Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant - Jules Verne

Những đứa con của thuyền trưởng Grant là một câu chuyện phiêu lưu hấp dẫn từ đầu đến cuối. Câu chuyện là cuộc hành trình của 2 người con đi tìm cha sau một vụ đắm tàu. Trên đường thám hiểm, thuyền trưởng Grant đã gặp nạn và cầu cứu đất liền bằng cách thả chai thủy tinh xuống biển. Một trong những bức thư đó đã đến được bờ biển quê hương của thuyền trưởng Grant. Một đoàn thám hiểm được thành lập. Trên đường đi tìm thuyền trưởng Grant, đoàn người đã trải qua nhiều sóng gió, thủy thủ nổi loạn, bị thổ dân bắt làm tù binh. Cuối cùng, bằng sự dũng cảm, mưu trí, đoàn tìm kiếm đã thoát khỏi nguy hiểm và tìm được thuyền trưởng Grant. Câu chuyện hấp dẫn với những tình tiết lý thú sẽ lôi cuốn độc giả, đặc biệt là những người thích phiêu lưu mạo hiểm.  *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. *** Ngày 26 tháng 7 năm 1864, một chiếc tàu buồm lộng lẫy băng băng lướt trên sóng kênh Bắc Cực theo hướng gió Đông - Bắc đang thổi mạnh. Trên cột buồm trước của tàu phất phới lá cờ Anh, còn trên lá cờ hiệu màu xanh da trời nơi đình cột buồm cao nhất nổi lên hai chữ thêu kim tuyến " E" và 3G". Chiếc tàu buồm ấy mang tên " Duncan" và người chủ của nó là huân tước Edward Glenarvan, hội viên quan trọng nhất của câu lạc bộ thuyền buồm nổi tiếng khắp vương quốc liên hiệp Anh. Trên boong tàu Duncan " có huân tước Glenarvan với người vợ trẻ là huân tước phu nhân Helena và người anh họ của huân tước - thiếu tá Mac Nabbs. Mới đây không lâu, ngoài biển khơi, cách vịnh Fort of Clyde vài dặm, đã diễn ra cuộc chạy thử chiếc tàu buồm này và bây giờ chiếc tàu đang quay trở lại cảng Glasgow. Nơi chân trời hiện rõ đảo Arran. Khi ấy, người thủy thù trực phiên cho biết có một con cá to nào đó đang bơi sau tàu "Duncan". Thuyền trưởng John Mangles lập tức ra lệnh báo cho huân tước Glenarvan biết và huân tước, có thiếu tá Mac Nabbs đi cùng, đã lên ngay tầng lái. - Anh cho biết, theo anh đó là con cá gì? - Huân tước hỏi thuyền trưởng. - Thưa Huân tước, tôi nghĩ đây là một con cá mập bự. - John Mangles đáp. - Cá mập ở vùng nước nầy? - Huân tước kêu lên. - Điều đó không còn nghi ngờ gì nữa, - thuyền trưởng nói tiếp; Những con cá mập như thế này ở biển nào và vì độ nào cũng thấy có cá. Đó là con cá búa. Hoặc là tôi lắm lẫn hoặc là chúng ta đang phải đưng đầu với một trong những con quái vật chết tiệt. Nếu như ngài huân tước cho phép và huân tước phu nhân Glenarvan vui lòng chứng kiến một cảnh săn bắn cá thú vị, thì chúng ta sẽ có thể mau chóng biết đích xác đó là con cá gì? - Còn ý kiến bác thế nào, bác Mac Nabbs? Glenarvan quay sang hỏi thiếu tá. - Chúng ta nên bắt nó chăng? - Tôi hưởng ứng trước tiên của chú, - thiếu tá điềm nhiên trả lời. - Nói chung, cần phải tiêu diệt nhiều càng tốt những con vật ăn thịt người ấy. John Mangles phán xét, - Nhân cơ hội này ta vừa được thấy một chuyện lạ thường, lại vừa làm một việc có ích. - Vậy thì ta bắt đaâu John - Huân tước Glenarvan nói. Ông sai người báo cho vợ biết và huân tước phu nhân Helena rất thích thú với cuộc săn cá hấp dẫn sắp diễn ra, đã vội vàng lên ngay tầng lái với chồng. Biển lặng sóng, nên từ đài