Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Kẻ Làm Người Chịu

Hồ Biểu Chánh là một nhà văn lớn của Nam Bộ, người có công mở đường cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Người đương thời và nhiều thế hệ về sau đã đón nhận tác phẩm Hồ Biểu Chánh với tất cả sự nồng nhiệt, trân trọng. Lịch sử văn học Việt Nam không thể phủ nhận đóng góp to lớn của Hồ Biểu Chánh. Một trong những yếu tố làm nên sự thành công ấy chính là tác phẩm của ông có được một hình thức ngôn ngữ đầy ấn tượng, thể hiện phong cách ngôn ngữ văn xuôi Nam bộ những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Hồ Biểu Chánh sinh năm 1884 (trong giấy khai sinh ghi ngày 1 tháng 10 năm 1885) tại làng Bình Thành, tỉnh Gò Công (nay thuộc huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang). Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, thuở nhỏ học chữ Nho, sau đó chuyển qua học quốc ngữ, rồi vào trường trung học ở Mỹ Tho và Sài Gòn. Năm 1905, sau khi đậu Thành chung, ông thi vào ngạch ký lục của Soái phủ Nam Kỳ; làm ký lục, thông ngôn, thăng dần đến đốc phủ sứ (1936), từng giữ chức chủ quận (quận trưởng) ở nhiều nơi. Ông vốn có tiếng thanh liêm, yêu dân, thương người nghèo khổ. Tháng 8 năm 1941, sau khi ông về hưu, được Pháp mời làm cố vấn với danh hiệu Nghị viện Hội đồng Liên bang Đông Dương và Phó Đốc lý thành phố Sài Gòn, đồng thời làm giám đốc những tờ báo tuyên truyền cho chủ nghĩa Pháp-Việt. Sau khi tái chiếm Nam Bộ năm 1946, Cộng hòa tự trị Nam Kỳ được thành lập, ông được mời làm cố vấn cho chính phủ Nguyễn Văn Thinh. Nhưng chỉ được mấy tháng, khi chính phủ Nguyễn Văn Thinh sụp đổ, ông lui về quê ở ẩn và giành trọn những năm tháng còn lại cho sự nghiệp văn chương. Ông mất ngày 4 tháng 9 năm 1958 tại Phú Nhuận, Gia Định; thọ 74 tuổi. Lăng mộ ông hiện nay được đặt ở đường Thống Nhất, phường 11 quận Gò Vấp. Tác phẩm: Nợ Đời Bỏ Chồng Bỏ Vợ Dây Oan Đóa Hoa Tàn Đoạn Tình Nặng Gánh Cang Thường Cay Đắng Mùi Đời Con Nhà Giàu ... *** Mấy bữa rày nhựt báo ở Sài Gòn rập nhau mà khen ngợi rạp hát Casino hát tuồng “Les Miserables”[1] hay lắm. Nàng Lý Tố Nga ưa coi hát bộ, chứ ít ham coi hát bóng, nhưng vì nàng ở nhà cứ đọc truyện hoài rồi cũng buồn, mà lại thấy nhựt báo khen quá, nên tối lại nàng rửa mặt, gỡ đầu, thay quần, đổi áo, tính đi coi hát bóng một bữa mà chơi. Nàng bước vô rạp hát thấy có người ta ngồi rải rác các hạng ước chừng năm sáu chục người. Nàng lựa hàng ghế trống rồi phăng phăng đi lại ngồi cái ghế đầu, đặng vãn hát đi ra cho dễ. Nàng Tố Nga mình mặc một cái áo tố đen phía trong lót màu bông hường lợt, dưới bận một cái quần lục trắng chơn mang một đôi giày nhung đen. Tuy tay có đeo một bộ cà rá hột xoàn, tai có đeo một đôi bông hột xoàn, và cổ cũng có đeo một sợi dây chuyền cũng nhận hột xoàn, song sự trang sức của nàng coi cũng tầm thường, chớ không có vẻ chưng diện chi hết. Chẳng hiểu vì cớ nào lúc nàng mới đi vô thì người ta lại chong mắt, day đầu lại mà ngó nàng, rồi chừng nàng kiếm chỗ ngồi yên, người ta lại cũng cứ ngó nàng hoài nữa. Có lẽ nàng thấy người ta ngó thì nàng e lệ, nên nàng lột cái khăn màu hột gà xuống mà bỏ trong lòng, rồi với tay lấy tờ chương trình hát bóng cầm mà coi. Cách chẳng bao lâu có hai người đàn bà đi vô, rồi xăm xăm lại hàng ghế của Tố Nga mà ngồi, người nhỏ chừng mười bảy mười tám tuổi, thì ngồi một bên Tố Nga, còn người lớn, tóc đã bạc hoa râm thì ngồi kế đó nữa. Tố Nga liếc mắt ngó người trẻ tuổi, mà người ấy cũng liếc mắt ngó nàng hai người ngó nhau rồi cười nhưng vì không quen với nhau, nên không chào hỏi chi hết. Hai người mới vô đó vừa ngồi yên chỗ, thì người trẻ tuổi nói với người kia rằng: “Mình ngồi hàng ghế nầy có gần một chút. Chớ chi mình vô sớm, mình mua giấy ngồi phía sau dễ coi hơn?” Người kia đáp nhỏ rằng: “Ngồi đây cũng được. Phía sau có Tây nhiều, khó lòng.” Tố Nga nghe người nhỏ kêu người lớn bằng dì, thì biết không phải là mẹ con. Nàng coi kỹ thấy người lớn mặc áo xuyến đen, quần lãnh đen tay đeo một chiếc huyền, mang một đôi dõn.