Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Những Người Đàn Bà

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của những người phụ nữ yếm thế trong xã hội Palestine. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ. Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương... Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình. Với những trang sách đầy mê hoặc, lôi cuốn và hấp dẫn đến phút cuối cùng, NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ đã được Amazon bình chọn là cuốn sách viết về phụ nữ hay nhất năm. *** Review sách Những Người Đàn Bà Tác giả: Etaf Rum Đôi nét về tác giả: Etaf Rum sinh năm 1989 là Một tiểu thuyết gia trẻ tuổi người Mỹ gốc Palestine. Cô sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Ả Rập truyền thống ở Brooklyn New York Review sách: Các vấn đề về con người vẫn luôn là đề tài để các tác giả khai thác, bởi có lẽ chẳng có gì phong phú, đẹp đẽ và xấu xa như con người. Chúng ta ngay cả sự sống, ngay cả bi kịch, cũng là thứ thôi thúc sự viết, sự tìm tòi. Trong đó đề tài “thân phận người phụ nữ” được đào sâu nhiều khía cạnh trong nhiều thời đại bối cảnh. Mình thường nói vui với bạn, cái gọi là “thân phận phụ nữ” sao mà phải viết nhiều thế. Nhưng có lẽ sự phân biệt giới tính đã làm cho phụ nữ trở nên khốn khổ, mà đặc biệt là những người phụ nữ sinh ra giữa chế độ hủ tục của tôn giáo, định kiến xã hội. Những người đàn bà là một cuốn sách như thế, khai thác đề tài thân phận người phụ nữ. Cuốn sách “Những người đàn bà” Lấy bối cảnh ở một nước Mỹ đầy khát khao cùng những lời hứa hẹn rộng mở, để kể một nền văn hóa với hủ tục cực đoan, khép kín và kiểm soát đối người phụ nữ. Cuốn sách kể về câu chuyện đầy đau đớn, dữ dội về số phận của ba người phụ nữ, thuộc ba thế hệ khác nhau, mỗi người đều an bài cuộc đời mình cho những nỗi đau câm lặng trong xã hội Palestine. Họ luôn khao khát mưu cầu sự sống, tình yêu và hạnh phúc nhưng số phận đã bóp nghẹt họ, tước đi tất cả bao gồm cả sự sống. Họ không có tiếng nói ngay trong gia đình mình, lấy chồng theo sự sắp đặt của cha mẹ và chỉ quẩn quanh bên căn bếp, chăm lo con cái. ‘Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái đặc biệt của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi cho những thế hệ sau này” Họ là những người phụ nữ Palestin ngoài việc sinh nở và ở nhà chăm con,thì gần như đánh mất hoàn toàn chức năng của bản thân mình. Dưới một đời sống không lối thoát được truyền từ đời này sang đời khác, cuốn sách này mang lại nhiều sự u tối về số phận con người. Không chỉ người phụ nữ, ngay cả những người đàn ông, những người tưởng chừng được làm mọi thứ cùng tràn ngập bế tắc. Bởi họ phải gồng gánh trên vai hàng ngàn gánh nặng về cơm áo gạo tiền. Từ ngay trong những tác phẩm văn học trong quá khứ mà chúng ta đã từng được tiếp xúc, “bị kịch cự tuyệt quyền làm người” đã được nhắc tới, và có lẽ là thứ bi kịch đau khổ và tuyệt vọng vô cùng. Xuyên suốt câu chuyện là sự câm lặng của ba thế hệ phụ nữ.  Thế hệ đầu thoát khỏi sự chiếm đóng của Israel trong xung đột Palestine và Israel, chạy trốn đến nước Mỹ với mong muốn tránh khỏi cuộc sống ở trại tị nạn. Thế hệ thứ 2 đồng ý một cuộc hôn nhân sắp đặt với người Mỹ gốc Palestine với hi vọng đất Mỹ tự do thì tiếng nói của nữ giới sẽ được tôn trọng hơn trên đất Palestine. Thế hệ thứ 3, suýt nữa thì rơi vào bánh xe đổ của các thế hệ trước, nếu cô ấy không phát hiện ra bí mật kinh khủng của gia đình mình và số phận của người mẹ đáng thương Mỗi thế hệ đều có giấc mơ và khát vọng về sự tự do và nữ quyền, nhưng không phải ai cũng có thể đấu tranh đến tận cùng. Những người đàn bà là một cái nhìn sâu sắc về sự tuyệt vọng, thống khổ của phụ nữ gốc Palestine. Dù vậy, ẩn chứa bên trong họ là sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm để tìm lại tiếng nói và phẩm giá của mình Với giọng văn mô tả thực và sống động, Etaf Rum đã mang lại cả nền văn hoá Ả rập đến cho người đọc. Một nền văn hoá cổ hủ không chút giấu diếm, truyền thống trọng nam khinh nữ được bộc lộ một cách khéo léo khiến bản thân dễ dàng cảm thấy đồng cảm được với mỗi nhân vật trong truyện. Một chút thương xót, một chút ngưỡng mộ, có đôi khi thấy hơi bất lực và khó chịu với sự nhu nhược của người phụ nữ thế hệ xưa. Cũng không phải tự nhiên Amazon lại cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của năm viết về người phụ nữ hay nó thuộc trong những cuốn New York Times best seller. Có thể khi đọc tác phẩm này chúng ta sẽ vẫn thấy được phảng phất đâu đó sự đồng điệu và quen thuộc, vì chính tại Việt Nam này cũng đã và vẫn đang tồn tại cái nền văn hoá, truyền thống cổ hủ đấy. Chắc cũng khó có ai có thể tưởng tượng được cái sự thật trần trụi ấy lại được tái hiện lại qua giọng văn trẻ như vậy. So với một tác phẩm đầu tay thì Etaf Rum đã thực sự làm nên một điều kì diệu, văn phong tưởng chừng như đơn giản nhưng lại có một chút tính toán. Để mà đánh giá thì mình thấy đây là một tiểu thuyết hay với nội dung cuốn hút người đọc, những cú plot twist và sự bất ngờ sẽ đến với các bạn từ phần nọ sang phần kia. Nhằm muốn bộc lộ rõ được bản chất của những câu chuyện đáng khinh bỉ ấy, nhà văn đã vẫn giữ nguyên một số từ ngữ đặc trưng của nơi đây. Một cuốn tiểu thuyết thực sự mang lại thật nhiều suy nghĩ cho người đọc. *** Tôi sinh ra đã thiếu đi giọng nói, trong một ngày lạnh lẽo, u ám ở phố Brooklyn, New York. Không ai nhắc đến tình trạng của tôi. Tôi không biết mình bị câm cho đến nhiều năm về sau, khi tôi mở miệng xin điều mình muốn, để rồi nhận ra không ai có thể nghe thấy mình. Nơi tôi sinh ra, vô thanh là một trạng thái mặc định của nữ giới, thường tình như một bộ ngực nở nang và cần thiết như việc chúng tôi mang trong mình sự sinh sôi của những thế hệ sau này. Nhưng tất nhiên, chúng tôi sẽ không bao giờ tiết lộ cho bạn điều đó. Ở nơi tôi sinh ra, phụ nữ chúng tôi đã học cách che giấu đi những trạng thái của mình. Chúng tôi được dạy phải im lặng và chỉ có sự im lặng mới cứu được chúng tôi. Phải đến tận bây giờ, sau rất nhiều năm, tôi mới nhận ra điều này là sai lầm. Phải đến tận bây giờ, khi viết ra câu chuyện này, tôi mới cảm nhận được giọng nói của chính mình. Bạn chưa bao giờ nghe về câu chuyện này. Dù bạn có đọc bao nhiêu sách, hay biết bao nhiêu chuyện trên đời thì tôi vẫn tin chưa có ai kể cho bạn nghe một câu chuyện như thế. Ở nơi tôi sinh ra, chúng tôi giữ những câu chuyện cho riêng mình. Kể những câu chuyện ấy cho thế giới bên ngoài là một điều mà chưa ai dám làm bởi nó vừa nguy hiểm vừa đáng hổ thẹn. Nhưng, bạn đã thấy chúng tôi. Hãy dạo bước trong thành phố New York vào một chiều nắng đẹp. Đi xuống Manhattan*cho đến khi những con phố bắt đầu cong lại và rối rắm như những con phố ở Cựu Lục Địa*. Rẽ sang phía Đông, đi qua cầu Brooklyn*, khi ngoái lại, bạn sẽ thấy đường chân trời mỏng tang của Manhattan đang ở ngay phía sau mình. Phía bên kia, giao thông vẫn đang ùn tắc. Vẫy một chiếc taxi vàng và đi xuống đại lộ Flatbush, tuyến đường huyết mạch chính của Nam Brooklyn, bạn tiếp tục hướng Nam cho tới đại lộ số Ba. Nhà ở đây nhỏ hơn, chỉ xây ba hoặc bốn tầng, với những kiến trúc xưa cũ. Cây cầu Verrazano hẹp lửng lơ giữa tâm nhìn như một chú hải âu khổng lồ, hai cánh dang rộng, ở phía xa xa chân trời Manhattan hiện lên lờ mờ như một ảo ảnh. Hướng về phía Nam một lúc, qua những kho hàng cũ tân trang lại thành những quán cà phê và những quầy bán hàu thời thượng, những cửa hàng kim khí tư nhân nhỏ đã có ở đó hằng bao nhiêu thế hệ. Khi những quán cà phê kiểu Mỹ bắt đầu thưa thớt dần, bạn biết là mình đã gần tới nơi. Đi chéo qua phía Đông hai dãy nhà đến đại lộ số Năm, ở đây, bạn sẽ thấy khu Bay Ridge. Cái khu phố rộng ba dặm của chúng tôi là điểm hội tụ văn hóa của Brooklyn. Trên những dãy phố của chúng tôi, bạn sẽ gặp những người Mỹ Latin, Trung Đông, Ý, Nga, Hy Lạp và gốc Á, tất cả đều nói tiếng mẹ đẻ và gìn giữ truyền thống văn hóa của riêng mình. Tranh tường và graffiti*phủ đầy trên tường. Những lá cờ sặc sỡ màu sắc treo trên các ô cửa sổ và ban công. Mùi thơm ngọt ngào của bánh rán churros*, trộn lẫn với mùi thịt xiên nướng shish kebab* và mùi hoa khô trộn - tất cả tạo nên một món hầm hợp chủng. Bước ra khỏi góc phố cắt giữa đường Bảy Mươi Hai và đại lộ số Năm, bạn sẽ thấy xung quanh mình nào là tiệm bánh, những quầy bar hookah*và những chợ thịt của người Hồi giáo. Tiếp tục đi xuống hàng cây đường Bảy Mươi Hai cho đến khi bạn tới một căn nhà cũ trông không có gì khác với những căn còn lại với gạch đỏ phai màu, cửa nâu bụi bặm, số 545. Đây là nơi mà gia đình tôi sống. Nhưng thực ra mà nói, câu chuyện của chúng tôi không bắt đầu từ phố Bay Ridge. Để tới đó, chúng ta cần lật về trước khi tôi tìm thấy giọng nói của mình, trước cả khi tôi được sinh ra. Chúng tôi chưa ở căn nhà trên đường Bảy Mươi Hai, chưa ở Brooklyn, chưa ở Mỹ. Chúng tôi còn chưa lên máy bay từ Trung Đông tới vùng trời mới này, chưa bay qua Đại Tây Dương, chưa biết một ngày chúng tôi sẽ có chuyến đi này. Ấy là năm 1990 và chúng tôi đang ở Palestine. Đó là khi câu chuyện bắt đầu. ***   Isra (BIRZEIT*, PALESTINE) Mùa xuân năm 1990 Ngày nào cũng vậy, suốt phần lớn mười bảy năm của cuộc đời mình, Isra đều nấu ăn với mẹ. Cô thường cuộn từng lá nho trong những buổi chiều ấm áp, hay nhồi mì bí ngòi hoặc ninh những nồi súp đậu láng khi trời mát mẻ và vườn nho ngoài hiên trở nên trống không. Trong kia sẽ là mẹ cô tất tả với căn bếp, như thể cả hai đang thủ thỉ một bí mật gì đó. Hơi nước quẩn quanh hai mẹ con, cho tới khi hoàng hôn buông những vệt nắng màu cam qua cửa sổ. Nhìn ra ngoài, từ đỉnh núi, gia đình Hadid có thể ngắm nhìn quang cảnh của cả miền quê - những triền đồi bao phủ bởi những mái nhà gạch hoa đỏ, tươi sáng, dày dặn và có nét gì đó hoang dại. Isra hay mở toang cửa sổ vì cô yêu mùi của quả vả và hạt hạnh nhân ùa vào mỗi sáng, cả tiếng sột soạt từ nghĩa địa râm ran mỗi tối. Tối đã muộn và tiếng gọi lời cầu nguyện maghrib* đã đến gần, nghĩa là chuyện bếp núc cũng sắp phải xong. Isra và mẹ sẽ đi vào nhà vệ sinh, xắn tay áo lên và rửa đi chút nước sốt đỏ còn