Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Ngôi Nhà Mũi Tên

Bà Harlowe - một người phụ nữ giàu có qua đời. Di chúc của bà không hề đề cập đến người em rể. Như một lẽ tất nhiên, người đàn ông này bực tức cáo buộc người thừa kế - Betty Harlowe, đã giết bà Harlowe nhằm chiếm đoạt tài sản. Jim Frobisher, cộng sự tại công ty, lập tức đến Pháp để bảo vệ quyền lợi cho Betty. Tham gia cùng anh còn có thám tử Hanaud lừng danh của Sở Cảnh sát Pháp. Liệu tất cả mọi chứng cứ được phơi bày có giống như vẻ bề ngoài của nó? Liệu đây có đơn thuần chỉ là một vụ tống tiền lộ liễu hay là một âm mưu được dàn dựng công phu? Liệu Hanaud danh nổi như cồn đó có hoàn thành sứ mệnh của mình một cách xuất sắc giống như mọi người vẫn hằng khen ngợi?... *** Review: Ngôi nhà mũi tên - A.E.W.Mason Dịch giả: Nguyễn Thành Long Người viết Hà Quang Huy #trinh_thám_cổ_điển #ngôi_nhà_mũi_tên Nếu các bạn thích trinh thám cổ điển thì không nên bỏ qua cuốn này, cái twist khá ấn tượng . Cái thủ pháp thấy tuy là đơn giản, nhưng ngộ ra nó quả là cao siêu khó lường  Mở đầu là cái chết của bà Harlowe - người phụ nữ giàu có ra đi không để lại tý di chúc nào cho ông em rể, ông ta liền viết thư tống tiền trắng trợn cho Haslitt đồng thời đâm đơn kiện Betty bé nhỏ đã đầu độc bà Harlowe. Nhận được thư, Haslitt điều phụ tá của mình là Jim đến bảo vệ quyền lợi cho thân chủ là Betty xinh đẹp quyến rũ. Hanaud - vị thám tử trứ danh của sở cảnh sát Pháp được đặc quyền điều tra vụ án khó khăn nhất trong cuộc đời của ông. Một vị thám tử toát lên vẻ trang nghiêm, chói loà rất thân thiện ân cần và khâm phục trước vị thần May Rủi. Căn biệt thự được thiết kế tinh xảo trang nhã lại ẩn giấu âm mưu u tối xám xịt chết chóc lạnh lẽo. Một tội ác đã xảy ra trong ngôi nhà bất hảo vào cái đêm 27/4 định mệnh dưới bàn tay của "Kẻ gieo tai hoạ". Thứ thuốc độc quỷ quyệt hoang dã giết người không để lại dấu vết được trưng bày qua bao năm tháng đã phát tác mạnh bạo. Hanaud cùng Jim lần mò trong bóng tối mờ mịt vô phương để tìm ra mạnh mối, giải đáp các bí ẩn dưới đôi bàn tay tội lỗi...Những gì ông cần làm đều đã được đào tạo qua đấu trường bò tót, ông đã quá chai sạn với những bất ngờ, điều khiến ông bất ngờ chỉ là thần May Rủi. Ông đã sống trong thế giới tội ác và tội phạm nên ông hiểu chúng một cách thanh tao, nhìn thấu chúng bằng ánh mắt lạnh lùng sắt đá. Bằng suy luận sắc bén của một kẻ lập dị ông phải diễn trò trên cái sân khấu bất đắc dĩ để lấp đầy nỗi buồn chán và cô độc của bản thân! Đánh giá khách quan: 8.5/10 *** Trong số các thân chủ của công ty Frobisher & Haslitt, một công ty tư vấn luật nằm tại mạn đông quảng trường Russell, rất nhiều người sở hữu doanh nghiệp tại Pháp; và họ rất lấy làm tự hào về điều ấy. “Nhờ đó mà chúng tôi trở nên có chỗ đứng trong lịch sử,” ông Jeremy Haslitt vẫn hay nói. “Mọi chuyện bắt đầu từ năm 1806, khi ông James Frobisher, cộng sự cấp cao rất nhiệt huyết thời bấy giờ của chúng tôi, đã tổ chức cho hàng trăm công dân Anh bị giam giữ theo sắc lệnh của Napoleon Đệ Nhất thoát khỏi Pháp. Công ty được Chính phủ bệ hạ bày tỏ lòng cảm ơn và vẫn may mắn duy trì được mối quan hệ ấy. Tôi đích thân coi sóc mảng đó của công ty.” Bởi thế, trong số thư từ ông Haslitt nhận được hàng ngày, lúc nào cũng có một lượng lớn thư dán con tem xanh thẫm của Pháp trên phong bì. Tuy nhiên, vào buổi sáng đầu tháng Tư hôm nay, chỉ có duy nhất một bức như vậy. Chữ viết trên đó trông ngoằn ngoèo, nguệch ngoạc, và ông Haslitt không nhận ra là chữ ai. Nhưng nó mang dấu bưu điện Dijon, thế nên ông Haslitt nhanh chóng xé bao thư ra. Ông có một thân chủ ở Dijon, một góa phụ, bà Harlowe, và như ông nghe kể thì tình trạng sức khỏe của bà đang tệ lắm. Chắc chắn bức thư được viết tại nhà bà ấy, biệt thự Grenelle, nhưng không phải do đích thân bà viết. Ông lật sang phần chữ ký. “Waberski?” Ông vừa nói vừa cau mày lại. “Boris Waberski?” Và rồi ông thốt lên ngay khi nhận ra người viết thư, “À, phải rồi, phải rồi.” Ông ngồi xuống ghế và đọc. Phần đầu của bức thư chỉ đơn thuần là mấy câu văn hoa và khen ngợi, nhưng đọc được đến nửa trang hai thì mục đích của nó trở nên vô cùng rõ ràng. Đây là thư yêu cầu vay năm trăm bảng. Ông Haslitt mỉm cười và tiếp tục đọc, vừa đọc vừa độc thoại với người viết. “Tôi đang rất cần chỗ tiền đó,” Boris viết, “và…” “Hẳn