Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đảo Plum

Đảo Plum - một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị được Tuần báo Publishers nhận xét: "Sức lôi cuốn… Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương… cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm...". *** Tác Giả Nelson DeMille: Nelson DeMille sinh năm 1943 tại thành phố New York. Ông lớn lên lại Long Island và tốt nghiệp trường đại học Hofstra về Khoa học và Lịch sử Chính trị. Sau khi làm sĩ quan bộ binh tại Việt Nam, DeMille vừa làm phóng viên vừa là nhà văn chuyên viết truyện ngắn. Ông đã viết cuốn tiểu thuyết lớn đầu tiên của mình là Bên dòng sông ở Babylon ( By the Rivers of Babylon) với tổng số bản bán ra là hơn 55 triệu bản và được dịch ra 24 thứ tiếng, và sau đó ông tiếp tục viết 11 cuốn tiểu thuyết khác đều bán chạy trên khắp thế giới. Ông sống tại Long Island. *** “Một cuốn tiểu thuyết kinh dị thật tài tình. Bạn sẽ thấy được cảm giác vui vẻ với những nút thắt là những đỉnh điểm của cuốn truyện”. - Timeout “Ớn lạnh... Cảm giác xuyên suốt cả cuốn tiểu thuyết hồi hộp này và sẽ khiến bạn luôn luôn trong suy nghĩ ngay cả khi bạn cười thật to”. - New day “Sức lôi cuốn... Nhờ sự kết hợp hoàn hảo từ y học, huyền bí, các thủ tục trong ngành cảnh sát, và khám phá đại dương... Cuốn sách đã đạt được thành công lớn trong việc chuyển hướng tới một kết thúc hoàn toàn bất ngờ... Một cái kết nhẹ nhàng đối với một nhà văn già đầy kinh nghiệm”. - Tuần báo Publishers “Ly kỳ, thú vị”. - Kirkus Reviews “Một cuốn tiểu thuyết đầy thú vị”. - Tạp chí Associated “Một cuốn sách thành công trong việc tạo tiếng cười giải trí... Kết hợp thông minh giữa thảm hoạ về sinh học và những truyền thuyết kỳ lạ về hải tặc”. - Tạp chí Associated *** Tác giả: Nelson Demille. Dịch giả: Đỗ Thúy Thể loại: Trinh thám, hành động, có chút cổ điển, phần nhiều hiện đại “Một thế kỷ trước, người ta thi thoảng mới phải đứng trước những ngã ba của cuộc đời và phải chọn lấy một hướng đi. Hôm nay, chúng ta sống bên trong một tấm vi mạch với hàng triệu con đường mở ra và đóng lại trong mỗi một phần tỉ giây. Điều tệ hơn là có ai đó đang bấm những chiếc nút”. ĐẢO PLUM Khi may mắn được biết đến tác giả Nelson Demille qua hai cuốn tiểu thuyết “Phía sau thảm họa” và “Lửa hoang”, tôi thật sự ưa thích những câu chuyện ly kỳ của tác giả này. Do đó, tôi đã để dành cuốn “Đảo Plum” khá lâu trước khi quyết định lấy ra đọc để vượt qua quãng thời gian hơi buồn chán trong việc đọc sách. Cuốn “Đảo Plum” đã giúp tôi có quá trình đọc thật sự thú vị, cười rất nhiều, say mê theo dõi những đoạn phiêu lưu máu lửa của nhân vật, và cuối cùng khép sách lại với cảm giác thỏa mãn 130%. Nhân vật chính vẫn là thanh tra cảnh sát John Corey thuộc lực lượng cảnh sát New York, nhưng lần này không có cô vợ xin-lỗi-tôi-quên-tên-cô-ấy-rồi bên cạnh. Truyện chỉ đề cập thoáng qua đến vợ cũ của ngài Corey, được cho biết rằng nghề nghiệp là luật sư. Bối cảnh truyện bắt đầu khi John Corey đang ở nhà ông cậu tại vùng North Fork của bang Long Island, New York để dưỡng thương sau khi bị bắn. Cảnh sát trưởng của vùng đến nhờ John tham gia với vai trò tư vấn vào cuộc điều tra vụ án mạng đôi, nạn nhân là hai vợ chồng nhà Gordon – từng là bạn với Corey. Vợ chồng Gordon là hai nhà khoa học làm việc tại Trung tâm nghiên cứu bệnh dịch động vật trên đảo Plum, thực chất cũng là nơi nghiên cứu về các mầm bệnh truyền nhiễm cực kỳ nguy hiểm để phục vụ tấn công hoặc phòng thủ trong trường hợp xảy ra chiến tranh sinh học / chiến tranh vi trùng. Trong quá trình điều tra, John Corey có dịp gặp gỡ những điều dễ chịu: quen được cô cảnh sát xinh đẹp thông minh Beth Penrose và chuyên gia lưu trữ tư liệu Emma Whitestone, nhưng đồng thời cũng đụng độ những gã khó nhằn và nhiễu sự thuộc FBI và CIA. Vì tình bạn với hai nạn nhân đã bị sát hại, Corey bất chấp mọi trở ngại để truy tìm hung thủ, dù điều đó thật sự gian nan. Trong cuốn tiểu thuyết này chỉ có một yếu tố mang hơi hướm hiện đại là chiến tranh sinh học, những điều còn lại vẫn khiến tôi đoán định rằng đây là một truyện trinh thám cổ điển, có lẽ vì chất nam tính cổ điển đậm đặc toát ra từ nhân vật chính. Truyện cũng không thấy nói gì đến lấy dấu vân tay, xét nghiệm nhóm máu, điều tra hiện trường kỹ lưỡng như trong những cuốn của Jeffery Deaver. Nhận xét thẳng thắn thì nhịp truyện khá chậm, quá trình điều tra được mô tả chi tiết tỉ mỉ, không ít lần dừng lại ở những đoạn chém gió giữa nam chính với nữ chính 1 và nữ chính 2, vậy mà không hiểu sao tôi vẫn kiên nhẫn + thích thú đọc từng đoạn đến hết, không lướt trang nào. Có lẽ vì giọng văn vừa nghiêm túc vừa hài hước, cách xây dựng quan hệ nhân quả đọc thấy rất hợp lý, xen kẽ giữa những đoạn suy luận sắc bén là những trường đoạn