chỉ huy theo dổi mọi hoạt động của con cá mập chẳng khó khăn gì; lúc thì nó lặn ngụp, lúc thì nó vọt thật mạnh lên mặt nước. John Mangles ra những mệnh lệnh cần thiết. từ mạn thuyền bên phải, các thủy thủ thả xuống biển một sợi dây cầu chác chắn. Lưỡi câu mốc một miếng thịt heo to làm mồi. Con cá mập háu ăn, mặc dù ở cách tàu "Duncan " đến 50 yards (1), nó đã đánh hơi thấy mồi và nhanh chóng đuổi kịp tàu. thấy rõ những cái vẫy của nó, đuôi vẫy màu xám, chân vãy màu đen, băng băng rẻ sóng, còn cái đuôi thì giúp nó giữ đường bơi thằng không chê được. Con cá mập càng bơi đến gần tàu, mọi người càng nhìn thấy rõ đôi mắt lồi to thâm ẩn của nó. Khi nó lật ngửa người cái mồm của nó để lộ bốn hàm răng, cái đầu của nó hé ra nom giống như một cái búa kép cấm vào càm. John Mangles đã không lầm - đó đúng là con cá mập háu ăn nhất - con cá búa. Cả hành khách lẫn đội thủy thủ tàu " Duncan " đều hết sức chăm chú theo dõi con cá mập. Kìa, nó đã đến sát lưỡi câu, kìa, nó đã ngữa mình lên đớp mồi cho dễ. Loang một cái, cả miếng mồi to tướng đã mất hút trong cái mồm tộng hoắc của nó, lai loang một cái, con cá mập giật mạnh sợi dây và bị mắc lưỡi câu. Các thủy thủ liên tranh thủ thời gian dùng hệ thống ròng rọc gắn vào trụ buồm lớn kéo con cá mắc câu lên. Con cá mập cảm thấy đang bị tách ra khỏi môi trường tự nhiên thân thuộc, nên giãy giụa một cách tuyệt vọng. Nhưng người ta đã nhanh chóng trị được nó bằng cách quăng dây thòng lọng xiết cứng đuôi, làm tê liệt hoạt động của nó. vài giây sau, con cá mập đã được trục lên khỏi mạn tàu và quăng trên boong. Lập tức, một người trong đám thủy thủ thận trọng tiến lại gần con cá mập và lấy rìu chặt mạnh một nhát đứt phăng cái đuôi kinh khủng của nó. Cuộc săn đã kết thúc. Chẳng còn gì đáng sợ con quái vật nữa. ý định trả thù của những người thủy thủ đã được thỏa mãn, nhưng tính tò mò của họ thì chưa. Cần phải nói rằng, trên tất cả các tàu biển người ta có quy định phải khám nghiệm kỹ lưỡng dạ dày của cá mập. Những người thủy thủ thừa biết giống cá mập háu ăn này rất liều mạng, nên thường chờ đoơi cuộc khám nghiệm như vậy đem lại một sự bất ngờ nào đó, và sự chờ đợi của họ không phải bao giờ cũng uổng công. Huân tước phu nhân Glenarvan không muốn tham dự cuộc mổ xẻ gớm ghiếc này đã dđ lên mui tàu. Con cá mập vẫn còn thở. Nó dài 10 feet (2) và nặng 600 pound 3. Đó là kích thước và trọng lượng thông thường đối với loại cá mập này. Nhưng cá búa, dầu là không phải giống cá mập to nhất, song lại được coi là giống cá nguy hiểm nhất. Chẳng mấy chốc con cá to tướng ấy đã bị người ta dùng rìu phanh thây mà không cần thủ tục gì cả. Chiếc lưõi câu đã lọt xuống tận dã dày con cá. Hóa ra cái dạ dày của nó rổng tuếch. Có lẽ con cá mập đã ăn chay từ lâu. Những người thủy thủ thất vọng, đã định quẳng con cá mập xuống biển, bỗng phó thuyền trưởng để ý thấy một vật gì đó bám chặt vào nội tạng con cá. - Ồ, cái gì thế này? - Ông ta kêu lên. - Ừ đúng rồi, một mảnh đá, con cá mập đã nuốt mảnh đá để giữ thăng bằng khi bơi, - một thủy thủ đáp. - Làm gì có chuyện ấy! - Một thủy thủ khác lên tiếng, - Đó chỉ đơn giản là một miếng mồi mà thôi; miếng mồi ấy đã trôi vào dạ dày con cá và chưa kịp tiêu