là như thế rồi,” ông Haslitt nói. “Bà chị yêu quý của tôi, Jeanne-Marie…”, bức thư ghi tiếp. “Chị dâu,” ông Haslitt chỉnh lại. “… không thể sống lâu hơn được nữa, mặc dù tôi đã cố gắng chăm sóc chị ấy hết mực,” Boris Waberski tiếp tục trình bày. “Chắc hẳn ông cũng đã biết, chị ấy đã để lại cho tôi một phần lớn gia sản của mình. Vậy tức là nó đã thuộc về tôi rồi, đúng không? Có nói như vậy thì cũng sẽ không bị ai hiểu lầm ý cả. Chúng ta phải nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vậy, xin hãy ứng trước cho tôi bằng thư đảm bảo một khoản nhỏ từ phần vốn đã thuộc về tôi, và cho tôi xin được gửi lời chào trân trọng nhất.” Nụ cười của Haslitt nở rộng hẳn ra. Bên trong chiếc hộp thiếc của ông là một bản sao tờ di chúc của Jeanne-Marie Harlowe, được công chứng viên người Pháp của bà tại Dijon viết lại theo đúng thể thức. Theo di chúc, mọi gia sản bà sở hữu sẽ được truyền lại vô điều kiện cho cháu gái chồng bà và con gái nuôi của bà, Betty Harlowe. Jeremy Haslitt thiếu chút nữa thì đã đem bức thư đi hủy. Ông gập nó lại; ngón tay giật giật trên nó; thậm chí phải đến khi xuất hiện cả một vết rách bên mép mấy tờ giấy thì ông mới đổi ý. “Không,” ông tự nhủ. “Không! Với cái tay Boris Waberski này thì không ai mà lường trước được,” và ông nhét bức thư vào một ngăn trong két riêng, sau đó khóa lại. Ba tuần sau, ông rất lấy làm mừng vì đã làm như vậy. Đó là lúc ông đọc được mẩu tin thông báo bà Harlowe đã qua đời trong cột cáo phó của tờ The Times, và nhận được một tấm thiệp lớn với viền đen rất đậm theo phong cách Pháp từ Betty Harlowe, ngỏ ý mời ông đến dự đám tang tại Dijon. Tấm thiệp mời này chỉ mang tính hình thức. Ông sẽ chẳng thể nào đến kịp Dijon để tham dự, kể cả nếu có khởi hành ngay tức khắc. Ông chấp nhận chỉ viết một vài dòng thành kính phân ưu với cô gái, và gửi một bức thư đến cho ông công chứng viên người Pháp, ghi rằng công ty ông sẽ hỗ trợ Betty. Thế rồi ông đợi. “Mình sẽ lại nghe tin từ cái tay Boris kia cho xem,” ông nói, và nội trong tuần đó, ông lại nhận được thư. Chữ viết trong thư thậm chí còn loằng ngoằng và nguệch ngoạc hơn hồi trước; sự hoảng hốt và phẫn nộ đã khiến cho câu từ của Waberski loạn hết cả lên; đồng thời hắn đã đòi lượng tiền lớn gấp đôi. “Thật không thể nào tin nổi,” hắn viết. “Chị ấy chẳng để lại chút gì cho người em trai tận tụy của mình. Có trò gì đó đang diễn ra, và tôi không ưa chút nào. Giờ số tiền sẽ phải là một ngàn bảng, gửi theo đường thư đảm bảo. ‘Boris tội nghiệp của chị, em luôn bị cả thế giới này quay lưng,’ chị ấy nói trong lúc mắt ngấn đầy lệ. ‘Nhưng chị sẽ bù đắp cho em trong di chúc.’ Và giờ thì chẳng có gì cả! Tất nhiên, tôi đã nói chuyện với cô cháu gái của tôi; ôi, con bé thật cứng đầu! Nó búng ngón tay vào mặt tôi! Hành xử theo cái thể thống gì vậy cơ chứ? Một ngàn bảng, thưa ông! Bằng không là sẽ có chuyện khó xử xảy ra! Vâng! Không ai búng ngón tay vào mặt Boris Waberski mà không trả tiền cả. Thế nên hãy trả tôi một ngàn bảng gửi theo đường thư đảm bảo, không là sẽ có chuyện khó xử”; và lần này Boris Waberski không buồn gửi lời chào nào đến cho ông Haslitt cả, cho dù có là trân trọng nhất hay không, chỉ đơn giản ký bằng một nét bút ngoáy tít, nhập nhằng khắp mặt thư. Ông Haslitt không mỉm cười với bức thư này. Ông nhẹ nhàng xoa hai lòng bàn tay vào với nhau. “Thế thì chúng ta đành phải để cho chuyện khó xử xảy ra vậy,” ông nói nhanh, và rồi cất bức thư thứ hai vào cùng chỗ với bức thư thứ nhất. Nhưng ông Haslitt cảm thấy hơi khó tập trung vào công việc. Bên trong cái ngôi nhà to lớn tại Dijon là một cô gái đơn côi, và không có người đồng hương nào ở bên cô ấy cả! Ông bất chợt đứng dậy khỏi ghế và băng qua hành lang, vào trong văn phòng của người cộng sự cấp thấp. “Jim, mùa đông này cậu đã đi Monte Carlo nhỉ,” ông nói. “Đi một tuần,” Jim Frobisher đáp. “Tôi nhớ mình có nhờ cậu đến thăm một thân chủ của chúng ta, người sở hữu một biệt thự ngoại ô tại đó - bà Harlowe.” Jim Frobisher gật đầu. “Tôi đã ghé. Nhưng bà Harlowe ốm rất nặng. Có một cô cháu gái, nhưng cô ta lúc ấy đang đi vắng.” “Thế tức là cậu không gặp ai cả?” Jeremy Haslitt hỏi. “Không, không phải,” Jim chỉnh lại. “Tôi thấy một nhân vật kỳ lạ ra mở cửa và xin lỗi thay bà Harlowe. Một ông người Nga.” “Boris Waberski,” ông Haslitt nói. “Đúng cái tên đó