hành động rất gây cấn, đúng kiểu không thể buông sách xuống. Đầu sách có lời bình của Dan Brown rằng “Nelson Demille là một bậc thầy về tiểu thuyết trinh thám”, quả thật như vậy, tuy cuốn “Đảo Plum” không được nhiều người khen như “Phía sau thảm họa” hoặc “Lửa hoang” nhưng cá nhân tôi cho rằng chỉ riêng cuốn “Đảo Plum” cũng hấp dẫn hơn vài trong số những cuốn Dan Brown mà tôi từng đọc. Đọc cuốn này, tôi cũng thấy rằng không phải chỉ có tác giả kiêm chuyên gia hàng hải Clive Cussler là có thể tả đại dương một cách ấn tượng. Trong “Đảo Plum”, Nelson Demille đã khiến tôi (và chắc là hàng ngàn độc giả khác trước và sau tôi) khó có thể quên những trường đoạn tả cảnh hành động trên biển và trong bão biển. Dù không có lời nào trực tiếp nói rằng “thiên nhiên thật hùng vĩ và đáng sợ” nhưng trong từng khoảnh khắc người đọc vẫn sẽ cảm nhận rõ rệt thiên nhiên hùng vĩ và đáng sợ trong truyện này. “Chiếc Plum Runner lách qua eo biển hẹp vào một vịnh nước nhỏ, dường như được tạo ra không phải bởi Thượng Đế vạn năng mà là quân đoàn xây dựng, những người thích đặt những nét hoàn thiện vào những công trình của tạo hóa”. Qua những cuốn của Nelson Demille mà tôi từng đọc, tôi đã ấn tượng với tính cách của nhân vật John Corey. Đến cuốn “Đảo Plum”, nhân vật này đặc biệt thể hiện rõ nét sự ngang tàng, mạnh mẽ, vô cùng hài hước, galant với phụ nữ ngay cả khi tính mạng bản thân đang lâm nguy nhưng vẫn giữ vững bản chất “vô độc bất trượng phu”. Trong hai cuốn trước mà tôi đọc, John Corey có một người vợ cũng là cảnh sát, tính cách độc lập và xuất sắc không kém chồng. Trong cuốn này, có lẽ vì Corey đang chờ đơn ly dị và độc thân tự do quyến rũ nên nam chính chiếm 60% ‘thời lượng’ truyện. Tôi thích cách Corey rất hiếm khi kiềm chế khi bị hút về phía phụ nữ, đã thích thì tấn công dữ dội, nhưng khi quyết định không dính dáng đến nữa thì lạnh lùng như sông băng. Tuy như vậy sẽ khiến phụ nữ có chút đau lòng, vì hầu hết nữ giới luôn khao khát được khao khát, nhưng cá nhân tôi tán đồng những người đàn ông cương quyết trong tình cảm (và trong những chuyện khác), thà rằng cắt đứt từ khi chưa có gì còn hơn khiến dây tơ hồng vướng víu khắp các lối mình từng qua. ____ Có lẽ vì lý do này mà tôi bắt đầu thích nhân vật John Corey nhiều hơn cả Dirk Pitt, đang mấp mé thích hơn cả Jack Reacher! Hãy xem vài câu nói khá hay ho của John Corey: “Ngoại giao là nghệ thuật nói những thứ khốn nạn cho dễ nghe, cho đến khi tìm được một hòn đá”. “Thật khó khi bạn có nhiều câu hỏi vào lúc hai giờ sáng, bạn lại đang căng lên vì chất cà phê và không có ai muốn nói chuyện với bạn”. “Những người làm chính trị sợ bất cứ thứ gì mà họ không hiểu, mà họ thì lại chẳng hiểu được thứ gì”. Tôi cũng thích cả hai nhân vật nữ trong truyện: Beth Penrose xinh đẹp như người mẫu và can trường như chiến binh, Emma Whitestone tinh thông kim cổ và tự tin trong ..mmhh.. một lĩnh vực quan trọng + cần thiết của cuộc sống (tức là tình dục). Tôi tin rằng ngoài đời thực vẫn có những phụ nữ dù bị vết thương đạn bắn nhưng vẫn có thể trải qua nhiều giờ lao đao trên một chiếc tàu cao tốc giữa cơn bão biển để săn lùng hung thủ, nhưng khi đọc thấy nhân vật Beth Penrose thực hiện những điều đó, tôi vẫn vô cùng thán phục cô ấy. Cả hai nữ chính đều có thể đối đáp ngang hàng với một John Corey tếu táo trong mọi thời điểm (kể cả lúc sắp chết). Dù bản thân không thích hình tượng Mary Sue nhưng khi đọc “Đảo Plum”, tôi vẫn mơ mộng mình sẽ có được sự kết hợp những ưu điểm của cả hai nữ chính trong truyện. Vâng, tôi vừa tham lam vừa phi thực tế. Tuy từ nhỏ đã có niềm yêu thích đặc biệt đối với truyện trinh thám (từ khi tôi còn chưa biết sách chia ra nhiều thể loại và trinh thám là một trong những thể loại đó) nhưng do tham gia hội trinh thám khá muộn (4~5 năm sau khi thành lập) nên tôi đã bỏ lỡ không mua nhiều cuốn hay, trong đó có những cuốn của Lee Child và Nelson Demille. Tuy vậy, tôi rất may mắn được các anh chị trong hội quý mến và rộng lượng cho mượn thật nhiều sách, kể cả sách cũ hiếm, do đó tôi vẫn có cơ hội được đọc những cuốn không còn bán ngoài thị trường, chẳng hạn như “Đảo Plum”. Đây là một cuốn sách bản to, bìa cứng, đủ nặng để không thể nằm đọc, thuộc loại sách mà tôi rất thích ôm đọc đến khi mỏi cả tay. Truyện được dịch thuật tốt, trình bày ổn, cốt truyện và văn phong đều khiến tôi hài lòng. Điều buồn cười duy nhất là thiết kế bìa quá kỳ dị. (Sea, 10-2-2021) Xin cảm ơn chị N. đã cho em Biển mượn sách Cáo Biển Non Xanh *** Tôi nhìn qua ống nhòm. Một chiếc tàu dài hơn chục mét đậu cách bờ biển chừng vài trăm thước. Trên boong, hai cặp nam nữ độ ba mươi tuổi đang cười đùa, tắm nắng, uống bia hay thứ gì đó. Hai người phụ nữ mặc quần lót bé xíu, ngực để trần. Một trong hai gã đang ở mũi tàu trút bỏ bộ đồ tắm, đứng đó một lát, khom người rồi nhảy tùm xuống nước và bơi quanh con tàu. Đất nước này vĩ đại thật. Tôi bỏ ống nhòm và nhấp một ngụm Budweiser. Đó là cuối mùa nghỉ hè, không phải là cuối tháng Tám, mà là tháng Chín, trước Thu phân. Đã qua ngày nghỉ lễ Lao động, sắp sang nửa kia của mùa thu. Tôi là John Corey, nghề nghiệp cảnh sát đang dưỡng thương, khi đó đang ngồi dưới mái hiên sau nhà của ông cậu ruột, ngả mình trên chiếc ghế bằng liễu gai, đầu óc miên man với những ý nghĩ hời hợt thoáng qua trong đầu. Với tôi, vấn đề của sự nhàn rỗi là không biết đến khi nào cuộc đời mình kết thúc. Hiên nhà được làm theo kiểu cũ, bao bọc ba bề của ngôi nhà trong trang trại xây từ những năm 1890, thời Victoria. Tất cả đều làm vách gỗ, có trang trí, chóp nhọn, đầu hồi, đủ mọi thứ. Từ chỗ tôi ngồi có thể nhìn về phía nam tới Vịnh Great Peconic qua một bãi cỏ xanh dốc. Mặt trời đã xuống thấp ở chân trời phía tây, vị trí lúc 6 giờ 45 chiều. Tôi sống ở thành phố, nhưng lại thực sự thích những gì ở nông thôn, bầu trời và mọi thứ ở đó. Cuối cùng, cách đây vài tuần, tôi đã thấy được chòm Đại hùng tinh. Tôi mặc chiếc áo phông đơn màu và quần jean ngắn mà trước đây khi chưa sút cân còn vừa vặn. Hai chân tôi gác lên lan can, khoảng giữa hai ngón chân cái phía đằng xa chính là con tàu khi nãy. Thời gian này trong ngày là lúc ta bắt đầu nghe thấy tiếng dế, tiếng côn trùng. Nhưng tôi không hâm mộ gì những tiếng ồn ã đó của tự nhiên nên đã để một chiếc đài quay băng xách tay trên chiếc bàn con bên cạnh và nghe nhạc của nhóm The Big Chill,chai Budweiser đặt bên trái, chiếc ống nhòm để trên bụng. Trên sàn gần tay phải tôi là khẩu Smith & Wesson .38 với nòng dài năm phân, vừa khít với chiếc ví của tôi. Chỉ để đùa thôi. Trong cái khoảng hai giây chuyển từ bài When a Man Loves a Woman sang bài Dancing in the Street, tôi nghe, hay linh cảm thấy, tiếng bước chân ai đó trên ván sàn đi quanh hiên. Vì sống một mình và cũng không mong chờ ai đó đến thăm, tôi với khẩu súng bên tay phải đặt vào bọc. Các bạn đừng cho rằng tôi mắc bệnh hoang tưởng, vì tôi đang điều trị, không phải bệnh tật mà là ba vết thương do đạn bắn, hai viên loại 9 li và một viên Magnum nòng 44. Kích cỡ của lỗ đạn không thành vấn đề. Cũng như trong mua bán nhà đất, quan trọng là vị trí, vị trí và vị trí. Rõ ràng mấy vết thương này ở những chỗ không đáng ngại, vì tôi đang phục hồi, chứ không rữa ra. Tôi nhìn sang phía phải nơi góc hiên quanh qua mặt phía tây của ngôi nhà. Một người đàn ông xuất hiện và dừng lại cách tôi dăm mét, đôi mắt dõi theo những bóng dài của mặt trời sắp lặn. Kỳ thực, bóng anh ta phủ cả lên người tôi nên có vẻ như không nhìn thấy tôi. Với mặt trời phía sau lưng người đàn ông, tôi rất khó mà nhìn ra khuôn mặt hay phán đoán ý định của người đó. Tôi nói, “Có thể giúp gì được anh không?” Người đàn ông quay lại phía tôi. “Ô, John, tôi không nhìn thấy cậu ở đó”. “Mời sếp ngồi”. Tôi nhét khẩu súng vào cạp quần dưới áo và vặn nhỏ tiếng của bài Dancing in the Street. Đó là Sylvester Maxwell, gọi tắt là Max, cảnh sát trưởng của thị trấn này. Max bước đến phía tôi và tựa vào lan can, đối diện với tôi. Anh mặc chiếc áo khoác màu xanh da trời mang phù hiệu, sơ mi trắng cài khuy thấp, quần màu nâu, đi giày không tất, kiểu của dân đi tàu. Không thể biết anh đang làm nhiệm vụ hay không. Tôi nói, “Có nước ngọt trong thùng lạnh đấy.” “Cám ơn”. Anh cúi xuống lấy một chai Budweiser ra khỏi thùng đá. Max thích gọi bia là nước ngọt. Anh nhấp một chút, đôi mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng không trước mặt. Tôi hướng lại ra phía vịnh và nghe bài Too Many Fish in the Sea của nhóm Marvelettes. Vì là ngày thứ hai nên khách đi nghỉ cuối tuần đã về hết, ơn Chúa. Nhu tôi đã nói, sau ngày lễ Lao động, hầu hết những người thuê nhà nghỉ đã đi khỏi và bạn có thể cảm nhận sự yên tĩnh trở lại. Max là người bản xứ mà lại không đi thẳng vào chuyện, nên tôi chỉ còn cách là chờ đợi. Cuối cùng, anh hỏi tôi: “Cậu là chủ nhà ở đây à?”. “Là của cậu tôi. Ông ấy đang muốn tôi mua chỗ này.” “Đừng mua bất cứ thứ gì. Phương châm của tôi là, nếu nay đây mai đó thì chỉ thuê thôi.” “Cám ơn anh.” “Cậu sẽ ở đây một thời gian chứ?” “Tới khi nào không có gió thổi qua ngực tôi nữa.” Anh mỉm cười, nhưng rôi đăm chiêu trở lại. Max có khổ người to lớn, trạc tuôi tôi, khoảng trên dưới bốn mươi lăm, tóc vàng hoe hơi gợn sóng, nước da đỏ khỏe mạnh và đôi mắt màu xanh. Dường như trong mắt phụ nữ, anh là người điển trai. Điều này rất có lợi cho một cảnh sát trưởng Maxwell độc thân lại không mắc bệnh đồng tính. Max nói, “Cậu cảm thấy thế nào rồi ?” “Không tệ lắm.” “Cậu có thấy giống như bài tập cho tinh thần không?” Tôi không đáp. Tôi đã quen biết Max mười năm nay, nhưng vì không sống ở đây nên tôi chỉ thi