Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Từ Bỏ Thế Giới Vàng - Jack London

Nếu hỏi: “Văn chương ảnh hưởng thế nào đến một con người?”, c'u trả lời xác đáng phải là: “Vô cùng lớn lao!”. Đó là khi người đọc và nh'n vật biểu trưng cho cái tôi của nhà văn đồng cảm tuyệt đối. Điều đó thay đổi hoàn toàn cuộc đời, cái nhìn của người đọc. Tôi tìm thấy nó trong tác phẩm Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London. Mọi việc vẫn bắt đầu từ tủ sách thần thánh của ba. Đó là ngày tôi bỏ qua các cuốn tiểu thuyết của Jack London để đọc Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata. Ba tôi không cấm nhưng sớm cảnh báo: – Con có thể đủ sức đọc hết nhưng chưa đủ kiến thức để hiểu nội dung của nó! Ở cái tuổi đang lớn với đầu óc chứa đầy ương bướng nổi loạn, tôi kiên trì đọc Người Đẹp Ngủ Mê rồi không sao thấu nổi. Ba mới chìa cho tôi cuốn Từ Bỏ Thế Giới Vàng: – Đ'y là cuộc đời thực mà con nên đọc qua! Chất ương bướng ở tuổi mười ba đã ngấm đòn sau khi đầu hàng trước tính dục, bản ngã trong thế giới Người Đẹp Ngủ Mê của Kawabata, tôi ngoan ngoãn bước vào nơi hoàn toàn thay đổi cái nhìn, ý thức về cuộc đời. Nó ảnh hưởng đến sau, sau này và mãi mãi. Đến lúc viết những dòng này, thành một con người hoàn toàn đứng trên đôi ch'n của mình, từ bỏ được “thế giới vàng” phù phiếm của mình, tôi viết với sự biết ơn s'u sắc tác giả Jack London đã sáng tạo ra Ánh Sáng Ban Ngày, nh'n vật trung t'm của tiểu thuyết. Và hơn hết, tôi nhận ra từ phúc phần ở tủ sách thần thánh của ba mình. Từ Bỏ Thế Giới Vàng với nh'n vật trung t'm Ánh Sáng Ban Ngày. Anh ta có tên hẳn hoi là Elam Harnish, nhưng đã từ l'u không còn ai buồn nhớ chơi đến cái tên đó. Họ gọi anh là Ánh Sáng Ban Ngày, do thói quen sôi động và đem sự sôi động đến mọi người chung quanh, đặc biệt ưa giật chăn những kẻ ngủ lười với bài hát “Trời đã sáng bét ra rồi kìa, mấy ông bạn đi tìm linh cảm ở sông Stewart? Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa! Trời đã sáng bét rồi kìa!”. Tiểu thuyết vẽ ra thế giới những kẻ đào vàng ở miền cực. Nơi lý lẽ thuộc về kẻ mạnh và nòng súng nếu anh may mắn bóp cò nhanh hơn đối phương. Ở đó đức tin về Chúa chỉ mang tính tượng trưng, nơi quá xa xăm mà ánh sáng công lý vươn tới được, chỉ những gã đàn ông liều lĩnh, khẳng khái ưa đem mạng mình đánh cược với Mẹ Thiên Nhiên mới sống nổi. Và Ánh Sáng Ban Ngày là kẻ liều lĩnh, khẳng khái, can đảm nhất trong số đó. Anh ta lăn lộn qua mọi khó khăn, đánh liều khai phá những nơi mà mọi tay can đảm đều chần chừ. Hầu như khi đến tận cùng giới hạn, anh luôn tìm mọi cách vượt qua bằng sự khéo léo, sức mạnh cơ bắp, khối óc minh mẫn và sự liều lĩnh đã thành nết. Sau khi trúng được vố to nhất trong những năm đằng đẵng “đãi tuyết tìm vàng”, Ánh Sáng Ban Ngày quyết định từ bỏ vùng cực, quay về thế giới văn minh để làm ăn. “Một anh ngố rừng”, một “con hưu sừng tấm đầu đàn thô lậu”….và hàng loạt những từ ngữ ví von khác mà người đọc có thể nghĩ ra để ví von, Ánh Sáng Ban Ngày trúng ngay quả lừa đau đớn mất sạch cả gia tài. Anh, kẻ đến Mẹ Thiên Nhiên cũng phải chào thua để nhường đường nhất định không cam chịu bị những tay thành thị ẻo lả trong các bộ độ vét lừa lọc, đã dùng đúng cách d'n đào vàng lấy lại tất cả những gì thuộc về mình. Vố đau này khiến Ánh Sáng Ban Ngày hoàn toàn trở nên thay đổi t'm tính. Anh nhận ra những kẻ thành thị làm ăn toàn là các tay chơi bạc bịp, mà trong việc chơi bài, bịp bợm thì phải bị xử lý thích đáng kèm theo thái độ khinh khi rõ ràng. Điều này khác hẳn thế giới vùng cực hoang sơ của anh, các tay đào vàng chơi bài với sự thẳng thắn và lòng tin tuyệt đối vào nhau. Lắm lúc tiền cược lên đến vài chục ngàn đô-la nhưng ký nợ chỉ vẻn vẹn là mẫu giấy nhỏ, thậm chí chẳng hề viết tên con nợ. Nhưng chưa từng có ai quỵt nhau hay gian dối bao giờ. Ánh Sáng Ban Ngày là tay đánh bạc gan dạ và ngay thẳng. Một khi thế giới văn minh chơi bịp thì anh sẽ dùng chính lối đó để đối xử lại. Anh về San Francisco, mau chóng trở thành con cá mập hung hãn trong thế giới kinh doanh, bằng chiến thuật đơn giản là xé xác để mau chóng th'u tóm và leo lên đỉnh cao của Thế Giới Vàng Thực Sự. Thế giới hoang sơ vùng cực không làm anh chai sạn nhưng thế giới văn minh thị thành đã khiến bản chất của anh từ từ chuyển sang khô cứng, độc ác và hầu như vô cảm. May thay, một cô nàng nhỏ nhắn và mỏng manh tới mức Ánh Sáng Ban Ngày có thể dùng tay kéo dài và thắt nút đã 'm thầm, len lỏi một cách vô hình vào cuộc đời anh. Dede, người phụ nữ từ chối yêu anh chỉ vì anh quá giàu. Người phụ nữ chỉ muốn có một đức ông chồng bình thường, ngày này qua ngày khác sống bên cạnh mình để cùng chia sự nghèo khó trong hạnh phúc. Người phụ nữ ấy cứu rỗi hoàn toàn cuộc đời tưởng chừng như hoang phế của Ánh Sáng Ban Ngày, thổi bùng những bản tính tươi đẹp bị cuộc sống thị thành chôn vùi, trả lại cho “niềm tự hào của vùng cực” một gã đàn ông từng khiến Mẹ Thiên Nhiên phải nghiêng mình cúi chào. Một gã đàn ông mà nàng đã yêu say đắm từ ngày đầu tiên vì chất đàn ông luôn tràn ra bên ngoài. Ánh Sáng Ban Ngày từ bỏ cái Thế Giới Vàng tài chính của mình, cùng Dede về vùng đồi đã mua từ trước sống cuộc đời nông d'n yên bình với chăn nuôi, trồng trọt. Ngày trước chỉ cần hất tay, anh đã mua được cả San Francisco, còn b'y giờ muốn mua một bộ dụng cụ nhỏ thì anh phải canh nhặt từng quả trứng gà để tích góp, đôi khi đi sửa chữa giúp hàng xóm hòng có đủ tiền. Đ'y là giai đoạn hạnh phúc nhất trong đời Ánh Sáng Ban Ngày. Nhưng cuộc sống vẫn luôn muốn thử thách lòng tham con người, ít ra là lòng tham ở kẻ từ đỉnh cao giàu sang trở thành gã nông d'n tầm thường ở Ánh Sáng Ban Ngày. Lần nọ có một đoạn ống nước bị vỡ ở triền đồi, Ánh Sáng Ban Ngày vô tình phát hiện ra mạch vàng trong lúc sửa chữa. Bản tính một tay đào vàng khét tiếng trỗi dậy, anh lần mò, đào xới, cuối cùng thấy được vàng nổi lên tận ch'n cỏ. Đúng là một Thế Giới Vàng đích thực. Tuy nhiên, Ánh Sáng Ban Ngày đã đánh đổi quá nhiều để có được tình yêu bình dị đến tầm thường từ Dede. Và cô quan trọng với anh tới mức chẳng có Thế Giới Vàng nào đủ sức cám dỗ. Anh lặng lẽ sửa chữa đoạn ống nước, trở về và nói với người vợ yêu quý của mình rằng: “Em biết b'y giờ anh đang tính gì không? Anh vừa nảy ra một kế hoạch. Anh sẽ mua bạch đàn về trồng trên khắp bờ dốc đó. Những c'y bạch đàn sẽ giữ cho đất khỏi lở nữa. Anh sẽ trồng bạch đàn sát vào nhau như eo ấy, đến độ một con thỏ đói cũng khó lòng mà len qua được. Khi những c'y bạch đàn đã bám rễ rồi thì trời cũng không thể làm lở đất ở đó được nữa.”. Đúng, anh đã chôn, đã chối bỏ Thế Giới Vàng đó để giữ những điều bình dị bên cạnh mình. ….. Tôi đã sống thời tuổi trẻ sôi động như Ánh Sáng Ban Ngày, điên cuồng khám phá cuộc sống thực tại nghiệt ngã giống như anh, đạp lên những kẻ muốn đạp mình xuống bằng sức mạnh của cơ bắp lẫn trí óc của một thằng đàn ông đúng nghĩa. Tuy chưa đến được đỉnh Thế Giới Vàng như Ánh Sáng Ban Ngày nhưng nhờ có anh, tôi sớm nhận ra những thứ phù phiếm. Ở tuổi ba mươi, chưa đủ già nhưng không quá trẻ, tôi chọn cái kết cuộc đời của mình như Ánh Sáng Ban Ngày, từ bỏ mọi thế giới vàng cám dỗ để làm một anh nông d'n tầm thường. Với tôi, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London không đơn thuần là một cuốn tiểu thuyết. Ở đó, tôi đọc được những bài học, cách hành xử của một người đàn ông ch'n chính với cuộc đời. Ở đó, có tình yêu bao la, có sự thức tỉnh hòng chối bỏ. Và ở đó, là cuộc đời tôi muốn sống và đang sống với niềm hạnh phúc vô bờ bến dù thiếu một nàng Dede mỏng manh và nhỏ bé đến tầm thường. Xin gởi cho những t'm hồn yêu sách ch'n chính. Nếu bạn muốn tìm một quyển sách có đủ chất phiêu lưu, biến chuyển t'm lý, hiện thực xã hội, tình yêu ch'n thành, giác ngộ và thức tỉnh, Từ Bỏ Thế Giới Vàng của Jack London nhất định không làm bạn thất vọng. Và nếu bạn muốn biết đoạn đời sau của Ánh Sáng Ban Ngày sẽ hạnh phúc như thế nào, hãy lên với rừng núi của tôi, tôi luôn dành cho bạn chiếc ghế trang trọng nhất, và sẵn sàng kể cho bạn nghe Ánh Sáng Ban Ngày đã Sống-Yêu-Từ Bỏ như thế nào. *** Quán Tivoli đêm nay thật lặng lẽ. Có khoảng năm, sáu người đang tụ tập tại chiếc quầy rượu chạy dọc một bên căn phòng lớn làm bằng những thân gỗ ghép không được kín lắm. Phía bên kia căn phòng là một dãy bàn cờ bạc. Bàn tài xỉu không có ai cả. Ở bàn faro chỉ có độc một người đang chơi. Ở bàn rulet, con quay chẳng buồn hoạt động bởi vì anh chàng hồ lì đứng bên chiếc lò sưởi rực lửa đang mải tán gẫu với một thiếu nữ mắt đen, thân hình và vẻ mặt rất ưa nhìn, được mọi người tử Juneau đến Fort Yukon quen gọi la Mộng Trinh(1). Ở bàn xì phé có được ba người, nhưng họ chỉ chơi cò con vì hình như không có hứng. Trên sàn nhảy ở phía sau căn phòng lớn này chỉ có ba cặp đang nhảy một cách uể oải theo tiếng rền rĩ của chiếc dương cầm và chiếc vĩ cầm. Thật ra thị trấn Vùng Cực này không phải bị bỏ hoang, mà cư dân ở đây thì cũng chẳng phải nghèo tiền bạc. Những người đào vàng ở Lạch Da Hươu cũng như ở các vùng khác về phía tây đều đã trở về đây. Công việc đãi vàng trong mùa hạ vừa qua rất có kết quả, nên túi của họ đều nặng trĩu vừa vàng cục vừa vàng bụi. Vào thời gian này, người ta chưa biết đến sông Klondike(2), và những người thợ mỏ ở dọc theo sông Yukon(3) chưa biết cách đốt lửa cho đất mềm ra cho dễ đào. Bởi thế, về mùa đông, đám thợ mỏ nghỉ việc, quay về trú đông ở các trại lớn như thị trấn Vùng Cực này cho qua đêm dài Bắc Cực. Thì giờ rỗi rãi, túi lại rủng rinh tiền, nên họ thường đến các quán rượu tìm vui. Ấy thế mà đêm nay, quán Tivoli cứ như bị bỏ hoang. Ðứng bên lò sưởi, Mộng Trinh ngáp dài không thèm đưa tay che miệng, và nói với Charley Bates: - Nếu cứ cái điệu này mãi thì đến phải đi ngủ mất thôi. Mà có chuyện gì với cái trại này vậy nhỉ? Bộ mọi người chết hết rồi à? Bates chẳng buồn mở miệng trả lời, cứ lặng lẽ cuốn thuốc. Dan McDonald, chủ quán Tivoli kiêm chủ các sòng bạc ở đây, rầu rĩ băng ngang căn phòng trống trải, đến nhập bọn với hai người đang đứng bên lò sưởi. Mộng Trinh quay sang hỏi hắn: - Bộ có ai chết hay sao vậy? - Hình như thế. - Vậy thì có lẽ cả cái trại này chết hết rồi cũng nên. - cô gái nói với vẻ dứt khoát rồi lại ngáp dài. McDonald nhe răng cười, gật đầu, và mở miệng định nói thì cánh cửa cửa trước bỗng mở tung và một người chợt hiện ra trong ánh đèn. Ðưa tay lấy cây chổi con móc trong cửa, người mới đến phủi tuyết bám trên đôi giày da đanh kiểu thổ dân Bắc Mỹ và trên đôi vớ cao kiểu Ðức. Hẳn là anh ta trông cũng cao lớn nếu như ngay lúc đó không có anh chàng khổng lồ người Gia Nã Đại gốc Pháp từ phía quầy rượu bước lại nắm chặt lấy anh ta. - Kìa Ánh Sáng Ban Ngày! Lạy chúa, bọn này mong cậu đến mòn con mắt! - À, Louis, xin chào. Các cậu về lúc nào vậy? - Người mới đến đáp lại. - Nào, ta đi làm một ly đi, rồi cậu kể cho tớ nghe toàn bộ câu chuyện ở Lạc Khúc Xương nhé. Chà, quỷ tha ma bắt cậu đi, bắt tay cái nữa nào. Cái anh bạn đi với cậu đâu rồi? Tớ đang tìm hắn đây. Một người khổng lồ nữa từ phía quầy rượu cũng bước lại đưa tay ra bắt tay người mới đến. Anh chàng này tên Olaf Henderson, cũng là dân đào vàng chung với French Louis ở Lạch Khúc Xương. Cả hai đều là người to lớn nhất vùng, và mặc dù họ chỉ cao hơn người mới đến khoảng nửa cái đầu thôi, thế mà đứng giữa họ anh ta trong loắt choắt hẳn đi. - Ôi chào Olaf, tớ tìm cậu mãi đấy, hiểu không? - Người được gọi là Ánh Sáng Ban Ngày nói. - Ngày mai là sinh nhật của tớ, và tớ sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa ra đấy, hiểu không? Cả Louis nữa, tớ cũng sẽ quật cho cậu ngã ngửa luôn, hiểu không? Nào, bây giờ đi uống với tớ một ly cái đã, rồi tớ sẽ cho các cậu biết. Người mới đến dường như đem theo cả hơi ấm tràn ngập căn phòng. Mộng Trinh kêu lên: - Ðúng là Ánh Sáng Ban Ngày rồi! Nàng là người đầu tiên nhận ra anh ngay khi anh vừa bước vào vùng sáng của căn phòng. Sự xuất hiện của Ánh Sáng Ban Ngày làm cho cả căn phòng hình như bỗng sáng và vui tươi hơn hẳn. Những người phục vụ trong quán tíu tít hẳn lên. Người ta cất cao giọng hát hơn. Có kẻ còn bật cười nữa. Nhịp luân vũ nhanh hẳn lên, và những cặp đang khiêu vũ, như lấy phải cái nhộn nhịp chung, cũng bắt đầu quay tít như thể họ đang bốc hứng. Ðã từ lâu mọi người đều biết rằng hễ ở đâu có Ánh Sáng Ban Ngày là ở đó không thể buồn nản được. Tại quầy rượu Ánh Sáng Ban Ngày xoay người lại thì thấy Mộng Trinh đứng cạnh lò sưởi đang nhìn anh với vẻ đón chào nồng nhiệt. - Kìa, Mộng Trinh, cô bạn cũ, - anh gọi. - Kìa, cả Charley nữa. Chuyện gì thế? Sao mặt mày lại ủ ê như người chết không có đất chôn vậy? Lại đây uống cái gì đi nào. Tất cả lại đây nào, hỡi những kẻ chết chưa có đất chôn kia, muốn uống gì thì cứ việc gọi. Nào, mọi người. Ðêm nay là đêm của tớ, và tớ sẽ làm chủ nó. Ngày mai tớ đã ba mươi tuổi, thế là già mất rồi. Ðây là giây phút cuối cùng của tuổi trẻ. Tất cả đã sẵn sàng cả rồi chứ? Nào, vô nào, vô. - Khoan đứng lên đã, Davis, - anh quay qua gọi với người chào faro, lúc này đang đẩy ghế ra sau dợm đứng lên. - Tớ muốn chơi với cậu một ván để xem tớ hoặc cậu ai sẽ phải trả tiền rượu cho mọi người ở đây nào. Móc trong túi áo khoác ra một gói vàng bụi nặng trịch, anh đặt nó vào số lớn. - Tớ đặt năm mươi đô-la trị giá bằng vàng bụi đây! - anh nói. Nhà cái bàn faro chia hai lá. Số lớn ăn. Nhà cái nguệch ngoạc số tiền thắng vào một mảnh giấy trong lúc người chung tiền cân một dúm vàng bụi tương đương với năm mươi đô là rồi trút nó vào bao của Ánh Sáng Ban Ngày. Lúc này điệu luân vũ đã chấm dứt. Ba cặp nhảy lúc nãy cùng với anh chàng nhạc công kéo vĩ cầm và anh chàng nhạc công chơi dương cầm theo nhau bước ra khỏi phòng rượu đúng lúc Ánh Sáng Ban Ngày quay lại và nhìn thấy họ. - Lại đây uống nào, mấy ông bạn, - anh ta kêu lên, - lại đây uống nào, và muốn kêu gì thì kêu. Ðêm nay là đêm của tớ, không phải lúc nào cũng có được Lại. đây uống nào, máy ông bạn cố tri, tớ nói thật đấy, vì đêm nay chính là đêm của tớ. - Một đêm chó đẻ - Charley Bates nói xen vào. - Ðúng đấy, con ạ - Ánh Sáng Ban Ngày vẫn cứ vui như không, - Một đêm chó đẻ, nhưng nó là đêm của ta, bởi vì ta là con sói đực già. Nghe ta tru đây này. Và anh cất tiếng tru thật to giống hệt như một con sói rừng xám cô độc đến nỗi Mộng Trinh phát run lên vội đưa hai ngón tay nút chặt lấy tai. Ngay lập tức Ánh Sáng Ban Ngày bế bổng nàng lên đưa vào sàn nhảy. Ba cặp nhảy lúc nãy cũng theo họ vào, rồi tất cả cùng quay cuồng theo điệu vũ xoay tròn ầm ĩ, của vùng Virginia. Ánh Sáng Ban Ngày là trung tâm của sự náo nhiệt ấy, là ngọn lửa hừng hực, đến đâu là châm chọc, cười đùa ầm ĩ đến đó, nên giúp họ thoát khỏi cái vùng lầy ủ ê đã dìm họ trước khi anh đến. Rất ít người biết rằng Ánh Sáng Ban Ngày tên thật là Elam Harnish, bởi lẽ ngay từ những ngày đầu tiên đi mở đất, người ta đã gọi anh bằng biệt hiệu đó vì thấy anh có thói quen vừa lôi bạn bè mình ra khỏi chăn êm nệm ấm vừa làu bàu là trời đã sáng bét ra rồi. Trong số những người tiên phong tiến vào vùng đất hoang ở vùng Bắc Cực xa xôi này thì anh được liệt vào hạng cố cựu nhất. Mặc dù cũng có những người đã đến vùng đất này sớm hơn anh như Ai May hoặc Jack Mc Question chẳng hạn, nhưng thường thì họ đến đây từ vùng Vịnh Hudson về phía đông băng ngang qua rặng Thạch Sơn. Còn anh đã dám vượt qua vùng đèo Chilcoot và Chilcat. Vào mùa xuân năm 1883, cách đây mười hai năm, dù lúc đó mới chỉ có mười tám tuổi anh đã cùng với năm người bạn của mình vượt qua đèo Chilcoot. Ðến mùa thu thì anh trở về, năm người bạn trước kia nay chỉ còn có một. Bốn người kia đã bỏ mạng trong cái bất trắc của vùng đất bát ngát lạnh lẽo chưa được ghi lên bản đồ ấy. Từ đó cho đến suốt mười hai năm sau, Elam Harnish vẫn tiếp tục mò mẫm tìm vàng trong cảnh tối tăm của vùng Bắc Cực. Thật chưa có ai mò mẫm tìm vàng một cách kiên trì và bướng bỉnh như anh. Anh đã lớn lên với vùng đất này và chẳng biết đến vùng đất nào khác nữa. Ðối với anh, nền văn minh cũng chỉ giống như một giấc mơ đã qua lâu lắm rồi, và những trại Bốn Mươi Dặm hoặc trại thị trấn Vùng Cực thực sự là những đô thị lớn. Không phải anh chỉ lớn lên với vùng đất này mà thôi, mà còn giúp xây dựng nó nữa, dù rằng hiện giờ nó cũng vẫn còn hoang sơ lắm. Anh đã tạo nên lịch sử và địa dư của vùng đất; những kẻ đến sau anh chỉ cần viết về những chuyến đi của anh và vẽ lại những con đường mòn mà chính chân anh đã vạch ra là đủ. Thường thì anh hùng ít sùng bái anh hùng, vậy mà những con người sinh sống ở vùng đất mới này vẫn xem anh là một anh hùng già dặn, mặc dù anh vẫn còn rất trẻ. Về thời gian, anh đã đến đây trước họ. Về công việc, anh đã làm nhiều hơn họ. Về sức dẻo dai bền bỉ, mọi người đều công nhận là anh có thể giết chết được cả những tay sừng sỏ nhất. Hơn nữa, họ còn coi anh như một kẻ táo gan, ngay thẳng và thuộc giống người da trắng. Ở bất cứ vùng đất nào mà cuộc đời chỉ là một trò may rủi không đáng bận tâm thì con người thường tự nhiên quay sang cờ bạc để tiêu khiển và nghỉ ngơi. Ở dọc sông Yukon, bọn đàn ông đặt cả cuộc đời họ vào canh bạc ăn vàng. Rồi những ai lấy được vàng từ lòng đất lại đem vàng ra đánh bạc với nhau. Elam Harnish cũng không phải là một ngoại lệ bởi vì anh đáng mặt đàn ông nhất trong bọn đàn ông, và trong người anh, cái bản năng thôi thúc chơi canh bạc của cuộc đời rất mạnh mẽ. Chính môi trường sống của anh đã quyết định hình thức của canh bạc ấy. Anh sinh ra trong một nông trại ở Iowa, sau theo bố di cư đến Ðông Oregon và sống suốt qua ng đời niên thiếu ở cái vùng mà người ta kéo tới tìm vàng đó. Bởi vậy, anh đã chẳng học được gì ngoài cách chịu đấm ăn xôi. Trong canh bạc này dĩ nhiên lòng can đảm và sức bền bỉ là cần thiết, nhưng các con bài lại do Thần Số Mệnh chia. Cứ từ tốn mà đánh thì cũng kiếm được chút đỉnh, nhưng chút đỉnh thì lại chẳng bỏ công. Bởi vậy người ta thường đánh lớn. Elam Harnish thích đánh tất cả để có thể thắng được tất cả và một khi đã không thắng được tất cả thì dù có thắng lớn đến đâu chăng nữa anh cũng vẫn tự coi mình là người thua cuộc. Trong suốt mười hai năm đào vàng vừa qua trên vùng Sông Yukon, Elam Harnish tự coi mình là người thất bại. Thật ra chỉ mới mùa hè trước đây thôi, ở Lạch Da Hươu anh đã đào được hai mươi ngàn đô-la, chưa kể con số tương đương như vậy vẫn còn nằm trong lòng đất. Nhưng anh như anh đã tuyên bố, đó cũng chỉ như gỡ lại tiền đặt cuộc trước mà thôi. Anh đã đặt cuộc cuộc đời mình trong mười hai năm trời, và cái số bốn mươi ngàn đô-la vừa gỡ được đó chẳng đủ để đền bù. Nó chỉ đủ để trả một chầu nhậu và nhảy nhót ở quán Tivoli, vi rút chút đỉnh cho qua mùa đông ở trại thị trấn Vùng Cực và mua lương thực dự trữ cho năm tới là sạch bách. Sau khi điệu vũ xoay tròn chấm dứt, Elam Harnish lại hò hét mời mọi người ra uống rượu. Cứ mỗi ly rượu là một đô-la. Một ounce(4) vàng đổi được mươi sáu đô-la. Trong phòng có ba chục người tất cả đều nhận lời mời uống rượu của Elam Harnish, và cứ sau một bản nhạc họ lại được mời uống. Ðêm nay là đêm của anh, nên anh không cho phép ai trả tiền cho bất kỳ món gì. Thật ra Elam Harnish không phải là một kẻ ưa rượu. Ðối với anh Whisky chẳng có ý nghĩa gì cả. Anh quá mạnh mẽ, quá tràn trề sinh lực; con người anh, trí óc anh hoàn toàn không có tâm sự nặng nề gì để buộc anh phải trở thành con sâu rượu. Anh có thể đi cả năm trời không uống một giọt cà phê rồi đấy. Chỉ có điều là anh thích sống hợp quần, mà ở khu vực sông Yukon cách duy nhất để biểu lộ tính hợp quần của mình là kéo nhau vào quán uống rượu, nên Elam Harnish cũng đành phải làm như vậy. Ngay từ khi anh còn là một thanh niên sống ở các vùng mỏ vàng miền Tây, người ta đã làm như thế, nên bây giờ anh cho đó là cách đúng đắn nhất để thể hiện tính hợp quần của mình. Thật ra ngoài cách đó anh chẳng còn biết cách nào nữa cả. Dù quần áo cũng chẳng có gì khác với những người chung quanh, trông anh vẫn nổi bật hẳn lên. Chân đi giày da hươu mềm có đính hạt theo kiểu thổ dân, quần