứng rắn cần thiết. Nếu người phi công phụ cảm thấy sợ chuyện sẽ bị phi công chính đổ lỗi vì bất tuân lệnh, anh ta sẽ không có ý kiến gì ngay cả khi máy bay hết nhiên liệu hoặc máy bay sắp đến gần một ngọn núi. Khi người ta quá lo sợ rằng mình sẽ bị quy trách nhiệm khi thử nghiệm những cái mới trong sự nghiệp, người ta không thể vạch ra một con đường mới hoặc có những đóng góp mang tính đột phá. Nếu một nhóm quá quan tâm đến việc biện minh cho hiệu quả làm việc (thay vì cải tiến nó), nhóm sẽ phải dành rất nhiều thời gian và công sức để tìm ra ai đó hoặc cái gì đó để mà đổ lỗi khi có vấn đề phát sinh (thay vì cố tìm cách giải quyết vấn đề). *** Ben Dattner là người sáng lập nên Dattner Consulting, một công ty tư vấn về môi trường làm việc hỗ trợ các doanh nghiệp và những tổ chức phi lợi nhuận giải quyết các vấn đề liên quan đến sự công nhận và đổ lỗi nhằm củng cố hiệu quả hoạt động của cá nhân, đội nhóm và toàn bộ tổ chức. Các khách hàng của ông bao gồm nhiều công ty, từ mới thành lập với quy mô nhỏ đến những tập đoàn toàn cầu, các tổ chức giáo dục và phi lợi nhuận, luôn cả các cơ quan của chính phủ. Dattner cũng là một giáo sư trợ giảng tại Đại học New York trong môn Phát triển Tổ chức trong các ngành công nghiệp và chương trình cao học (môn Tâm lý học Tổ chức). Ông còn giảng dạy về Chiến lược Quản lý Sự nghiệp trong chương trình MBA dành cho nhà quản lý của trường kinh doanh Stern NYU. Ben nhận bằng Cử nhân Tâm lý học từ đại học Harvard và sau đó là Thạc sĩ rồi Tiến sĩ trong ngành Tâm lý học ngành nghề và tổ chức của đại học New York. Ông sống tại thành phố New York và trang web của ông là www.dattnerconsulting.com.   Darren Dahl là đồng tác giả và là nhà biên tập cho nhiều tác giả tên tuổi, bao gồm Keith McFarland trong cuốn The Breakthrough Company (tạm dịch: Công ty đột phá, bán chạy nhất theo nhận định của các tờ New York Times , Wall Street Journal , và USA Today ), và các chuyên gia về sở hữu tài sản trí tuệ Mark Blaxill và Ralph Eckardt trong cuốn The Invisible Edge (tạm dịch Lợi thế vô hình, được cho là quyển sách bàn về chiến lược bán chạy nhất trong năm 2009 theo nhận xét của Strategy Business). Dahl cũng là nhà biên tập cộng tác cho tờ tạp chí Inc. , từ năm 2004. Ông còn viết cho tờ New York Times và AOL Small Business. Dahl hiện sống tại Asheville, NC.   Mời các bạn đón đọc Trò Đổ Lỗi của tác giả Ben Dattner & Darren Dahl.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đạo của Warren Buffett - Mary Buffett & David Clark