dính lại trên ngón tay của mình. Isra đã bắt đầu quỳ xuống cầu nguyện bên cạnh mẹ từ nầm cô lên bảy, năm lần mỗi ngày. Gần đây, cô bỗng mong chờ tới những lần cầu nguyện này hơn, để được đứng bên cạnh mẹ, vai chạm vai, chân sượt qua chân mẹ. Đây là thời gian duy nhất trong ngày mà Isra được cảm nhận sự tiếp xúc của con người. Cô nghe thấy tiếng adhan* đặc sệt gọi họ đến để cầu nguyện. “Lời cầu maghrib hôm nay phải chờ sau mất rồi!” - Mẹ của Isra nói bằng tiếng Ả Rập, mắt nhìn ra ngoài cửa sổ bếp: “Khách của chúng ta đã tới.” Vừa nghe thấy tiếng gõ cửa, bà chạy vội đến bồn rửa, rửa tay thật nhanh và lau khô tay bằng một cái giẻ sạch. Đi ra khỏi bếp, bà cuốn chiếc áo choàng màu đen quanh vóc dáng bé nhỏ của mình và đội một cái khăn hijab* cùng màu để che đi mái tóc đen dài. Dù mẹ chỉ mới ba mươi lăm tuổi nhưng Isra nghĩ bà trông già hơn thế nhiều, bởi những nếp nhăn của một đời lao động vất vả hằn trên gương mặt. Mẹ nhìn thẳng vào mắt Isra: “Đừng có quên rửa tay cho sạch mùi tỏi trước khi ra chào khách.” Isra rửa tay cố không làm dính bẩn vào bộ váy choàng kaftan* màu hồng mà mẹ đã chọn cho cô. “Trông con có được không mẹ?” “Trông được.” - Mẹ nói, quay mặt chuẩn bị đi: “Nhớ cài hijabcẩn thận không tóc lại hở ra đấy. Nhà ta không muốn khách có ấn tượng không tốt đâu.” Isra làm theo những gì cô được bảo. Từ sảnh, cô đã nghe thấy tiếng cha mình, ông Yacob, lặp lại tiếng chào salaam*thường lệ khi ông dẫn khách vào phòng khách. Ngay sau đó, ông vội xuống bếp để hỏi xin nước và cô sẽ với lấy ba cái tách thủy tinh từ chạn bát để chuẩn bị cho ông. Những vị khách sẽ thường ca thán về sườn đồi dốc dẫn đến nhà của họ, nhất là trong những hôm như thế này, khi bầu không khí ngày càng nóng, cảm giác như nơi này chỉ cách mặt trời có vài phân. Isra sống tại một trong những ngọn đồi dốc nhất ở Palestine, trên một mảnh đất mà Yacob thường khoe là ông mua vì nó có tầm nhìn đẹp và điều đó khiến cho ông thấy mình thật là oai, cứ như là một ông vua vậy. Isra cứ lặng lẽ nghe ông phán đủ điều. Cô không bao giờ dám nói với Yacob rằng, nhà họ thực ra chẳng có gì oai cả. Sự thật là, gia đình Yacob đã bị sơ tán khỏi căn nhà ven biển ở Lydd khi ông mới mười tuổi, trong thời gian Israel chiếm đóng Palestine. Đây là lý do tại sao họ sống ở ngoại ô Birzeit, trên một ngọn đồi dốc nhìn ra hai bãi tha ma - bên trái là nghĩa địa của người Kitô giáo còn bên phải là nghĩa địa của người theo đạo Hồi. Nó là một miếng đất mà không ai muốn ở và cũng là miếng đất duy nhất mà họ có thể chi trả được. Dù sao chăng nữa, Isra vẫn thích nhìn quang cảnh từ đỉnh đồi ở Birzeit. Nhìn qua hai khu nghĩa địa, cô có thể thấy ngôi trường nữ sinh của mình, một tòa nhà bốn tầng chằng chịt những dây nho và chéo sang một chút, cách một cánh đồng cây hạnh nhân, là ngôi đền mosque* mái vòm màu xanh mà ông Yacob và ba người anh em của ông hay cầu nguyện, trong khi cô và mẹ cầu nguyện ở nhà. Nhìn ra ngoài cửa sổ, Isra cảm thấy vừa khát khao, lại vừa sợ. Vượt ra ngoài rìa làng cô liệu có những gì? Cô vừa muốn đi ra ngoài kia và khám phá thế giới, vừa muốn sống trong sự yên ổn và an toàn, bao bọc bởi những thứ mà cô đã biết. Và câu nói của mẹ lại vang lên trong tâm trí cô: Chỗ của người phụ nữ là ở nhà! Ngay cả khi Isra muốn bỏ đi, cô cũng không biết đi đâu. “Đi pha một ấm chai* đi!” - Yacob nói khi ông bước vào bếp và Isra đưa cho ông cốc nước. Ông nói: “Nhớ bỏ vài lá bạc hà vào nữa.” Isra không cần ông phải nhắc, cô đã thuộc lòng những tục lệ này. Cô đã xem mẹ cô phục vụ và tiếp đãi khách từ khi cô bắt đầu có thể nhớ. Mẹ luôn để một hộp sô-cô-la Mackintosh ở trên bàn cà phê trong phòng khách khi nhà có khách và bà luôn mời họ hạt dưa rang trước khi dọn ra bánh baklava*. Ngay cả đồ uống cũng phải mang ra theo thứ tự: Đầu tiên là trà chai bạc hà và cuối cùng là cà phê kiểu Thổ Nhĩ Kỳ. Mẹ bảo, đảo lộn trật tự là một sự xúc phạm. Isra đã từng được nghe một người phụ nữ kể chuyện về lần bà ấy được nhà hàng xóm tiếp bằng một tách cà phê Thổ Nhĩ Kỳ: “Tôi bước ra ngoài cửa ngay lập tức...” - Người phụ nữ kể lại: “Như thế có khác nào họ đuổi tôi đâu.” Isra vừa với lấy bộ tách sứ màu đỏ vàng, vừa để ý tiếng mẹ ngoài phòng khách. Cô có thể nghe thấy tiếng Yacob đang bật cười và sau đó là tiếng cười của những người đàn ông khác. Isra tự hỏi điều gì khiến họ cười. Vài tháng sau đó, vào tuần ngay trước khi Isra sang tuổi mười bảy, lúc Isra đi học về, cô thấy Yacob ngồi trong phòng khách với chàng trai trẻ và cha mẹ của anh ta. Mỗi lần nhớ lại ngày hôm đấy, ngày mà cô được cầu hôn lần đầu tiên, điều mà cô nhớ nhất là lúc Yacob mắng chửi mẹ cô thậm tệ sau khi khách về. Ông tức giận vì bà không mời khách chai bằng bộ tách chén cổ mà họ dành riêng cho những dịp đặc biệt. “Bây giờ thì người ta biết là nhà mình nghèo!” - Yacob hét lên, lòng bàn tay ông quặp chặt lại. Mẹ không nói gì cả, lẳng lặng lủi vào bếp. Cái nghèo chính là lý do tại sao Yacob lại sốt sắng trong việc gả cưới Isra. Mấy đứa con trai giúp ông cày cấy ruộng đồng, kiếm đồng ra đồng vào. Một