thoảng mới gặp anh. Cũng phải nói thêm, tôi là điều tra viên ở thành phố New York chuyên về các vụ án giết người, trước đây làm ở Bắc Manhattan cho tới khi tôi bị thương. Đó là vào ngày 12 tháng Tư. Trong khoảng hai chục năm chưa có điều tra viên nào bị bắn ở New York nên vụ của tôi gây chú ý lớn. Phòng Thông tin Công chúng của Sở Cảnh sát New York tiếp tục đưa tin vì vẫn đang trong thời gian hợp đồng. Với bề ngoài khá được của tôi, hay đại loại như vậy, họ cũng có chút lợi, với sự hợp tác của báo chí, và chúng tôi cứ tiếp tục như vậy. Trong lúc đó, hai tên thủ phạm đã bắn tôi thì vẫn nhởn nhơ bên ngoài. Vì thế, tôi mất một tháng ở Trung tâm y tế Columbia Presbyterian, sau đó nghỉ vài tuần trong căn hộ của tôi ở Manhattan trước khi cậu Harry gợi ý căn nhà nghỉ mùa hè của ông là nơi thích hợp với một người hùng. Sao lại không nhỉ? Tôi đến đây vào cuối tháng Năm, ngay sau ngày Tưởng niệm Liệt sỹ*. Max nói, “Chắc cậu biết Tom và Judy Gordon.” Tôi nhìn anh. Ánh mắt hai người gặp nhau. Tôi hiểu. Tôi hỏi, “Cả hai người à?” Anh gật đầu. “Cả hai.” Sau một thoáng yên lặng kính cẩn, anh nói, “Tôi muốn cậu đến xem hiện trường.” “Tại sao lại là tôi?” “Tại sao lại không? Coi như giúp tôi. Trước khi có người khác lần ra được điều gì đó. Tôi đang thiếu điều tra viên án giết người.” Kỳ thực, cảnh sát thị trấn Southold không có lấy một điều tra viên án giết người nào và điều này cũng chẳng sao vì rất ít khi có ai đó bị giết. Mà nếu có thì cảnh sát quận Suffolk sẽ nhảy vào cuộc, còn Max đứng ngoài. Max không thích điều này. Cần nói thêm một chút về nơi này. Đây là vùng North Fork của đảo Long Island, bang New York. Theo một tấm bảng trên đường cao tốc, thị trấn Southold được một số người từ New Haven, bang Connecticut dựng lên vào những năm 1640. Theo tất cả những gì được biết, những người này đang trên đường chạy trốn khỏi sự truy đuổi của nhà vua. Vùng South Fork của đảo Long Island nằm ở phía bên kia của vịnh Peconic là một Hamptons đầy sành điệu: các nhà văn, nghệ sĩ, diễn viên, các hạng người được công chúng biết đến và đủ thứ hỗn tạp khác. Còn ở North Folk này, dân cư hầu hết là nông dân, ngư dân hay đại loại như vậy. Và có lẽ có một kẻ sát nhân. Ngôi nhà của cậu Harry nằm ngay trong thôn Mattituck, khoảng một trăm dặm đường bộ từ Đường 102 Tây, nơi hai quý ông trông như dân Latinh xả mười bốn, mười lăm phát đạn chào tạm biệt, ba phát trúng vào mục tiêu di động cách chừng dăm sáu mét. Không phải là một màn trình diễn ấn tượng, nhưng tôi không chê bai hay phàn nàn gì. Thị trấn Southold chiếm phần lớn vùng North Fork, bao gồm tám thôn và một ngôi làng, có tên là Greenport. Lực lượng cảnh sát gồm khoảng bốn mươi sỹ quan có tuyên thệ và Sylvester là cảnh sát trưởng. Max nói, “Trông cậu không có vẻ đau đớn.” “Có chứ. Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi có trát đòi ra làm chứng ngoài này vào một thời điểm không mấy dễ chịu? Tôi không được trả tiền để làm điều này.” “Tôi đã gọi cho giám viên của thị trấn và được chấp nhận cho thuê cậu về làm chính thức với tư cách cố vấn. Một trăm đô la mỗi ngày.” “Chà. Nghe như thứ công việc mà tôi phải tiết kiệm để có được.” Max tự cho mình nở nụ cười. “Này, nhưng bao cả tiền gas và điện thoại của cậu. Với lại hiện giờ cậu cũng không làm gì.” “Tôi đang cố chữa lành vết thương ở phổi bên phải.” “Công việc này cũng không nặng nhọc gì lắm.” “Làm sao anh biết.” “Đây là cơ hội để cậu trở thành công dân tốt của thị trấn Southold đấy.” “Tôi là người New York. Không ai bắt tôi phải làm công dân tốt.” “Này, cậu có biết rõ nhà Gordon không? Họ là bạn của cậu à?” “Đại loại thế.” “Vậy còn gì nữa? Đó là động cơ cho cậu. Thôi nào, John. Đứng dậy. Chúng ta đi. Tôi sẽ nợ cậu chuyện này. Đặt một vé nhé.” Quả thật, tôi đã chán ngán, nhưng vợ chồng nhà Gordon là những người tốt... Tôi đứng dậy và đặt chai bia xuống. “Tôi sẽ nhận công việc với mức lương một đô la mỗi tuần để làm chính thức.” “Tốt. Cậu sẽ không tiếc đâu.” “Đương nhiên là sẽ tiếc.” Tôi tắt nhạc bài Jeremiah Was a Bullfrog và hỏi Max, “Có nhiều máu không.” “Ít thôi, vết thương ở đầu.” “Anh nghĩ tôi có cần xỏ dép không?” “Ồ... một ít óc và xương sọ vỡ phía sau...” “Được.” Tôi xỏ dép rồi cùng Max đi vòng theo hiên ra đường xe phía trước. Tôi ngồi vào chiếc xe cảnh sát không phù hiệu của Max, chiếc Jeep Cherokee màu trắng có lắp điện đài cảnh sát với thứ âm thanh loạc xoạc. Chúng tôi đi dọc theo con đường dài từ nhà ra. Con đường được phủ bằng vỏ sò và hến cá từ trăm năm nay do cậu Harry và những người trước đó trải chúng lên đường cùng với tro và xỉ than của lò sưởi để tránh bùn và bụi. Dù sao đi nữa, chỗ này trước đây đã từng được gọi là trang trại của vịnh, giờ vẫn nằm phía trước vịnh, nhưng hầu hết diện tích của trang trại đã bị bán