hóa. - Im đi các cậu! - Phó thuey-én trưởng Tom Austin xen vào câu chuyện. Các cậu không thấy con cá này là một con sâu rượu sao? Để không mất đi cái gì cả, nó không những đã nốc cạn rượu maàcòn nuốt luôn cả chai nữa. - Thế đó! - Huân tước Glenarvan kêu lên - Một cái chai trong bụng con cá mập? Một cái chai chính cống, - phó thuyền trưởng khẳng định. Nhưng có lẽ, cái chai này đã ra khỏi hầm rượu từ đời tam hoánh nào rồi. Vậy thì Tom, huân tước Glenarvan nói: - anh khui nó ra, nhưng hãy cẩn thận đó. Vì trong những cái chai tìm thấy ở biển thường có những bức thư quan trọng. - Chú nghĩ vậy ư! Thiếu tá Mac nabbs hỏi: - Ít nhất cũng có thể là như thế. - Ồ, tôi sẽ không tranh luận với chú, - thiếu tá đáp lại. - Không chừng cái chai này ẩn giấu điều bí mật nào đấy cũng nên. - Bây giờ đây chúng ta sẽ biết điều đó, - Glenarvan thốt lên. Tom, anh cho rửa sạch chai đi, rồi đưa lên mui. Tom tuân lệnh và cái chai tìm thấy trong bối cảnh lạ lùng ấy chẳng bao lâu đã được để trên bàn trong căn phòng chung. Huân tước Glenarvan, thiếu tá Mac Nabbs, thuyền trưởng John Mangles và huân tước phu nhân Helena - quả người ta nói không ngoa rằng mọi người phụ nữ đều tò mò - đứng vây quanh bàn. Ở trên biển, bất kỳ điều nhỏ nhất nào cũng trở thành một sự kiện. Mọi ngưòi im lặng chừng một phút. Ai nấy đều nhìn cái chai mỏng manh cố đoán xem trong đó đựng cái gì. Bí mật của một tai nạn đấm tàu ư, hay đơn giản là bức thư của một người đi biển vô tích sự nào đó phó mặc cho sóng gió? Nhưng đã đến lúc cần khám phá xem sự thế ra sao, và huân tước Glenarvan bắt đầu xem xét cái chai, sau khi đã có những biện pháp cần thiết đề phòng trường hợp bất trắc xảy ra. Lúc ấy nom ông giống như một điều tra viên hình sự đang phân tích một trọng tội. và đương nhiên ông ta chăm chú vào công việc như vậy là đúng, bỡi vì thường khi cái tưởng không đâu lại có thể hé mở rất hiều điều. Trước khi mở chai. Glenarvan xem xét kỹ bên ngoài cỏ. Cổ chai dài, cứng cáp còn nguyên đoạn dây thép buộc đã bị gỉ. Thành chai chắc chắn tới mức có thể chịu được áp suất vài atmasphete. Điều ấy nói lên rằng đây là một cái chai đựng rượu Champagne. Đó chính là cái chai mà các nhà trồng nho tên là Épernay và Ai đã đập vào thanh ghế, nhưng không hề bị một vết nứt nhỏ nào. Không có gì đáng ngạc nhiên khi chính cái chai ấy đã có thể vượt qua mọi thử thách của những cuộc viễn du. ... Mời các bạn đón đọc Những Đứa Con Của Thuyền Trưởng Grant của tác giả Jules Verne.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
Cuộc phiêu lưu ly kỳ, tiểu sử lôi cuốn và nghiên cứu đáng ngạc nhiên về nhân vật xứ Scotland, Kidnapped (Bắt cóc) của Robert Louis Stevenson năm 1886 chưa bao giờ mất đi vị thế của nó.  Kidnapped là “tiểu thuyết cho các chàng trai” và được xuất bản lần đầu tiên dưới dạng từng kỳ trên tạp chí Young Folks từ tháng Năm tới tháng Bảy 1886. Cuốn tiểu thuyết được in thành sách lần đầu tiên bởi Cassel and Company tháng Bảy 1886. Trong Tuyển tập Stevenson, tác phẩm sở hữu cái tên dài nhất và công phu nhất trong lịch sử văn học Anh: “Hồi ký về hành trình của David Balfour năm 1751; Anh đã bị lạc như thế nào; Sống sót trên đảo hoang; Chuyến đi đến Highlands hoang