rồi.” Ông Haslitt ngồi xuống một cái ghế. “Kể cho tôi nghe về ông ta đi, Jim.” Jim Frobisher nhìn vào hư vô một vài giây. Anh là một thanh niên hai mươi sáu tuổi, mới chỉ tham gia làm cộng sự kể từ năm ngoái. Mặc dù rất nhanh nhẹn khi cần hành động gấp, anh lại hết sức cẩn trọng khi đánh giá bản chất người khác; và anh còn rất kính nể ông Jeremy Haslitt già, thế nên cứ mỗi khi làm gì liên quan đến công việc của công ty là lại cẩn trọng gấp đôi. Một lúc sau anh trả lời. “Ông ta là một người cao lớn, đi đứng trông có vẻ nặng nhọc, bên trên một vầng trán ngắn và một cặp mắt hoang dại là một mớ tóc bạc dựng thẳng đứng như dây kẽm gai. Ông ta gợi cho tôi nhớ đến một con rối không được gắn dây tử tế lên chân tay. Tôi tin con người này có bản chất khá ngông cuồng và dễ bị kích động, ông ta cứ liên tục miết bộ ria mép với mấy ngón tay dài ngoằng, ố màu thuốc lá. Đây là cái kiểu người có thể nổi điên bất cứ lúc nào.” Ông Haslitt mỉm cười. “Đúng như những gì tôi nghĩ.” “Ông ta gây rắc rối gì cho ông à?” Jim hỏi. “Chưa đâu,” ông Haslitt nói. “Nhưng bà Harlowe đã chết, và tôi tin rằng rất có khả năng ông ta sẽ giở trò gì đó. Ông ta có hay bài bạc gì không?” “Có, chơi rất khát,” Jim nói. “Tôi đoán là ông ta sống bám vào bà Harlowe.” “Tôi cũng nghĩ thế,” ông Haslitt nói, và ông im lặng ngồi đó một lúc. Thế rồi ông nói: “Thật đáng tiếc là cậu không được gặp Betty Harlowe. Tôi từng một lần ghé thăm Dijon trên đường đi qua miền Nam nước Pháp năm năm trước, hồi Simon Harlowe, chồng bà ấy, hãy còn sống. Betty hồi đó là một cô bé chân dài gầy gò, đi tất lụa đen, sở hữu một gương mặt trắng, sáng sủa, và mái tóc đen sẫm cùng cặp mắt lớn, xinh xắn lắm.” Ông Haslitt dịch người trên ghế một cách không thoải mái. Cả một ngôi nhà cổ với khu vườn lớn đầy dẻ và sung, trong khi cô gái kia thì một thân một mình, sống cùng với một tay đầu óc có vấn đề, đang bực bội và muốn gây chuyện khó xử cho cô. Ông Haslitt không thích cái hình ảnh đó chút nào! “Jim,” ông bất chợt nói, “cậu có thể thu xếp công việc sao cho nếu cần thiết thì sẽ có thể rời đi ngay lập tức được không?” Jim ngước nhìn lên, tỏ vẻ ngạc nhiên. Loạn cào cào, như kiểu dân sân khấu hay nói, không phải là chuyện hay xuất hiện tại công ty Frobisher & Haslitt. Dù cho đồ nội thất của họ hơi xỉn màu, tác phong của họ rất trang nghiêm; thân chủ có thể gặp chuyện khẩn, nhưng vội vã và gấp gáp là những từ công ty không bao giờ sử dụng. Chắc chắn đâu đó quanh đây sẽ có một luật sư chịu hiểu cho họ. Ấy nhưng giờ đây, đích thân ông Haslitt, cùng với mớ tóc bạc trắng và gương mặt tròn trịa khác thường, nửa trẻ con, nửa thông minh xuất sắc, lại đang đề nghị cộng sự cấp thấp của mình chuẩn bị sẵn sàng để đi thẳng sang đại lục châu Âu ngay khi có lệnh. “Tôi chắc chắn có thể làm vậy,” Jim nói, và ông Haslitt nhìn anh với vẻ hài lòng. Jim Frobisher sở hữu một nét tính cách rất khác người. Ngay cả người quen của anh, cho dù có là bạn bè thân thuộc, cũng mới chỉ từng biết đến các dấu hiệu anh để lộ ra bên ngoài. Anh là một người cô độc. Cho tới nay, anh chỉ quan tâm đến một số rất ít người, và ngay cả những người ấy anh cũng chẳng thiết tha gì mấy. Đam mê của anh là được cảm thấy rằng cuộc đời mình và ý nghĩa cuộc đời mình không phụ thuộc vào người khác. Trong những tháng được rảnh rang, anh luôn theo đuổi dam mê ấy. Một chiếc thuyền buồm nửa boong* chỉ cần một người lái, một cây rìu phá băng, một khẩu súng trường, một vài cuốn sách dài bất tận, chẳng hạn như Chiếc nhẫn và cuốn sách*. Đó chính là những người bạn đồng hành của anh trên biết bao chuyến thám hiểm cô đơn, bên cạnh các vì sao và những suy tư của riêng mình. Hệ quả là anh đã tự tạo cho bản thân mình một vẻ lạnh nhạt khác thường, khiến cho anh lập tức trở nên nổi trội giữa đám đông. Đây là một diện mạo đầy vẻ dối lừa, bởi lẽ nó dễ gợi lên sự tin tưởng cho người khác, mặc dù có khi chẳng có lý do nào để họ đặt lòng tin như vậy cả. Chính cái vẻ ngoài ấy bấy giờ đã thuyết phục ông Haslitt. “Đây đích thị là một người thích hợp để đối đầu với cái ngữ như Boris Waberski,” ông nghĩ thầm, có điều không nói hẳn ra như vậy. • Thuyền buồm nửa boong; loại thuyền half-deck, phần boong chỉ kéo dài bằng nửa thân tàu, có thể nằm ở cuối hoặc đuôi tàu. • Chiếc nhẫn và cuốn sách: tức The Ring and the Book, một tiểu thuyết dài được