ngày nào đó, chúng nó sẽ nối dõi dòng họ của gia đình. Con gái chỉ như một người khách vãng lai, lặng lẽ chờ đợi một người đàn ông đến và rước đi, cùng với tất cả những gánh nặng tài chính mà cô đặt lên vai cả gia đình. Từ dạo đấy đã có hai người đàn ông cầu hôn Isra - một anh thợ bánh mì ở Ramalah và một anh lái taxi ở Nablus - nhưng Yacob từ chối cả hai. Ông không thể ngừng nói về một gia đình từ Mỹ đến thăm để tìm con dâu và bây giờ thì Isra hiểu tại sao ông lại từ chối hai người kia: Ông đang mong đợi một lời cầu hôn khác. Isra không chắc mình cảm thấy thế nào về việc di cư sang Mỹ, một nơi mà cô chỉ biết qua những bản tin, hay đọc qua trong thư viện ở trường. Từ những gì cô tìm hiểu, văn hóa phương Tây có vẻ không hà khắc như văn hóa của cô. Điều này khiến cô vừa phấn khích vừa sợ hãi. Cuộc đời cô sẽ thế nào nếu cô chuyển đến Mỹ? Một cô gái cổ hủ như cô sẽ thích nghi như thế nào ở một nơi cấp tiến như Mỹ? Cô thường thức cả đêm suy nghĩ về tương lai của mình, nóng lòng không biết cuộc đời mình sẽ ra sao khi cô bước ra khỏi nhà Yacob. Liệu sẽ có một người đàn ông yêu cô? Cô sẽ có bao nhiêu đứa con? Cô sẽ đặt tên cho chúng là gì? Có những đêm, Isra mơ rằng cô sẽ cưới được người đàn ông mà mình yêu và họ sẽ sống trong một căn nhà nhỏ trên đỉnh đồi, với cửa sổ rộng mở và mái nghiêng màu đỏ. Những đêm khác, cô lại mơ thấy khuôn mặt của những đứa con mình, hai trai hai gái. Chúng ngước lên nhìn cô và chồng cô, nom như một gia đình hạnh phúc mà cô vẫn thường đọc trong sách. Nhưng rồi những hy vọng ấy chẳng đến với cô nữa. Cô chưa bao giờ tưởng tượng ra cuộc sống ở Mỹ. Cô không biết từ đâu để bắt đầu nữa. Và nhận ra điều này khiến cô sợ hãi. Cô ước mình có thể mở miệng để nói với cha mẹ mình rằng: Không! Đây không phải là cuộc sống mà con mong muốn. Nhưng Isra đã học được từ nhỏ rằng, biết vâng lời là cách duy nhất để thể hiện sự yêu thương. Vì thế mà cô chỉ dám thách thức một cách vụng trộm, phần lớn là với những cuốn sách. Mỗi buổi tối khi đi học về, sau khi đã ngâm gạo và đi phơi quần áo cho những người anh trai của mình, dọn bữa tối ra sufra* và đi rửa bát, Isra sẽ lặng lẽ rút về phòng và đọc cạnh khung cửa sổ mở tung, dưới ánh trăng mờ mờ soi sáng từng trang sách. Đọc sách là một trong rất nhiều điều mà mẹ cấm cô làm nhưng cô không bao giờ nghe lời. Cô nhớ có lần đã nói với mẹ rằng, cô không thể tìm được quả dâu tằm nào trên cây nhưng thực ra cô dành cả buổi chiều đọc sách trong khu mộ. Tối đấy, Yacob đã đánh cô hai lần, như một hình phạt cho sự coi thường luật lệ. Ông gọi cô là sharmouta*, đồ con đĩ. Ông nói ông sẽ cho cô thấy chuyện gì xảy ra nếu bọn con gái không biết vâng lời, rồi ông xô cô vào tường và cầm thắt lưng đánh cô. Căn phòng bỗng trở nên trắng bệch. Mọi thứ trông nhợt nhạt. Cô nhắm mắt lại cho đến khi cơ thể tê lại, cho đến khi cô không thể di chuyển nổi nữa. Nhưng nghĩ lại giây phút đó, khi nỗi sợ dâng lên, cô còn cảm thấy một điều gì nữa từ sâu bên trong. Một sự can đảm lạ lùng. Isra sắp xếp những cái chén bốc hơi lên khay và bước vào phòng khách. Mẹ nói có một mẹo để giữ thăng bằng, đó là đừng bao giờ nhìn vào hơi nước bốc lên nên thay vào đó, cô nhìn xuống đất. Trong phút chốc, Isra ngừng lại. Từ khóe mắt, cô có thể nhìn thấy những người đàn ông và đàn bà ngồi đối diện nhau ở trong phòng. Cô hé lên nhìn trộm mẹ, bà ngồi thu mình như thường lệ: Đầu bà cúi xuống và mắt bà dán vào tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ màu đỏ trước mặt. Isra liếc nhìn họa tiết trên thảm. Nào là xoắn ốc, nào là xoáy, cả hai thứ cuộn tròn chung một kiểu, cái này nối đuôi cái kia. Cô quay mặt đi. Cô nóng lòng muốn lén nhìn chàng trai trẻ nhưng cô cảm giác Yacob đang theo dõi mình và cô có thể nghe thấy tiếng ông vang lên bên tai: Một người con gái đúng mực không bao giờ nhìn chằm chằm vào một người đàn ông nào cả! Mắt Isra dán xuống đất nhưng cô vẫn cho phép mình liếc sang phía bên kia sàn. Cô để ý đôi tất của anh chàng, xám sọc hồng với những đường khâu trắng ở phía trên. Nó khác với những gì cô thường thấy trên đường phố Birzeit. Cô cảm thấy như có gì đang châm chích da mình. Làn hơi nước bốc lên từ khay chén bao phủ khuôn mặt Isra. Cô nhanh chóng đảo quanh phòng cho đến khi cô đã mời nước tất cả những người đàn ông. Tiếp đến, cô mời nước người mẹ của chàng trai. Isra để ý hình như cái khăn hijab màu xanh dương đậm của bà ấy bị rơi ra, để lộ mái tóc nhuộm henna* của bà. Isra chưa bao giờ thấy một người phụ nữ Hồi giáo nào đội hijab kiểu này ngoài đời cả. May ra chỉ có ở trên tivi, trong những bộ phim Ai Cập đen trắng mà Isra và mẹ hay xem cùng nhau, hay những video ca nhạc từ Lebanon*, với những người phụ nữ ăn mặc khêu gợi nhảy múa, hay phần minh họa trong cuốn sách yêu thích của Isra, Nghìn lẻ một đêm, tuyển tập truyện cổ tích Trung Đông ở thời Trung Cổ. Nhưng chưa bao giờ cô thấy thế này ở Birzeit. Khi Isra cúi người, cô có thể thấy mẹ chàng trai đang quan sát mình. Bà có dáng người đầy đặn, lưng khom, cười hơi méo. Đôi mắt hình hạt hạnh nhân của bà nheo