dã; Làm quen với Alan Breck Stewart và những chàng Jacobite khét tiếng xứ Highlands; Mọi thứ khổ ải dưới bàn tay người chú, Ebenezer Balfour của rừng sâu giả dối. Do chính anh viết và được Robert Louis Stevenson thuật lại với lời dẫn bởi bà Stevenson”. Kidnapped được đón nhận khi xuất bản và đã thu hút được sự chú ý của rất nhiều nhà văn từ Henry James, người đã khen ngợi sức mạnh kể chuyện của tác phẩm, Jorge Luis Borges và Seamus Heaney, cùng nhiều người khác. Phần sau không tốt bằng, Catriona, được xuất bản năm 1893. Kidnapped là kiệt tác của ông, một tiểu thuyết hành động không thể nào quên đã truyền cảm hứng cho biết bao nhà văn từ Joseph Conrad, John Buchan, Graham Greene đến Muriel Spark. Đây cũng là một sự trù tính hoàn hảo cho sự phức tạp của nhân vật người Scotland, nửa Celt, nửa Saxon. Giống như trong Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde, ông cũng bị ám ảnh bởi một phần nhân cách của mình, và vào năm bỏ phiếu độc lập, Kidnapped vẫn được xem là tác phẩm thiết yếu cần đọc. Tôi chọn tác phẩm này để thể hiện tính đặc Scotland của Stevenson cũng như tài năng văn chương của ông. Cuốn tiểu thuyết đơn giản đến khó tin. Mặc dù miêu tả câu chuyện của những chàng trai, với nguồn gốc từ sự thật lịch sử, nhưng tác phẩm đồng thời thể hiện nghệ thuật khéo léo của Stevenson. Quả thực Kidnapped đã hoàn thành đồng thời ba sứ mệnh đó. Thứ nhất, đó là chuyến phiêu lưu hành động đáng kinh ngạc, nơi giọng kể của Stevenson, thứ văn xuôi vô cùng súc tích, có sức mạnh mê hoặc lòng người. Ông khiến cho độc giả phải ngạt thở trong phấn khích và ngưỡng mộ. Henry James không ngờ lại là một người hâm mộ cuồng nhiệt của chuỗi chương “The Flight in the Heather” (Cuộc chiến dưới cây thạch nam). Lật đến chương X, “The Siege of the Round House” (Sự vây hãm của ngôi nhà vòng tròn) sẽ tìm thấy văn hứng của tác giả. Thứ nhì, Kidnapped lấy gốc từ một sự thật lịch sử, vụ ám sát ở Appin, Scotland tháng Năm 1752, cái chết của “con cáo đỏ”, biến đổi thành một câu chuyện phổ biến cho phần lớn độc giả lần đầu bắt gặp trên tạp chí Young Folks. Và Stevenson tiếp tục khai thác thể loại ông đang viết. Kidnapped, giống như Đảo giấu vàng, đi kèm với một tấm bản đồ, để thuyết minh rõ hơn cho câu chuyện; tựa đề các chương cũng được thiết kế để nói lên hành trình của ông: “I Run a Great Danger in the House of Shaws” (Tôi gặp nguy ở ngôi nhà trong rừng); “The Man with the Belt of Gold” (Người đàn ông với chiếc thắt lưng bằng vàng); và “The House of Fear” (Ngôi nhà sợ hãi). Cuối cùng, Kidnapped là một nghiên cứu đầy sức thuyết phục và khó quên về hai tính cách của nhân vật người Scotland. David Balfour, thuộc đảng Whig, là một chàng trai xứ Lowland Scotland dòng Presbyterian, bị bắt cóc khi bắt đầu hành trình giành quyền thừa kế từ tay người chú xấu xa Ebenezer. Alan Breck (Stewart), được Balfour mô tả là “một kẻ nổi loạn đáng kết tội, một kẻ đào ngũ, và là tay sai cho vua Pháp”, đại diện cho niềm tự hào của người Highlands sau cuộc nổi loạn Jacobite năm 1745, nóng tính, khinh suất, lãng mạn và bất hạnh, với những khúc thoại đáng nhớ. Cặp nhân vật này cùng hành động, cãi nhau, cùng nổi loạn (với Stevenson) với phong