Từ năm 1981 đến 1993, trong suốt 12 năm, tôi chính thức là con dâu của Warren Buffett, nhà đầu tư thành công nhất thế giới và đồng thời cũng là nhà hảo tâm lớn nhất thế giới. Không lâu sau khi thành hôn với Peter, con trai của Warren, và rất lâu trước khi phần thế giới bên ngoài Wall Street biết đến Warren, tôi đã được đến thăm gia đình tại Omaha. Tại đây, tôi đã được gặp một nhóm sinh viên tâm huyết với những lời thông thái của bậc thầy về đầu tư, và tự nhận mình là những nhà nghiên cứu Buffett (Buffettology). David Clark là một người trong nhóm này còn lưu giữ những quyển sổ ghi chép những lời khuyên rất chi tiết và thú vị của Warren về đầu tư. Về sau, những quyển sổ này chính là nền tảng giúp chúng tôi viết nhiều quyển sách với chủ đề đầu tư rất được ủng hộ như Buffettology, The Buffettology Workbook, và quyển The New Buffettology, đã được xuất bản bằng mười thứ tiếng, trong đó có cả tiếng Hoa và tiếng Nga. Trong những quyển sổ này của David, tôi thích nhất một quyển ghi lại những câu cách ngôn sâu sắc của Warren, vì chúng khiến bạn phải suy nghĩ và chiêm nghiệm. Sau này tôi phát hiện ra rằng, đối với những tín đồ nghiên cứu Buffett, những câu cách ngôn này chẳng khác gì những lời giảng đạo của một bậc trưởng lão, nghĩa là càng suy ngẫm thì lại càng nghiệm ra được nhiều điều sâu sắc. Theo thời gian thì chính tôi cũng bắt đầu ghi chép những câu cách ngôn mà Warren hay nói trong gia đình hoặc tại các buổi hội họp với các ngôi sao trong kinh doanh. Những lúc như thế, Warren đôi khi đứng lên để lắng nghe và trả lời các câu hỏi như một thầy giáo, đền đáp cho những sinh viên kiên nhẫn bằng sự thông thái của mình. Càng lắng nghe Warren, tôi càng học hỏi được nhiều điều, không chỉ là trong đầu tư, mà bao quát trong kinh doanh và cuộc sống nói chung. Những câu cách ngôn của ông cứ day dứt mãi trong đầu bạn. Tôi nhận ra mình thường hay trích dẫn lời của ông, hoặc bật lên những suy nghĩ về chúng như một cách để ngăn mình khỏi mắc sai lầm, không bị cuốn vào cơn cuồng phong náo nhiệt của thị trường đang lên. Chúng còn là chiếc kim chỉ nam giúp tôi biết phải tập trung chú ý vào những công ty nào và chọn thời điểm thích hợp nhất để đầu tư. David và tôi cho rằng sẽ rất thú vị nếu cho ra một tập hợp những thuyết giảng của Warren Buffett, bằng những câu mà theo chúng tôi là thật sự khai sáng về đầu tư, quản trị kinh doanh, về cách chọn nghề nghiệp, và xây dựng một cuộc sống thành công. Những câu này thật sự là người bạn đường dẫn lối chúng tôi trong cuộc sống, trong công việc, trong đầu tư khôn ngoan. Chúng tôi cũng đưa vào đây cách giải thích của những người đã dày công nghiên cứu Buffett để làm bối cảnh và mở cánh cửa giúp các bạn khám phá thêm những ẩn ý sâu xa bên dưới ngôn từ. Tôi hy vọng quyển sách này sẽ làm giàu thêm thế giới của bạn, biến cuộc sống thành một chốn thú vị với nhiều lợi ích dành cho đầu tư, làm việc, và sinh sống.   Mary Buffett Tháng 7/2006 *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Mời các bạn đón đọc Đạo của Warren Buffett của tác giả Mary Buffett & David Clark.