hết. Cây cối ở đây hơi quá lứa, chủ yếu là những thứ không còn dùng đến, như cây đầu xuân, liễu tơ và những hàng rào thủy lạp. Ngôi nhà sơn màu kem với những đường trang trí màu xanh, mái nhà cũng màu xanh. Tất cả đều rất đẹp, thực sự đẹp. Có lẽ tôi sẽ mua nó nếu mấy tay bác sĩ của cảnh sát nói tôi phải nghỉ hẳn. Tôi phải tập ho ra máu mất thôi. Về chuyện vết thương, tôi được trả lương hưu miễn thuế suốt đời vì tỉ lệ thương tật ba phần tư. Chuyện này ở Sở Cảnh sát New York chẳng khác gì đến thành phố Atlantic, sà vào sòng bạc Trump’s Castle, chúi đầu vào một chiếc máy đánh bạc trước sự chứng kiến của một luật sư chuyên về nợ. Độc đắc rồi! “Cậu nghe thấy tôi nói không?” “Gì cơ?” “Tôi nói, một người láng giềng phát hiện ra họ lúc 5 giờ 45 chiều.” “Tôi được tính lương ngay lúc này đấy à?” “Chắc chắn rồi. Mỗi người bị bắn một phát vào đầu. Người láng giềng phát hiện ra họ nằm ở hiên sau nhà.” “Max, tôi sẽ xem xét toàn bộ hiện trường. Còn người láng giềng kia thì sao?” “Đó là Edgar Murphy, một ông già. Ông ta nghe tiếng tàu của vợ chồng Gordon về lúc 5 giờ 30. Khoảng mười lăm phút sau ông ta đi qua thì thấy họ đã bị giết. Không nghe thấy tiếng súng nào.” “Ông ta dùng máy trợ thính à?” “Không. Tôi đã hỏi ông ta. Edgar nói bà vợ ông ta cũng vẫn thính tai. Vì thế, có thể là súng giảm thanh. Cũng có thể tai họ không được tốt như họ nghĩ.” “Nhưng họ đã nghe thấy tiếng con tàu. Edgar chắc chắn về thời gian à?” “Rất chắc chắn. Ông ta gọi cho chúng tôi lúc 5 giờ 51 chiều, tức là gần thời điểm đó.” “Đúng.” Tôi nhìn đồng hồ. Lúc này là 7 giờ 10 phút. Chắc hẳn ngay sau khi đến hiện trường, Max đã có ý tưởng sáng suốt là tìm tôi. Tôi đoán các nhân viên điều tra án mạng của quận Suffolk hiện đang ở đó. Có lẽ họ đến từ một thị trấn nhỏ có tên là Yaphank, nơi đặt trụ sở của cảnh sát quận và cách chỗ vợ chồng Gordon sống khoảng một giờ lái xe. Max nói đủ thứ dài dòng, còn tôi cố tập trung suy nghĩ. Nhưng đã năm tháng nay tôi chưa phải nghĩ đến những điều như thế này. Tôi định ngắt lời, “Chỉ các sự kiện chính thôi, Max!”, nhưng tôi lại để anh tiếp tục lải nhải. Cùng lúc đó, âm điệu của bài hát Jeremiah Was a Bullfrog vẫn luẩn quẩn trong đầu tôi. Các bạn biết đấy, thật sự rất khó chịu khi không thể dứt hẳn một điệu nhạc ra khỏi đầu. Nhất lại là thứ này. Tôi nhìn ra ngoài qua cửa xe. Chúng tôi chạy dọc theo con đường chính theo hướng đông-tây có cái tên nghe dễ chịu là đường Main Road, tới một nơi gọi là Nassau Point, nơi vợ chồng Gordon sống - hoặc đã từng sống. North Folk gần giống như Cape Cod, vùng đất gió lộng nhô ra biển, ba bề là nước, một nơi có nhiều sự kiện lịch sử. Dân cư bản địa không nhiều, chỉ khoảng hai mươi nghìn, nhưng lượng người đi nghỉ hè và nghỉ cuối tuần đến đây rất đông. Những xưởng sản xuất rượu vang cũng thu hút khách đến rồi đi trong ngày. Cứ thử mở một xưởng rượu, bạn sẽ có cả chục nghìn tay ăn chơi từ thành thị gần nhất đến nhâm nhi. Đố bao giờ sai. Chúng tôi rẽ theo hướng nam tới Nassau Point. Nơi đây là một dải đất dài hai dặm giống như một lưỡi dao cắt vào vịnh Great Peconic. Từ cầu tàu ở nhà tôi tới nhà Gordon khoảng bốn dặm. Nassau Point trở thành một điểm nghỉ hè từ khoảng những năm 1920. Nhà cửa ở đây từ những căn nhà gỗ đơn giản đến những tòa nhà hoành tráng. Albert Einstein cũng đã từng đến đây nghỉ hè, và chính từ đây, vào khoảng những năm 1930, ông đã biết “Bức thư Nassau Point” nổi tiếng gửi Roosevelt thúc giục ngài tổng thống tiến hành việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Phần còn lại, như người ta nói, là cả lịch sử. Một điều thú vị là Nassau Point vẫn là nơi ở của một số nhà khoa học. Một số người làm việc tại Phòng Thí nghiệm Quốc gia Brookhaven, cơ quan nghiên cứu hạt nhân bí mật hay gì đó cách đây khoảng ba mươi lăm dặm. Một số nhà khoa học làm việc trên Đảo Plum, khu vực tuyệt mật nghiên cứu sinh học đáng sợ tới mức phải đặt nó trên một hòn đảo. Đảo Plum cách khoảng hai dặm từ mũi Orient Point, điểm cuối cùng trên đất liền ở North Folk - điểm dừng tiếp theo là châu Âu. Không phải ngẫu nhiên, Tom và Judy Gordon là hai nhà nghiên cứu sinh học làm việc trên Đảo Plum. Bạn có thể đánh cược là cả Sylvester Maxwell và John Corey đều đang nghĩ đến điều đó. Tôi hỏi Max. “Anh đã gọi cho cơ quan liên bang chưa?” Anh lắc đầu. Mời các bạn mượn đọc sách Đảo Plum của tác giả Nelson DeMille & Đỗ Thúy (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Bộ Năm Lừng Danh Tập 1: Bộ Năm Trên Đảo Giấu Vàng - Enid Blyton