cách rất Scotland. Như bánh trái của một quốc gia giàu có, Kidnapped đơm hoa với vô số phương ngữ, “ain” (một), “bairn” (đứa trẻ), “blae” (ủ rũ), “chield” (gã bạn), “drammach” (bột yến mạch), “fash” (phiền), “muckle” (to lớn), “siller” (tiền), “unco” (vô cùng) , “wheesht!” (suỵt!), và hàng tá nữa. Tiếng vùng Scotland bằng cách nào đó giúp Kidnapped có một sức mạnh không bao giờ mệt mỏi, nhưng bên trong lại ảm đạm. Stevenson, qua giọng Balfour, bày tỏ điều này khi anh thoát khỏi “phần tăm tối nhất của cuộc hành trình… Ransom ở bên dưới, Shaun chết trên sàn nhà, hay Colin Campbell (con cáo đỏ) túm lấy ngực áo khoác của hắn…” Tất nhiên Balfour đã sống sót, nhưng tất cả mọi người khác đều có số phận phải chết. Còn Stevenson đột ngột ra đi bởi một cơn đột quỵ trên biển Samoa ngày 3/12/1894, năm 44 tuổi. *** Robert Louis Balfour Stevenson (13.11.1850 – 3.12.1894) là tiểu thuyết gia, nhà thơ, nhà tiểu luận và nhà văn du ký người Scotland. Tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Đảo châu báu (Treasure Island) và Bác sĩ Jekyll và ông Hyde (Strange case of Dr Jekyll and Mr Hyde). Hầu như suốt thế kỷ 20 ông bị giới nghiên cứu hàn lâm chối bỏ, cho ông chỉ là nhà văn hạng nhì chuyên viết truyện thiếu nhi và truyện ly kỳ rùng rợn, song từ cuối thế kỷ 20 ông đã được đánh giá lại một cách công bằng, được coi như ngang hàng với những tác gia như Joseph Conrad và Henry James. Nhiều nhà văn lớn như Jorge Luis Borges, Bertolt Brecht, Marcel Proust, Arthur Conan Doyle, Cesare Pavese, Ernest Hemingway, Rudyard Kipling, Vladimir Nabokov tỏ lòng khâm phục ông.    Stevenson nằm trong số 26 tác giả được dịch nhiều nhất trên thế giới. R.L Stevenson đã thừa hưởng tất cả tính cách mạng của dân tộc mình. Ông chỉ thiếu sức chịu đựng dẻo dai như ở cơ thể của những người đồng hương. Sinh năm 1850, ông xuất thân từ gia đình kỹ sư xây dựng đèn biển. Chính ông đã dự định trở thành hoa tiêu, đã viết một tác phẩm về những người thắp đèn chỉ đường cho những con tàu lách qua sương mù và ghềnh đá. Nhưng bệnh tật đã buộc ông từ bỏ ý định của mình. Ông tới miền nam nuớc Pháp, nương nhờ khí hậu ấm áp nơi đây để chữa bệnh. Sau khi sức khoẻ khá hơn, ông làm một cuộc hành trình theo sau một con lừa thồ hàng đi khắp nước Pháp, rồi cùng con thuyền bơi khắp các dòng sông và kênh đào ở Bỉ và Hà Lan. Những chuyến đi đó in dấu trong tác phẩm của Stevenson. Sau đó ông lại sang Bắc Mỹ, điều này giải thích vì sao Stevenson thường viết các tiểu thuyết phiêu lưu. Nhưng các tác phẩm xuất sắc của ông thường liên quan đến biển và gợi lại không gian Scotland. Stevenson rất yêu mến trẻ em và say mê các trò chơi của các em nhỏ. Ông chơi trận giả với con trên tầng gác chật chội và tối tăm, say mê như tham gia những chiến dịch lớn. Sàn nhà đầy bản đồ với các nét vẽ núi non, sông ngòi, đầm lầy, biển cả. Một trong các bức bản đồ đó đã được phong phú lên thêm bằng câu chuyện tưởng tượng về bọn cướp biển, sau đó trở thành tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Stevenson: "Đảo giấu vàng". Tác phẩm: Bắt Cóc Mũi Tên Đen Đảo Giấu Vàng Bác sĩ Jekyll và ông Hyde ... *** Mời các bạn đón đọc Bắt Cóc của tác giả Robert Louis Stevenson.