[2]Người ấy trắng trẻo, mập mạp, tuy tóc đã điểm bạc mà da mặt còn chưa dùn. Còn người nhỏ mặc áo màu nguyệt bạch, quần lãnh đen, đầu choàng khăn lục trắng có thêu bìa, chơn mang giày thêu kim tuyến, tai đeo bông hột xoàn, cổ đeo một sợi dây chuyền nhỏ có nhận ba hột xoàn lớn tay trái đeo một chiếc cẩm thạch, tay mặt đeo một chiếc huyền[3] cẩn. Người dong dảy, không mập không ốm nhưng cườm tay no tròn, ngón tay suông đuột, bàn tay dịu nhiễu, da mặt không dồi phấn mà trắng trong, môi không thoa son mà ửng đỏ, răng nhỏ rức lại trong ngần, mắt hiền lương lại sáng rỡ. Tố Nga thấy người dung nhan thiệt là đẹp đẽ, muốn làm quen đặng hỏi thăm coi người ở đâu, song nàng chưa kiếm được chước mà làm quen, thì lại nghe rung chuông sửa soạn hát. Đèn trong rạp tắt hết, rồi nghe phía ngoài cửa máy quay lạch xạch. Chẳng bao lâu khởi sự coi hát. Người lớn ai cũng ngồi im lìm chống mắt mà coi, duy có sấp con nít la ó rồi lại vỗ tay vang rân. Tố Nga mắc coi, nên cái khăn rớt xuống đất nàng không hay. Người con gái ngồi một bên đó dòm thấy lật đật cúi xuống lượm giùm, rồi đưa cho nàng. Tố Nga cười và nói: “Cám ơn cô.” Tiếng nghe ngọt xớt. Hai người đều có ý muốn làm quen với nhau, lại cũng muốn thừa dịp ấy mà nói, ngặt vì bóng đương chớp, đèn còn tắt, liệu thế nói nhiều không tiện, nên làm lơ mà coi hát. Bóng chớp đến lúc nàng Fantine khốn khổ, phải cắt tóc nhổ răng mà bán đặng lấy tiền trả cho người lãnh nuôi con mình thì hai nàng đều cảm xúc nên ứa nước mắt một lượt. Thình lình hết lớp, họ vặn đèn khí bực lên sáng lòa. Hai nàng người nào cặp mắt cũng ướt rượt, người nào cũng sợ hổ thẹn, nên đồng thò tay vào túi móc khăn nhỏ ra mà lau nước mắt. Tố Nga thấy nàng ngồi một bên đó cũng lạc lõng như mình, thì nàng hết ái ngại nữa, nên nàng day qua má nói rằng: “Tuồng nầy hát coi động lòng quá cô há.” Nàng ấy liền chúm chím cười và đáp rằng: “Nãy giờ tôi khóc ngay. Tôi thấy người đàn bà mà bị khốn khổ quá như vậy tôi chịu không được. Tôi hay mủi lòng lắm, nên tôi ít muốn đi coi hát.” Tố Nga nghe mấy lời thật thà ấy rất hiệp với ý nàng nên nàng nói tiếp rằng: - Tôi cũng vậy. Tôi coi hát hễ tới mấy khúc người ngay mà bị hoạn nạn, thì tôi chảy nước mắt. Hổm nay tôi thấy nhựt báo khen tuồng nầy hay lắm, nên nữa nay tôi đi coi thử, té ra tuồng hay thiệt. - Tôi cũng vậy.Tại tôi thấy nhựt báo khen quá, nên tôi mới xin dì tôi dắt tôi đi coi đây. - Nhà cô ở đâu? - Tôi ở trong Chợ Lớn. - Dì đây là dì ruột của cô hay là dì sao? - Dì ruột tôi. Chị ruột của má tôi. Còn cô ở Sài Gòn hay là ở lục tỉnh lên chơi? - Tôi ở Sài Gòn. Tôi người gốc Trà Vinh, mới mua nhà về ở trên nầy chừng vài năm nay. - Thầy đổi về làm việc ở trên nầy hay sao? - Không. Ở nhà tôi làm việc Tòa án dưới Mỹ Tho. Vì thằng em tôi nó còn học trường Chasseloup, mà tôi muốn gần gũi nó, nên mới mua nhà mà ở trên nầy. - Thầy làm việc dưới Mỹ, sao cô lại ở trên nầy? Tố Nga nghe hỏi câu đó, thì nàng cúi mặt bộ coi buồn xo, song nàng gượng mà đáp rằng: - Vì tôi còn có một mình má tôi, nên tôi phải ở hủ hỉ với má tôi cho vui…Cô có chồng hay chưa? Chuyến nầy tới nàng mặc áo màu nguyệt bạch ấy nghe hỏi như vậy, có sắc hổ thẹn, nên cũng cúi mặt xuống và đáp nhỏ rằng: - Chưa. - Hai bác còn mạnh giỏi hết há? - Tía má tôi đều khuất hết. - Nếu vậy thì bây giờ cô ở với dì đây phải hôn? - Phải. - Cô năm nay được mấy tuổi? - Tôi mười bảy tuổi. - Té ra cô nhỏ hơn tôi ba tuổi. Hai nàng mới nói chuyện tới đó, kế họ tắt đèn hát tiếp nên phải nín thinh để coi hát. Từ đó về sau hễ hết chớp thì hai nàng nói chuyện với nhau, lúc thì luận về tuồng hát, lúc thì hỏi việc gia đình, tuy mới gặp một lần đầu, mà câu chuyện có hơi dan díu, chẳng khác nào như đã quen biết lâu rồi vậy. Gần mười một giờ rưỡi mới vãn hát. Tố Nga khuyên dì cháu nàng ở Chợ Lớn đó ngồi nán đợi họ ra bớt rồi mình sẽ ra sau, cho dễ. Khi đứng dậy đi ra Tố Nga mới nói với hai dì cháu rằng: “Về Chợ Lớn đường vắng quá, tôi sợ đi xe kéo không tiện.” Người lớn tuổi đáp rằng: “Dám đi xe kéo đâu. Để ra ngoài kiếm xe mui mướn đi.” Ra tới cửa rồi, Tố Nga từ giã, bèn nói với người con gái rằng: “Nhà tôi ở đường Thuận Kiều, số 112; tôi mời cô với dì bữa