Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thám Tử Rời Sân Khấu - Agatha Christie

Thám tử rời sân khấu (Curtain: Poirot's Last Case hoặc Curtain) là một tiểu thuyết hình sự của nhà văn Agatha Christie được hãng Collins Crime Club xuất bản lần đầu tại Anh tháng 9 năm 1975. Đây là tiểu thuyết cuối cùng của Agatha Christie về nhân vật thám tử Hercule Poirot cũng như Arthur Hastings với bối cảnh là điền trang Styles, nơi từng diễn ra vụ án đầu tiên trong loạt truyện về Hercule Poirot. Tác phẩm này được Agatha Christie viết từ đầu thập niên 1940 trong thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai với ý định làm đoạn kết cho toàn bộ loạt truyện về Hercule Poirot, nữ nhà văn giữ nó trong nhà băng suốt hơn 30 năm rồi mới cho ấn hành chỉ một năm trước khi bà qua đời. *** Ghi chú của đại úy Arthur Hastings Bốn tháng sau cái chết của Hercule Poirot một văn phòng luật gia mời tôi đến gặp tại trụ sở. Tại đây, họ làm theo yêu cầu của khách hàng của họ, trao cho tôi một phong bì kín, bên trong có văn bản mà tôi chép lại sau đây: Văn bản của Hercule Poirot Bạn thân mến, khi anh đọc những dòng này, tôi đã mất được bốn tháng. Tôi chần chừ không muốn viết, nhưng sau lại thấy cần phải nói cho ai đó biết sự thật về những gì xảy ra ở Styles. Chắc rằng đến lúc đọc bài này, anh đã đặt ra đủ các loại giả thuyết một cách chật vật hòng đi đến kết quả. Song xin nói để anh biết rằng lẽ ra anh đã sớm tìm ra sự thật, vì tôi đã cố ý cung cấp những dấu hiệu để dẫn anh tới đó. Nếu anh chưa tìm ra được, ấy là tại vì bản chất anh quá tin người, trước sau anh vẫn vậy! Ít nhất anh cũng phải biết ai đã giết Norton chứ, dù là còn tù mù về cái chết của Barbara Franklin. Nhưng hãy nói từ đầu. Tôi mời anh đến Styles, nói là tôi cần anh. Đó là sự thực. Tôi bảo anh phải là tai, là mắt cho tôi. Đó cũng là sự thực, nhưng có lẽ không hẳn theo nghĩa mà anh hiểu. Anh phải nhìn thấy những gì tôi muốn anh nhìn, nghe thấy những gì tôi muốn anh nghe. Anh phàn nàn về chuyện tôi không nói thật hết với anh khi trình bày vụ việc. Đúng, tôi không chịu nói rõ lai lịch tên X. Nhưng tôi phải làm thế, mặc dù ở đây cũng vậy, lý do tôi viện ra với anh không phải là lý do thực. Lý do thực, rồi anh sẽ hiểu ngay bây giờ. Tôi đã chuyển cho anh bản tóm tắt năm vụ án khác nhau. Tôi đã nêu bật nhận xét rằng trong mỗi vụ án đó, người bị kết án hoặc bị nghi ngờ dường như không phải thủ phạm thực. Tôi lại nêu rõ một điều quan trọng nữa, trong mỗi vụ, X đã có mặt tại chỗ hoặc ở quanh quẩn đâu đó. Anh đã vội suy diễn ngay ra một điều, trớ trêu thay, vừa đúng vừa sai. Anh nghĩ X là người đã trực tiếp phạm các tội ác đó. Nhưng bạn ơi, hoàn cảnh xảy ra là trong mỗi vụ, duy nhất chỉ có người bị kết tội mới có cơ hội làm việc đó. Như vậy, sẽ giải thích sự có mặt của X như thế nào? Trừ phi là người có dính dáng đến cảnh sát hoặc là một nhóm người quyền chức sa đọa, rất khó cho một người nào lại dính liên tiếp đến năm vụ án khác nhau. Điều đó không thể xảy ra anh hiểu không? Không ai lại đến gặp anh mà nói: "Tôi trực tiếp quen biết năm kẻ giết người". Không, không thể có như vậy. Thực ra, chúng ta đứng trước một hiện tượng xúc tác kỳ cục. Phản ứng giữa hai chất chỉ xảy ra khi có mặt chất thứ ba, chất này có vẻ như không đóng vai trò gì và không hề bị biến đổi. Tình hình là như thế: khi X có mặt, là án mạng xảy ra, nhưng X không mó tay trực tiếp. Đây là một tình hình kỳ lạ, hoàn toàn bất bình thường. Và tôi hiểu ra là vào cuối đời, mình đã gặp một hung thủ tạm gọi là "hoàn hảo" hắn đã thực thi một kỹ thuật tinh vi làm cho hắn không bao giờ có thể bị vạch mặt. Kỹ thuật đó là đáng ngạc nhên, nhưng không mới. Đã có những trường hợp tương tự. Và đây là một chỉ dẫn đầu tiên tôi để lại cho anh. Vở kịch Othello. Trong kịch này, có một điển hình như hệt X. Đúng, Iago là tên giết người hoàn hảo. Cái chết của Desdémone, của Cassio rồi của cả Othello nữa, là những tội ác của Iago do hắn trù liệu. Vậy mà không ai chịu nghi ngờ hắn. Lẽ ra hắn còn được "tại ngoại" mãi, cho đến khi người đồng hương vĩ đại của anh - thi hào Shekaspeare - phải dùng đến một biện pháp thô thiển nhất, là đưa chiếc khăn tay ra mới lật