lại ở phía đuôi. Từ vẻ mặt bà, Isra đoán chắc bà không hài lòng với ngoại hình của cô lắm. Dù gì thì mẹ cũng hay nói rằng cô là một cô gái mờ nhạt - khuôn mặt đù đờ như bột mì và mắt thì đen như than chì. Điểm nổi bật nhất của Isra có lẽ là mái tóc, đen và dài như dòng sông Nile. Tiếc là không ai có thể thấy điều đó dưới lớp khăn hijab cô đội trên đầu. Mà kể cả có đi chăng nữa cũng chẳng làm nên điều gì khác biệt, Isra nghĩ. Cô là một cô gái tầm thường. Suy nghĩ ấy khiến cô nhói đau. Đứng trước mặt mẹ chàng trai, cô thấy môi mình đang run lên. Cô bước về gần phía bà, tay cô giữ chặt cái khay. Cô có thể cảm thấy Yacob đang lườm cô, cô có thể nghe thấy cả tiếng ông hắng giọng. Hình như, cô thấy cả mẹ ấn ngón tay vào đùi cô. Nhưng Isra vẫn ngả về phía người phụ nữ, cái chén sứ trong tay cô rung lên và cô hỏi: “Bác có muốn dùng cà phê Thổ Nhĩ Kỳ không ạ?” Nhưng câu hỏi của cô chẳng có hiệu quả gì. Những vị khách từ Mỹ chả buồn để ý rằng cô mời họ cà phê trước. Sau đó, gia đình nhà trai đã đưa ra lời cầu hôn và Yacob đồng ý ngay lập tức, khuôn miệng ông nở rộng, đó là nụ cười tươi nhất của Yacob mà Isra chưa từng thấy từ trước tới nay.   Mời các bạn đón đọc Những Người Đàn Bà của tác giả Etaf Rum & Nguyễn Minh Anh (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Hoa Hồng Sa Mạc
Có điều gì gắn kết một tay cướp biển đã chết cách đây 600 năm, một người Argentina quyết cứu rừng vùng Patagonia, một thầy giáo lưu vong vẫn mơ về ngôi trường của mình và thức giấc với bụi phấn trên ngón tay, một người vùng Bengal yêu những con tàu và trên đường đưa chúng tới nghĩa trang tàu thì kể chuyện cho chúng nghe? Từ khắp mọi ngóc ngách, những số phận nhỏ bé ấy được xâu chuỗi dưới ngòi bút của Luis Sepúlveda trong một hành trình đặc biệt: hành trình chống lại sự vô danh, chống lại quên lãng. Bằng ngôn ngữ đầy chất thơ như tiếng sóng dồi của biển cả hay ngọt ngào như thịt một loại quả nhiệt đới, bằng ngòi bút đầy nhân văn, Sepúlveda kể lại câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai biết tới nhưng lại trở thành những anh hùng theo cách của họ, như chính những bông hồng nở giữa sa mạc Atacama.  *** #Review HOA HỒNG SA MẠC | LUIS SEPULVEDA Cùng là một bông hoa nhưng người thì thấy đẹp, kẻ lại chê kém sắc. Cùng là một tác phẩm nhưng người thì say mê, kẻ lại bảo khó đọc. Với Hoa hồng sa mạc của nhà văn Luis Sepulveda cũng thế. Nhưng rõ ràng một tác phẩm nhận được nhiều luồng ý kiến đánh giá khác nhau thì tác phẩm đó mới có giá trị cao. Luis Sepulveda được nhiều đọc giả yêu quý với những tác phẩm giàu tính nhân văn như Chuyện con mèo dạy hải âu bay, Chuyện con ốc sên muốn biết tại sao nó chậm chạp… Nhưng theo đánh giá chủ quan, tôi thích thú nhất là cuốn Hoa hồng sa mạc. Bởi ở đó, tôi bắt gặp sắc màu của nhân văn, làn gió của ngôn từ, và đặc biệt là sự phong phú của tri thức. Có đọc giả bảo khó đọc, khó tiếp cận nhưng theo tôi, nếu dấn thân hết mình vào tác phẩm, nếu chậm rãi lần hồi theo mạch truyện, bạn sẽ cảm nhận rõ những nét đẹp sắc cạnh của viên kim cương Hoa hồng sa mạc này. Tác giả đã khéo léo phết thêm sự long lanh, óng ánh cho những con chữ giàu sức gợi “Sự kháng cự yếu ớt của ánh sáng ban ngày êm ái buông lơi trước vòng xâm chiếm của bóng tối”, “Màn đêm đang ép mọng nước trái cây, đánh thức đam mê ở côn trùng, làm dịu nỗi bất an của chim chóc, làm mát da lũ bò sát, truyền lệnh nhảy múa cho đám đom đóm”… Đến với tác phẩm, đầu tiên, ta sẽ mãn nhãn với ngôn từ, cách liên tưởng, ví von đầy mê hoặc, gợi cảm vô cùng. Đó là thứ gió thuận làm cánh buồm căng phồng, rướn thân trắng giong ra biển chữ phía trước. Nơi biển chữ ấy, ta mê mẩn với vẻ đẹp của thiên nhiên, núi, rừng bao la, trầm trồ trước sự kì vĩ, đa dạng sinh học chưa kịp bị con người tàn phá với bàn tay nhơ nhuốc tội lỗi và tính hám lợi. Phép tả thực cùng sự thích thú, tình yêu thiên nhiên đã quyện hòa tạo nên những bức tranh tuyệt bích. Tôi say sưa trong từng đoạn văn như thế này “Trên những thân cây nổi lập lờ mặt nước, lũ rùa mời gọi nhàn tản ngắm nhìn hai mươi nghìn loài bướm của rừng Manu, bởi nơi đây là mảnh đất của sắc màu, và không chỉ có loài bướm làm minh chứng mà còn có theobroma, một loại phong lan đỏ tươi, phát lân quang lúc hoàng hôn… hoặc như môi nàng hôn phu, một loại phong lan khác màu xanh biển toả hương vani. Ta còn thấy hương sắc trong từng Manu khơi gợi vị giác như hương sắc của trái tabernamontana mời gọi khách khát nước uống múi nước mọng màu cam và thơm mát của mình”. Cảm nhận tinh tế, nội dung giàu ý nghĩa, cách viết đầy nghệ thuật đã tạo nên những câu văn mềm mại như dải lụa vắt ngang mặt song như thế. Đặc biệt, tác giả còn cung cấp cho người đọc một kiến thức mang tính thời sự khi đề cập đến một hiện tượng có thật đầy thú vị: Sa mạc Atacama ở Chile, một trong những sa mạc khô cằn nhất trên thế giới, đã phủ hồng sắc hoa sau khi đắm mình trong những cơn mưa. Sa mạc cũng trở nên đầy sức sống với vẻ đẹp của thiên nhiên. Nơi nào thiên nhiên mơn mởn, căng tràn thì nơi ấy nhịp sống lại cựa quậy mạnh