Người tình Hoa Bắc - Marguerite Duras
7 năm sau thành công với “Người tình”, Marguerite Duras một lần nữa trở lại với câu chuyện tình yêu ám ảnh giữa cô bé người Pháp mới lớn và chàng thanh niên Trung Hoa. Tiểu thuyết “Người tình Hoa Bắc” của bà vừa được xuất bản bằng tiếng Việt. Mở đầu cuốn Người tình Hoa Bắc, Duras viết: “Tôi được biết anh ấy đã qua đời. Đó là vào tháng 5/1990, cách đây một năm. Tôi chưa bao giờ từng nghĩ đến sự ra đi của anh ấy. Người ta còn nói với tôi rằng anh được an táng tại Sa Đéc, rằng ngôi nhà màu xanh vẫn luôn ở chỗ đó, nơi gia đình và con cái anh cư ngụ”. Cuốn sách ra đời năm 1991 - một năm sau khi ông Huỳnh Thủy Lê - nguyên mẫu người tình của nhà văn mất. Cái chết của ông dường như đã làm sống dậy những ký ức đã trôi qua hơn nửa thế kỷ trong tâm hồn cô bé da trắng. Một lần nữa khai thác lại mối tình cũ, nhưng theo dịch giả Lê Hồng Sâm, Người tình Hoa Bắc thể hiện những cảm nhận khác biệt về nhân vật, về lối viết. Theo bà, nhân vật người tình trong cuốn tiểu thuyết thứ hai của Duras “táo bạo hơn, cường tráng hơn, tuấn tú hơn”. Nếu như trong cuốn Người tình, nhà văn trao nhiều quyền chủ động chèo lái chuyện yêu cho cô gái 15 tuổi thì ở tác phẩm mới này, người tình Trung Hoa đã bớt rụt rè, bớt mặc cảm chủng tộc hơn. Bà Lê Hồng Sâm tỏ ra ngạc nhiên khi mà Người tình Hoa Bắc - được viết 60 năm sau khi Duras rời khỏi Việt Nam - vẫn tái hiện được những ký ức đầy sống động về xứ sở Đông Dương trong vẻ đẹp của những đêm mùa khô, của những cơn mưa gió mùa, của mênh mang đồng ruộng, của xóm ghe thuyền, của bầy trẻ đánh xe trâu, của màu chiếc quần lụa đã nhợt nhạt. Người tình Hoa Bắc khác biệt với Người tình còn ở tính chất kép của tác phẩm. Nhà văn xác định: “Đây là một cuốn sách. Đây là một bộ phim”. Chuyên gia văn học Trần Hinh cũng phát hiện ra tính chất lai tạo giữa văn học và điện ảnh trong tác phẩm của Marguerite Duras. Ông cho rằng, Duras phải chăng không hài lòng với các nhà làm phim Người tình chăng nên với Người tình Hoa Bắc, bà muốn tạo nên một cuốn tiểu thuyết có khả năng đọc như một kịch bản phim? ***     Marguerite Duras (1914 - 1996) tên thật là Marguerite Donnadieu. Năm 1943, bà đổi tên thành Marguerite Duras theo tên một làng vùng Lot-et-Ga-ronne, nơi có ngôi nhà của cha mẹ bà. Bà sinh tại Gia Định, Đông Dương (thành phố Hồ Chí Minh ngày nay). Cha là giáo sư toán mở đồn điền nhưng thất bại, lâm vào cảnh nợ nần và mất năm Marguerite mới lên bốn tuổi. Mẹ bà là giáo viên tiểu học, sau được bổ nhiệm làm hiệu trưởng Trường Escole de jeunes filles ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp (trường Tiểu học Trương Vương ngày nay). Mẹ bà ở vậy nuôi bà người con trong cảnh khốn khó. bà có một người anh nghiện ngập và người em thì quá yếu đuối. Trải qua tuổi thơ và thời thiếu niên ở Việt Nam, nhưng kỷ niệm nơi đây đã gợi nhiều cảm hứng và in đậm trong các tác phẩm của bà. Năm mười tám tuổi, Duras trở về Pháp. Sau khi học toán, luận và khoa học chính trị, bà làm thư ký tại bộ Thuộc địa từ năm 1935 tới năm 1941. Năm 1950, Duras được biết tới lần đầu tiên với cuốn tự truyện Un barrage contre le Pacifique. Những tác phẩm sau này của bà đã góp phần làm mới cho thể loại tiểu thuyết. Năm 1984, Duras đoạt giải thưởng Goncourt với người tinh (l’ Amant), cuốn tiểu thuyết viết về cuộc tình nông nàn và lãng nạm giữa bà với điền chủ gốc hao giàu có, Huỳnh Thủy Lê, tại Sa Đéc. Người tình là một thành công lớn, đã được dịch ra hơn bốn mươi thứ tiếng và được dựng thành phim năm 1992. Tác phẩm của Duras bao gồm khoảng bốn mưới tiểu thuyết và mười vở kịch. Bà cũng đã thực hiện nhiều bộ phim, trong đó có India Song và Les- enfants. Cuộc đời của bà giống như một cuốn tiểu thuyết. Bà không ngừng viết vê những câu chuyện về nỗi đau, về bão tố, rượu và những nỗi muộn phiền, về những lời nói và cả sự im lặng... Những tác phẩm đầu tay của Duras thường được viết theo một dạng nhất định (tính chất lãng mạn của chúng đã từng bị nhà văn Raymond Quene-au chỉ trích), nhưng kể từ Monderato Cantabile, bà đã thử những lỗi viết mới, đặc biệt là cắt bổ những đoạn văn dài nhằm làm tăng tầm quan trọng của những gì không được viết ra. bà được xếp vào phong trào tiểu thuyết mới trong văn học Pháp. Các phim của bà cũng mang tính chất thực nghiệm, thường tránh dùng âm thanh thu cùng hình ảnh mà dùng lời của người kể truyện, nhưng không phải để kể lại mà để ám chỉ những chuyện có thể xảy ra với các hình ảnh đó. Năm 1989, bà được trao Giải quốc gia Áo cho Văn học châu Âu. Marguerite Duras mất ngày 3 tháng 3 năm 1996 ở paris, được chôn cất tại nghĩa trang Montparnasse. Trên bia mộ của bà khắc hai đóa hoa và hai chữ viết tắt M.D. của tên tuổi Marguerite Duras cùng hai tấm chân dung, một khi còn trẻ và một khi đã già. BachvietBooks Mời các bạn đón đọc Người tình Hoa Bắc của tác giả Marguerite Duras.