nào có dịp ra ngoài nầy ban ngày thì ghé nhà tôi chơi.” Nàng ấy cúi đầu và đáp rằng: “Cám ơn cô, để khi nào có dịp tôi sẽ ra thăm cô. Còn cô có vô Chợ Lớn chơi, tôi cũng xin cô ghé nhà tôi uống nước. Tôi ở đường Cây Mai, số 82.” Hai nàng cúi đầu chào nhau rồi lên xe kéo mà đi. Tố Nga về dọc đường, trong trí nàng thầm khen nàng ấy hoài, không biết nàng là con của ai mà dung nhan đẹp đẽ văn nói có duyên, tướng đi tướng đứng dịu dàng, cách ngó cách cười đằm thắm, thuở nay chưa gặp một nàng nào ngôn dung được vậy. Nàng nầy là con gái của ông Bang Siêu, tên nàng là Thái Cẩm Vân năm nay được 17 tuổi rồi mà chưa có chồng. Ông Bang Siêu từ Triều Châu ở bên Tàu qua Việt Nam hồi 22 tuổi. Ông buôn bán làm ăn khá lần rồi mới lập một tiệm trà tại đường Gia Long. Ông cưới một người vợ Việt Nam ở phía dưới Cần Giuộc, cách ít năm mới sanh nàng Cẩm Vân. Ông buôn bán ngày càng thêm khá. Vả ông là người chơn chất ngay thẳng bởi vậy người một nước đều tin cậy ông, nên có một năm nọ đều hiệp nhau mà cử ông làm Ban Trưởng. Khi Cẩm Vân được 9 tuổi, ông Bang Siêu để tiệm trà cho vợ coi, đặng ông về Tàu mà thăm tổ quán. Ai cũng tưởng ông về Tàu ít tháng rồi ông trở qua, nào dè ông đi mới có một tháng rưỡi thì có thơ bên Tàu gởi qua nói ông chết. Vợ ông Bang Siêu lấy làm bối rối, phần thì tiệm lớn mua bán bạc muôn, phần thì bà không biết chữ Tàu, bà không xem sổ sách được. Bà sợ tài phú gian lận, bởi vậy bà sang tiệm cho người khác, lấy ba muôn rưỡi đồng bạc bà mua năm căn phố sầu tại đường Cây mai, giá hai muôn tám còn bảy ngàn bà để làm vốn mà nuôi con. Bà dọn ở căn đầu, còn lại bốn căn bà cho mướn, mỗi tháng góp tiền phố được vài trăm đồng. Qua năm sau bà cho Cẩm Vân vào nhà trắng[4] Chợ Lớn mà học, Cẩm Vân sẳn khiếu thông minh, lại nhờ tánh cần cố, nên nàng mới học 5 năm đã biết nói tiếng Tây, biết viết chữ Tây đủ dùng, mà nàng lại biết thêu thùa và may vá khéo lắm. Nàng tính học luôn cho đến 20 tuổi mới thôi chẳng dè khi nàng mới được 15 tuổi, mẹ nàng tỵ trần nhà cửa không ai coi bởi vậy nàng phải thôi học đặng về nhà mà cai quản sự nghiệp. Nàng không có bà con đông: bên nội thì có vài người chú họ mà thôi, chớ không có bà con ruột; còn bên ngoại thì có một người dì, chồng chết không có con, ở dưới Rạch Kiến chớ không còn ai nữa. Vả Cẩm Vân là con khách Triều Châu nhưng vì cha chết hồi nàng còn nhỏ dại, rồi từ ấy về sau ở nhà thì gần gũi với mẹ Việt Nam, vô trường thì bầu bạn với con gái Việt Nam, nàng tập tánh nết lễ nghĩa theo con người Việt Nam bởi vậy nếu ai không rõ cội rễ của nàng thì chẳng bao giờ mà nghi nàng là con khách trú. Khi mẹ nàng khuất rồi nàng liệu ở một mình không tiện, nên năn nỉ với dì, là cô ba Hài, về ở với nàng. Cô ba Hài cũng có vốn năm bảy trăm, chớ không phải nghèo cực gì, nhưng vì bà không chồng, không con, ở một mình quạnh hiu, lại thấy cháu còn nhỏ dại không lỡ không bảo bọc nó, bởi vậy bà mới bán nhà về ở Cẩm Vân. Cẩm Vân cư tang báo hiếu cho mẹ thiệt là chính chắn. Trọn hai năm nàng xẩn bẩn ở trong nhà mà hủ hỉ với dì chẳng khi nào nàng ló ra đường, họ khen hát Quảng đông hay nàng làm lơ mà họ đồn lễ Khổng Tử lớn nàng cũng không kể. Nàng mới mãn tang mẹ được vài tháng mà đã có hai người mái chính[5] với một người con ông Bang cậy mai nói mà cưới nàng. Trong ba chỗ ấy nàng không ưng chỗ nào hết. Hai người chú một họ đến khuyên lơn nàng hết sức, mà nàng cũng không chịu. Họ giận họ rầy và hỏi vì cớ nào mà mấy chỗ đều giàu có xứng đáng mà nàng lại chê hết thảy, thì nàng nói rằng, nàng còn nhỏ, nên chưa muốn lấy chồng, chớ nàng không nói duyên cớ nào khác. Bữa nay nàng đọc nhựt báo thấy có lời khen rạp hát Casino ngoài Sài Gòn hát tuồng mới hay lắm nàng mời dì đi coi thử nên nàng mới gặp nàng Tố Nga mà làm quen đó. Còn nàng Tố Nga là con bà Tổng Hiền, gốc ở Láng Thé, thuộc tỉnh Trà Vinh. Không ai biết ông Tổng Hiền sanh đẻ tại xứ nào. Theo lời mấy ông già bà cả nói tại, thì lúc Hiền còn trai tráng anh ta đến Láng Thé kiếm chỗ làm ăn. Anh ta vào ở đợ với cựu Hương cả Khoan. Hương cả Khoan có chừng vài chục mẫu ruộng mà thôi, chớ không giàu chi lắm.Vợ ông chết sớm, để lại cho ông một đứa con gái tên là Thị Lài. Lúc ông mướn tên Hiền ở thì Thị Lài được 21 tuổi rồi mà chưa có chồng. Tuy Hiền nghèo đi ở đợ, nhưng mà anh ta biết chữ nho chút ít, bộ tướng mạnh dạn, văn nói khôn lanh, mặt mày sáng láng. Anh ta ở được có ít tháng thì đã tư tình với con gái ông chủ nhà, Hương cả Khoan sợ làm rầy ra càng thêm xấu hổ, bởi vậy gả phứt Thị Lài cho tên Hiền, đặng trong khỏi oán thù, ngoài khỏi dị nghị. Hiền là tay khôn ngoan, khi Hương cả Khoan chết rồi, anh ta kế nghiệp thì anh ta tung hoành, quyết dùng gia tài chút đỉnh của cha vợ để lại đó mà làm một sự nghiệp lớn ở trong tỉnh Trà Vinh. Anh ta nghĩ nếu không có quyền thế thì khó mà làm giàu được. Anh ta mới ra làm làng, ban đầu làm Hương hào, xã trưởng, lần lần mò lên chức Hương quản Hương sư. Anh ta dùng cái quyền Hương chức mà hung hiếp lường gạt những Thổ dân khờ khạo ở trong làng, nhờ làm như vậy nên làm tương chức trong mười năm thì ruộng đất đã tăng số lên tới một trăm mẫu. Anh ta tại gặp dịp may, lúc ấy trong tổng khuyết chức Phó Tổng. Anh ta ra tranh cử, nhờ trong nhà có tiền, hể nói đâu người ta nghe đó bởi vậy cho nên lo có một tháng, tốn có một ngàn đồng, mà được làm thầy Phó. Anh ta làm Phó Tổng không có quyền hành gì bao nhiêu, nhưng mà anh ta là người thấy xa, nên không lấy sự đó làm buồn nghĩ vì ông Cai Tổng đã già rồi nếu mình biết nhẫn nhịn trong một ít năm thì cái quyền cai Tổng không lọt khỏi tay mình được. Thiệt quả ông Hiền làm phó Tổng mới ba năm, kế Cai Tổng qua đời, ông ta được cấp bằng làm Cai Tổng. Quyền thế đã sẵn rồi, oai nghi lập thêm không khó gì, ông Hiền mới dùng quyền thế, lập oai nghi mà sửa trị dân làng trong tổng. Cách ông sửa trị khác hơn người ta hết thảy; ông sửa là sửa bộ điền bộ địa; ông trị là trị thổ tá canh chớ không phải ông sửa tục xấu thói hèn, không phải ông trị côn đồ cướp đản như một hai ông Cai Tổng khác. Ông sửa trị có mấy năm mà ruộng đất của dân Thổ mười phần đã sang tên ông đứng bộ hết bảy tám phần. Ông Tổng Hiền có hai đứa con: đứa con gái lớn tên là Lý Tố Nga, đứa con trai nhỏ tên là Lý Chánh Tâm. Tuy ông làm quan ông ít thương dân, nhưng ông làm cha thì ông thương con nhiều lắm. Đứa con gái ông cho lên Nữ học đường mà học, còn đứa con trai thì ông gởi nhà người quen đặng đi học trường tỉnh Trà Vinh. Tố Nga học tới 16 tuổi, có bằng sơ học rồi ông mới đem về tính gả lấy chồng. Cách ba năm trước ông xin phép đi Sài Gòn hầu Toà Phúc Án về vụ ông kiện giành 120 mẫu đất với tên Thạch Gồng. Khi ông về đến nhà thì khí sắc ông hân hoan lắm. Ông nói cho vợ con hay rằng, ông đã đặng kiện rồi, mà ông đã hứa gả Tố Nga cho con trai ông Cai Tổng Hỉ ở Mỹ Tho, chàng ấy tên là Lê Phùng Xuân, đương làm thông ngôn Toà Phúc Án trên Sài Gòn. Mời các bạn đón đọc Kẻ Làm Người Chịu của tác giả Hồ Biểu Chánh.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Đồn Đại Hại Chết Người Ta (Nhĩ Nhã)
Sống trong thời đại của “Đồn đại hại chết người ta”, ngay khi sinh ra phải biết buôn chuyện, muốn giải trí có buôn chuyện, làm ăn nhất thiết cần buôn chuyện, yêu đương lại càng phải buôn chuyện. Cả ngày ngồi hóng tin mỹ nam, mỹ nữ, cuộc sống còn gì sung sướng bằng! Chào mừng bạn tới thế giới “loạn lạc” do Nhĩ Nhã sáng lập. Trải nghiệm những giây phút hoảng loạn vì sợ “rớt hàm”, choáng ngợp vì dàn anh hùng, mỹ nhân “cực phẩm”, rong chơi vui vẻ hết tin đồn A lại qua tin đồn B. Nhĩ Nhã cùng Đồn đại hại chết người ta xin đảm bảo: “Không cười lăn lộn, không thu tiền!”