viết dưới dạng thơ của Robert Browning. Điều ông nói là: “Có khi cũng chẳng cần thiết phải làm vậy đâu. Betty Harlowe có một luật sư người Pháp. Chắc chắn anh ta sẽ đủ sức giải quyết. Ngoài ra…” - và ông mỉm cười lúc nhớ lại một câu trong bức thư thứ hai của Waberski - “Betty có vẻ là người rất có khả năng tự bảo vệ mình. Cứ để rồi xem.” Ông quay trở lại văn phòng của mình, và suốt một tuần liền ông không nhận được thêm bất cứ tin tức gì từ Dijon nữa. Lúc ông đã gần quên đi sự lo lắng của mình thì bất thình lình, một tin động trời xuất hiện, và nó được truyền đến thông qua một kênh rất bất ngờ. Jim Frobisher là người báo tin cho ông biết. Anh xộc vào văn phòng của ông Haslitt đúng lúc người cộng sự cấp cao đang đọc cho anh thư ký ghi lại lời phúc đáp cho mấy bức thư buổi sáng của mình. “Ông Haslitt!” Jim la lên, và ngưng bặt khi nhìn thấy viên thư ký. Ông Haslitt nhìn lướt qua gương mặt người cộng sự trẻ của mình và nói: “Godfrey, lát nữa chúng ta sẽ tiếp tục trả lời thư sau.” Viên thư ký mang cuốn sổ tay tốc ký ra khỏi căn phòng, và ông Haslitt quay sang Jim Frobisher. Mời các bạn đón đọc Ngôi Nhà Mũi Tên của tác giả A. E. W. Mason.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Chết Như Chơi - Agatha Christie
Chết Như Chơi (Murder is Easy) là tác phẩm tiểu thuyết trinh thám của Agatha Christie và được xuất bản lần đầu tiên ở Anh bởi Collins Crime Club vào ngày 5 tháng 6 năm 1939 và tại Hoa Kỳ bởi Dodd, Mead và Company vào tháng 9 cùng năm với tiêu đề Easy to Kill. Những vụ án mạng hàng loạt mà thủ phạm là nhân vật không ai ngờ đến. Một câu chuyện hồi hộp, kỳ bí, rùng rợn nhưng cũng đầy lãng mạn.  "...Waynflete cúi người xuống, nhếch mép cười, ánh mắt cuồng loạn... Lưỡi dao sáng quắc... Hai bên quần thảo, Bridget cố giật lấy con dao trên tay Wayflete..." *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. Mời các bạn đón đọc Chết Như Chơi của tác giả Agatha Christie.
Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn
Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean - một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym - bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng, song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Anh dần phát hiện ra một đường dây buôn bán ma túy diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phương tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma túy đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhận ma túy. Một hệ thống chặt chẽ cho từng công đoạn buôn bán ma túy đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn ngụy trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. Bằng những tình tiết nhẹ nhàng và thấm đẫm chất nhân văn, Dorothy Sayers đã dựng nên một Wimsey với khả năng suy đoán sắc sảo, kinh nghiệm điều tra dày dạn, và lòng nhân ái; với các biện pháp nghiệp vụ, anh đã thâm nhập vào hang ổ bọn tội phạm. Chỉ trong một thời gian ngắn, đường dây buôn bán ma túy của bọn chúng dần dần bị phát lộ, vụ án đã được phá và để lại trong người đọc những tình cảm tốt đẹp... Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách với bạn đọc! NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN *** Dorothy Leigh Sayers (1893 - 1957) được độc giả yêu mến gọi là Dorothy L. Sayers. The Nine Tailors kể về câu chuyện Lord Peter Wimsey giải quyết tội ác mà không phải ai cũng làm được. Một tai nạn đáng tiếc xảy ra đối với Dean – một biên tập viên của hãng quảng cáo Pym – bị ngã từ trên tầng xuống và chết ngay vì gãy xương cổ và rách vùng thái dương. Mọi việc cứ bình lặng trôi và cái chết của anh ta cũng dần trôi vào quên lãng song có một người không nghĩ vậy. Em gái Dean đã nghi ngờ và cho rằng anh mình bị ám sát. Thám tử Peter Wimsey được mời về hãng điều tra. Thám tử Peter  dần phát hiện ra một đường dây buôn bán trao đổi, buôn bán ma tuý diễn ra khởi nguồn từ chuyên mục quảng cáo của hãng Pym. Vụ án xảy ra trong một xã hội thương mại phát triển mạnh, quảng cáo là phường tiện được mọi người quan tâm sử dụng để truyền bá, khuếch trương, tìm tòi và giao lưu tin tức. Bọn tội phạm ma tuý đã tận dụng và khai thác triệt để mặt mạnh này. Thông qua cách thức quảng cáo một mặt hàng, chúng đã thông báo, phối hợp với nhau thời điểm và địa chỉ mua bán giao nhân ma tuý. Một hệ thống chặt chẽ cho từng  