yếm bình thường, áo khoác may bằng vỏ chăn. Anh đeo găng tay da dài hở ngón trong có lót len, và bên hông lủng lẳng một đai da quàng qua eo và vài theo kiểu dân miền sông Yukon. Ðầu đội nón lông thú, vành nón cuộn lên để hở những dây cột nón lòng thòng. Gương mặt xương xương, hơi dài, má hóp làm lưỡng quyền nhô hẳn lên trông giống gương mặt của thổ dân trong vùng. Người ta lại càng có lên tưởng ấy khi nhìn vào làn da cháy nắng và đôi mắt đen láy tinh tường của anh, mặc dù rõ ràng là cái màu da đồng ấy và đôi mắt ấy chỉ người da trắng mới có. Anh trông già hơn tuổi ba mươi. Thế nhưng nếu anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh không có những vết nhăn và cạo râu sạch sẽ thì trông anh lại rất "trẻ con". Bởi vậy, nếu chỉ căn cứ vào nét mặt mà thôi thì khó có thể nói được tại sao trông anh lại già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi như vậy. Thực ra cái vẻ già trước tuổi ấy toát ra từ toàn bộ con người anh. Từ những điều anh đã phải chu đựng để sinh tồn, và nó vượt quá sức chịu đựng của một con người. Anh đã sống một cuộc đời trần trụi và mã anh liệt, và người ta có thể thấy được phần nào cái cuộc đời ấy âm ỉ trong cặp mắt, vang lên trong giọng nói hoặc như thủ thỉ thốt lên từ đôi môi anh. Mà môi anh thì mỏng, lúc nào cũng mím chặt che khuất hàm răng trắng đều. Tuy nhiên đôi môi trông cũng đỡ khe khắt hơn nhờ ở hai bên mép cong lên làm cho chúng có một vẻ dịu dàng, cũng giống hệt như những nếp nhăn ở hai bên khoé mắt đã làm cho khuôn mặt anh lúc nào trông cũng có vẻ như đang cười cợt. Những nét duyên dáng ấy đã giúp anh thoát được vẻ cay độc, kết quả tất yếu của một đời sống man dã. Mũi anh gầy, cánh mũi nở thanh trông rất hợp với khuôn mặt. Trán anh hẹp nhưng cao và đều đặn. Mái tóc anh cũng giống như tóc thổ dân, bởi vì nó thẳng và đen nhánh, óng ánh cái màu tóc mà chỉ những con người khó mạnh mới có được. - Ánh Sáng Ban Ngày bộ tính đốt sáng cả đêm nay chắc? - McDonald nói rồi cười to giữa những tiếng la ó hò reo của đám người đang nhảy nhót. Olaf Henderson nói thêm: - Mà nó cũng dám làm như thế đấy, Louis nhỉ? Nói có chúa, chắc chắn là nó làm như thế đấy - French Louis đáp - Ðúng là một cậu con trai làm bằng vàng ròng. McDonald nói chen vào: - Rồi khi đến Ngày Ðãi Vàng cuối cùng, lúc Ðức chúa Trời xúc một xẻng cát bỏ vào trong nồi đãi, hẳn là sẽ thấy có cả nó lẫn ở trong ấy đấy. - Nói nghe hay lắm - Olaf Henderson vừa lẩm bẩm vừa nhìn tay chủ sòng bài một cách thán phục… - Ừ, hay thật - French Louis cũng khẳng định - cũng xứng đáng để chúng ta uống mừng một ly, phải không. ... Mời các bạn đón đọc Từ Bỏ Thế Giới Vàng của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Quỷ Cái Vận Đồ Prada - Lauren Weisberger
Khi Andrea Sachs đặt chân lên văn phòng lộng lẫy của tờ Runway, cô không biết gì hết. Không biết tới tờ tạp chí thời trang nhất của thế giới, hay nữ Tổng biên tập được sợ hãi và tâng bốc quá đáng của nó, Miranda Priestly. Rồi cô sẽ biết quá nhiều. Và đây, chính là thế giới của đồ hiệu đỉnh cao, nơi những tên "Prada! Armani! Versace!" được vang lên mọi lúc mọi nơi, rồi những bữa tiệc thời thượng, những chuyện hậu trường của giới sành điệu, những gì nối kết sắc đẹp với hình ảnh báo chí, và trên tất cả, một bà chủ khiến người ta mệt mỏi đang thống trị bên trên toàn bộ cỗ máy của Runway, nơi vừa là thiên đường vừa là địa ngục cho các cô gái thích ăn diện đang tìm đường lập thân trong những cao ốc kiêu kỳ của Mahattan. Quỷ cái vận đồ Prada, tác phẩm đầu tay của Lauren Weisberger sau quãng thời gian làm việc cho Vogue Mỹ - một cuốn sách nhẹ nhõm vui tươi về thế giới hào nhoáng đã tìm ra được công thức hấp dẫn để giải trí cho hàng triệu thanh niên đô thị, và trở thành một hiện tượng vang dội của ngành xuất bản thế giới khi liên tục sáu tháng liền đứng trong danh sách bán chạy nhất của The New York Times. *** “Tuyệt diệu, một cái nhìn sáng suốt vào thế giới của các tạp chí và thời trang.” – Red “Kể từ thời hoàng kim của Sex and the City chưa có câu chuyện nào nắm bắt được tinh thần của các quý cô như vậy.” – Harper & Queen “Tươi mát, thấu suốt và thật là Sex and the city! Bạn phải lao tới hiệu sách mà mua cho được một cuốn như thể đó là đồ Prada giảm giá một nửa.” – Company “Một câu chuyện hài hước, vui nhộn… Văn học cho giới sành điệu.” – People “Viên ngọc nhỏ này đã kết hợp vẻ duyên dáng của Sex and the City với chất dí dỏm sắc bén của New York.” – Red “Một cuốn sách kỳ diệu khiến bạn không thể đặt xuống.” – The Sun “Một cuốn tiểu thuyết dí dỏm và lắm chuyện bậc nhất.” – Publisher Weekly “Một món trang sức không thể thiếu của mùa sách năm nay.” – Rocky Mountain News *** Đèn giao thông ở ngã tư đường 17 cắt Broadway chưa kịp chuyển hẳn sang màu xanh thì cả một bầy taxi vàng vênh váo đã vượt qua tôi, trong khi tôi gây ùn tắc cả làn đường bên phải bằng cái bẫy giết người mà tôi phải lái đi khắp phố phường New York. Đạp côn, nhấn ga, vào số (từ mo vào số một hay từ số một