mặt được hắn. Phải, án mạng được nâng lên thành nghệ thuật hoàn hảo. Không có một lời kích động trực tiếp nào. Iago còn khéo léo ngăn mọi người chớ dùng bạo lực và gieo mối nghi ngờ vào lòng người khác rồi lại làm bộ gân cổ bác bỏ! Cách làm ấy ta lại thấy trong màn ba tuyệt vời của vở John Fergueson, trong đó chàng ngố Clutie John kích động người khác giết người mà hắn không ưa. Kiểu gợi ý về tâm lý đó là một công trình tuyệt hảo. Anh Hastings, anh cần hiểu điều này: mỗi người chúng ta đều là một hung thủ tiềm ẩn. Trong mỗi chúng ta thỉnh thoảng lại nỗi lên sự muốn giết nhưng không nhất thiết kèm theo sự dám giết. Đã bao lần ta nghe thấy người này người kia nói: "Mụ ấy làm tôi tức lộn ruột, muốn giết mụ ngay lập tức!" - "Tôi sẽ giết nếu nó dám nói thế!" - "Tôi ấy à, tôi sẽ bẻ gẫy cổ hắn!" Nhưng lúc đó, ý của ta thật rõ ràng: muốn giết cho chết. Nhưng ta không làm việc ấy, vì lý trí ta không đồng tình với tình cảm. Ở trẻ nhỏ cái máy hãm lý trí ấy có khi không hiệu quả. Tôi biết một thằng bé bực mình với con mèo, thốt lên: "Nằm im, không tao đập cho một cái vào đầu chết tươi!". Nói rồi làm thật. Để sau đó mới hoảng hồn vì con mèo đẵ chết. Vì thật ra, thằng bé rất yêu con vật ấy. Tóm lại trong mỗi chúng ta đều có một tên hung thủ nằm ngủ. Và nghệ thuật của X không phải chỉ gợi lên ý muốn mà còn thủ tiêu sự kháng cự của lý trí. Nghệ thuật đó được rèn giũa trải qua thực tế lâu dài. Hắn biết dùng một từ chính xác, một câu nói thích hợp, giọng nói tính toán làm sao để gây áp lực liên tục lên một điểm yếu! Trong khi đó, nạn nhân không ngờ vực chút nào. Đây không phải là thôi miên; thôi miên chưa chắc đã ăn. Nó là một cái gì lắc léo hơn, đáng sợ hơn: sự tập hợp tất cả sức lực của một con người để mở rộng một khe hở chứ không bịt nó lại. Anh phải biết điều đó chứ, vì nó đã xảy ra với anh. Có thể anh đã bắt đầu hiểu ý nghĩ một số nhận xét của tôi mà anh cho là lạ. Khi tôi nói có một vụ án sắp xảy ra không phải lúc nào tôi cũng ám chỉ một vụ giống nhau. Tôi nói rằng tôi đến Styles nhằm một mục đích nhất định, vì ở đó sắp xảy ra án mạng. Và anh đã hết sức ngạc nhiên thấy tôi đoán chắc như thế. Nhưng sở dĩ tôi chắc như vậy, vì vụ án mạng đó sẽ do tôi tiến hành. Phải, kỳ lạ thật, anh nhỉ. Và kinh khủng nữa. Tôi là người phản đối tội ác, người luôn luôn tôn trọng cuộc sống con người, thế mà tôi lại kết thúc sự nghiệp của mình bằng gây ra án mạng! Hay bởi tôi quá đạo đức giả, quá ý thức về sự ngay thẳng của mình mà cuối cùng phải đứng trước sự lựa chọn sinh tử đó. Vì, anh Hastings ơi, bao giờ cũng có mặt phải, mặt trái. Nhiệm vụ của đời tôi là cứu người bị oan, ngăn ngừa tội phạm và tôi chỉ có thể làm được việc đó bằng một cách duy nhất. Vì - anh chớ quên điều này - X không thể bị pháp luật trừng trị. Hắn có chỗ trú an toàn. Tôi không nghĩ ra cách nào khác khác để đánh bại hắn, buộc hắn vĩnh viễn không thể tác oai tác quái. Song tôi vẫn do dự. Biết rõ cần làm gì, nhưng chưa dám quyết làm. Giống như Hamlet, tôi cứ trì hoãn mãi giờ phán xét cuối cùng. Thế là xảy ra một mưu toan khác, định làm hại bà Luttrell. Tôi nóng chờ xem anh, vốn thính nhạy với sự thật hiển nhiên, lần này có hiểu ra không. Và anh đã hiểu: phản ứng đầu tiên của anh là nghi cho Norton, dù rất mơ hồ. Anh đã đoán đúng: Norton chính là người chúng ta tìm. Không có bằng chứng gì để xác minh giả thuyết đó, trừ một nhận xét dụt dè của anh rằng hắn là con người vô vị. Song lúc đó chính là lúc anh đã tới gần sự thật. Tôi đã nghiên cứu kỹ lai lịch của hắn. Hắn là con của một bà mẹ độc đoán và áp chế, nên không lúc nào hắn có dịp tự khẳng định hoặc áp đặt tính cách của mình cho ai. Hắn bị tật nhẹ ở chân, nên ngay lúc đi học không tham gia tích cực được vào các trò chơi của bạn học. Một điều có ý nghĩ mà anh kể lại với tôi là hắn bị bạn bè chế nhạo vì buồn nôn khi nhìn con thỏ bị lột da. Tôi cho rằng chuyện ấy đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng hắn. Hắn sợ máu và bạo lực, nên bị "kém thớ". Trong tiềm thức, hắn chờ dịp để tự khẳng định, báo thù lại bằng cách tỏ ra táo bạo, thậm chí tàn ác. Tôi hình dung hắn sớm nhận ra mình có khả năng gây ảnh hưởng tới người khác. Hắn biết bình