công đoạn buôn bán ma tuý đã được thiết lập, không từ một thủ đoạn nào, những ai phát hiện ra sẽ bị thủ tiêu không thương tiếc. Mọi thủ đoạn nguỵ trang, ẩn mình của chúng, cảnh sát không dễ gì phát hiện. *** - A này, - Hankin níu lấy cô Rossiter ngay trên lối đi và nói. - Cô có biết hôm nay chúng ta có một biên tập viên mới về không? - Thế là thế nào ạ? - Một anh chàng Bredon nào đó. Tôi cũng chẳng biết anh ta là ai nữa. Anh ta được ban giám đốc tuyển dụng, chính ông Pym dẫn vào. Các bạn sẽ phải quan tâm đến anh ta đấy. - Vâng, thưa ông Hankin. - Phải xếp cho anh ta ngồi làm việc ở phòng của Dean. - Vâng, thưa ông Hankin. - Chính anh chàng Ingleby là người chịu trách nhiệm phải cho anh ta biết mọi việc ở đây, hẳn là cô đã muốn điều này xảy ra và đẩy anh ta đến với tôi còn gì. - Vâng, thưa ông Hankin. - Bây giờ cô hãy bảo cô Smayle mang lại cho tôi hồ sơ của văn phòng Dairefield được không? - Vâng, thưa ông Hankin. Cô Rossiter ôm lấy cuốn vở ghi chép của mình và với tay kéo cánh cửa khép lại phía sau, rồi nhẹ nhàng bước dọc theo hành lang. Liếc nhìn qua những ô kính trên cánh cửa ra vào của phòng làm việc cạnh đó, cô nhận ra Ingleby đang ngả người trên chiếc ghế bành, hai chân gác trên bộ tản nhiệt của lò sưởi, vừa nói chuyện phiếm với một cô gái mặc bộ đồ xanh, ngồi chênh vênh trên một góc bàn làm việc. Cô Rossiter đẩy cho cửa hé ra và nói với vào: - Xin lỗi đã làm phiền hai vị, - Cô ta nói với vẻ tinh nghịch. - Nhưng ông Hankin cho gọi anh, anh Ingleby ạ! - Tôi đoán chắc lại có chút cà phê Scout gì đây. - Ingleby nghi ngờ đáp. - Không phải thế đâu. Ông ấy muốn gặp anh vì một biên tập viên mới. - Sao cơ? Đã có người thay Dean rồi sao? - Cô gái mặc bộ đồ xanh ngạc nhiên kêu lên. - Người ta vừa mới mai táng người giúp việc đáng thương của mình chẳng được bao lâu mà! - Ồ, cô em gái thân mến, đó là hành vi hiện đại đấy. - Ingleby nói. - Cuối cùng thì... Tôi sẽ cho anh chàng mới này biết mọi thứ. Tôi cứ tự hỏi là tại sao người ta lại cứ bắt tôi phải làm cái trò ngu ngốc này mãi chứ? Cô gái nhún vai: - Ồ, công việc của anh cũng chẳng phức tạp gì lắm đâu... Người mới xin vào đây chỉ cần biết hai điều, đó là sử dụng những chiếc chậu rửa tay đặt trong toa lét cạnh phòng làm việc của ban giám đốc và phải thật cẩn thận đừng để ngã mà vỡ mật trong chiếc cầu thang nhỏ bé kia thôi! - Cô Metayard, cô thật tệ... Miễn là cô đừng có xếp cho anh chàng mới về đó ngồi chung phòng với tôi đấy nhé... - Không phải lo, - Cô Rossiter nói chen ngang. - Bọn em sẽ xếp cho anh ta ngồi trong phòng của chàng Dean. - A, thế ra cô đã thấy anh ta rồi sao? Trông anh ta thế nào? - Em cũng chưa thấy anh ta mà, ông Hankin nói với em là bản thân ông ta cũng chưa biết mặt anh chàng mới này, chính ông Pym là người nhận anh ta về đây làm việc. - Tôi nghĩ là đã thấy anh ta lúc nãy rồi, - Cô Metayard nói - anh ta có mái tóc như con gái, đeo kính gọng đồi mồi, dáng vẻ điệu đà, là thứ người dành cho ảnh viện. Ingleby lại tiếp tục công việc của mình, còn hai cô gái rời chỗ đứng, đi về phía căn phòng các nhân viên đánh máy. Căn phòng này, cũng nhỏ và chật chội, là một thứ đại để như một thứ Phòng-Chờ hay Phòng-Đợi gì đó của hãng quảng cáo, nơi mà mọi người đều có thể lai vãng qua lại để bàn luận về mọi thứ trên đời vì bất kỳ một lý do nào đó. Vào lúc này, cuộc họp càng long trọng thì lại càng ồn ào hơn, vì giờ uống cà phê thường lệ đã đến và vì người ta đã chuẩn bị số lượng phiếu phát ra cho cuộc xổ số ngay trước lúc cuộc đua ngựa của Derby bắt đầu. Đó là một ngày lễ nhỏ hàng năm, qua đó tất cả mọi nhân viên của cơ quan đều được chia sẻ những cảm xúc dân tộc của mình bằng việc mua hàng hoá theo khả năng của mỗi người. Một nữ nhân viên đánh máy, cô Parton, đôi mắt nheo tít lại vì khói từ đầu điếu thuốc cô đang ngậm trên môi phả vào mặt, đang gõ liên hồi tên những con ngựa tham gia thi đấu, do một cô khác đọc. Willis cắt rời tên từng người góp tiền cá cược và xếp vào trong một chiếc mũ. Người đồng chí của cô, Garret, ngồi trên một chiếc giỏ bằng giấy úp ngược, đang buông lời nhạo báng một anh chàng to con, tóc đen, nằm ngả người trong chiếc ghế bành, chăm chú đọc một cuốn tiểu thuyết. Cuối cùng, một cặp đứng tựa vào hai thanh cái của cánh cửa ra vào, vừa hút thuốc lá, vừa tranh luận về cuộc đấu cuối cùng trên sân Wimbledon. - Chào