mẽ biết bao. Song song đó là nỗi đau xót, là cái trừng mắt lên án của nhà văn trước những hành động huỷ hoại thiên nhiên như tên quý tộc lập dị Fitzcarraldo dấn thân vào rừng sâu để tàn phá cây cối, rồi sự kiện xây dựng nhà máy thuỷ điện ở Laponia lấy đi bao diện tích rừng, nạn huỷ diệt tài nguyên rừng của vùng Patagonia thuộc Chile dưới tay những công ty gỗ Nhật Bản… Những sự kiện được dẫn ra khiến ai cũng phẫn nộ. Đặc biệt trong giai đoạn môi trường đang kêu cứu thảm thiết như hiện nay thì cuốn sách càng có ý nghĩa hơn nữa. Nó là một đóm lửa góp vào ngọn lửa đấu tranh chống lại sự huỷ hoại môi trường. Nó là tiếng gọi khẩn thiệt hãy giang tay cứu lấy thiên nhiên. Đan xen điều đó còn có những câu chuyện của những người bạn, những con người chẳng ai để ý đến được vinh dự đặt chân lên những trang viết của Luis. Ông kể chậm rãi, nhịp điệu nhẹ nhàng, trong mỗi câu chuyện được kể, ta như được đặt chân đến những miền đất xa xôi khác nhau. Mỗi người trong tác phẩm của ông đều có một câu chuyện riêng làm ông lay động. Ông xâu chuỗi lại để những số phận nhỏ bé ấy không bị lãng quên. Biết đâu họ còn là điển hình cho những phận người trong cuộc sống này? Tính nhân văn cứ như thế tự nhiên lấp lánh như ánh sáng đàn đom đóm đêm, lung linh, huyền ảo và đẹp vô cùng. Đặc biệt, cuốn sách tuy mỏng nhưng giá trị lại lớn bởi những kiến thức nhà văn đem lại. Những tên người, những địa danh, những khuynh hướng chính trị… mà ông dẫn ra đã đủ khẳng định vốn tri thức phong phú và sự mày mò, tìm hiểu của một danh nhân. Bìa sách xanh mát thật sự phù hợp với chủ đề thiên nhiên xanh và con người mãi xanh mà Luis Sepulveda chuyển tải đến người đọc. - TRẦN THỊ THÚY DIỄM - sachnhanam.com -   *** Luis Sepúlveda sinh ngày 4/10/1949 tại Ovalee, Limari, Chile. Ông là một nhà văn, đạo diện, nhà báo và nhà hoạt động chính trị. Sau khi học Trung học ở Santiago, ông học ngành sản xuất phim tại Đại học quốc gia Chile. Ông hoạt động chính trị cùng đoàn thanh niên cộng sản từ năm 1961. Tác phẩm tiêu biểu: Lão Già Mê Đọc Truyện Tình - Luis Sepúlveda Chuyện Con mèo dạy Hải âu bay - Luis Sepúlveda Chuyện Con Ốc Sên Muốn Biết Tại Sao Nó Chậm Chạp - Luis Sepúlveda Chuyện Con Chó Tên Là Trung Thành Chuyện Con Mèo Và Con Chuột Bạn Thân Của Nó Kết thúc thế giới  Bóng tối của quá khứ chúng ta Hoa Hồng Sa Mạc ... Giải thưởng: Ông già mê đọc chuyện tình – giải thưởng Premio Tigre Juan, một giải thưởng văn học cho các vấn đề sinh thái.  Giải Premio France Culture Etrangêre (1992), Premio Terra (1997), Premio de la Crítica en Chile (2001). Kết thúc thế giới: giải Premio Juan Chabás Chuyện con mèo dạy hải âu bay: giải Bernard Award Versele label (1998), 3rd Prize Salicornia Animals Book Festival for Youth (1998), Price Gabler Youth Book Fair 1997 in Concarneau Năm 2009: giải thưởng Premio Primavera de Novela cho tiểu thuyết La sombra de lo que fuimos (Bóng tối của quá khứ chúng ta) Mời bạn đón đọc Hoa Hồng Sa Mạc của tác giả Luis Sepúlveda.
Bay Quanh Mặt Trăng - Jules Verne
Bạch Lan dịch Tựa khác: Lên Cung Trăng (Trúc Đỳnh dịch) Tiếp theo cuốn Từ Trái Đất lên Mặt Trăng, Barbicane, Ardan và Nicholl quyết định làm một chuyến bay quanh Mặt Trăng. Nhưng trước tiên họ phải đến được Mặt Trăng đã. Liệu chuyến đi của họ có thành công hay không? Họ có đến được Mặt Trăng không, có quay trở về được không, thu hoạch được gì từ Mặt Trăng? Bản dịch từ nguyên bản tiếng Pháp của Nguyễn Thành Thống, với sự hiệu đính của Cung Giũ Nguyên. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. - Ông là nhà văn Pháp nổi tiếng, được coi là người khai sinh ra thể loại văn học Khoa học viễn tưởng. - Tác phẩm của ông được dịch nhiều thứ ba trên thế giới và được chuyển thể thành phim nhiều lần. - Danh tiếng ấy chắc hẳn đã là đẹp đẽ lắm rồi. Tuy nhiên ông còn xứng đáng được nhiều hơn thế. Và thật không công bằng khi chúng ta kể lại lịch sử văn học của thời đại này mà không đặt tiểu thuyết gia có lẽ là có tính sáng tạo bậc nhất vào một vị thế đúng đắn. - Ông đã dùng phòng thí nghiệm và kính viễn vọng để viết tiểu thuyết phiêu lưu. Ông không chỉ ghi lại quá trình các nhà bác học tạo nên những phát minh lớn, mà còn tiên đoán chúng. Đọc những tác phẩm cùa ông, ta có thể nhận thấy những mâu thuẫn vì trong số những ý tưởng khoa học còn có những kiến phát chưa thể xác minh. Và bỗng dưng năm sau, hoặc vài năm sau, những giả thuyết mà ông đặt ra mà đôi khi thậm chí ông còn không tin, đã trở thành sự thật, một cách hoàn toàn chính xác. Những nhà bác học đã hoàn toàn đồng tình với ý tưởng của ông, hay nói cách khác, ông đã đi trước họ!.. - Trước đây, người ta vẫn đặt câu hỏi liệu khoa học thực sự có đi ngược hướng với trí tưởng tượng văn chương hay không. Các nhà triết học thì đồng tình, lules Verne chứng minh điều ngược lại qua hành động. Ông dùng chất liệu khoa học để xây dựng nên những câu chuyện hấp dẫn, những cuộc phiêu lưu lôi cuốn. Mời các bạn đón đọc Bí Mật Đảo Lincoln của tác giả Jules Verne. Mời các bạn đón đọc Bay Quanh Mặt Trăng của tác giả Jules Verne.
Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa - Đới Tư Kiệt
Tại vùng núi "Thiên Phụng" hoang vu, có hai trí thức trẻ được đưa về cải tạo trong cuộc đại cách mạng văn hóa. Giữa những người dân lần đầu nhìn thấy vĩ cầm hay một chiếc đồng hồ có con gà trống sặc sỡ, họ tìm thấy một người bạn-người tình xinh đẹp: cô thợ may Trung Hoa, giữa những tháng ngày tăm tối và vô vọng, họ tình cờ có được những tác phẩm nổi tiếng của văn học phương tây. Vậy là đủ cho những cuộc phiêu lưu! Mặc kệ những ngày lao động cực nhọc, mặc kệ những thành kiến, mặc kệ những âu lo về tương lai mờ mịt... họ đắm mình trong cảm giác yêu đương hoang dại mới mẻ, đắm mình trong những tác phẩm cổ điển của Balzac, Duyma. Có thể nói, văn chương đã cứu vớt, an ủi, xoa dịu tâm hồn hai chàng trai trẻ, đưa họ tới gần hơn cô bé thợ may xinh đẹp, nhưng cũng chính văn chương đã đưa cô rời xa họ, bởi những tác phẩm của Balzac đã làm cô hiểu ra "sắc đẹp của người đàn bà là một kho tàng vô giá". Sức hấp dẫn của Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa đến từ những trang viết sinh động, hài hước và cay đắng về hiện thực cải tạo của cả một thế hệ thanh niên Trung Hoa trong cuộc đại Cách mạng văn hóa, từ văn phong đẹp, từ những chi tiết đặc sắc giàu tính điện ảnh của nhà văn-đạo diễn Đới Tư Kiệt, và đặc biệt, từ cái kết bất ngờ làm người đọc phải ồ lên ngỡ ngàng vì tác động nhiều chiều của văn chương. Tất cả đã đem lại cho Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa nét riêng bên những tác phẩm cùng viết về thân phận con người trong một giai đoạn lịch sử Trung Quốc đầy biến động.  Nhận định về tác phẩm:   "Có rất ít cuốn sách làm tôi xúc động như cuốn này. Tôi đánh giá nó rất cao. Bản thân tôi cũng bí mật làm quen với văn hóa phương Tây nhờ văn học trong Cách mạng Văn hóa khi tôi lần đầu tiên được đọc bản chép tay bản dịch tiếng Trung cuốn Jane Eyre của Bronte. Đới Tư Kiệt đã trình bày kinh nghiệm này một cách tuyệt vời. Bất cứ ai muốn hiểu văn học nghệ thuật phương Tây ảnh hưởng thế nào đến Trung Quốc đều nên đọc sách này " - Anchee Min - nhà văn, tác giả Đỗ quyên đỏ, Làm vợ Mao "Một câu chuyện như thôi miên, cổ điển và hiện đại, một chủ nghĩa hiện thực vừa ngụ ngôn vừa bạo dạn, đầy chi tiết quý giá, lay động sâu xa đến trí tưởng tượng và trái tim tôi" - Amy Tan-nhà văn, tác giả Phúc Lạc Hội, Con gái thầy lang "Một câu chuyện đơn giản, với lối kể quyến rũ...Điều khiến truyện nổi bật chính là cách nó đề cập và khơi dậy vẻ đẹp của những trải nghiệm nhân tính vượt khỏi khung cảnh một vùng đồi núi ở miền tây Trung Quốc" - Justin Hill, Times Literary Supplement "...Một tiểu thuyết vui vẻ, cảm động, tinh quái và trên hết là làm ta say mê...Dù thấm đẫm sự dí dỏm và hài hước, "Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa" vẫn là một khúc lãng mạn, một  tiểu thuyết về sức mạnh của nghệ thuật trong việc mở rộng cánh cửa của trí tưởng tượng, dù hoàn cảnh có thế nào đi nữa... " - Micheal Dirda - The Washington Post Book World *** Nếu bạn từng đọc “Rừng Na Uy” hoặc xem bộ phim cùng tên thì tác phẩm của Đới Tư Kiệt sẽ làm bạn cảm thấy có nhiều nét tương đồng hoặc ngược lại. Đọc “Rừng Na Uy” ta gặp nhiều “người quen” trong “Balzac và cô bé thợ may Trung Hoa”.   Thứ nhất là mật độ của sex khá dày, thứ hai là không khí chán chường bế tắc của thanh niên. Bởi Đới Tư Kiệt chọn bối cảnh Trung Quốc thời kì cách mạng văn hóa để đưa vào câu chuyện của mình. Câu chuyện hồi tưởng của nhân vật xưng tôi về khoảng thời gian khi chưa tới tuổi 20,  và một người khác tên Lạc, được đưa đến để "tự cải tạo" năm 1971. Ở đó, cô bé thợ may hiện ra trước họ tựa "nàng công chúa của núi Thiên Phụng đi đôi giày màu hồng nhạt bằng vải mềm". Cô tự học viết, học đọc từ người cha thợ may của mình và viết bức thư đầu tiên gửi Lạc.   Và Lạc - mang cơn sốt rét, cùng "căn bệnh ma quỷ" từ hầm mỏ tìm đến nhà cô. Cô chạy ra suối hái một loại thảo dược có bông từa tựa cánh hoa đào để chữa bệnh cho anh. Đêm đến, những sơn dân tận cùng miền sơn cước Trung Hoa lẳng lặng đến nhà cô thợ may để nghe Lạc kể chuyện.   Anh kể rất hay. Đến nỗi khi kết thúc truyện Cô hàng hoa bé nhỏ, tất cả đều thút thít, khóc vì xúc động, gió núi dường cũng xao xuyến, thổi tắt ngọn đèn duy nhất, để trong bóng tối, cô bé thợ may cúi xuống trao cho Lạc một nụ hôn. Về sau, hai người đã thành thân và âu yếm nhau như vợ chồng, dưới cây bạch quả to lớn, đẹp lộng lẫy, trồng ở cuối thung lũng phía đông ngôi làng của cô bé, nơi mà Lạc gọi là: Thung lũng Tình yêu. Nơi ấy, họ lén đọc những dòng nên thơ trong tiểu thuyết Balzac chép trên mặt áo da cừu và trải những ngày thắm thiết, bay bổng khỏi vòng cấm kỵ... Ở một thời kì bị cấm đoán ngặt nghèo, thanh niên thành phố bị đưa về vùng quê để cải tạo vụng trộm từ việc đọc những tác phẩm của Balzac cho tới ngắm trộm người đẹp ở bên sông. Nếu đọc một lần, bạn sẽ hơi bực mình và nghĩ sex trong truyện là thứ đưa vào để câu khách rẻ tiền. Nhưng ngẫm hơn một chút, ta nhận ra đó sự tàn nhẫn. Tàn nhẫn khi đưa những thanh niên chưa trưởng thành về vùng quê khi họ còn mờ tịt các vấn đề giới tính, mọi hành động chỉ ở dạng bản năng từ việc thủ dâm cho tới làm tình với một cô gái còn ở tuổi vị thành niên.   Đới Tư Kiệt đã chọn vẻ đẹp thuần khiết của diễn viên Châu Tấn cho vai cô bé thợ may. "Cô bé thợ may có đôi mắt đẹp nhất huyện Vĩnh Cảnh sống trong một thôn nghèo heo hút, cheo leo, trên đỉnh Thiên Phụng".   Trần Khôn được chọn vào vai Lạc trong bộ phim được chuyển thể từ tác phẩm ăn khách của ông. Nhưng Trần Khôn lại phong trần hơn so với vai diễn của thanh niên tuổi ngoài 20 với đầy sự tò mò về cuộc sống xung quanh, sự bất mãn khi bị kìm kẹp bởi luật lệ cứng nhắc. Bằng giọng kể trần thuật ngắn gọn, xúc tích, Đới Tư Kiệt mang tới cho người đọc một câu truyện mang tính nhân văn sâu sắc gói gọn trong cuốn sách mỏng.   Những hình ảnh được miêu tả sống động từ vẻ đẹp cơ thể của những thanh niên mới lớn cho tới thiên nhiên của vùng quê thanh bình nhưng đầy rẫy sự biến động bên trong. Ngôn ngữ đa nghĩa của Trung Quốc được truyền tải hoản hảo bằng tiếng Pháp, thứ ngôn ngữ mang nhiều sự châm biếm, tinh thâm của phương Tây.   Một cuốn sách thực sự có chiều sâu giữa rất nhiều tác phẩm mì ăn liền do văn học mạng Trung Quốc tạo ra. *** Đới Tư Kiệt sinh năm 1954 tại Trung Hoa. Từ 1971 tới 1974 ông bị đi học tập cải tạo như mọi thanh niên khác trong thời Cách mạng Văn hoá. Ông rời Trung Hoa sang Pháp năm 1984 và sống ở đó cho tới nay. Balzac et la Petite Tailleuse chinoise là tiểu thuyết đầu tay của ông, do Gallimard xuất bản năm 2000 tại Pháp, và trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong năm với 5 giải thưởng, và đã được quay thành phim do chính ông đạo diễn. Bản tiếng Việt Balzac và Cô Bé Thợ May Trung Hoa sau đây dịch theo bản tiếng Anh, Balzac and the Little Chinese Seamstress, của Ina Rilke, Alfred A. Knopf xuất bản năm 2001 tại New York.   Mời các bạn đón đọc Balzac Và Cô Bé Thợ May Trung Hoa của tác giả Đới Tư Kiệt
Vịnh Pha Lê - Lisa Kleypas
Một cô gái mang lời nguyền không bao giờ tìm thấy tình yêu… Một chàng trai không có linh hồn, khao khát cô nhiều hơn cả cuộc sống… Họ gặp nhau trên một hòn đảo nhỏ phía Tây bắc Thái Bình Dương, nơi những điều kỳ diệu bàng bạc trong không gian, và định mệnh là một quyền năng quá mạnh mẽ để thách thức… Khi Justine Hofmann được sinh ra, mẹ cô đã thả một lời nguyền để bảo vệ cô tránh khỏi những thương tổn của tình yêu, và như mong đợi, cô không có khả năng rơi vào tình yêu. Cuối cùng, tính hiếu kỳ không thể nén được của Justine – và ao ước của cô về một cuộc sống bình thường – đã tạo nên điều tốt hơn cho cô, và cô đã tìm ra cách tạm thời vô hiệu bùa chú. Tuy vậy, khi Justine gặp Jason Black thần bí, cô đột ngột phóng thích một cơn bão khao khát và nguy hiểm đến mức đe doạ mọi thứ cô yêu quý… ... và cùng nhau, Justine và Jason khám phá ra rằng tình yêu là một phép thuật có sức mạnh vượt trên tất cả mọi thứ… Friday Harbor là loạt truyện về những điều kỳ diệu, những câu chuyện tình dễ thương, khiến lòng ta ấm áp. Sau khi đọc truyện, ta bỗng thấy tin tưởng hơn vào số mệnh, vào con người, vào những bí ẩn của Tạo Hóa và vào một tình yêu tiền định đẹp đẽ sẽ chờ đợi ta nếu ta biết kiên nhẫn. Friday Harbor gồm có: Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê ... *** Lisa Kleypas sinh năm 1964, là một trong những tác giả Mỹ nổi tiếng nhất của dòng tiểu thuyết lãng mạn lịch sử và đương đại. Năm 1985, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Wellesley với tấm bằng cử nhân khoa học chính trị, Lisa xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô đăng quang danh hiệu Hoa hậu bang Massachusetts và tham gia cuộc thi Hoa hậu Mỹ. Các tác phẩm của cô đã được dịch sang 14 thứ tiếng, nằm trong danh sách bán chạy trên toàn thế giới và đem lại cho cô rất nhiều giải thưởng. Hiện cô đang sống ở Washington cùng chồng và hai con. Tác phẩm: Người Tình Hoạt Ngôn Chuyện Xảy Ra Giữa Mùa Thu Bí mật đêm hè Ngoài Vòng Tay Anh Là Bão Tố Người Tình Của Tiểu Thư Sophia Đêm Trước Giáng Sinh Ở Thị Trấn Friday Harbor Ngôi Nhà Cuối Phố Rainshadow Hồ Mộng Vịnh Pha Lê Devil in Winter A Wallflower Christmas Scandal in Spring Again The Magic Smooth-talking Stranger Bỗng Gặp Được Anh Giá Nào Cũng Yêu Giá Nào Cũng Yêu ... *** Bất cứ khi nào Justine cố hình dung một cảnh sum họp với mẹ cô, cô đã cho rằng điều đó sẽ xảy ra trong sự nhân bội của những lời quở trách… Một e-mail, một bức thư, một cuộc điện thoại, một cuộc ghé thăm vội. Cô nên hiểu rõ hơn thế. Marigold luôn là một sinh vật bốc đồng, đuổi theo mọi ý thích bất chợt và làm bất cứ thứ gì để né tránh hậu quả. Xuất hiện tại cửa trước là một lợi thế của Marigold; sự ngạc nhiên sẽ đẩy Justine khỏi thế cân bằng. Justine đã luôn hy vọng rằng, ngày nào đó, cô và mẹ sẽ đạt được sự thấu hiểu mới và chấp nhận lẫn nhau. Một giải pháp nào đó không dính líu đến chiến thắng và mất mát, mà thay vào đó là… hoà bình. Nhưng sau bốn năm trời ghẻ lạnh nhau, đôi mắt mẹ cô vẫn cay nghiệt với cùng cơn giận dữ đã làm nền móng cho mọi khoảnh khắc của tuổi thơ ấu của Justine. Không một dấu vết có thể nhìn thấy nào của sự dịu xuống. “Mom, mẹ đang làm gì ở đây vậy?” Mở rộng cửa, cô bước lui lại để cho phép Marigold vào bên trong. Marigold chỉ liều lĩnh vượt qua ngưỡng cửa và nhìn quanh. Đã có lúc Justine lo lắng về phản ứng của mẹ cô đối với căn nhà gỗ, quán trọ, cuộc sống mà cô đã xây dựng. Cô đã tuyệt vọng muốn có được đánh giá cao của Marigold, thứ rất hiếm khi trao tặng. Đã đến lúc bộc lộ ra rằng cô không còn cần đến sự phê chuẩn của mẹ cô nữa. Đã quá đủ để biết rằng cô đã có những lựa chọn đúng cho chính bản thân cô. “Có vấn đề gì sao?’ Justine hỏi. “Tại sao mẹ đến đây?” Giọng của Marigold rin rít với sự khinh miệt. “Có quá khó để tin rằng ta có thể muốn gặp con gái của chính mình không?” Justine nghĩ về điều đó. “Có.” Cô nói. “Mẹ không bao giở muốn sự bầu bạn của con, và con vẫn không làm những gì mẹ muốn. Vì thế chẳng có lý do gì để mẹ ghé thăm trừ phi có vấn đề.” “Vấn để, như vẫn luôn thế, chính là mi.” Marigold nói thẳng thừng. Như vẫn luôn thế. Những từ mang quá khứ vào trong phòng với chúng như thể nó là một sự hiện diện sống động. Một gã khổng lồ đứng giữa hai người họ, đang ném ra một bóng đen không thể trốn thoát của sự trách mắng. Không có chút mềm yếu nào trong trái tim của Marigold. Bà đã hoá xương, giống như một bức tượng bằng đá xinh đẹp, cho đến khi bất kỳ sự thay đổi về tư thế nào cũng sẽ gây ra cho bà sự nứt vỡ và sụp đổ. Bà sẽ không bao giờ có thể xoay đầu để nhìn về một hướng mới, hoặc lấy một bước lên phía trước, hoặc ôm con gái bà trong vòng tay. Điều đó hẳn là đáng sợ biết bao, Justine nghĩ với một chút thương cảm, giữ nguyên sự cứng nhắc như thế trong khi cuộc sống thay đổi quanh bạn. “Điều này có dính líu gì đến geas không?” Justine hỏi dịu dàng. “Rosemary và Sage hẳn đã kể với mẹ rồi. Chắc mẹ đang giận dữ ghê lắm.” “Ta đã hy sinh vì mi, và mi ném nó đi. Ta nên cảm thấy thế nào đây, Justine?” ... Mời các bạn đón đọc Vịnh Pha Lê của tác giả Lisa Kleypas.