tĩnh lắng nghe, gợi được cảm tình, mọi người không chú ý hắn lắm, song không ghét bỏ. Hắn nhận ra là nếu dùng những lời thích hợp và nhấn vào đúng chỗ, thì rất dễ gây ảnh hưởng tới người khác. Chỉ cần hiểu họ, nắm được ý nghĩ của họ,lường trước những phản ứng và những ý nghĩ âm ỉ của họ. Anh có thấy không, một sự khám phá như vậy làm cho hắn có cảm giác như thế nào về quyền lực của mình! Hắn là Stephen Norton, người vừa được yêu mến vừa bị coi thường, nay có khả năng thúc đẩy người khác làm những việc họ không muốn làm hoặc tưởng là không muốn làm. Tôi hình dung hắn bắt đầu đem cái sở trường đó ra thực hành, rồi lâu dần thành quen, thích thú với việc thông qua nguời khác để gây ra những hành vi bạo lực, những việc mà hắn không tự làm được vì thiếu sức mạnh thể chất. Và cái trò quỷ đó cứ lên mãi thành niềm đam mê, không làm không được. Như một thứ ma túy, nghiện rồi không thể bỏ. Norton con người vốn bản tính hiền lành, trở thành tên bạo sát dấu mặt. Giống như người nghiện, hắn phải có suất tiêm chích hằng ngày, luôn tìm hết nạn nhân này tới nạn nhân khác. Tôi tin là con nhiều vụ khác, ngoài năm vụ mà ta đã biết. Và trong mỗi vụ, hắn đều có vai trò giống nhau. Hắn quen biết Etherington; hắn đã ở suốt mùa hè ở cái làng Riggs ở,thỉnh thoảng uống rượu với anh này ở quán. Trong một chuyến du ngoạn, hắn làm quen với Freda Clay và làm như nói chuyện bâng quơ, đã gợi ý cho cô ta thấy nếu bà cô chết đi thì nhất cử lưỡng tiện: chẳng những bà già được giải thoát, mà cô sẽ được sống ung dung, thoải mái. Hắn cũng là bạn của Litchfield, và gợi cho Margaret thấy nếu giải thoát được cho các em gái, cô sẽ là người hùng. Tôi tin là, không ai trong số những người đó sẽ giết người, nếu không bị Norton tác động. Bây giờ ta trở lại những sự kiện ở Styles. Tôi đã theo dõi Norton một thời gian. Và khi hắn làm quen với Franklin, tôi thấy ngay mối nguy. Với Norton, vợ chồng Franklin mở ra những khả năng rất thú vị, có thể nói là đủ các loại khả năng. Bây giờ thì chắc anh đã hiểu điều mà bất cứ người nào đầu óc bình thường phải hiểu ngay, đó là Franklin và con gái anh yêu nhau. Cử chỉ bất thường của bác sĩ, cái cách ông ta không bao giờ nhìn thẳng vào Judith, bỏ qua mọi kiểu đối xử xã giao với Judith, tất cả những cái đó phải cho anh thấy là ông ta yêu con gái anh. Nhưng đó là một người có nghị lực và thẳng thắn. Có thể ăn nói hơi cục cằn, nhưng có những nguyên tắc nhất định. Theo ông, người chồng phải chung thủy với người vợ mình đã chọn. Về phía Judith nó mê tít ông bác sĩ. Tôi tưởng anh đã biết chuyện ấy rồi, và Judith cũng tưởng thế, cái hôm anh gặp nó trong vườn hồng. Do đó nó với cáu kỉnh. Tính cách như nó không chịu để ai thương hại, thậm chí thông cảm. Rồi Judith hiểu là anh tưởng nó yêu Allerton, và nó không cần đính chính, cứ để mặc cho khỏi gây lôi thôi. Nó chấp chới với Allerton như để tìm trong đó một niềm an ủi tuyệt vọng, mặc dù biết Allerton là loại người nào. Nó chỉ đùa cợt thế thôi, chứ không hàm ý tình cảm gì. Tất nhiên Norton hiểu tất cả, hắn dự kiến khai thác tình hình đó. Tôi cho là hắn đã tìm cách ảnh hưởng đến Franklin, nhưng thất bại. Bác sĩ là loại người duy nhất không chịu tác động gì từ phía Norton. Ông có trí óc cực kỳ tỉnh táo. Hơn nữa, niềm đam mê lớn nhất đời ông là công việc. Với Judith, Norton thành công hơn bằng cách khéo léo khích cái lý thuyết về những cuộc đời vô dụng. Judith thành thật tin vào thuyết này, và hắn tỏ ra cực kỳ gian manh, làm bộ chủ trương thuyết trái lại và nói khích Judith, cho là cô ta không đủ táo bạo để đưa lý thuyết vào thực hành. "Đó là loại lý thuyết ta hay có lúc trẻ, nhưng không bao giờ dám thực hiện". Cách nói ấy mang tính kích động thô thiển, ấy vậy mà có khi hiệu quả. Bọn trẻ ấy mà, chúng còn non nớt quá! Nếu bà Barbara vô dụng bị loại trừ, con đường với Franklin và Judith sẽ rộng mở. Điều ấy không được nói toạc ra, người ta còn bản rằng lý thuyết này không ám chỉ trường hợp cá nhân nào, vì nếu Judith biết là có ám chỉ, nó sẽ phản ứng quyết liệt. Nhưng với một môn đệ của tội ác như Norton thì một vụ là chưa đủ. Hắn đã tìm ra một chỗ nữa để thử tài, đó là vợ chồng Luttrell. Ta hãy quay trở lại trước