các cô cậu bé bỏng tốt bụng. - Cô Rossiter vui vẻ nói. - Đây là cô Metayard, người sẽ tiến hành xổ số và... tôi cũng báo để các bạn biết là chúng ta sẽ có một biên tập viên mới... - Ngừng một lát, rồi cô nói tiếp. - Hãy nghe một chút đây, ai là người còn chưa đóng góp phần mình cho vòng hoa viếng anh Dean đáng thương đây? Này Garret, cậu sẽ trả công cho tôi chứ? - Tôi sẽ chẳng trả cho chị một đồng xu cạch nào trước ngày thứ bảy. - Anh chàng Garret nói cộc lốc. - Thế còn cà phê này thì sao đây? - Cô Willis hỏi. - Nào, Jones, hãy xem đây, nếu như người phụ việc đem danh mục đến, thì cô, cô em thân mến, cô hãy đánh dấu tên trong danh mục đó với tôi. Chúng ta hãy tiếp tục chọn những con ngựa đã được giao ước... - Hiệp đấu dự định đã bị tuyên bố bãi bỏ rồi, - Garret nói. - Bãi bỏ là thế nào?... thôi được, tôi đã cho ông ấy thắng trong cuộc thi của tờ Morning Star... Ai đã nói cho ông ấy vậy? - Tất cả đều đăng trên mặt báo sáng nay, có một sự cố trong đàn ngựa đua. - Chán không thể chịu được! - Cô Rossiter bật ra tiếng than vãn. - Mình lại vừa mất một cuộc thi hay. Và quay về phía chú bé phụ việc mang cà phê tới, cô ta nói: "Này, cậu có thấy chị dại dột không cơ chứ? Có chứ nhỉ? Đấy, đây mới là điều quan trọng này: bao nhiêu? Một si-ling ăn năm phải không nào? Này cô Parton, cô hãy nói xem, đồng ý cho chị vay một pen-ny đi. Còn bây giờ, ai có bút chì, hãy viết tên của nhân vật mới đó đi xem nào? - Tên anh ta là gì nhỉ? - Bredon. - Anh ta từ đâu đến? - Ông Hankin chẳng biết gì hết trọi; nhưng cô Metayard, người đã nhìn thấy anh ta lại khẳng định rằng trông anh ta giống như một nhân vật của ngành điện ảnh vậy. - Đó là một kẻ ngu ngốc đã giành mất những gì mà chỉ mới ngày hôm qua thôi vẫn còn là của Derby. Với địa vị của anh ta, thì ngày kia tôi mới đến nhận nhiệm vụ. A! Ingleby đến kia rồi, tin gì anh ta cũng biết tuốt, chắc hẳn anh ta đến nói cho chúng ta đây. Này Ingleby, uống cà phê chứ? Hẳn là cậu có nguồn tin về cái anh chàng có tên là Bredon chứ? - Tóc hoe vàng này, dáng dấp thì cao một mét bảy lăm, mũi dài ngoẵng này, chưa bao giờ làm công tác quảng cáo và đã qua đại học Oxford. - Ô là la!... - Cô Metayard kêu lên. Đúng lúc đó, cánh cửa bật mở và tất cả nghe thấy giọng nói khôi hài của ông Hankin, thủ trưởng của bộ phận. - Này, Ingleby, anh có để cho tôi nói một lát không đây? Ngay tức thì, như có một phép màu, hai người đứng tựa cửa và cô gái đang đọc văn bản cho cô Parton đang đánh máy kia, đều lẩn đâu mất tăm. Còn Willis vớ ngay lấy một tờ giấy và cắm mặt vào đó nghiên cứu với vẻ vô cùng chăm chú, say mê; điếu thuốc lá cô Parton đang hút dở, vụt biến mất. Chỉ còn mình Garret, không kịp tống khứ tách cà phê của mình đi đâu, liền ra vẻ dửng dưng, cô Metayard để tờ danh sách ngựa lên một chiếc ghế tựa và ngồi đè lên, còn cô Rossiter gõ liên hồi trên bàn phím chiếc máy chữ. Như vậy, chỉ còn mỗi mình lngleby là vẫn coi thường sự có mặt của sếp lớn. Anh này cậy có mưu cao, biến báo giỏi, lúc này quay ngay về phía tiếng nói vọng lại với nụ cười kiêu kỳ nở rạng trên môi, đáp lại tiếng của sếp và bước ra hành lang đón ông ta. Hankin đi cùng biên tập viên mới, ông ta nói: - Xin giới thiệu với các bạn đây là anh Bredon, - Ông ta nói, tỏ ra không có điều gì bất thường. - Anh Ingleby, tôi mong anh cho anh đây rõ mọi sự trong cơ quan ta. Tôi vừa cho mang đến phòng làm việc của anh toàn bộ các hồ sơ sản phẩm. Ông ta quay sang phía Bredon. - Anh hãy cố làm cho chúng tôi những chiếc cột quảng cáo thật rực rỡ. Đó là món quà có ý nghĩa nhất cho sự ra mắt đồng thời cho sự khởi đầu công việc của anh. Một khi anh có ý tưởng nào đó, hãy tới phòng làm việc của tôi, trình bày cho tôi rõ. - Hẳn là vậy rồi. - Bredon trả lời. Ông Hankin quay người, bước đi như đang nhảy một vũ điệu. - Còn bây giờ, - Ingleby bước vào phòng đánh máy vừa dắt theo biên tập viên mới, vừa nói: - Ngay bây giờ, tôi xin giới thiệu các bạn với anh Bredon. Trước hết, đây là cô Rossiter và cô Parton, hai thiên thần hộ mệnh của chúng ta. Chúng ta chỉ cần viết, còn các cô sẽ gõ thành văn bản và sửa lỗi chính tả, hai cô còn cấp phát cho chúng ta đồ dùng văn phòng phẩm và cả cà-phê nữa. Cô Parton có bộ tóc hoe vàng, còn cô Rossiter, có mái tóc đen. Mời các bạn đón đọc Thám tử Peter và Cái Chết Bí Ẩn của tác giả Dorothy L. Sayer.