10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh - Donald R. Keough
10 điều răn về những thất bại trong kinh doanh” là một cuốn cẩm nang hết sức có giá trị cho mọi nhà lãnh đạo kinh doanh. Bản thân tác giả là một doanh nhân có tên tuổi, được rất nhiều người có uy tín khác xin ý kiến tư vấn. Rất nhiều diễn giả và người viết đã đưa ra các lời khuyên về việc làm sao để có được thành công trong kinh doanh. Những “chuyên gia” về thành công trong các lĩnh vực dường như hiện diện ở khắp mọi nơi, từ những huấn luyện viên bóng đá, các cựu CEO, đến những nhà tâm lý, người thuyết giảng… Tuy nhiên chẳng ai trong số họ có thể đưa ra bất cứ sự đảm bảo nào cho những lời tư vấn: nói cho cùng thì bí quyết thành công vẫn không thể được diễn tả bằng một kế hoạch cụ thể với các bước tiếp nhau được. Thất bại thì hoàn toàn không giống như thế. Thất bại là một cái gì đó… dễ dàng. Trên thực tế, có mười lỗi lầm ngớ ngẩn mà các doanh nghiệp và cá nhân liên tục lặp đi lặp lại, đến mức phải lập ra một danh sách để ghi nhớ suốt đời! Nếu bạn cũng muốn tránh vấp phải những sai lầm và cạm bẫy trên, những sai lầm và cạm bẫy có thể xảy ra với bất kỳ cá nhân và doanh nghiệp nào, thì đây chính là cuốn sách dành cho bạn. *** Tủ Sách Doanh Trí gồm có: Nền Kinh Tế Tăng Trưởng Và Sụp Đổ Như Thế Nào? 23 Vấn Đề Họ Không Nói Với Bạn Về Chủ Nghĩa Tư Bản Cách Nghĩ Để Thành Công Nói Vậy Mà Không Phải Vậy  Quảng Cáo Và Tâm Trí Người Tiêu Dùng Thay Đổi Tư Duy - Nghệ thuật và Khoa học thay đổi tư duy của bản thân và người khác Vận Hành Toàn Cầu Hóa Đặt Tên Cho Thương Hiệu! Nguyên Lý Thứ Năm: Nghệ Thuật Và Thực Hành Tổ Chức Học Tập Nhìn Về Toàn Cầu Hóa Yukichi Fukuzawa - Tinh Thần Doanh Nghiệp Của Nước Nhật Hiện Đại 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh Lãnh Đạo Chuyển Hóa Đạo của Warren Buffett Châu Á Thần Kỳ - Thiên Sử Thi Về Hành Trình Tìm Kiếm Sự Thịnh Vượng Của Châu Á Học làm Lãnh đạo Thế giới cong Rơi Tự Do Quản Trị Dựa Vào Tri Thức Hơn Cả Tiền Tương Lai Của Nghề Quản Trị Nhân Sự Phương Thức Dẫn Đầu Thị Trường Nhà Quản Lý Tài Giỏi Lợi Thế Cạnh tranh Khi Bong Bóng Vỡ Lợi Thế Cạnh Tranh Quốc Gia ...   Cựu chủ tịch hãng Cocacola nói ông "không thể" đưa ra một bí quyết thành công nào hết, cái ông có thể viết sẽ là một bản "hướng dẫn" thất bại. Cựu chủ tịch hãng Cocacola đã viết một cuốn sách khác biệt: một cuốn sách dạy thất bại Có vô số những cuốn sách dạy thành công trên thị trường với những nội dung na ná như nhau, sự thừa mứa của các kiểu bí quyết đã khiến người đọc bội thực. Donald R.Keough, cựu chủ tịch hãng Cocacola (từ năm 1981 tới năm 1993) khẳng định phũ phàng ngay từ đầu: ông "không thể" đưa ra một bí quyết thành công nào hết, cái ông có thể viết sẽ là một bản "hướng dẫn" thất bại. Vậy nhưng, bản hướng dẫn này của Donald lại được những doanh nhân hàng đầu giới thiệu: Bill Gates, Jack Welch, Warren Buffet, Ropert Murdoch... Hiếm có cuốn sách nào trên thế giới có được vinh dự ấy. Tất nhiên, không phải chỉ vì giá trị mà ngần ấy tên tuổi phải lao vào chiến dịch ủng hộ nó, họ đều là bạn của Donald R.Keough. Và chỉ riêng cái tên Donald cũng đủ khiến người Mỹ tìm đọc sách