nữa. Hastings, anh có nhớ ván bài anh tham gia tối hôm mới đến. Sau ván bài, Norton đã nói mấy câu rất to khiến anh lo là ông đại úy nghe thấy. Nhưng đó là hắn cố tình muốn vậy: Luttrell phải nghe thấy! Norton không bỏ lỡ cơ hội nào để bình phẩm tính cách bà Luttrell, cố tình nhấn mạnh một cách tự nhiên. Và cuối cùng ý đồ của hắn đã thành kết quả. Việc ấy xảy ra ngay trước mũi anh, mà anh không hay biết. Nền móng của sự việc đã được sắp đặt sẵn: sự áp bức quá đáng của bà vợ, sự xấu hổ, bực bõ của ông chồng... Anh hãy thử nhớ chính xác mà xem. Norton kêu khát. Hẳn là hắn biết bà Luttrell đang ở quanh đó và chắc chắn sẽ ra mặt. Ông đại tá đáp ứng ngay, tỏ rõ bản chất chủ nhà rộng rãi của mình. Ông xin đãi một chầu rượu và vào tìm chai. Các anh đều ngồi gần cửa sổ. Bà Luttrell bước vào phòng ăn, thế là xảy ra cuộc cãi vã, chì chiết. Luttrell biết là mọi người nghe thấy hết. Ông ta trở vào. Lẽ ra mọi người phải tìm cách xoa dịu sự việc. Hoặc Boyd Carrington, hoặc chính anh, Hastings có thể làm điều đó. Nhưng Norton đã cướp lời, và khéo léo đổ thêm dầu vào lửa. Hắn nói trở lại về ván bài - làm Luttrell cảm thấy mình bị lấn át - rồi nói chuyện tai nạn đi săn. Thế rồi, cái ông Boyd Carrington đần độn vô tình mắc bẫy, lao ngay vào kể chuyện tên cận vụ giết ông anh của mình. Câu chuyện đó, chính Norton đã để cho Boyd, hắn biết rằng Boyd sẽ kể lại như là của chính mình vào lúc nào có người khéo gợi. Thành ra gợi ý cuối cùng không phải do Norton nói ra! Vậy là mọi thứ đã được dọc sẵn. Và điểm bùng nổ đã tới. Bị sỉ nhục trước mặt mọi người, nghĩ rằng ai nấy đều cho mình là thiếu dũng khí chống lại, ông Luttrell nghĩ cách để thoát ra. Thì đấy - có ngay những chuyện tai nạn đi săn, chuyện anh lính giết anh ruột. Rồi bất thần đằng cuối vườn, sau lùm cây, thấp thoáng cái đầu của bà vợ... không sợ gì cả... coi như tai nạn... Ta phải tỏ cho họ biết ta là ai... cho bà ấy chết cho xong! Nhưng bà ấy không chết. Tôi cho là, lúc bóp cò, ông ta đã bắn trượt bởi trong thâm tâm, ông muốn bắn trượt. Lập tức ý tưởng phản ứng tan ra mây khói. Bởi vì dù thế nào, ông ta vẫn yêu vợ. Đó là một trong những vụ án mạng mà Norton đã dự liệu không thành. Nhưng còn âm mưu tiếp theo! Hastings biết không, lần này hắn nhằm vào anh đó! Hãy nhớ lại đi, ông bạn thật thà ạ. Norton đã thấy ra tất cả các điểm yếu của anh, và cả những tính tốt của anh là ngay thẳng và đạo đức. Allerton thuộc loại người mà anh căm ghét và e ngại một cách tự nhiên, như cólinh tính. Và những điều anh nghĩ về hắn, biết về hắn, đều đúng. Norton liền kể anh nghe một câu chuyện khác - chuyện này có thực, theo như tôi biết - về một con gái bị Allerton tình phụ. Chuyện đó ngay lập tức gây ấn tượng mạnh với anh. Allerton đúng là thằng tồi, thằng đểu chuyên quyến rũ, cưỡng bức con gái, dồn họ đến chỗ phải tự vẫn. Mặt khác, Allerton gợi ý Boyd Carrington nói chuyện với anh về Judith. Và anh cảm thấy cần nói chuyện nghiêm chỉnh với con gái. Và, như anh đã lường trước, nó cãi lại, nói rằng việc đời nó, nó lo. Anh càng cuống. Giờ anh hãy bình tĩnh xem xét Norton đã lợi dụng những gì ở anh: tình yêu con gái, ý thức trách nhiệm của người cha... anh tự nhủ: "Ta phải hành động ngay, kẻo hối không kịp". Anh lại nghĩ đến vợ, thấy không thể lẩn tránh trách nhiệm trông nom con cái mà người vợ yêu quý đã để lại. Còn có cả sự ghen tuông tự nhiên và vô lối của phần lớn các ông bố khi có kẻ địch cướp con gái mình. Thấy chưa, Norton đã nhấn vào những phím đàn nhạy cảm, đúng là một nhạc trưởng bậc thầy. Và anh cứ thế lao vào. Hastings, anh có tật cả tin vào bề ngoài của sự vật. Chẳng suy nghĩ gì, anh tin ngay là Allerton hẹn gặp Judith hôm sau ở London. Nhưng anh không nhìn thấy Judith, không nghe Judith nói. Vậy mà sáng sớm hôm sau, anh vẫn còn tin như thế, và tỏ ý mừng là Judith đã đổi ý. Song nếu anh chịu khó xem xét, anh sẽ thấy ngay là Judith không hề có ý định đi đâu hôm đó. Và anh cũng bỏ qua không thấy một sự việc nhỏ khác; có một người định đi hôm đó, nhưng không đi được, nên tỏ ra vô cùng bực dọc. Đó là cô Craven y tá. Đúng thế! Allerton không chỉ tán tình một phụ nữ. Quan hệ giữa hắn và cô Craven đã tiến triển khá xa, xa