Enid Mary Blyton (11 tháng 8 năm 1897 – 28 tháng 11 năm 1968) là nữ nhà văn người Anh chuyên viết truyện thiếu nhi. Bà còn có bút danh khác là Mary Pollock. Bà là tác giả người Anh thứ hai lọt vào danh sách 10 nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất. Vào năm 2008, Enid Blyton được bình chọn là nhà văn được yêu mến nhất, đứng trên cả tác giả của loạt truyện Harry Potter - JK Rowling và đại thi hào William Shakespeare. Enid Blyton nổi tiếng với nhiều loạt truyện dựa trên những nhân vật quen thuộc và dành cho mọi lứa tuổi. Sách của bà được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới, bán được hơn 600 triệu bản. Một trong những nhân vật nổi tiếng nhất của bà là Noddy trong quyển sách dành cho độc giả nhỏ tuổi. Tuy nhiên, các tác phẩm chủ đạo của Enid nằm ở dòng văn học phiêu lưu mạo hiểm dành cho thanh thiếu niên. Những bộ truyện thuộc thể loại này bao gồm Bộ Năm Lừng danh, The Secret Seven và The Five Find-Outers and Dog. Ngoài ra, bà còn viết truyện ngắn và thơ nhưng ít được biết đến hơn. Các tác phẩm của Enid Blyton đôi khi cũng có yếu tố phép thuật. Đến tận ngày nay, chúng vẫn được ưa chuộng ở Khối Thịnh vượng chung Anh và nhiều nước trên thế giới. Trong suốt 40 năm, bà viết gần 800 quyển sách và chúng đã được dịch ra gần 90 thứ tiếng. Đã hơn 70 năm trôi qua kể từ lần đầu được xuất bản, Bộ Năm Lừng Danh vô cùng sống động của Enid Blyton tiếp tục làm say mê hàng triệu bạn nhỏ trên toàn thế giới. Bộ sách đã nhiều lần được chuyển thể truyền hình, điện ảnh, hoạt hình, truyện tranh, kịch bản sân khấu, trò chơi điện tử. Thành công của loạt truyện Bộ Năm Lừng Danh giúp bà đứng trong hàng ngũ những nhà văn thiếu nhi kinh điển và cuốn hút nhất thế kỷ XX. Tác phẩm xuất bản tại Việt Nam: — Bộ truyện The Famous Five, 1942 – 1963 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Bộ năm lừng danh, NXB Hội Nhà Văn, Nhã Nam, 2011) — Bộ truyện Malory Towers, 1946 -1951 (Đã xuất bản ở Việt Nam với tựa Tòa tháp Malory, NXB Văn Học, 2010) TÁC PHẨM Trước khi có Internet, ti vi hay điện tử thì trẻ con chơi gì nhỉ? • Chúng tổ chức dã ngoại ngoài đảo, đi xe đạp lên núi, cắm trại trong thung lũng và đi bộ đường dài. • Chúng khám phá vô số nơi chốn thú vị như nông trại, lâu đài, hang động và những hành lang bí mật. • Chúng thậm chí còn chiến đấu với trộm cướp, bọn buôn lậu, bọn bắt cóc hay truy tìm kho báu cổ xưa. Cả một thế giới vui tươi, lấp lánh và kỳ thú đã hiện ra trên bước đường phiêu lưu của bộ năm can đảm: Julian, George, Dick, Anne và chó Timothy. Cốt truyện hấp dẫn với nhiều tình tiết bất ngờ, gay cấn, tiết tấu nhanh, khả năng nắm bắt và khắc họa tâm lý nhân vật tinh tế, nghệ thuật xây dựng những nhân vật mang tính điển hình... là những yếu tố tạo nên bộ sách thiếu nhi kinh điển làm mê đắm biết bao thế hệ độc giả trên toàn thế giới *** “Mẹ, đã có tin gì về chuyến đi nghỉ hè của nhà mình chưa ạ?” Julian hỏi trong bữa sáng. “Chúng ta sẽ vẫn tới vịnh Polseath như mọi năm chứ?” “Mẹ e là không được,” mẹ cậu đáp. “Năm nay chỗ ấy quả thực đã kín đặc rồi.” Bên bàn ăn sáng, ba đứa trẻ nhìn nhau thất vọng tràn trề. Chúng mê tít khu nhà ở vịnh Polseath. Bờ biển ở đó mới đáng yêu làm sao, tắm nắng ở đó mới tuyệt đến nhường nào. “Tươi tỉnh lên nào,” bố chúng lên tiếng. “Bố chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra chỗ khác hay không kém đâu. Dù sao thì năm nay bố mẹ cũng không đi cùng các con được. Mẹ đã báo với mấy đứa chưa?” “Chưa hề!” Anne đáp. “Ôi mẹ, là thật ạ? Mẹ không thể đi nghỉ với chúng con được sao? Năm nào mẹ cũng đi cơ mà.” “Ừ, lần này bố con muốn mẹ cùng tới Scotland,” người mẹ đáp. “Chỉ riêng bố mẹ thôi! Mấy đứa cũng đã đủ lớn để tự lo rồi nên bố mẹ nghĩ các con sẽ vui hơn nhiều nếu đi một mình. Nhưng giờ khi không đến vịnh Polseath được, mẹ quả thực chưa biết gửi mấy đứa đi đâu.” “Nhà chú Quentin thì sao nhỉ?” đột nhiên bố đề xuất. Quentin là em trai bố, chú của lũ trẻ. Chúng từng có dịp giáp mặt ông chú một lần và sợ chết khiếp. Đó là một người đàn ông cao lêu đêu, cau có, một nhà khoa học có tài, ngày đêm vùi đầu vào nghiên cứu. Ông sống cạnh biển - nhưng đó là tất cả những gì lũ trẻ biết về chú mình! “Chú Quentin á?” mẹ lũ trẻ nói, môi bậm lại. “Cái gì khiến anh tự dưng nghĩ tới chú ấy vậy? Em hoàn toàn không nghĩ là chú ấy thích có bọn trẻ quẩn chân trong cái nhà chật chội đó đâu.” “Ồ,” người bố đáp, “hôm nọ cô Quentin lên thành phố gặp anh bàn ít việc, và anh không nghĩ rằng cuộc sống hiện tại của họ thoải mái lắm đâu. Fanny nói cô ấy sẽ rất mừng nếu có một vài khách tới nghỉ ở nhà mình để có thêm đồng ra đồng vào. Nhà họ nằm ngay sát biển, em biết đấy. Có thể đó chính là nơi lũ trẻ cần. Fanny rất tử tế và cô ấy sẽ trông nom bọn trẻ đâu ra đấy.” “Vâng, nhưng bản thân cô ấy cũng đã có một đứa nhóc để mà chăm lo đúng không?” mẹ lũ trẻ đáp. “Xem nào, tên nó là gì nhỉ, một cái tên kỳ cục, à, Georgina! Con bé mấy tuổi rồi chứ? Khoảng mười một gì đó, em chắc thế.” ... Mời các bạn đón đọc Bộ Năm Lừng Danh Tập 1: Bộ Năm Trên Đảo Giấu Vàng của tác giả Enid Blyton.