lên số hai?) Nhả côn, tôi lẩm nhẩm quy tắc thần thánh ấy cả chục lượt, song giữa đám xe cộ đan như mắc cửi buổi trưa cây thần chú này chẳng giúp gì được. Chiếc ôtô lồng lên hai bận như con ngựa bất kham, để rồi tiếp đó ngật ngưỡng như con thỏ què qua ngã tư. Tim tôi nhảy thình thịch trong ngực. Đột ngột xe thôi ngật ngưỡng và chuyển động trơn tru. Trơn như bôi mỡ. Tôi liếc nhanh xuống xem có đúng là vẫn đang số hai, và khi ngẩng lên thì mũi xe đã gí sát đuôi chiếc taxi vàng phía trước, làm cho tôi không còn cách nào khác ngoài việc nghiến răng đạp trí mạng lên bàn phanh và gãy quặp gót giày. Khốn nạn! Lại một đôi giày 700$ đi tong vì sự vụng về của tôi – đôi thứ ba trong tháng này rồi. Tôi nhẹ cả người khi thấy động cơ chết nhóm (hình như trong lúc đạp cú phanh cứu mạng thì đáng lẽ tôi phải đạp cả côn mới đúng). Giờ thì tôi có mấy giây đồng hồ, đủ để thong thả tháo đôi Manolo quẳng lên ghế phụ, trong khi xung quanh tôi inh ỏi tiếng còi xe và rào rào những cây quát chửi tục tĩu. Lấy gì chùi bàn tay đẫm mồ hôi bây giờ, ngoài cái quần Gucci bó chặt người đến nỗi máu hết đường chảy, và chỉ riêng chui được vào rồi cài đến chiếc khuy trên cùng không khác gì đánh vật. Những ngón tay quẹt thành từng vệt kinh tởm trên lớp da lộn mềm như nhung. Tôi phải làm hơi thuốc thôi, không thì khó mà đưa nổi cái xe mui trần 84.000$ này lành lặn qua khỏi ma trận của Mahattan đúng vào giờ nghỉ trưa. “Biến nhanh đi được không chị gái!” Một tay lái xe trông rất bụi với túm lông ngực thò qua cổ may ô ba lỗ. “Hay là chị gái tưởng đây là bãi học lái xe? Biến!” ... Mời các bạn đón đọc Quỷ Cái Vận Đồ Prada của tác giả Lauren Weisberger.
Mùa Hè Định Mệnh - Karen Robards
Mùa Hè Định Mệnh Chuyện học trò yêu cô giáo, một chuyện xưa như trái đất, nhưng không phải lúc nào cũng cũ. Johnny Harris, cậu học trò thuộc tầng lớp đáy cùng của xã hội, bất cần, ngang ngạnh và cô độc. Một mùa hè, cậu bất ngờ bị bắt vì tội hiếp dâm và giết chết người bạn gái và phải thụ án 10 năm… Cô giáo Rachel Grant hơn cậu năm tuổi, đẹp tựa một thiên thần mong manh, lớn lên trong một gia đình giàu có và gia giáo. Tình yêu và lòng tâm huyết với nghề khiến cô tin cậu học trò của mình không bao giờ phạm một tội ác khủng khiếp như thế. Ngay cả khi cậu đã ra tù, với một vẻ ngoài bụi bặm, khắc nghiệt và một miệng lưỡi sỗ sàng pha chút cay đắng, cô vẫn gồng mình bảo vệ cậu trước ánh mắt hà khắc của những người xung quanh. Nhưng, 10 năm trôi qua, có ai ngờ cậu học trò lặng lẽ cô độc ngày xưa giờ lại trở nên xấc xược, ngang tàng và… quyến rũ đến chừng ấy… Có ai ngờ cậu đã tôn thờ và thầm yêu cô trong suốt ngần ấy năm, và khát khao có được cô đến cháy lòng cháy dạ. Có ai ngờ trong Mùa hè định mệnh này, cô đã tự nguyện bước ra khỏi thế giới hoàn hảo của mình để đặt chân vào cuộc tình mạo hiểm với cậu học trò năm xưa… Mùa hè định mệnh nằm trong Top 100 tiểu thuyết lãng mạn hay nhất thế kỷ do độc giả The Romances Reader bình chọn. Tác giả: Karen Robards (sinh ngày 24/8/1954 tại Louisville, Kentucky, Hoa Kỳ) là một trong những tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn lịch sử hay nhất theo bình chọn của New York Times, USA Today và Publishers Weekly với hơn bốn mươi tiểu thuyết đặc sắc được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Bà cũng là chủ nhân của nhiều giải thưởng có giá trị từ Romantic Times hay Affaire de Coeur. *** Kể từ buổi bình minh kinh hoàng đó, Rachel Grant không thể chịu đựng được mùi hoa của cây bụi mùa hè [1] nữa. Thật mỉa mai là đúng vào lúc này, mùi hương đó dường như đang khiến cô ngột ngạt đến khó thở. [1] Nguyên văn: “summersweet” - loài cây bụi sống phía nam và phía đông bờ biển nước Mỹ, có những chùm hoa màu trắng rất thơm. Cô đang đứng trên con đường oi ả trước trạm xe bus ở Greyhound để đón Johnny Harris về nhà. Johnny Harris, cậu học trò ngỗ ngược mà cô đã dạy môn tiếng Anh ở trường cấp ba cách đây nhiều năm. Johnny Harris, đứa con trai nghênh ngang của một kẻ bất hảo trong vùng. Người ta chỉ mong ông ta cư xử với thằng bé như một người bố nhưng thực chất ông ta còn tệ hơn thế rất nhiều. Johnny Harris bị kết án giết người và bị buộc tội cưỡng hiếp một cô gái mười bảy tuổi trong nhóm cổ vũ ở trường cấp ba cách đây mười một năm. Hôm nay, với sự giúp đỡ của cô, Johnny Harris sẽ về nhà. Tiếng động cơ đập vào tai cô trước khi xe bus xuất hiện trong tầm mắt. Rachel căng thẳng, liếc xung quanh xem có ai đang nhìn mình không. Bob Gibson, nhân viên bán vé, trông chẳng khác nào một vết mờ đằng sau ô cửa kính phía trước trạm xe bus vốn là một nhà kho của Tylerville. Jeff Skaggs – mới tốt nghiệp cấp ba tháng Năm vừa rồi và bây giờ làm việc ở cửa hàng 7-Eleven – đang thả tiền xu vào máy bán Coke tự động ở hông tòa nhà. Nhìn qua chiếc xe tải nhỏ đang đỗ của anh ta, cô phát hiện ra bụi cây mùa  hè với những chiếc lá màu xanh lục sáng lấp lánh và những bông hoa trắng tinh. ... Mời các bạn đón đọc Mùa Hè Định Mệnh của tác giả Karen Robards.