hơn nhiều so với việc hắn lơ mơ tí chút với Judith. Và người hắn hẹn gặp ở London chính là cô ta! Một mẹo nữa của Norton. Anh trông thấy Allerton hôn Judith, Norton liền thúc anh đi vòng quanh góc nhà, vì hắn biết Allerton hẹn hò cô Craven gần nhà kính. Sau khi làm bộ níu anh lại, Norton để anh đi. Nhưng hắn đi theo anh. Hắn hiểu câu nói mà anh vừa nghe được từ miệng Allerton góp thêm thuận lợi vào kế hoạch của hắn. Cho nên hắn vội kéo anh đi nhanh để anh không kịp nhận ra rằng người phụ nữ ở đó không phải là Judith. Đúng là mưu mẹo bậc thầy! Phản ứng của anh là tức thời: anh quyết giết Allerton. May thay, anh có một người bạn trí óc còn minh mẫn. Và không chỉ trí óc mà thôi, như anh sắp thấy đây. Ngay ở đầu bản viết này, tôi đã nói anh không tìm ra sự thật, vì tính anh dễ tin quá. Ai nói gì, anh tin ngay. Tôi, tôi nói gì, là anh tin. Song tìm ra sự thật, đâu có khó với anh. Tôi đã đuổi George đi. Tại sao? Thay bằng một anh hầu ít từng trải hơn, và rõ ràng kém thông minh hơn. Tại sao? Tôi vốn là người rất chăm lo súc khỏe, tôi không để bác sĩ nào theo dõi, và từ chối không chịu để bác sĩ nào khám như anh khẩn khoản yêu cầu. Tại sao? Bây giờ thì anh hiểu tại sao tôi cần anh đến Styles chứ? Tôi cần có một người tin như đinh đóng cột tất cả những gì tôi nói. Tôi nói đi dưỡng bệnh ở Ai Cập về, sức khỏe vẫn tồi như trước. Anh tin. Thựa ra là sai: tôi trở về Anh khá hơn rất nhiều. Chịu khó để ý một chút, anh sẽ thấy ngay. Nhưng không, anh đã tin. Sở dĩ tôi chia tay với George, là vì nếu nó ở lại, tôi không thể nói dối với nó rằng chân tôi bị liệt. Hastings, anh hiểu chưa? Tôi giả vờ bị tật, đánh lừa tất cả mọi người, kể cả Curtiss, thực ra tôi vẫn đi lại được. Hơi tập tễnh môt chút. Rồi đến cái tối đáng nhớ đó, tôi nghe tiếng chân anh lên gác, chần chừ một lát rồi lẻn vào phòng Allerton. Tôi cảnh giác ngay, vì đang rất lo cho tâm trạng của anh. Curtiss đang xuống ăn dưới nhà, tôi có một mình. Không bỏ phí một giây, tôi ra khỏi phòng, băng qua hành lang. Tôi nghe tiếng anh làm gì trong buồng tắm của Allerton, và phải dùng cái cách mà anh thường phản đối - quỳ xuống nhìn qua lỗ khóa. May quá, chìa không có trong ổ. Và tôi nhìn thấy anh. Anh mó máy mấy cái lọ, và tôi hiểu ngay anh đang mưu đồ gì. Phải hành động ngay. Tôi trở về phòng mình chuẩn bị các thứ. Lúc Curtiss lên, tôi sai hắn sang tìm anh. Anh vừa vào vừa ngáp, nói là đau đầu. Tôi liền gây chuyện rối tinh, yêu cầu anh phải uống thuốc. Để cho xong chuyện, anh đồng ý uống một tách sôcôla thật ngọt. Anh uống một ngụm hết, vì đang vội về. Có điều là, tôi cũng biết dùng những viên thuốc ngủ! Về phòng, anh đã ngủ ngồi trên ghế. Sáng hôm sau thức dậy, trí óc anh tỉnh táo trở lại, bây giờ anh mới phát hoảng vì chuyện tày đình định làm. Thế là anh thoát hiểm, vì không thể nào lặp lại việc ấy lần thứ hai khi người ta đã lấy lại lý trí. Nhưng điều ấy đã làm tôi, tôi phải quyết định. Vì tất cả những gì tôi biết về những người khác không áp dụng với anh. Anh không phải kẻ giết người, thế mà suýt nữa bị kết tội giết người, vụ giết này do người thứ ba chủ trương, nhưng hắn hoàn toàn vô tội trước pháp luật. Anh người trung thực, thật thà, tận tụy, đáng kính như thế, mà cũng suýt nhúng tay vào tội ác! Vậy tôi phải hành động ngay. Tôi biết mình không còn nhiều thời gian nữa, nhưng xét cho cùng, như thế lại tốt. Vì cái mệt nhất, ấn tượng nhất trong một vụ án mạng là tác động của nó đối với hung thủ. Mọi việc dẫn đến chỗ là tôi, Hercule Poirot tự thấy mình như một người được Thượng Đế chỉ định để trừng phạt những người khác. May thay, điều đó sẽ không xảy ra, vì đã đến lúc tôi cũng sắp phải ra đi. Nhưng tôi sợ Norton lại thàng công nữa cái trò ma quái của hắn khi nhằm vào một người thân của cả anh và tôi. Đó là con gái anh. Và bây giờ, ta nói đến cái chết của Barbara Franklin. Dù anh nghĩ thế nào mặc anh, tôi cho là anh chưa lúc nào ngờ tới sự thật. Vì Hastings ơi, chính anh đã giết Barbara. Phải, chính anh. Vì thực ra, còn một khía cạnh khác của hình tam giác một khía cạnh mà tới lúc đó, tôi chưa quan tâm đúng mức. Cả anh cả tôi đều không phát hiện hành tung của Norton theo hướng đó. Song tôi tin rằng hắn