của ông. Donald Keough từng là một cái tên nổi bật trong giới quản trị cấp cao ở Mỹ, từng là chủ tịch của Cocacola, Columbia Pictures và nằm trong Ban điều hành những công ty hàng đầu như McDonald, Washington Post, Home Depot, Berkshire Hathaway... Với sự nghiệp lừng lẫy trong 60 năm ở những vị trí điều hành các tập đoàn hàng đầu thế giới, ông già Donald nay đã 83 tuổi có dư trải nghiệm và sự khôn ngoan để hướng dẫn người khác làm thế nào để thành công. Nhưng rồi ông già ấy lại chỉ khiêm tốn nói rằng: muốn thành công thì trước hết hãy học cách tránh vết xe đổ của những người thất bại. Hãy học cách thất bại trước... Donald đưa ra 10 điều răn, cụ thể hơn là 10 công thức mà "ai theo đúng những hướng dẫn này chắc chắn sẽ thất bại". Trong đó, tự cô lập và tự mãn là hai lỗi lầm "kinh niên" của các nhà lãnh đạo mà theo Donald, chắc chắn sẽ dẫn họ tới thất bại. Chứng tôn thờ bản thân Tuy hai mà một, tự cô lập và tự mãn chỉ là hai triệu chứng của cùng một căn bệnh mà Donald đã "bắt mạch" ra: đó là "chứng tôn thờ bản thân". Tôn thờ bản thân nghĩa là luôn tự nghĩ rằng mình cao hơn, giỏi hơn, siêu hơn, trội hơn người khác trong khi thực tế chưa hẳn đã như vậy. Tôn thờ bản thân dẫn người lãnh đạo tới việc tự cô lập trong tháp ngà xa hoa của mình, cách xa với số đông nhân viên phía dưới. Tôn thờ bản thân để "lập nên một tập thể những nhà tư vấn và những nhân viên được trả lương chỉ để nghĩ rằng bạn tuyệt vời" và chỉ nói những điều mà lãnh đạo muốn nghe. Tôn thờ bản thân nên coi thường cấp dưới, tạo ra một môi trường đầy sợ hãi bằng cách "la hét và nổi cơn tam bành", "mắng mỏ, chỉ trích những người mắc sai lầm trước mặt những người khác", "tự hào về những đòi hỏi thái quá mà họ đưa ra cho nhân viên cấp dưới", "tự hào vì đã đối xử với nhân viên một cách thô lỗ, tồi tệ". Tôn thờ bản thân nên khi có "việc gì đó đáng được khen thưởng", luôn vơ tất cả "vinh dự đó về mình". Tôn thờ bản thân là ít khi thừa nhận sai lầm mà luôn tìm cách "đổ lỗi cho một vài ngoại lực nào đó, hoặc cho một ai đó." Tôn thờ bản thân là say sưa trong những vinh quang giả tạo mà không nhận ra rằng tất cả chỉ là "những ánh hào quang được bao quanh bởi một cái chụp đèn mờ." Tất cả những biểu hiện ấy tạo ra một môi trường nơi người có năng lực muốn nói thật những "tin xấu" bị bỏ rơi, còn kẻ nịnh thần ton hót những "tin tốt" được trọng dụng. Hitler cả cuộc đời không bao giờ muốn nghe tin xấu, đến những giờ phút cuối cùng của Quốc Xã, ông ta vẫn nghĩ rằng mình chiến thắng. Ngược lại, Churchill thành lập hẳn một Ban chuyên báo cáo cho mình những tin xấu. Churchill mới là chiến thắng cuối cùng trong Thế chiến II. Hitler là một bệnh nhân nặng của chứng tôn thờ bản thân, vĩ cuồng, một vài thành công trong giai đoạn ngắn không thể cứu nổi thực tế rằng, căn bệnh đó là con đường chắc chắn đưa đến thất bại. Hóm hỉnh và sâu sắc, ông già Donald tóc bạc trắng đã viết một cuốn sách nhẹ nhàng về nghệ thuật thất bại, nhưng lại chính là để chia sẻ những kinh nghiệm thành công, và hơn thế, chia sẻ triết lý làm người. Khánh Duy Mời các bạn đón đọc 10 Điều Răn Về Những Thất Bại Trong Kinh Doanh của tác giả Donald R. Keough.