Cánh Cửa Mặt Trăng - Asami Ishimochi
Vào ngày xảy ra hiện tượng nguyệt thực toàn phần, khi mặt trăng bị che khuất hoàn toàn, cánh cửa dẫn tới một thế giới khác tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn sẽ mở ra. Ishimine Takashi muốn bước qua cánh cửa đó và sống mãi mãi hạnh phúc cùng những học trò của ông. Nhưng một rủi ro đáng tiếc đã xảy ra khiến ông bị bắt trước thời điểm quan trọng đó đúng ba ngày. Ba người học trò thân tín nhất của Ishimine lên một kế hoạch táo bạo – cướp máy bay – nhằm mục đích buộc Sở cảnh sát tỉnh Okinawa phải thả Ishimine vào đúng buổi tối diễn ra nguyệt thực toàn phần. Liệu kế hoạch của họ có thành công? Liệu Ishimine và những học trò của ông có kịp bước qua khi cánh cửa mặt trăng mở ra? Một câu chuyện mang nhiều tình tiết kỳ lạ và bí ẩn với cái kết đầy ly kỳ sẽ khiến bạn không thể rời mắt khỏi từng trang sách. *** Cánh cửa mặt trăng - Asami Ishimochi Cảm nhận đầu tiên sau khi đọc xong: Tuyệt vời Đọc những dòng đầu tiên tôi suýt nữa không nhận ra đây là truyện Nhật bởi lối viết rất lạ, nội dung hấp dẫn. Cuốn truyện kể về hành động táo bạo của ba người học trò của Ishimine Takashi, với ước nguyện "sư phụ" sẽ dẫn được mình và những người của hội trại mở ra cánh cửa mặt trăng vào ngày nguyệt thực toàn phần, tất cả sẽ tới một thế giới khác tốt đẹp và hạnh phúc hơn. Có lẽ đây là một đề tài lạ. ( SPOIL: Ishimine Takashi là người tổ chức hội trại nhằm "hàn gắn tổn thương tâm lý của thiếu niên", ông đã cứu giúp được nhiều người nhưng vì một lý do ngoài ý muốn nên bị tạm giam trước ngày mở ra cánh cửa mặt trăng, cánh cửa đi tới cõi vĩnh hằng.) Cuốn truyện chỉ chia làm hai chương: chương mở đầu và chương kết thúc, một điểm lạ trong cách thể hiện truyện, nhưng có lẽ đã thực hiện được đúng "âm mưu" của tác giả và biên tập: mạch truyện cuốn người đọc. Đọc truyện như không thể dứt ra được để đi làm việc khác, đơn giản mà cuốn hút, tình tiết kỳ lạ và bí ẩn. Tác giả viết đan xen giữa thực tại và hồi tưởng, sự kỳ bí trong tâm lý nhân vật. Tôi không phải fan ruột của các tác phẩm trinh thám nên đánh giá yếu tố trinh thám của tác phẩm khá là ổn, lập luận logic. Kết thúc truyện khá bất ngờ, nhưng đủ làm độc giả thỏa mãn, có lẽ nếu còn gì tiếc nuối thì chỉ là gợi nhiều hơn đào sâu vào sư phụ Ishimine Takashi. Giấy ổn, cỡ chữ đủ to rõ ràng dễ đọc, bìa siêu đẹp Tôi là người tốt nên đánh giá 9/10 :)) Review Linh Lee *** Định nghĩa hạnh phúc mà ta vẫn biết là định nghĩa của thế giới, ngay từ khi sinh ra ta đã bị áp đặt và mải miết chạy theo nó. Nhưng hạnh phúc có thực sự là “hạnh phúc”? Cánh cửa mặt trăng là câu chuyện lạ kỳ, khó có thể phân định rạch ròi đây là một tác phẩm trinh thám hay một cuốn tiểu thuyết giả tưởng đậm chất trinh thám. Chỉ có điều, một khi đã bắt đầu với câu chuyện này, thật khó để dứt ra khỏi những trang sách cho đến khi đọc dòng kết để trả lời cho câu hỏi “Liệu có thật hay không, một thế giới tái sinh - nơi con người ta sẽ vĩnh viễn hạnh phúc?” Nhân vật chính trong cuốn sách là cô gái 24 tuổi Satomi, người đàn ông Makabe 37 tuổi và Kakizaki 46 tuổi. Họ đều là tình nguyện viên trong một hội trại dành cho những em nhỏ không thể hòa nhập với xã hội. Nhiều năm trước, họ cũng nằm trong số những người đã tham gia hội trại này và được người thầy Ishimine Takeshi chữa lành tổn thương. Từ đó, họ vẫn luôn gọi người đàn ông có khả năng hàn gắn vết thương tâm hồn ấy là “sư phụ”. Cả ba người Satomi, Makabe và Kakizaki đều mong ước sẽ cùng với sư phụ của họ bước đến một thế giới khác thông qua cánh cửa mặt trăng. Họ đã tin rằng: “Vào ngày xảy ra hiện tượng nguyệt thực toàn phần, khi mặt trăng bị che khuất hoàn toàn, cánh cửa dẫn tới một thế giới khác tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn sẽ mở ra”.  Họ lấy đó làm mục tiêu sống của mình trong những ngày còn lại trước khi nguyệt thực diễn ra. Thế nhưng, chỉ 3 ngày trước ngày đã định, sư phụ Ishimine Takeshi đột nhiên bị cảnh sát bắt vì một tội mà ông không hề làm. Với khao khát từ bỏ thế giới này, ba con người đã lên kế hoạch tỉ mỉ về một vụ cướp máy bay, bắt các hành khách làm con tin để đe dọa cảnh sát phải đưa Ishimine Takeshi đến gặp họ. Kế hoạch tưởng như diễn ra đúng như dự đoán, nhưng không ngờ, cái chết đột ngột, không rõ ràng của một con tin trong số 240 hành khách trên máy bay đã làm mọi sự vượt cả tầm kiểm soát… Trong phòng vệ sinh của máy bay, một người phụ nữ nằm trong vũng máu. Tắc thở. Trong tất cả hành khách, phi hành đoàn đều đang ngồi yên trước sự chứng kiến của ba kẻ bắt cóc. Là chị ta đã tự sát? Có thể nào còn một kẻ khả nghi đã ẩn nấp trong máy bay từ trước? Hoặc tên giết người, thậm chí có thể ra tay ngay cả khi không cần trực tiếp đối mặt với nạn nhân? Và cái chết đột ngột của người đàn bà liệu có làm chùn chân những kẻ bắt cóc không-định-giết-người? Với cách kể xen kẽ giữa hiện tại và quá khứ, câu chuyện của nhà văn Ishimochi Asami dẫn dắt người đọc vào từng chi tiết diễn biến. Từ cách mà ba nhân vật chính chuẩn bị cho cuộc “không tặc” của họ.  Họ mang theo vũ khí đi qua được cửa kiểm soát, phương án dự phòng không kẽ hở để bắt con tin, gửi tin cho báo chí để tạo sức ép dư luận lên phía cảnh sát... cho đến cách các nhân vật suy luận để lật từng lớp từng lớp bí ẩn của vụ án bất ngờ trên máy bay. Tất cả vụ việc hé mở từng chút một, bao gồm cả diễn biến của cuộc không tặc lẫn nguyên nhân cội nguồn của tất cả. Cùng với diễn biến của sự việc, cảm xúc và tâm lý của từng nhân vật cũng dần bộc lộ. Trong đó, quan điểm về thế giới hạnh phúc vĩnh hằng được đưa ra cũng khiến người đọc phải suy nghĩ: “Mọi người đã sinh ra trong cuộc đời này, phải đuổi theo niềm hạnh phúc theo cách của thế giới này”. Định nghĩa về hạnh phúc mà chúng ta vẫn biết là định nghĩa của thế giới, của đám đông, ngay từ khi sinh ra ta đã bị áp đặt những định nghĩa đó lên mình và mải miết chạy theo nó. Nhưng hạnh phúc có thực sự là “hạnh phúc”? Với những người như Satomi, Makabe và Kakizaki, hạnh phúc vĩnh hằng là “có thể đi đến được “phía bên kia’”, là “rời khỏi thế giới với vô số những thứ dơ bẩn đang tích tụ, để đến một thế giới tĩnh lặng”- một “thế giới hòa bình nơi chỉ có sự trong sạch”. Cánh cửa mặt trăng đã được xuất bản tại Nhật vào năm 2003. Tác phẩm được đề cử giải thưởng của Hội Nhà văn Trinh thám Nhật Bản. Đây cũng là tác phẩm thứ hai của tác giả Ishimochi Asami sau truyện dài Đóa hồng Ireland được đề cử giải KAPPA-ONE của Nhà xuất bản Kobunsha.   Mời các bạn đón đọc Cánh Cửa Mặt Trăng của tác giả Asami Ishimochi.