. Thiên hạ thái bình, rảnh rỗi nhàn hạ, người ta sẽ làm gì? Đương nhiên là buôn chuyện rồi! Chuyện mọi người tò mò nhất là đệ nhất tài tử Bạch Hiểu Phong, người mở thư viện Hiểu Phong. Người trong thiên hạ đều cố chen chân vào cho bằng được. Khoan, khoan đã... nói vậy Bạch Hiểu Phong là... Không, không! Chẳng phải nói “Đồn đại hại chết người ta” sao! Đại tướng quân Sách La Định, giỏi võ ghét văn, tự do, thô lỗ, không ai ưa mới là người cần quan tâm. Sách La Định làm nội ứng ở thư viện Hiểu Phong để điều tra tin đồn, tiện thể tác hợp Tam công chúa và Bạch phu tử, cũng là dịp để hắn học lễ nghi phép tắc. Người “quản thúc” hắn lại là muội muội thông minh, xinh đẹp của Bạch Hiểu Phong, tên gọi Bạch Hiểu Nguyệt. Tìm mua: Đồn Đại Hại Chết Người Ta TiKi Lazada Shopee Bạch cô nương hoàn mỹ, toàn tài phải “dạy dỗ” Sách tướng quân tiếng xấu khắp nơi chẳng phải rất thiệt thòi hay sao!? Lẽ nào mọi người đều quên “Đồn đại hại chết người ta” rồi!? “Thiệt” hay không, chỉ người trong cuộc mới biết nha!Dưới đây là những tác phẩm đã xuất bản của tác giả "Nhĩ Nhã":Đồn Đại Hại Chết Người TaDu Long Tùy NguyệtHắc Phong Thành Chiến KýHảo Mộc Vọng ThiênHoàng Bán TiênHuyết Dạ Dị Văn LụcQuạ Đen Quạ TrắngQuốc Tướng Gia Thần ToánThịnh Thế Thanh PhongVũ Dạ Kỳ ĐàmĐộc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đồn Đại Hại Chết Người Ta PDF của tác giả Nhĩ Nhã nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đời Tư Mao Trạch Đông (Lý Chí Thỏa)
Không có một nhà độc tài nào trong lịch sử nhân loại có uy quyền lớn như vậy đối với quần chúng như Mao Trạch Đông. Không ai trong số những người cai trị trong quá khứ đã mang đến cho dân tộc mình nhiều sự đau khổ bần hàn cho nước Trung Quốc chia rẽ. Sự khát vọng uy quyền và mơ ước nắm giữ ngai vàng với bất kỳ giá nào đã buộc Mao phải cai trị đất nước trong sự thối nát cùng cực. Những ý tưởng điên rồ và hàng loạt mưu đồ đã đưa Trung Quốc tới vực thẳm. Hàng chục triệu người đã chết vì đói trong những năm chính sách đại nhảy vọt, và vì sự trả thù hàng loạt và hỗn loạn diễn ra trong thời kỳ Cách mạng văn hoá - đấy là kết quả của một thí nghiệm bệnh hoạn do một ông vua mới xuất hiện trên một đất nước vĩ đại có hàng nghìn năm lịch sử. Sự thú nhận thẳng thắn của một con người từng sống bên cạnh Mao trong thời gian suốt hai mươi năm và nghiên cứu tận gốc rễ không những tổ chức mà còn thế giới bên trong người cầm lái vĩ đại, là độc nhất trong việc mô tả sinh hoạt của một trong số những bạo chúa của thế kỷ XX. Những chi tiết trong cuốn Về cuộc sống của các Xê-da đã mô tả những ảnh hưởng thối nát của uy quyền tuyệt đối với khuyết tật, sự tham lam, khát máu và giết người man rợ. Tuy nhiên, khi tả lại cuộc sống của các tù trưởng bộ lạc, người Tây Tạng và bạo chúa Neron, tác giả chưa phải là một con người gần gũi với họ như bác sĩ Lý Chí Thỏa với bệnh nhân Mao Trạch Đông. Về tiểu sử Hit-le ông Speer biết chưa đày đủ về đế chế của mình, nhưng trong tiểu sử của lãnh tụ Nazi, chỉ giới hạn đến mặt chính trị và quân sự của Hitle. Con gái Stalin viết nhiều về bố mình, dù cô ta cũng gặp bố không nhiều. Nhật ký của bác sĩ riêng Napoleon và Hit-le chỉ thuần tuý là quan sát về y học. Hồi ký của Moran về Sớc sin, của Herndon về Lincon chỉ là về những sự kiện lịch sử mà ảnh hưởng của cá nhân đến quá trình lịch sử là không đáng kể. Cái gì liên quan tới triều đại Trung Hoa, thì theo truyền thống trong đó chỉ mô tả chuyện ma chay, chôn cất, bói toán, chiến tranh và các sự kiện đáng ghi nhớ của việc lên ngôi của hoàng đế. Trong tiểu thuyết cổ Trung Quốc Tam quốc diễn nghĩa mô tả sự chia rẽ Trung Hoa thành ba quốc gia thù địch Ngụy, Thục, Hán và về sự thống đất nước dưới sự che chở của triều đại Tần năm 280, người ta chỉ kể lại các cuộc chém giết, sát phạt và các thủ đoạn trong thời kỳ này. Dưới sự soi sáng của các sự việc nguyên bản và sự mổ xẻ tâm lý Mao một cách sâu sắc đã làm cuốn sách của Lý Chí Thỏa là hiện tượng hiếm trong văn học. Thật là khó hiểu rằng trong những năm 90 thậm chí người ta vẫn mô tả Mao Trạch Đông là một con người nhân hậu thông minh, và bất cứ sự chỉ trích nào nhắm vào ông ta lại gây sự phẫn nộ trong người Trung Quốc. Tất cả những ai có vinh dự gặp lãnh tụ không có thể quên được cuộc gặp đầu tiên khi đó Mao là lịch sự, khiêm tốn và nhân từ với người đối thoại và điều này tạo cho ông ta là người ngay thẳng. Tuy nhiên càng về sau Mao không giữ được đức tính như thế nữa, ông thường xuyên giận dữ, dọa dẫm và cai trị thuộc hạn trong sự sợ hãi triền miên. Mao chẳng khó khăn gì lôi kéo đám cận thần và tất cả nhân dân Trung Quốc. Và không còn nghi ngờ gì nữa trong trường hợp này, giúp ông ta chính học thuyết Khổng tử, học