Nụ Hôn Trốn Tìm - Suzanne Brockmann
..."Leila Hunt trở về thị trấn Sunrise Key, nằm tách biệt trên một hòn đảo nhỏ yên bình, xinh đẹp; nơi chôn rau cắt rốn của cô để đón mừng năm mới với anh trai trong tâm trạng chán chường vì Elliot Tillis, hôn phu tương lai của cô, một chuyên gia tài chính giàu kinh nghiệm, chỉ biết kiếm tiền, vẫn đang mê mải với dự án tại New York. Thêm vào đó, Leila không đủ can đảm chấm dứt mối quan hệ ấy để rồi phải mạo hiểm đi tìm tình yêu đích thực chẳng biết đang ở tận phương nào. Rắc rối hơn nữa, tại đây, Leila sẽ phải chung một mái nhà với kẻ thù không đội trời chung, Marshall Delvin, chàng bác sĩ duy nhất của đảo, bạn thân Simon – anh trai cô, vì nhà Marshall bị cháy rụi sau một vụ hỏa hoạn. Thế nhưng nàng Lọ Lem Leila không thể ngờ rằng ngay đêm đầu tiên về đảo cô đã bị đánh cắp nụ hôn ngọt ngào đến mê đắm tù một chàng ninja giấu mặt trong bữa tiệc hóa trang chào năm mới do anh trai tổ chức. Chỉ một nụ hôn thôi nhưng cô biết đó chính là nụ hôn của đời mình và nhận ra cảm xúc bấy lâu bị chôn kín. Leila bắt đầu hành trình tìm kiếm nhân dạng chàng ninja của mình, cho dù như thế cũng có nghĩa cô phải đi hôn từng người trong bốn chàng ninja cải trang tại đêm tiệc. Marshall đã yêu thầm Leila từ lâu, nhưng anh che giấu tình cảm đó dưới những lời trêu chọc luôn làm Leila cáu tiết. Marshall phải làm gì khi buộc phải chứng kiến người con gái mình yêu hôn hết người đàn ông này đến người đàn ông khác? Còn Leila sẽ ra sao khi cả bốn chàng ninja đó chẳng là người cô cần tìm? Điều gì sẽ xảy ra khi cả Marshall lẫn Simon đều đã biết sự thật ngay từ những phút đầu giúp Leila lập kế hoạch? Leila cảm thấy như thế nào khi phát hiện cô kẻ ngốc duy nhất không biết sự thật ấy? Liệu tình cảm ngày càng sâu đậm với Marshall có đủ mạnh để Leila tha thứ cho anh, hay hướng đến một cuộc sống chung nơi thị trấn nhỏ bé, tù túng với những con người tò mò, tọc mạch, thích buôn chuyện mà cô đã mất cả chục năm trời để thoát khỏi?"... Ngập tràn các cung bậc cảm xúc từ tức giận, ngạc nhiên tới hạnh phúc, đam mê… Nụ hôn trốn tìm một lần nữa chứng minh rằng, không có gì có thể ngọt ngào và lôi cuốn hơn cảm giác yêu và được yêu trả lại. Cuốn sách hài hước, dí dỏm mà không kém phần sắc sảo, tinh tế này sẽ mang tiếng cười đến cho độc giả và lý giải tại sao không thể bỏ lỡ tình yêu với các tiểu thuyết lãng mạn ngọt ngào. Nếu đây là lần đầu độc giả tiếp xúc với tác phẩm của Suzanne Brockmann, cuốn sách có thể khiến họ trở thành một fan hâm mộ, luôn ngóng chờ các tác phẩm mới của bà. Suzanne Brockmann đã đạt được rất nhiều giải thưởng, trong đó có hai giải RITA, giải cống hiến của Romantic Times, giải tác giả viết tiểu thuyết lãng mạn được yêu thích nhất tại Mỹ… Hơn 51 tác phẩm của bà đã được xuất bản và rất nhiều trong số chúng được xếp vào hàng best seller. Bà được xem như một trong các tác giả có tầm ảnh hưởng lớn trong giới viết tiểu thuyết lãng mạn. Những tác phẩm của Suzanne Brockmann sẽ được Thái Uyên xuất bản gồm: Kiss And Tell (Nụ hôn trốn tìm), The Kissing Game, Body Language, Frisco’s kid… *** Leila Hunt nhìn đăm đăm vào tấm gương dưới chân cầu thang, và nàng Cinderella chẳng buồn nhìn đáp lại. Thật xấu hổ làm sao, bởi Leila đang ăn vận như Cinderella - từ bộ tóc giả vàng óng tiệp màu với mái tóc quăn cắt ngắn cho tới chiếc áo dạ hội màu trắng ngà lộng lẫy ôm sát thân hình cao và mảnh dẻ, buông rủ xuống đôi giày thủy tinh duyên dáng cô đang đi ở chân. Thực ra, chúng làm từ plastic. Nhưng giống như đôi giày của nàng Cinderella trong cổ tích, chúng vừa như in với chân Leila.   Bất chấp tất thảy những thứ đó, trông Leila vẫn chẳng thể giống Cinderella. Cô xăm soi mình trong gương, tự hỏi lí do đích xác là gì.   Có lẽ bởi cô không có vẻ kiêu sa như nàng công chúa trong truyện cổ tích thường kể. Gương mặt cô hơi quá lanh lợi, hơi giống hình trái tim. Mũi hếch, cằm lại hơi nhọn, khiến cô có vẻ tinh nghịch. Không, từ đó chưa chính xác. Cô quá cao để hợp với từ tinh nghịch. Tinh nghịch đi đôi với nhỏ nhắn, và với chiều cao gần một mét tám cô đã không còn bé nhỏ từ lúc bước vào tuổi vị thành niên.   Cái cô nhìn thấy là vẻ tự đắc. Ôi chao, Leila ghét từ đó.   Cô lại gần gương hơn và cố thay bằng vẻ gợi cảm. Cố làm như mình đang nắm giữ một bí mật trọng đại. Cô thử mỉm cười ra vẻ bí ẩn, chu môi về phía trước một chút. Nụ cười chỉ làm cô trông ranh mãnh. Ranh mãnh một cách nghịch ngợm - giống Peter Pan hơn một nàng công chúa.   Leila quay khỏi gương với tiếng thở dài. Cô vẫn chưa rõ vì sao cô cảm thấy bất an khi rời New York cùng lời nhắn của Elliot ở sân bay báo rằng anh vẫn chưa thể tới Florida cùng cô được.   Giờ cô đang ở noi đây, trở về Sunrise Key, thị trấn quê nhà, phục trang giống nàng Cinderella, như thể hi vọng rằng ở đâu đó ngoài kia, trên sàn nhảy mà anh trai Simon đã thuê, một chàng bạch mã hoàng tử đang đợi cô.Cô nhìn quanh phòng. Một chàng Batman và một anh hề thu lu trong góc. Vua Henry VIII, tay cầm đùi gà quay, ngồi cạnh một thầy phù thủy. Chẳng có chàng hoàng tử nào hết.   Leila đi qua cánh cửa kiểu Pháp ra sân sau, nơi hầu hết khách của Simon đang khiêu vũ dưới mái bạt trong tiếng nhạc sôi động phát ra từ bốn chiếc loa lớn.   “Nom em thật xinh đẹp,” một giọng nói cất cao để át tiếng nhạc vang lên ngay tai cô. “Chiếc áo đó hợp với em đấy,”   Leila có thể nhận ra chất giọng Anh Quốc đặc trưng ấy ở bất cứ đâu. Đó là bác sĩ Marshall Devlin. Bác sĩ Marshall cao ngạo, kẻ cả, bạn chí thân của ông anh trai phiền nhiễu, Devlin với giọng Anh đặc sệt. ... Mời các bạn đón đọc Nụ Hôn Trốn Tìm của tác giả Suzanne Brockmann.