Quản Trị Trong Thời Khủng Hoảng - Peter F. Drucker
Trong thời kỳ khủng hoảng, bất kỳ doanh nghiệp, tổ chức nào, dù lớn hay nhỏ, cũng gặp phải khó khăn, bởi những biến động sẽ tác động ít nhiều đến sự tồn tại, hoạt động và phát triển của doanh nghiệp, tổ chức đó. Vừa giải quyết, đối phó với những biến động trong thời kỳ khủng hoảng vừa phải tìm kiếm các cơ hội trong đó là yêu cầu đặt ra khiến tất cả các doanh nghiệp và tổ chức phải đau đầu. Thông thường, lãnh đạo các doanh nghiệp vẫn là việc làm đầy khó khăn, thì giờ đây, chèo lái cả tổ chức trong thời kỳ khủng hoảng còn gian truân hơn nữa. Những tổ chức không vượt qua được giai đoạn này, tất phải đổ vỡ, dẫn đến vô số những vấn đề nan giải về tài chính cũng như nhân sự. Còn những tổ chức duy trì tiếp tục sau những biến động hẳn sẽ trưởng thành hơn, vững mạnh hơn, và tự trang bị cho mình những kinh nghiệm xương máu để vận dụng trong những giai đoạn sau này. Và những tổ chức tận dụng được thời cơ khủng hoảng để mạnh mẽ hơn chắc chắn sẽ trở thành những tổ chức xuất sắc. Điều này đòi hỏi tầm nhìn, quyết tâm và cả sự hy sinh của các nhà lãnh đạo. *** Trong thời kỳ khủng hoảng, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng sẽ gặp phải khó khăn, và dù lớn dù nhỏ chúng cũng sẽ có tác động trực tiếp đến sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp đó. Nếu không có những chiến lược cụ thể, những kế sách hành động rõ ràng, doanh nghiệp sẽ lao đao và có thể rơi vào tình trạng phá sản. Và trong thời kỳ đó, vai trò của các nhà quản lý, các nhà hoạch định chính sách càng trở nên quan trọng. Câu hỏi đặt ra lúc này đối với các doanh nghiệp, các nhà quản lý là: Làm thế nào để lập ra những chiến lược, chính sách phù hợp? Làm thế nào doanh nghiệp vượt qua được cơn khủng hoảng “bệnh tử”? Và làm thế nào để hùng mạnh hơn sau khủng hoảng? Là một trong những cuốn sách kinh điển về quản trị của Cha đẻ Ngành quản trị hiện đại - Peter Drucker, Quản trị thời khủng hoảng tập trung hoàn toàn vào các hành động, chiến lược và cơ hội, những điều các nhà quản trị có thể làm, nên làm và phải làm trong những thời kỳ biến động, khủng hoảng. Trong cuốn sách kinh điển này, Peter đã chỉ ra rằng, thời kỳ khủng hoảng là một thời kỳ nguy hiểm, đáng lo ngại, nhưng lại là cơ hội tuyệt vời cho những ai hiểu rõ nó, chấp nhận và khai phá những thực tế mà nó mang lại. Cuốn sách sẽ mang đến cho các nhà quản lý, các nhà điều hành những câu trả lời hoàn hảo cho việc hoạch định chính sách, thiết lập các hành động và bước đi phù hợp nhằm đưa doanh nghiệp của mình vượt qua khó khăn và phát triển. Đó là: Làm cho doanh nghiệp thích ứng với lạm phát, Quản lý khả năng tài chính và khả năng thanh toán tiền mặt, Quản lý hiệu suất công việc... Dù cuốn sách đã ra đời được một thời gian khá lâu, song trong thời kỳ kinh tế nhiều biến động như ngày nay, Quản trị thời khủng hoảng vẫn là cẩm nang thiết thực và hiệu quả cho