thuyết đó trong suốt nhiều thế kỷ đã ăn sâu trong tâm khảm dân thường Trung Quốc. Một trong năm điều răn dạy của Khổng giáo là lòng tin của thần dân vào kẻ thống trị dựa trên sự tín, nghĩa, trung quân, không chống lại vua. Vây quanh ông ta là những người dễ bảo, Mao dần dần bày ra trò tự phê bình để mà nghe từ họ bao lời ca tụng và thờ phụng ông ta. Mao bắt chước Tần Thuỷ Hoàng và khéo léo điều khiển đám người quanh ông. Tìm mua: Đời Tư Mao Trạch Đông TiKi Lazada Shopee Bác sĩ Lý Chí Thỏa xuất thân từ một gia đình dòng dõi, thời trai trẻ đã được đào tạo trong một trường đại học ở Quý Châu, sau khi tốt nghiệp ngẫu nhiên tham gia tổ chức thanh niên chống cộng của Quốc dân đảng. Điều đó cho phép Mao bằng thủ đoạn hăm doạ lành nghề buộc Lý trở thành người đầy tớ tin cẩn của mình. Dưới thời Mao, sự thối nát thịnh hành và ông ta cũng biết rõ điều này. Cái đó tạo cho Mao cai quản đám người của mình trong vòng cương tỏa. Ông thường xuyên nhắc đi nhắc lại rằng cá không thể sống thiếu nước, và ông rất thích bơi lội trong các hồ nước bẩn hoặc là ban đêm đi đến các nơi tối tăm của cánh đồng lúa. Tất cả những người quanh Mao đều bị cơ quan mật vụ theo dõi. Trong nhiều năm trời, nhiều người trong số chiến hữu của Mao đã bị nằm trong các trại cải tạo hoặc bị xử tử. Trong những năm chiến tranh và cách mạng, Mao đã mất con, anh em và một người vợ, nhưng ông lại hoàn toàn thờ ơ trước những đau đớn của những người khác. Trong chính trị cũng như trong đời tư, ông không hề ngần ngại tiêu diệt những người mà ông coi là không có lợi đối với ông, và khi cần thiết thì ông lại nhẫn tâm kéo họ về phục vụ cho ông, nếu lúc ấy họ vẫn còn sống. Bác sĩ Lý thường đặt Mao trong sử sách Trung Quốc. Vị lãnh tụ rất thích các tiểu sử đầy mưu mẹo ranh ma và xảo quyệt của các kẻ thống trị đời trước. Họ đã dạy Mao Chủ tịch cả về chiến thuật lẫn chiến lược đấu đá với kẻ thù của mình. Mao đã nổi bật về mưu mô xảo quyệt và một kịch sĩ. Thậm chí chiến hữu thân cận cũng không thể hiểu nổi Mao đồng ý với họ hay chuẩn bị giáng cho họ đòn bất ngờ. Hình mẫu cuộc sống của Mao là sự kết hợp chủ nghĩa khổ hạnh và xa hoa, sự lười biếng đến lạ lùng và khả năng làm việc đặc biệt. Phần lớn thời gian Mao nằm trên giường hoặc trên trường kỷ trong bể bơi. Ông ta có thể cả ngày đi lại trần truồng, thích thức ăn béo ngậy, thay cho việc đánh răng, ông xúc miệng bằng nước chè và bồng bế lên giường những cô gái thôn dã chanh cốm. Năm 1958, trong thời gian thăm tỉnh Hồ Nam, đi theo xe Mao là một chiếc xe tải chở đầy dưa hấu mà Mao ưa thích. Chủ tịch rất thích đi những đôi giày vải, và nếu phải xuất hiện trước một cuộc tiếp xúc ngoại giao thì ông chọn giày da, trước đó những cận vệ tin cậy buộc hoặc cởi giầy cho ông. Mao chẳng bao giờ thích tắm. Thay vì đó, các vệ sĩ lau mình ông ta bằng khăn mặt ướt, điều này - theo lời bác sĩ Lý - dễ tăng sự nguy hiểm lây lan chứng bệnh giang mai trong số nhiều tỳ thiếp của lãnh tụ. Mao chỉ ngủ trên chiếc giường gỗ lớn, không bao giờ được rời ông. Ông mang theo nó trong các chuyến đi riêng của mình, mang nó theo ra dinh thự ngoại ô. Chiếc giường thậm chí còn đi theo ông trên máy bay trong chuyến đi tới Moskva. Chủ tịch là thời gian quyền lực và là một cuốn lịch. Toàn bộ dinh thự làm việc và sống trong một nhịp điệu của chủ nhân, hoạt động chính của nó bắt đầu theo thường lệ vào lúc nửa đêm. Mao có thể gọi người phục vụ vào lúc hai, ba giờ đêm. Ông rất thích chu du đất nước, vì thế các cuộc gặp gỡ với giới lãnh đạo cao cấp và cuộc họp Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc có thể diễn ra ở hang cùng ngõ hẻm của Trung Quốc. Trong số Luận văn đạo Lão cổ ông biết rõ là con đường dẫn tới tới sự bất tử nằm ở quan hệ tình dục và say sưa đắm mình trong trác táng tình dục hoan lạc với vô số các cô gái trẻ đẹp. Trong những ngày lễ chính thức ông chỉ công nhận kỷ niệm ngày quốc tế lao động 1-5 và ngày thành lập cộng hoà nhân dân Trung Hoa và cũng chỉ mời khách nước ngoài cao cấp. Trong những ngày này ông ăn mặc bộ đồ Tôn Trung Sơn Các phụ nữ chỉ được phục vụ ông một trong số các món