Tôi Du Hành Một Mình - Samuel Bjørk
Sáu năm trước, một bé gái sơ sinh bị bắt cóc tại bệnh viện Ringerika ở Honefoss. Sáu năm sau, một bé gái sáu tuổi bị treo lơ lửng trên cây bởi sợi dây nhảy quanh cổ. Cô bé mặc kiểu váy búp bê kỳ lạ. Trên ngực đeo mảnh giấy ghi dòng chữ: Tôi du hành một mình. Khi đó, Mia Krüger, nữ cảnh sát điều tra tài năng, đang ẩn mình trên hòn đảo cô lập ngoài biển. Đắm chìm trong ký ức buồn đau, cô đã tự ấn định thời hạn cuộc đời mình. Bất ngờ, Holger Munch xuất hiện, đem theo những bức ảnh. Khi nhìn thấy số 1 khắc trên móng tay bé gái, Mia biết đây mới chỉ là khởi đầu một chuỗi án mạng bi thảm. Và dù không còn thiết tha cuộc sống, cô nhận lời trở về Oslo, cùng đồng đội đối đầu tên sát nhân xảo trá từng phút giây nghẹt thở… cho đến tận kết thúc sững sờ! Tiểu thuyết Tôi Du Hành Một Mình được dịch ra 22 thứ tiếng trên thế giới, được nhiều tạp chí có uy tín xếp vào danh mục sách bán chạy của thế giới, đứng đầu danh sách sách bán chạy của báo Đức Der Spiegel. *** “Nếu đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay, nó chẳng khác nào một hiện tượng văn chương.” – Bergens Tirende (Na Uy) “Một hơi thở mới trong cộng đồng văn học trinh thám đông đúc của vùng Scandinavia, cuốn tiểu thuyết hồi hộp sẽ cuốn hút độc gia, khiến họ nôn nóng không yên đến tận trang cuối cùng.” – Library Journal *** Một bé gái được phát hiện chết trong tư thế bị treo cổ, mặc một chiếc váy búp bê màu trắng và đeo cặp sách chuẩn bị lần đầu tiên đi học. Mia Kruger, một nữ điều tra viên tài năng đang có ý định tự kết liễu chính mình đã hoãn lại ý định và trở lại với công việc cùng đội trọng án khi phát hiện rằng cái chết của đứa bé này chỉ là khởi đầu cho một loạt bi kịch. Truyện được kể từ rất nhiều góc nhìn của nhiều nhân vật, mỗi nhân vật giữ một mảnh ghép nhỏ để những điều tra viên tìm ra và lắp ghép chúng thành một bức tranh hoàn chỉnh. Cách này vừa giúp tạo ra cái nhìn đa diện và toàn cảnh cho vụ án vừa là cách tung hỏa mù khá sơ đẳng để người đọc tha hồ đoán già đoán non – nhưng đừng nên đoán quá sớm. Tuy nhiên viết kiểu này dễ gây cảm giác khó chịu dông dài và tác giả đã vướng phải lỗi đó. Quá nhiều nhân vật và góc nhìn sinh ra quá nhiều sự kiện và mâu thuẫn mà đến cuối cùng thì tác giả đã không xử lý hết và để lại một cái kết dở dang. Khu nhà thờ với những nhân vật bí ẩn sau đó như thế nào? Phát súng giết người kia cũng không liên quan đến mạch truyện chính, mối liên kết giữa nhà thờ và thủ phạm cũng khá yếu, kể cả động cơ của thủ phạm liên quan đến vụ án mất tích sáu năm về trước cũng không thuyết phục. Văn phong bình thường không có gì chê cũng không có gì khen, không hề hài hước ở những đoạn nên hài hước, không khí toàn truyện cũng không gây cảm giác lạnh lẽo rùng mình cần có. Mạch truyện rất chậm ở phần đầu do dàn trải qua nhiều góc nhìn, đến phần cuối thì lại kết thúc vội vã cho xong truyện. Việc chuyển góc nhìn qua nhiều nhân vật làm cảm xúc bị ngắt quãng nên rất khó tạo sự hồi hộp. Tâm lý nhân vật quá bình thường nếu không muốn nói là còn hời hợt. Hai điều tra chính của truyện là Mia và cấp trên Holger Munch được xây dựng là những người tài năng, thông minh và nhiều kinh nghiệm nhưng những gì họ thể hiện trong phần này chưa xứng tầm với lời khen đó. Mia đôi khi có linh cảm rất tốt và theo đuổi đúng hướng vụ án nhưng tâm trí bị vướng bận quá nhiều trong chứng nghiện rượu và thuốc nên chưa thể hiện được hết bản lĩnh, đã thế còn bị thủ phạm khống chế hoàn toàn. Thủ phạm không phải là quá thông minh mà ăn điểm ở việc lên kế hoạch kỹ càng, và cứ thế nghiễm nhiên qua mặt hết cả đội trọng án.    Quyển sách dừng lại ở mức bình thường, motif không mới mẻ, không có gì quá ấn tượng đặc sắc để có thể tự tin giới thiệu đến người khác. Đánh giá: 3/5. Yêu thích: 2.5/5. Review Winny Nguyễn Mời các bạn đón đọc Tôi Du Hành Một Mình của tác giả Samuel Bjørk.