Mơ Về Phía Anh - Ngải Mễ
Mơ về phía anh là tác phẩm được chờ đợi của Ngải Mễ - tên tuổi đã nổi tiếng với tiểu thuyết Chuyện tình cây táo gai được đạo diễn Trương Nghệ Mưu chuyển thể thành phim. Nếu như Chuyện tình cây táo gai là câu chuyện tình yêu thuần khiết, trong sáng nhất thì Mơ về phía anh nói về khát vọng tình dục chân thực nhất. Mơ về phía anh là câu chuyện về Hạ Phiêu – cô gái Trung Quốc sống ở Mỹ từ năm 16 tuổi. Trải qua không ít những trắc trở, thất bại trong tình yêu, để rồi đến năm 30 tuổi, cô nhận thấy cuộc sống của mình dường như đã không còn tình yêu. Yêu cầu của “cô” đối với “anh” đã rơi xuống mức: “Đàn ông, tuổi dưới bốn mươi, không có vợ”. Tình cờ, một ngày kia, tại một ngôi biệt thự bên hồ đẹp như tranh vẽ, Hạ Phiêu gặp được một giáo sư người Hoa của “Học viện Khổng Tử”. “Già, thấp bé, hói đầu”- đó là những tưởng tượng ban đầu của cô về anh. Nhưng khi anh đứng trước mặt cô, cô sững sờ! Người đàn ông đó quá đẹp trai! Hơn nữa, anh ta lại có nụ cười mê hồn! Rồi cô yêu anh, cả ngày chỉ nghĩ đến anh, dành trọn tình cảm cho anh. Thế nhưng, liệu cô có phải là người đàn bà si tình đang tự lừa dối mình? Em đã từng yêu một người, anh ấy là loài hoa sen, đứng nhìn từ xa thấy “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Em có thể ngửi thấy mùi hương thơm ngát từ đằng xa, từng bước bị cám dỗ bởi hương thơm ấy. Em lại gần, và rồi… chỉ nghe một tiếng “Tòm”, cả người đã rơi xuống dưới ao. Mơ về phía anh thể hiện sự biến hóa trong cách viết cũng như trong tư tưởng của Ngãi Mễ, khiến đa số độc giả bất ngờ bởi những trang viết về tình dục trong truyện. Phản ảnh khát khao thể xác của người phụ nữ thế hệ mới nhưng không dứt bỏ kiểu tình cảm lí tưởng, vì thế, mặc dù khiến nhiều người bị sốc vì đi quá xa khỏi những quan niệm truyền thống nhưng Mơ về phía anh vẫn thu hút được đông đảo độc giả bởi sức hấp dẫn của câu chuyện táo bạo và lãng mạn. *** Chật chội.   Giống như những con cá thu bị đóng hộp? NO! NO!   Những con cá thu đóng hộp còn được đặt nằm ngang trong hộp, nhưng trên xe buýt, đám người chen chúc kia đều là đứng thẳng, giống một cái hộp tăm bị mở tung ra thì đúng hơn.   Những cái đầu đen sì che hết cả cửa sổ xe, có muốn cũng chẳng thể nhìn thấy quang cảnh bên ngoài, chiếc xe buýt dường như đang lăn bánh trong màn đêm đen kịt.   Cùng với những cái nghiêng và lắc của xe buýt, các hành khách trong xe cũng nghiêng và lắc lư theo. Xe rẽ về bên trái, quẹo sang bên phải, tiến về phía trước… thỉnh thoảng có người bị ai đó giẫm phải chân. Nếu người bị giẫm chân là đàn ông, lập tức trong xe sẽ vang lên tiếng chửi mẹ của kẻ vừa thực hiện hành động “giẫm chân” đó. Sau đó sẽ là tiếng “bật lại” của kẻ vừa bị chửi.   Ngực của phụ nữ bị “chà xát”, mông bị “đè ép”, nhưng không có ai réo tên của mẹ cái kẻ thực hiện các hành động ấy ra mà chửi cả.   Tại sao ư? Bởi vì phụ nữ không có quyền “chửi bậy”. Nếu như có một bà hay cô nào đó dám réo tên người ta ra mà chửi, lập tức sẽ khiến cho “dư luận” trong xe bất bình: “Đàn bà mà cũng chửi bậy à? Thật là không biết xấu hổ!”   Đàn ông bị giẫm phải chân có thể công khai phẫn nộ. Đàn bà bị đè ngực, ép mông lại phải câm lặng nhịn nhục. Ngực của ai bị đè, đó là nỗi sỉ nhục của người đó. Nếu mà mở mồm kêu la thì sẽ càng nhiều người biết, mà càng nhiều người biết thì nỗi nhục càng lớn. Không ca thán thì sẽ không có ai biết, mà không có ai biết thì đồng nghĩa với việc chẳng có chuyện gì xảy ra hết. ... Mời các bạn đón đọc Mơ Về Phía Anh của tác giả Ngải Mễ.