Thời Thơ Ngây - Edith Wharton
Thời thơ ngây (tên gốc là The Age of Innocence) là tiểu thuyết thứ mười hai của bà. Tác phẩm đạt giải Pulitzer năm 1921, giúp Edith Wharton trở thành nhà văn nữ đầu tiên giành giải thưởng này. Cuốn sách kể về câu chuyện của một cặp đôi thuộc tầng lớp thượng lưu xã hội Mỹ đang chuẩn bị kết hôn. Newland Archer, một luật sư hào hoa và là người thừa kế của một trong những gia đình có danh tiếng bậc nhất ở New York lúc bấy giờ, đang háo hức chuẩn bị cho đám cưới mơ ước của mình với tiểu thư May Welland xinh đẹp. Đúng vào thời điểm ấy, nữ Bá tước Ellen Olenska, cô chị họ xinh đẹp của May trở về từ châu Âu sau tin đồn ly hôn với một Bá tước người Ba Lan. Ban đầu, Archer lo lắng vì tai tiếng của cô có thể ảnh hưởng đến May Welland nhưng dần dần anh lại bị Ellen- người coi thường những quy định hà khắc của xã hội New York thu hút. Tình cảm anh dành cho nữ Bá tước ngày càng sâu đậm và điều đó có thể làm hủy hoại đám cưới của anh và May. Điều gì sẽ xảy ra? Liệu Ellen có dành tình cảm cho anh? Đứng giữa cô dâu tương lai và tình yêu định mệnh của cuộc đời, anh sẽ lựa chọn như thế nào? Bằng giọng văn châm biếm và hài hước, Edith Wharton đã tái hiện lại xã hội New York vào những năm 70 của thế kỉ XIX với những lề thói cổ hủ, lạc hậu, cái xã hội khiến con người ta không thể sống thật với bản chất, tình cảm của mình. Đồng thời, người đọc cũng cảm nhận được tài năng của bà qua cách bà miêu tả mối tình lặng lẽ của Ellen và Archer. *** Edith Wharton sinh ngày 24-1-1862 tại số nhà 14, Đường Hai mươi ba Tây, Thành phố New York. Bà là con gái duy nhất trong một gia đình có quá đông con trai thuộc tầng lớp thượng lưu giàu có, từng được bà miêu tả vào năm 1933 như một “trung tâm quý tộc thu nhỏ… một xã hội mà tất cả những người buôn bán đều bị loại ra như một điều đương nhiên” (Hồi ký, 1.3). Bà là nữ tiểu thuyết gia đầu tiên đạt giải Pulitzer. Ngoài ra, bà cũng viết truyện ngắn và là một nhà thiết kế. Bà từng được đề cử giải Nobel Văn học năm 1927,1928 và năm 1930. Wharton kết nối quan điểm của bà về các tầng lớp đặc quyền trong xã hội Mỹ với trí thông minh bản năng xuất sắc để tạo nên những tiểu thuyết và truyện ngắn hài hước, sâu cay về vấn đề xã hội và tâm lý. Bà cũng quen biết nhiều cây bút văn chương cũng như những chính trị gia thời đó, trong đó có cả Tổng thống Theodore Roosevelt. Hồi còn nhỏ, bà đã phản đối những chuẩn mực về ăn mặc và lễ nghi dành cho con gái lúc bấy giờ. Bà cho rằng những yêu cầu đó là cứng nhắc và thiển cận. Edith muốn nhận được nhiều hơn từ nền giáo dục, bởi vậy bà đọc sách từ thư viện của bố và những người bạn của ông. Mẹ của bà ngăn cấm bà đọc tiểu thuyết cho đến khi kết hôn và Edith đã tuân theo. Edith bắt đầu làm thơ và viết tiểu thuyết từ khi còn nhỏ. Bà thử viết tiểu thuyết từ khi mười một tuổi. Tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà là bản dịch từ một bài thơ bằng tiếng Đức có tên “What the Stones tell” của Heinrich Karl Brugsch và bà kiếm được 50 đô la. Lúc đó, bà mới mười lăm tuổi. Gia đình bà không muốn tên của bà xuất hiện ngoài công chúng bởi vì tên của phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu chỉ xuất hiện trên mặt báo để thông báo về sự ra đời, kết hôn hay từ trần. Do vậy, bài thơ được phát hành dưới tên một người bạn của bố bà, E. A. Washburn. Ông đóng vai trò quan trọng trong nỗ lực tự học của bà, và ông đã khuyến khích bà theo đuổi nghiệp viết chuyên nghiệp. Ngoài viết tiểu thuyết, Wharton đã sáng tác hơn 85 truyện ngắn. Bà cũng là một nhà thiết kế và bà cũng viết nhiều sách về thiết kế, bao gồm tác phẩm đầu tiên được phát hành của bà. Bà mất ngày 11-8-1937 sau một cơn đột quỵ tại Pháp.   Mời các bạn đón đọc Thời Thơ Ngây của tác giả Edith Wharton.