Alex Morrow Tập 2: Bầy Ong Biến Mất - Denise Mina
“Bầy ong biến mất” là cuốn sách thứ hai nằm trong serie về thanh tra hình sự Alex Morrow. Cuốn sách có rất nhiều tầng mạch truyện đan cài. Độc giả được chạm trán với thanh tra Alex Morrow tại đám tang của cha cô, ngay sau đó phát hiện ra bản thân nhân vật chính cũng có những bí mật không muốn bị tiết lộ. Nạn nhân của cô là Sarah Erroll, với xuất thân danh giá và một số phận bất hạnh. Cô gái được nuôi dạy trong môi trường biệt lập với thế giới bên ngoài ở trường tư cho các cô tiểu thư nhà giàu, nhưng biến cố gia đình đã đẩy cô vào thế giới của gái gọi hạng sang, và số phận tiếp tay để cô rơi vào lưới ái tình với một gã triệu phú đốn mạt: Lars Anderson. Cô trở thành tình nhân kiêm thủ quỹ cho gã, để cất giấu những khoản tiền bẩn thỉu gã moi ra được từ đế chế tài chính ma quỷ do chính gã tạo ra. Một cô gái trẻ, xinh đẹp, con nhà giàu mà lại đi làm gái gọi và cất giấu 650 ngàn euro trong bếp, Morrow nhanh chóng nhận ra không ai ngoài cô quan tâm đến cái chết của cô gái tội nghiệp. Bởi thế cô quyết tâm tìm cho ra thủ phạm bất chấp những trở ngại do đồng nghiệp lười biếng, cấp trên kỳ thị và cả cái thai năm tháng gây ra. Trong quá trình điều tra vụ án Alex vô tình gặp lại bạn thanh mai trúc mã của mình là Kay Murray. Giờ Kay đã là bà mẹ đơn thân của bốn đứa trẻ vị thành niên, và hai trong số đó bị tình nghi có dính líu tới cái chết của Sarah Erroll. Trong lúc đó, tại một trường tư thục đắt giá, nam sinh Thomas Anderson bị gọi tới phòng hiệu trưởng và người ta lạnh lùng thông báo với cậu về cái chết của bố cậu. Nhanh chóng, tác giả hé lộ những tình cảm phức tạp trong con người cậu bé mười lăm tuổi trước những biến cố khủng khiếp nhất: gia đình cậu phá sản, bố cậu tự vẫn, em gái gặp vấn đề về tâm thần, mẹ cậu tiếp tục sống lãnh cảm như từ trước tới nay, và một người đàn bà lạ lùng gọi điện tới tự xưng là “người vợ kia” của bố cậu. Vượt ra ngoài không khí u ám, buồn thảm của cuốn tiểu thuyết, tác giả vẫn đề cao những nỗ lực của một người mẹ lương thiện, cố gắng đem lại cuộc sống tốt nhất có thể cho những đứa con mình, dù cô phải đơn độc chiến đấu chống lại cả xã hội đầy rẫy bất công. Một phần thưởng ngọt ngào dành cho cô là niềm tin đã được nhà văn gửi gắm vào phần lương thiện của con người. Bộ Alex Morrow gồm có:  Still Midnight (2009) The End of the Wasp Season (2010) - Bầy Ong Biến Mất Gods and Beasts (2012) The Red Road (2013) Blood, Salt, Water (2014) *** Denise Mina sinh năm 1966 tại Glasgow. Vì công việc kỹ sư của ông bố, gia đình bà trôi theo dòng chảy tìm dầu ở biển bắc trong những năm 70 của thế kỷ 20 khắp Châu Âu, từ Paris tới Hague, rồi London, Scotland và Bergen. Mười sáu tuổi, bà phải nghỉ học và làm nhiều công việc tay chân khác nhau như bồi bàn, phụ bếp, đầu bếp... Dần dà, bà ổn định với công việc chăm sóc người già và các bệnh nhân hấp hối. Ở tuổi hai mươi mốt, bà thi đỗ ngành Luật của Đại học Glasgow và tiếp tục học lên. Trong thời gian viết luận án tiến sĩ ở trường Đại học Strathclyde về đề tài bệnh tâm thần của các nữ phạm nhân, đồng thời giảng dạy môn Tội phạm học và Luật Hình sự, bà nảy ra ý định viết cuốn tiểu thuyết đầu tay. Cuốn sách được nhà xuất bản Transworld phát hành năm 1998, mang tên Garnethill. Cuốn Garnethill đã đoạt giải thưởng John Creasy Dagger của Hiệp hội các nhà văn viết truyện trinh thám cho cuốn tiểu thuyết đầu tay xuất sắc nhất sau đó. Đây cũng là cuốn đầu trong bộ ba tiểu thuyết Garnethill, Exile và Resolution. Cuốn tiểu thuyết thứ tư đứng độc lập, được đặt tên Sanctum (tạm dịch: Đất thánh) ở Anh và Deception (Lừa dối) ở Mỹ. Năm 2005, cuốn The Field of Blood (Cánh đồng máu) được xuất bản, đây là cuốn mở đầu trong bộ năm cuốn nói về sự nghiệp và cuộc đời của nhà báo Paddy Meehan trong phòng biên tập tin tức từ đầu những năm 80, qua các sự kiện trọng yếu của những năm 90. Cuốn thứ hai của serie này được xuất bản năm 2006, đặt tựa là The Dead Hour (Giờ tử) và cuốn thứ ba nối tiếp nó ra đời năm 2007. Bà cũng viết truyện tranh và là tác giả cuốn Hellblazer, serie John Constantine cho Vertigo trong một năm, sắp tới đây sẽ được xuất bản dưới dạng tiểu thuyết bằng tranh với tên gọi Empathy is the Enemy (Nhân từ là Kẻ thù) và The Red Right Hand (Bàn tay phải màu đỏ). Denise Mina cũng đã viết một cuốn tiểu thuyết bằng tranh độc lập về giết người hàng loạt và giá bất động sản mang tên A Sickness in the Family (Gia đình bệnh hoạn) sắp được nhà xuất bản DC Comics phát hành. Ngoài ra bà còn tham gia viết kịch, kịch bản cho BBC radio và đang viết kịch bản chuyển thể thành phim cho vở kịch Ida Tamson. Mời các bạn đón đọc Alex Morrow Tập 2: Bầy Ong Biến Mất của tác giả Denise Mina.