đều đã thực hiện cả. Anh có bao giờ tự hỏi, tại sao bà Franklin lại muốn đến ở Styles? Nơi này đâu phải là chỗ thích hợp với bà. Bà thích tiện nghi, thích ăn ngon, thích chơi bời giao thiệp... ở Styles làm gì có những thứ đó. Nhưng bà lại cố đòi đến nghỉ hè tại đây. Đó là, như tôi đã nói, còn một cạnh khác của hình tam giác: Boyd Carrington. Bà Franklin là một phụ nữ bị vỡ mộng, đó là nguyên nhân khiến bà bi tâm thần. Bà ôm nhiều tham vọng về bậc thang xã hội và về tài chính. Bà lấy bác sĩ Franklin hy vọng ông có tương lại, sự nghiệp xán lạn. Ông đúng là người xuất sắc theo kiểu ông, nhưng không như vợ mơ ước. Ông có tài, nhưng chẳng bao giờ được báo chí nói đến, chẳng bao giờ có nổi một phòng khám bệnh tư ở phố Harley. Ông chỉ được dăm bảy đồng nghiệp biết tiếng, và đăng các công trình khoa học của mình trên những tạp chí thông thái không mấy người đọc. Và ông sẽ không bao giờ giàu có. Nhưng rồi Boyd Carrington từ phương Đông về, lại mới được phong tước hiệu, thừa kế một dinh cơ đồ sộ và gia tài lớn. Ông ta vẫn giữ trong lòng tình cảm thắm thiết với cô gái mười bảy tuổi hồi xưa, mà ông suýt hỏi làm vợ. Ông ta định nghỉ tại Styles - trong khi chờ công việc trùng tu dinh thự Knatton hoàng thành - và gợi ý mới vợ chồng Franklin cùng tới nghỉ. Barbara đồng ý ngay. Hiển nhiên là dưới mắt người đàn ông giàu có và tráng kiện này, bà Franklin vẫn còn đầy xuân sắc và hấp dẫn. Song ông thuộc người của thế hệ trước, không thể xui bà ly dị chồng. John Franklin cũng không chấp nhận ly hôn. Nhưng nếu ông ta chết đi, Barbara Franklin có thể trở thành phu nhân Boyd Carrington hạnh phúc xiết bao. Và tôi hình dung Norton đã nhìn thấy ở bà một công cụ dễ sai khiến. Bây giờ ngẫm lại, sao mà mọi việc rõ ràng quá. Hãy nhớ lại bà Franklin luôn tỏ ra mình gắn bó như thế nào với chồng, còn tô đậm thêm, nói muốn chết để khỏi là gánh nặng cho chồng. Sau đó bà lại dùng chiến thuật khác: giả bộ lo lắng rằng chồng sẽ tự lấy thân mình làm thí nghiệm với các chất độc. Phải, lẽ ra ta phải thấy rõ! Bà ta chuẩn bị tư tưởng để mọi người thấy Franklin chết vì chất physostigmine. Ồ! Không có ai đầu độc ông ấy đâu! Chỉ là thí nghiệm khoa học. Ông ấy dại dột ống thử chất ancalôít đó, rồi tử nạn. Nhưng rồi, dồn dập có diễn biến. Chính anh cho tôi biết bà Franklin rất không bằng lòng thấy lúc họ đi Knatton về, Boyd Carrington để cho cô Craven xem tướng tay. Cô y tá này còn trẻ và khá hấp dẫn, rất khéo làm duyên với đàn ông. Cô đã thử bắt tình với bác sĩ Franklin, nhưng không xong. Vì thế cô ta ghen ghét với Judith. Cô ta lại bắt tình với Allerton, dù biết anh này là người không đúng đắn. Và cuối cùng cô ta xoay sang để ý đến Boyd Carrington, ông này còn đẹp mã lắm. Mà ông ta thì có lẽ sẵn sàng xiêu lòng, vì anh thấy rồi đấy, ông đã từng khen cô y tá là người tươi tắn, đáng yêu. Vì thế bà Barbara sinh lo và quyết định ra tay sớm. Hastings anh biết không, tôi cảm thấy cây đậu calabar thật là đáng nể. Lần này, nó đã thực sự phát huy quyền lực: tránh người vô tội, đánh kẻ ác tâm. Tối hôm đó, bà Franklin mời mọi người lên uống cà phê trong phòng mình, và bà ta đã chuẩn bị sẵn thuốc độc. Theo lời anh nói lại, tách của bà đặt ngay cạnh bà, còn tách ông chồng đặt phía bên kia tủ sách nhỏ. Rồi có chuyện ra xem sao đổi ngôi. Mọi người đổ xô ra ban công. Mình anh ở lại, lúi húi điền ô chữ và ngẫm nghĩ. Và anh xoay cái tủ sách để tìm một câu viết của Shakespeare. Mọi người trở vào. Bà Franklin uống tách cà phê lẽ ra dành cho chồng, còn chồng lại uống tách của bà Barbara. Tôi đã hiểu ngay chuyện gì đã xả ra, nhưng không thể chứng minh. Song nếu người ta cho bà Franklin chết không phải do tự tử, thì mọi nghi ngờ sẽ tập trung vào Franklin và Judith. Nghĩa là vào hai người hoàn toàn vô can. Vì thế tôi nghĩ mình có quyền bịa ra chuyện trông thấy bà Frankin cầm lọ trong tay và nhắc lại những lời bà thường than vãn - dù là vờ vĩnh - muốn chết cho xong. Có lẽ tôi là người duy nhất làm thế được, vì tôi được tiếng là có kinh nghiệm về hình sự, lời chứng của tôi nhất định có sức nặng. Tôi nói là tự tử, mọi người chấp nhận ngay và tỏ vẻ hài lòng. Nhưng, trời ơi, anh không hề nghi vấn gì vì mối hiểm nguy