ăn kiểm tra cẩn thận. Cuộc sống tình dục của ông phải chăng không rõ có phải trên cơ sở chăm sóc kiểu vua chúa hay không. Bên cạnh phòng rộng lớn cho hội nghị hiệp thương toàn quốc là một phòng đặc biệt dành riêng cho lãnh tụ để trong thời gian hội thảo mệt nhọc ông được xả hơi bằng tình dục. Các quan chức quân đội và đảng, những người luôn giữ nghiêm ngặt đạo đức xã hội đã kiếm cho Mao các cô trinh nữ duyên dáng xuất thân từ thành phần vô sản và nông dân. Mao rất thích khiêu vũ, và thường tổ chức vũ hội, để sau đó các bạn nhảy của ông được vinh dự vui vầy với lãnh tụ trên giường. Những cô gái thạo ngón có quyền dẫn em gái trẻ của mình tới phòng Mao. Mỗi bí thư đảng ở các địa phương đều xây cho Mao một vi-la tráng lệ. Mao không thích ngồi một chỗ và thường xuyên du ngoại trên đoàn tàu riêng. Mọi đoàn tầu trên đường đi của lãnh tụ đều bị ngừng lại, tại các ga mà tàu đi qua, công an canh chừng hành khách và dân buôn thúng bán mẹt. Trong những năm đại nhảy vọt người ta bắt nông dân trồng lúa dọc theo đường tầu để lãnh tụ từ trong toa nhìn ra tận mắt có thể nhìn thấy vụ mùa bội thu, mặc dù nó chính nó rất tồi. Mao rất thích ra ngoài dạo chơi ở vi-la của mình xây ở đảo nằm trên sông Châu Giang gần Quảng Châu. Thức ăn của lãnh tụ được trồng ở những trại đặc biệt cách Bắc Kinh không xa và được kiểm tra bằng những chuyên gia lành nghề. Trong những ngày nóng nực, căn hộ của Mao được làm lạnh bằng những chậu nước đá. Quyền lực tuyệt đối đã ảnh hưởng tới thể lực và tinh thần của nhà độc tài và cướp đi sở thích đơn giản của ông là giao tiếp. Có lúc hàng tháng ông không rời khỏi giường, mặt tỏ ra lo âu mơ hồ. Tuy nhiên khi xảy ra biến cố chính trị nghiêm trọng thì ông tỏ ra hoạt bát lên, lấy đi sự thanh thản và thậm chí không ngủ nữa. Trong thời kỳ ấy cho lãnh tụ dùng lượng lớn thuốc ngủ barbiturat. Căng thẳng chính trường thời gian ấy đã không làm yếu khả năng tình dục của Mao và đôi khi ngược lại còn tăng lên. Khi mà trong những năm đại nhảy vọt hàng chục triệu người chết đói, Chủ tịch để chuộc lỗi trước đảng, tạm thời ngừng ăn thịt, nhưng đàn bà thì ông không bỏ. Một trong số những thứ như thế đã mở mắt bác sĩ Lý là người cầm lái thực là vĩ đại về mọi phương diện, bao gồm thậm chí cả tình dục. Chính sách nhà độc tài phụ thuộc vào tính cách cá nhân của ông. Trong thử nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội Trung Quốc duy nhất Mao đã tạo ra một đất nước nghèo khổ, lạc hậu dở sống dở chết chẳng giống với ai cả, lề lối quản lý kinh tế xã hội khác thường. Đối mặt với sự thù địch của phương Tây, Mao bắt đầu chơi với Moskva. Dù thế các thành tựu khoa học kỹ thuật của Mỹ và Châu Âu luôn luôn làm Mao ngưỡng mộ. Có thể là chính vì vậy Mao chọn Lý làm bác sĩ riêng. Trong đó lãnh tụ Trung Quốc muốn tìm thấy những người đối thoại thông minh và có học, đặc biệt hiểu được tiềm năng của mức kinh tế và kỹ thuật của các nước phương Tây phát triển. Khi trao đổi với Lý, Chủ tịch nhiều lần nhấn mạnh rằng quan hệ của Mỹ với Trung Quốc luôn luôn thiện chí, trong khi Liên Xô gọi cộng hoà nhân dân Trung Hoa là người em trai của mình và xem đó là đất nước vĩ đại có triển vọng. Mao có xu hướng khắc phục những yếu kém của mô hình xô-viết nguyên thuỷ của chủ nghĩa xã hội và xây dựng ở Trung Quốc chủ nghĩa xã hội kiểu mới, đưa đất nước đến mức các nước văn minh trên thế giới. Ông cho rằng nhờ đó có thể trở thành kinh điển chủ nghĩa Mác-Lê Nin và đóng góp nhiều bài học bởi sự sáng tạo nguyên bản mới. Một trong những ý tưởng hiệu quả là chính sách đại nhảy vọt, và để cứu nó phải quay sang Cách mạng văn hoá. Theo Mao, phát triển kinh tế của đất nước có thể chỉ đạt được bằng chủ nghĩa nhiệt thành của quần chúng. Mao Trạch Đông tin thành tâm vào hiện thực thực hiện kế hoạch lớn lao của mình. Điều này không khó vì chính lãnh tụ từng sống trong vùng cộng sản. Vào thời kỳ khi mà nhân dân Trung Quốc đói, lãnh tụ vẫn ngoan cố khẳng định về sự giàu có của đất nước, mà các nhà lãnh đạo đảng đã thông báo cho ông ta. Đảng kiểm soát kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và mọi