các nhà quản lý, những người muốn dẫn dắt doanh nghiệp của mình phát triển và thành công vượt trội. *** Từ đầu thế kỷ này, hầu như không có một tổ chức mới, một nhóm dẫn đầu, một chức năng chính nào xuất hiện nhanh như một bộ phận quản lý. Trong lịch sử loài người, cũng hiếm khi có một thể chế nào lại nhanh chóng được chứng minh là không thể thiếu như vậy. Cũng chưa bao giờ có một tổ chức nào xuất hiện mà ít gây tranh cãi, ít lo âu và phản đối đến thế. Từ khi tôi viết những dòng này cho đến nay chưa đầy 10 năm. Hai câu đầu tiên trong đoạn vẫn còn giữ nguyên giá trị. Chưa bao giờ có một nhóm lãnh đạo xã hội nào, một thể chế xã hội mới nào xuất hiện nhanh như “quản lý”, điều mà trước năm 1900 vẫn chưa hề được biết đến nhưng giờ đây đã trở nên phổ biến trên toàn thế giới và được sử dụng rộng rãi. Nhưng người ta cũng không còn cho rằng quản lý sẽ không phải đối mặt với sự phản đối, không tạo ra sự lo âu cũng như tranh cãi nào nữa. Ngược lại, giờ đây quản lý đang bị tấn công dữ dội, nó rơi vào trung tâm của khủng hoảng và gây ra rất nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, cũng không cần phải lo lắng về sự tồn tại của “quản lý”. Trừ khi con người tự hủy bỏ, còn nếu không những tổ chức đã được hình thành cách đây 100 năm vẫn sẽ tồn tại, và ngày càng trở nên quan trọng hơn, và những tổ chức này không thể hoạt động nếu như thiếu bộ phận quản lý. Quản lý là cơ quan cốt lõi của tổ chức, giúp biến một “đám đông” thành một tổ chức, và những nỗ lực của con người thành hiệu quả thực tế. Nhưng trong tương lai, mô hình và cấu trúc của quản lý sẽ khác đi. Sự kiềm chế, kiểm soát, cấu trúc, quyền lực và khái niệm quản lý cũng sẽ thay đổi hoàn toàn khác. Theo cách thức như hiện nay thì trong khoảng từ 10 đến 20 năm nữa sẽ là thời kỳ “khủng hoảng trẻ” của quản lý, điều này sẽ quyết định sự quản lý hoàn thiện như thế nào, đặc tính của nó ra sao, và những cam kết của nó được chuyển thành những thành tựu thật sự như thế nào. Những thách thức của thời kỳ khủng hoảng mà tất cả các tổ chức, doanh nghiệp và tổ chức dịch vụ công cộng phải đối mặt sẽ ảnh hưởng tới tất cả các cấp độ quản lý, cũng như tất cả các nhóm trong bộ phận quản lý. Những nhà quản lý cấp cao nhất có thể sẽ phải đối mặt với những thách thức đau đầu nhất, bởi vì họ là những người chuẩn bị ít nhất. Trong những tổ chức giáo dục, các “nhà quản lý” cũng sẽ chính là “người hỗ trợ”, “nguồn lực” đồng thời là “giáo viên”. Và những nhân tố mới trong lực lượng lao động, dù là phụ nữ làm bán thời gian hay những người đã về hưu tiếp tục đi làm, đều đòi hỏi sự lãnh đạo mới chứ không phải những nhà quản lý truyền thống được đào tạo để quản lý họ. Các nhà quản lý được đòi hỏi phải có trình độ cao hơn và đáp ứng được mong đợi của người lao động - họ sẽ phải học cách cân bằng các nhiệm vụ của tương lai. ... Mời các bạn đón đọc Quản Trị Trong Thời Khủng Hoảng của tác giả Peter F. Drucker.