Ông Hoàng Xứ Kahel - Tierno Monénembo
“Qua những cuộc phiêu lưu của một nhà tiên phong Pháp, tiểu thuyết gia gốc Guinée đã lần ngược lại những biến cố và đổ nát của vương triều Peul ở Fouta-Djalon. Tác phẩm được viết dưới một tài năng tuyệt vời về viễn tưởng và hư cấu mạch lạc giữa Lịch sử và Danh phận, lịch sử của một Phi châu hiện đại có thể nhìn về quá khứ của mình mà không rơi vào thuyết máy móc phân biệt giữa Da Trắng và Da Đen.  *** Qua những trang hơi khó đọc của phần đầu tác phẩm, thì bạn đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi biên độ trí tưởng tượng sử thi, kết hợp giữa các trò cười của cuộc sống và linh cảm bất thường đáng lo ngại của cuộc chiến tranh giữa các nền văn minh trong chế độ thuộc địa.” • Đài RFI “Với cuốn tiểu thuyết pha trộn giữa cuộc sống và những tìm hiểu sâu rộng về tư liệu, Tierno Monénembo đã miêu tả chặng đường đi tìm và thiết lập vương quốc của một con người kỳ tại, lập dị nhưng rất đáng mến của thế kỷ XIX.” • Tạp chí Văn Học “Một tác phẩm dữ dội đề cập đến thảm cảnh và những thăng trầm của lịch sử châu Phi…” • Tạp chí Nouvel Observateur “Đấng Tối cao đã sinh ra họ màu đen để cho những cú bị đánh không bị nhìn thấy được.” • Olivier De Sanderval *** Tierno Monénembo, tên thật là Thierno Saïdou Diallo, sinh ngày 21-7-1947, ở Porédaka ở Guinée. Ông là một nhà văn thuộc khối Pháp ngữ. Năm 1969 ông đã bỏ trốn khỏi chế độ độc tài Sékou Touré. Ông đã chạy bộ gần 150 kilomet để đến Sénégal. Ông theo học Y khoa tại Dakar, rồi sau đó đến Bờ Biển Ngà (Côte d’Ivoire) và tại đây, ông bắt đầu theo học ngành Sinh Hóa và tiếp tục ngành này tại Pháp vào năm 1973, ông bảo vệ thành công luận án tiến sỹ tại trường đại học Lyon. Ông đến Algérie và Maroc giảng dạy một thời gian. Từ năm 2007, ông là giáo sư danh dự của Middlebury College tại vùng Vermont, Hoa Kỳ. Có thể nói lang thang viễn xứ là trọng tâm cuộc đời và tác phẩm của người con tộc Peul này. Ông xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tiên Những chú cóc-trảng bụi năm 1979. Bảy năm sau, ông cho ra đời tác phẩm Những chiếc vẩy tê tê của bầu trời và đoạt giải Grand Prix của châu lục Đen. Năm 1991, cuốn Giấc mơ hữu ích cũng ra đời dưới ngòi bút của ông. Đến nay, ông đã hoàn thành mười cuốn tiểu thuyết. Và cuốn Ông hoàng xứ Kahel đã vinh dự được trao giải Renaudot, một phần thưởng danh giá trong làng văn học Pháp.   Mời các bạn đón đọc Ông Hoàng Xứ Kahel của tác giả Tierno Monénembo.