cuộc sống của nhân dân… Đảng lãnh đạo đã bác bỏ cách đi tiếp của lãnh tụ theo ý tưởng điên rồ để đẩy mạnh đất nước. Khi đó Mao ngừng lại, để chấp hành quyết định của Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc. Tuy nhiên lúc đó có cuộc đấu tranh dữ dội trong nội bộ, Mao ngoan ngoãn nghe lời đa số. Giải quyết vấn đề cơ bản của đất nước là một nhóm ủy viên Ban chấp hành trung ương gồm 30-40 người. ảnh hưởng của họ đến ý kiến đa số trong lãnh đảng cộng sản Trung Quốc phụ thuộc nhiều vào quan hệ qua lại với Mao Trạch Đông. Trong cuốn sách của mình, bác sĩ Lý mô tả tỷ mỷ cấu trúc hệ thống chính trị của Trung Quốc bao gồm những người sáng lập và các cơ quan thuộc Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc: bộ máy thư ký, bộ máy an ninh, bệnh viện, giao thông, cung ứng và những cái khác. Đối với giới chức cao cấp của đảng, người ta xây các thành phố ngầm, để các nhà lãnh đạo có thể chạy một cách dễ dàng từ nhà họ ra tới bất cứ điểm nào của Bắc Kinh. Giống nhiều nhà thống trị, Mao không có bạn thực sự và chiến hữu tin cậy. Vây quanh ông là cả một đội ngũ thuộc hạ ngoan ngoãn, những thư ký… và những vệ sĩ lực lưỡng. Dù rằng có bộ sậu đông như thế, Mao vẫn cảm thấy đơn độc. Tại đại hội VIII đảng cộng sản Trung Quốc năm 1956, nhân báo cáo Khơ-rút-sốp về tệ sùng bái cá nhân Stalin, người ta đã cố gắng hạ uy thế Mao Trạch Đông. Mao thẳng thừng chống lại vì ông hiểu quá rõ rằng làm thế ông sẽ mất ngai vàng mà ông giành được từ ngày cộng hoà nhân dân Trung Hoa ra đời. Nhiều năm trôi qua, hàng triệu sinh mạng bị thiệt hại. Nhiều người trong số chiến hữu người cầm lái vĩ đại đã chết trong các trong trại cải tạo và nhà tù, còn dân chúng như trước đây vẫn ca tụng lãnh tụ trong các cuộc mit tinh hàng ngàn người giơ cao những bìa đỏ trích dẫn lời thần tượng của mình. Trong số những người trước đây còn nắm chức vụ cao chỉ còn Lâm Bưu, từ 1969 chính thức trở thành trợ thủ duy nhất và người kế tục của Chủ tịch Mao. Năm 1971 Lâm Bưu bị buộc tội đảo chính phản cách mạng và mưu sát Mao. Sau khi bại lộ, Lâm Bưu cùng vợ và con bay sang Liên Xô. Nhưng máy bay của ông bị rớt trên vùng đất Mông cổ mà cho đến nay không rõ nguyên nhân. Sự phản bội và cái chết của Lâm Bưu đã giáng Mao một đòn nặng tới mức từ thời điểm đó bác sĩ Lý đã nhận thấy sự giảm đột ngột sức khỏe của Chủ tịch. Trong những năm cuối đời, Mao Trạch Đông cố gắng dàn xếp quan hệ với phương Tây. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi việc tiến hành cải cách kinh tế do Đặng Tiểu Bình khởi xướng. Sau khi Mao chết năm 1976, bác sĩ Lý bị đe dọa tính mạng - người ta có thể buộc tội ông giết lãnh tụ. Nhưng rất may mắn, Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc biện hộ cho ông. Dù vậy, không tin vào sự ổn định trong nước, Lý Chí Thỏa di cư sang Hoa kỳ. Sau đó tên của bác sĩ riêng của Mao đã bị xoá bỏ khỏi lịch sử chính thức của cộng hoà nhân dân Trung Hoa. Năm năm sau cái chết của Mao, Ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Trung Quốc ra quyết định trong đó Mao được phong là nhà cách mạng vĩ đại đóng góp vào sự phát triển của Trung Hoa và giảm lỗi của Mao đi đáng kể. Trong cuốn sách này chứng minh ngược lại. Tác giả vững tin chứng minh rằng sự kết hợp quyền lực tuyệt đối với ý tưởng phiêu lưu chỉ đẻ ra tội ác vĩ đại. Không có một cuốn sách nào về tiểu sử người cầm lái vĩ đại lại tỷ mỷ và khách quan như hồi ký của Lý Chí Thỏa.Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đời Tư Mao Trạch Đông PDF của tác giả Lý Chí Thỏa nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đôi Mắt Người Xưa (Ngọc Linh)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đôi Mắt Người Xưa PDF của tác giả Ngọc Linh nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.
Đôi Lứa Xứng Đôi (Nam Cao)
Độc giả có thể tìm mua ấn phẩm tại các nhà sách hoặc tham khảo bản ebook Đôi Lứa Xứng Đôi PDF của tác giả Nam Cao nếu chưa có điều kiện.Tất cả sách điện tử, ebook trên website đều có bản quyền thuộc về tác giả. Chúng tôi khuyến khích các bạn nếu có điều kiện, khả năng xin hãy mua sách giấy.