Sức Mạnh Của Những Con Số - Kashiwagi Yoshiki
Làm việc dựa trên số liệu là điểm yếu của rất nhiều người. Các báo cáo công việc, đề xuất kế hoạch… của phần lớn mọi người đều rất chung chung, mơ hồ, và đầy tính chủ quan. Chúng ta sẽ không thể tiến xa nếu chỉ biết mày mò làm việc theo kiểu “ăn ốc nói mò”, “chỉ đâu đánh đấy” mà không có số liệu làm nền tảng tư duy. Việc hợp tác làm việc nhóm cũng sẽ cực kỳ lỏng lẻo, mơ hồ và kém hiệu quả nếu các nhân viên và cấp quản lý chỉ hành động dựa trên đánh giá hời hợt, không có dữ liệu dẫn chứng. Và đương nhiên, bạn cũng sẽ không thể thuyết phục đối tác, khách hàng nếu không trình bày được vấn đề với các con số, bảng biểu,… làm hạt nhân. Những con số có sức mạnh không tưởng. Sử dụng số liệu là công cụ hữu hiệu nhất để một người hình thành tư duy logic, phát triển kỹ năng tổng hợp, phân tích vấn đề để cuối cùng, tìm ra giải pháp hành động. Cuốn sách của Kashiwagi Yoshiki sẽ hướng dẫn bạn từng bước một để nhuần nhuyễn kỹ năng này. Các con số sẽ mở đường để bạn thấu suốt sâu sắc mọi hiện trạng, và cũng chính chúng sẽ gợi ý cho bạn những cách thức giải quyết vấn đề thông minh nhất. Đây là tác phẩm hướng đến mọi cá nhân muốn trở nên chuyên nghiệp hơn trong hành trình phát triển sự nghiệp, từ những doanh nhân, quản lý, người mong muốn start-up đến các nhân viên marketing, người phụ trách nhân sự, tư vấn viên,… *** Nếu như cần phải trình bày chi tiết hơn, thì bạn cũng có thể chuẩn bị thêm những tờ đính kèm, tùy vào mức độ yêu cầu và tình trạng của đối phương. Takashima: “Cảm ơn cậu. Với nội dung này thì tuần sau tôi có thể trình bày báo cáo giữa kỳ lên trưởng phòng rồi. Còn lại, cậu hãy chuẩn bị những điểm mà trưởng phòng có thể quan tâm, làm sao để có thể trả lời những câu hỏi của trưởng phòng nhé”. Yosuke: “Em cảm ơn sếp. Nếu so sánh nội dung báo cáo này và những biểu đồ em tự làm trước khi được anh hướng dẫn thì bản thân em cũng thấy kinh ngạc trước sự khác biệt về hiệu quả sử dụng dữ liệu để thuyết minh.” Takashima: “Ừ. Phương pháp phân tích và dữ liệu cậu từng dùng chắc chắn là không tốt. Mọi người thường sử dụng cách cơ bản nhất. Nhưng nếu biết cơ cấu lại một cách logic thì hiệu quả sẽ rất khác biệt”. Yosuke: “Em nghĩ là em đã hiểu điều mà anh Takashima muốn nói sau khi cố gắng làm thử”. Takashima: “Khoan. Cậu chỉ mới làm trường hợp đầu tiên thôi. Việc kinh doanh của chúng ta cũng như cả nền kinh tế đang không còn đạt được mức độ tăng trưởng như lúc trước. Nếu ta không nhanh chóng nắm bắt tình hình và thích ứng bản thân một cách phù hợp thì sẽ không thể tồn tại được. Vì vậy, tôi muốn cậu tiếp tục luyện tập để không chỉ nhìn nhận sự việc bằng trực giác và kinh nghiệm, mà bằng dữ liệu và logic một cách khách quan để truyền tải được đến đối phương”. Yosuke: “Dạ, em sẽ cố gắng”.   Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Của Những Con Số của tác giả Kashiwagi Yoshiki.