Lắng Nghe Trong Gió - Mạch Gia
Lắng Nghe Trong Gió - Tác phẩm đạt giải Mao Thuẫn 2008 của tác giả Mạch Gia đi sâu vào miêu tả những gì sâu sắc nhất thuộc về nhân tính và trí tuệ con người. Tác phẩm là câu chuyện về đề tài phản gián, phần 1 của Phong Thanh, mang đến cho người đọc những kiến thức mới mẻ về hoạt động của đơn vị làm công tác thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc. Bằng những chi tiết ly kỳ, những logic chặt chẽ và cách kể chuyện hấp dẫn như một mê cung huyền bí, Mạch Gia đã đưa người đọc vào một không gian đóng đến cực độ và đột ngột mở ra những khả năng phong phú của câu chuyện. Từ Lắng Nghe Trong Gió đến Phong Thanh, Mạch Gia giống như một người điều tra tinh thần tài tình, từ những góc độ mà người khác không thể tưởng tượng, từ những chỗ tưởng chừng như đã kết thúc, ông đã đem lại những kì tích cho bạn đọc. Ông đã dùng trí tuệ của mình để đặt những bước chân vững chắc lên mảnh đất nhân tính của con người... *** Một người mười năm không gặp, bỗng một hôm gặp lại ở ngoài phố, hoặc một người không quen biết, bỗng một hôm trở thành bạn tâm giao, sau đấy cuộc đời anh như nước gặp nước, hoặc như nước gặp lửa, sự thay đổi không thể nào hiểu nổi bắt đầu xuất hiện. Tôi tin rằng, những chuyện như vậy ai cũng có. Tôi cũng có. Nói thẳng ra, quyển sách này bắt nguồn từ một lần gặp gỡ tình cờ của tôi. Cuộc gặp gỡ tình cờ này thật sự rất có ý nghĩa. Chuyện xảy ra vào mười hai năm trước, khi đó tôi còn là một thanh niên chưa đầy 30 tuổi, làm công việc bình thường, đi công tác chưa có tiêu chuẩn đi máy bay. Nhưng có một lần, sếp của tôi lên Bắc Kinh báo cáo công việc với cấp trên, nội dung báo cáo đã được viết trên giấy trắng mực đen, chỉ cần sếp dọc đường đọc đi đọc lại cho nhớ, khỏi cần tôi đi theo. Nhưng sau đấy cấp trên thay đổi ý kiến, muốn nghe báo cáo trực tiếp, sếp tôi lúng túng, vội vã triệu tôi “bay” tới, để tôi chuẩn bị tài liệu tại chỗ cho ông. Vậy là lần đầu tiên tôi được bước lên máy bay. Giống như các nhà thơ vẫn nói, nhờ vào sức mạnh của bầu trời, chỉ hai tiếng đồng hồ sau tôi đã đến Bắc Kinh. Sếp cuối cùng vẫn là sếp, ông ra tận sân bay đón tôi, tất nhiên không phải vì yêu quý gì nhau mà, chủ yếu là để tôi “nhanh chóng nắm bắt tình hình”. Nhưng vừa ra khỏi sân bay, một đồng chí công an rất ngang nhiên đứng chắn giữa chúng tôi, không cần hỏi lôi thôi, yêu cầu tôi đi theo anh ta. Tôi hỏi có chuyện gì, anh ta bảo cứ đi rồi sẽ biết. Nói xong, anh ta đẩy tôi đi, khiến vị sếp còn bối rối hơn cả tôi. Dọc đường, ông hỏi tôi có chuyện gì xảy ra, tôi đâu biết. Có thể khẳng định đây là cuộc “đưa đi” đầy bí mật, nếu không chỉ là chuyện nhầm lẫn. Tôi phải nhắc đi nhắc lại với “hai vị” công an tên tôi là Mạch Gia - Mạch là lúa mạch, Gia trong chữ gia đình, chứ không phải gia giảm. Thật ra, bố tôi đặt tên cho tôi trước tiên là do kém hiểu biết, không biết trên đời này có Thánh địa Mecca[1], thứ nữa để tỏ ra khiêm tốn, ông yêu cầu tôi phải khiêm tốn, vì ý nghĩa của hai chữ Mạch Gia, nói thẳng ra là đồng ruộng, là cày cấy, là nông dân, rất chất phác. ... Mời các bạn đón đọc Lắng Nghe Trong Gió của tác giả Mạch Gia.
Pháp y Tần Minh: Người Giải Mã Tử Thi - Tần Minh
Sách Nói Kẻ Dọn Rác Gồm một chuỗi những vụ điều tra phá án với những vụ án lạ kỳ, bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh được biên soạn dựa trên kinh nghiệm của bác sĩ pháp y nổi tiếng Tần Minh. Trong bộ sách, tác giả hóa thân thành nhân vật chính lần mò từng dấu vết để tìm kiếm sự thật đang bị kẻ xấu che đậy. Ở Việt Nam, tiểu thuyết trinh thám được xuất bản nhiều, tuy nhiên liên quan đến nghề pháp y thì đây là tác phẩm lần đầu được ra mắt. Với kết cấu logic phù hợp với thực tiễn, bộ sách đã khắc họa rõ nét những gian khổ vất vả tình yêu mà tác giả dành cho nghề nghiệp mình theo đuổi. Được duy trì bởi phong cách nhất quán, từng vụ án riêng rẽ được kết nối với trục chính xuyên suốt cùng hành văn mạch lạc, mục đích chính của Pháp y Tần Minh là phổ biến kiến thức tới độc giả, hướng tới tinh thần khoa học chân chính. Với câu nói thách thức: "Muốn cho người không biết, trừ phi mình đừng làm", tác giả cũng chính là nhân vật chính trong tác phẩm khẳng khái đối đầu với bọn tội phạm đang lẩn khuất trong bóng tối. Tinh thần nêu cao chính nghĩa, truy tìm đến cùng sự thật chính là một trong những điều nổi bật tạo nên sức hấp dẫn của bộ tiểu thuyết trinh thám này. Bộ tiểu thuyết Pháp y Tần Minh gồm có: + Quyển 1: Người giải mã tử thi + Quyển 2: Lời khai câm lặng + Quyển 3: Ngón tay thứ mười một + Quyển 4: Kẻ dọn rác + Quyển 5: Người sống sót *** Lần đầu tiên đứng trước phòng giải phẫu ngoài trời, đối mặt với một thi thể còn mới nguyên, là lúc tôi mới vừa tròn 18 tuổi. Anh Thánh Binh phụ trách mổ chính, mặt mũi nghiêm túc, động tác cẩn thận tỉ mỉ, từ từ kéo túi bọc tử thi ra. Vừa làm, anh còn vừa nhìn tôi chằm chằm, tự nhiên khiến trái tim tôi càng lúc đập càng nhanh. Nhịp tim đập tưng bừng bất gi{c đưa tôi trở về là thằng nhóc luôn lẽo đẽo theo ba, mặt đầy hiếu kì và mong ngóng. Đừng chỉ thấy ba con bề ngoài hùng dũng, có thể ba con đã phải chịu khổ rất nhiều! Ngay trước khi ba đi làm cũng là lúc tôi mong chờ nhất trong ngày. Nhìn thấy ba đeo khẩu súng bóng loáng, cài từng chiếc nút áo trên bộ cảnh phục, trong lòng tôi tự nhiên cứ phấn khởi không chịu được. Ba thấy thế thì thích lắm, thường hôn‚ chụt một cái lên má tôi. Ba tôi thuộc thế hệ những kĩ thuật viên hình sự chuyên nghiệp đầu tiên, là chuyên gia khám nghiệm dấu vết. Dĩ nhiên ba tôi cũng hi vọng đứa con trai nhỏ kế nghiệp cha. Nhưng mẹ của tôi lại khăng khăng không đồng ý. Một đời làm người nhà cảnh sát, mẹ tôi không nỡ nhìn con trai lao đi bán mạng. Theo ý của bà, cứ yên ổn làm bác sĩ chính là con đường tốt nhất. Bản thân mẹ tôi cũng là y tá trưởng tại một bệnh viện, bà nghĩ như thế thì chuyện lớn nhỏ hai mẹ con đều có thể giúp đỡ lẫn nhau. Nói đi cũng phải nói lại, thầy thuốc còn có thể cứu người, so với cảnh sát đâu hề kém cạnh! ...   Mời các bạn đón đọc Pháp y Tần Minh: Người Giải Mã Tử Thi của tác giả Tần Minh.