thực sự. Tôi chết đi rồi, anh còn suy nghĩ đến nó nữa không, như con rắn độc thỉnh thoảng ngóc đầu dậy và ton hót: "Hay Judith đã làm việc đó...". Có thể lắm. Vì vậy tôi quyết định phải viết ra. Cần phải để cho anh biết rõ sự thật. Có một ngưới khác không hài lòng về kết luận tự tử; đó là Norton. Vì hắn cảm thấy bị lấy mất "thành tích". Như tôi đã giải thích bên trên, hắn là một tên bạo sát, muốn hưởng tất cả lạc thú của sự kinh hoàng, ngờ vực, khiếp sợ mà vụ giết người gây ra. Đằng này không thế. Vụ giết người mà hắn dự tính đã xoay chuyển một cách thảm hại, không theo ý hắn. Tuy nhiên hắn tính được ngay cách để đền bù. Và hắn lại bắt đầu ton hót, lắt léo. Mấy hôm trước, hắn đã làm bộ nhìn thấy điều gì bất thường qua ống nhòm. Lúc đó hắn định để anh tưởng là Allerton và Judith trong tư thế thân mật nào đó. Nhưng do không nói rõ hắn có thể sử dụng sự việc đó theo cách khác. Ví dụ, hắn sẽ nói đã trông thấy Franklin cặp kè với Judith. Như vậy sẽ chiếu thêm ánh sáng mới - rất thú vị - lên cái chết của Barbara và gây nghi ngờ rằng bà này chết không phải vì tự tử. Vì thế, tôi quyết định ra tay ngay lập tức. Tôi nhờ anh bảo Norton đến gặp tôi tối hôm đó. Bây giờ tôi sẽ kể chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Hẳn Norton khấp khởi sẽ nói những gì hắn muốn để đánh lừa tôi. Tôi không để hắn kịp nói. Tôi nói toạc không vòng vo, những gì tôi biết về hắn và hành động của hắn. Hắn không chối điều nào. Hắn bình thản ngồi trên ghế, mỉm cười một cách mãn nguyện thách thức. Rồi hắn hỏi tôi định làm gì? Tôi đốp chát trả lởi luôn là tôi muốn chặn tay hắn lại, trừng trị hắn. - A! Hắn ngạo nghễ. Bằng lưỡi dao hay bằng thuốc độc? Lúc đó, chúng tôi đang chuẩn bị uống sôcôla. Hắn vốn nghiện món này mà. - Cách đơn giản nhất, là một chén thuốc độc. Và tôi đưa hắn tách sôcôla vừa rót. Hắn nói: - Nếu vậy, tôi muốn uống tách kia cơ, tách của ông, được không? - Không sao, tôi đáp. Quả là không sao thật. Như đã nói, tôi cũng hay dùng thuốc ngủ. Nhưng vì từ lâu tối nào cũng dùng, nên cơ thể tôi đã quen, liều đối với tôi không nghĩ lý gì, vẫn làm Norton ngủ mệt. Tôi đã cho thuốc ngủ vào liễn sôcôla, cả hai chúng tôi cùng uống. Tách của Norton sau đó sẽ có tác dụng, còn tác dụng rất ít đối với tôi, nhất là sau đó tôi lại uống một thuốc khác để trung hòa. Chúng ta sắp tới chương cuối. Khi Norton đã thiếp đi, tôi đặt hắn lên xe lăn của tôi, đẩy sát vào góc cửa sổ, phủ rèm che. Rồi Curtiss đến, giúp tôi lên giường. Chung quanh yên tĩnh rồi, tôi nhỏm dậy, đẩy Norton về phòng của hắn. Bây giờ chỉ còn trông vào tai mắt của ông bạn hastings nữa là xong. Chắc anh không để ý, tôi đã mang tóc giả từ nhiều năm nay. Và anh càng không biết nữa, là râu mép của tôi cũng giả. (Ngay George cũng không biết việc này). Thật vậy, ngay sau khi mượn Curtiss, tôi đã cố tình vô ý làm cháy râu, và cho thay bằng râu giả y hệt. Tôi liền khoác bộ áo ngủ của Norton, bộ áo này màu sắc đặc biệt không lẫn vào đâu được. Tôi làm cho tóc bù xù lên giống Norton, đi dọc hành lang, đến gõ cửa phòng anh. Đúng như tôi dự đoán, anh mở cửa nhìn ra ngoài, mắt còn ngái ngủ. Và anh nhìn thấy Norton từ phòng tắm đi ra, tập tễnh băng qua hành lang để về phòng. Cửa đóng rồi, anh còn nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ. Tôi liền cởi bỏ bộ áo, mặc lại cho Norton đang ngủ. Sau đó tôi bê hắn lên giường trừng phạt hắn bằng khẩu súng nhỏ tôi có từ khi ở nước ngoài. Từ khi đến Styles tôi đã cất giấu cẩn thận, trừ hai hai lần tôi biết Norton đang đi chơi xa, tôi mang súng cố tình đặt hớ hênh trên bàn của hắn, để cô hầu phòng nhìn thấy mà khai sau này. Tồi tôi bỏ chìa khóa vào túi Norton, lấy lại xe lăn, khóa cửa lại bằng chiếc khóa thứ hai mà tôi đã cho làm từ trước. Từ lúc ấy tôi lo thảo văn bản này dành cho anh. Tôi mệt lắm rồi: bao cố gắng nỗ lực đã làm tôi kiệt sức, và chắc chẳng còn bao lâu nữa tôi sẽ... Tuy nhiên, còn một số chi tiết nữa tôi cần nói rõ. Các vụ giết người do Norton chủ trương là những tội ác hoàn hảo, còn vụ giết người của tôi không được như thế. Cách dễ nhất, tốt nhất để thủ tiêu Norton là làm công khai, ví dụ gây ra một vụ tai nạn với khẩu súng của tôi. Lúc đó tôi sẽ giả bộ hốt hoảng, tiếc nuối, và mọi người sẽ bình phẩm: "Ông già thật lẩm cẩm, không nhớ là súng đã lên đạn." Tôi không muốn làm như vậy, và xin giải thích lý do. Bởi vì tôi muốn "chơi đẹp" như trong thể thao. Đúng, anh không đọc nhầm đâu. Lúc này tôi đang làm tất cả nhưng việc mà anh đã trách tôi không chịu làm. Tôi đang nói toẹt ra với anh. Thực ra anh đã có đủ các quân bài chủ trong tay để khám phá sự thật. Nếu còn chưa rõ, tôi xin kể sau đây những chỉ dẫn mà tôi đã để lại cho anh. Anh biết, vì tôi đã nói với anh là Norton đến đây sau tôi. Anh biết vì tôi đã nói với anh rằng sau khi tôi đến Styles chìa khóa phòng tôi bị mất và tôi phải làm một chìa khác. Vì vậy, khi anh tự hỏi: "Ai có thể giết Norton? Ai có thể đi ra khỏi một phòng đã khóa từ bên trong?" thì câu trả lời là như sau: - Là Hercule Poirot, vì hắn có chiếc chìa khóa thứ hai của một trong hai phòng. Bây giờ tôi nói về người anh trông thấy ngoài hành lang. Tôi đã hỏi anh có chắc là Norton không. Anh tỏ vẻ ngạc nhiên về câu hỏi ấy và hỏi tôi chẳng nhẽ tôi cho là người khác. Tôi đã trả lời đúng sự thật; đó không hề là ý định của tôi (tất nhiên, vì tôi đã phải thi thố nhiều mẹo để làm anh tưởng đó là Norton). Tiếp đó tôi đã nêu vần đề vóc dáng và đưa ra nhận xét rằng tất cả những người ở Styles đều cao hơn hắn. Nhưng có một người thấp hơn đó là Hercule Poirot. Song muốn cao hơn hai ba phân thì quá dễ: chỉ cần độn thêm đế vào giầy. Anh cũng hoàn toàn cho rằng tôi không thể đi lại một mình. Nhưng tại sao? Chỉ tại tôi bảo anh như thế. Cuối cùng, tôi đã cho George về, và để lại chỉ dẫn cuối cùng: "Hãy đi gặp George". Othello và Clutie John nói lên rằng tên X bí mật ấy không ai khác ngoài Norton. Vậy ai là người có thể giết Norton? Chỉ là Hercule Poirot! Chỉ cần anh thoáng ngờ vực như vậy là mọi mảnh sẽ khớp lại với nhau: những điều tôi đã nói và làm, cả những điều tôi dè dặt chưa nói, lời các bác sĩ Ai Cập và bác sĩ London nói là tôi không đi lại được, lời George nói là tôi mang tóc giả, và việc tôi đi tập tễnh hơn cả Norton. Tất cả chi tiết đó lẽ ra phải làm anh hiểu. Cuối cùng, có phát súng tôi bắn: đây là điểm yếu duy nhất của tôi. Tôi thừa biết rằng đáng lẽ phải áp nòng súng vào thái dương Norton. Nhưng tôi khó chấp nhận sự mất cân xứng ấy, cho nên tôi nhắm vào đúng giữa trán. Ôi, chỉ riêng việc đó đủ để làm anh thấy ra sự thật. Nhưng biết đâu anh đã chẳng ngờ ngợ thế rồi. Biết đâu anh đã chẳng biết rõ sự thật trước đọc những dòng này. Song... tôi lại nghĩ là chưa. Bởi vì anh thật thà quá, dễ tin quá, bởi vì bản chất anh quá tốt. Tôi còn nói gì nữa đây? Franklin và Judith - tôi chắc rồi anh sẽ thấy - biết rõ sự thật, nhưng họ không nói với anh đâu. Họ sẽ không giàu có, trước mắt phải lo đối mặt với muỗi và sốt rét, nhưng mỗi người chúng ta đều có những ý kiến riêng về cách quyết định về mình, phải không nào? Thế còn anh, anh Hastings cô đơn, tội nghiệp? Tim tôi đau quặn mỗi khi nghĩ tới anh. Một lần cuối, anh có muốn nghe lời khuyên của Poirot này không? Nếu muốn thì sau khi đọc hết những dòng này, hãy đáp xe lửa - hoặc xe hàng, xe hơi - đi gặp Elizabeth Cole tức Elizabeth Litchfield. Đọc cho cô ấy nghe văn bản này, giải thích cho cô ấy rằng, nếu là anh, anh cũng sẽ làm như Margaret chị cô. Tiếc rằng chị cô ấy không có một người như Poirot để bảo vệ. Nói tất cả cho Elizabeth để cô ấy rũ bỏ hết những ác mộng ám ảnh cô suốt bấy lâu nay. Làm cho cô ấy hiểu là bố cô không chết vì tay con gái lớn, mà là do ông bạn quý hóa của gia đình: Stephen Norton. Vì thật là không công bằng một phụ nữ còn trẻ, đẹp như cô ấy lại không muốn sống chỉ vì nghĩ mình là người có số mệnh đen đủi. Không phải vậy. Hãy nói thế nhé, anh bạn, anh vẫn còn dư sức hấp dẫn với phụ nữ... Thôi, tôi không còn gì để nói. Tôi không biết việc tôi làm có chính đáng hay không. Thực sự không biết. Trong thâm tâm tôi nghĩ là một người không có quyền làm thay pháp luật. Nhưng mặt khác, tôi cũng là một phần của pháp luật. Hồi trẻ, lúc còn phục vụ ở Sở Cảnh sát Bỉ, tôi đã bắn hạ một tên tội phạm, hắn đứng trên mái nhà bắn xuống người qua đường. Trong trường hợp khẩn cấp chí nguy, tôi đã cứu được nhiều mạng người khác... Thôi, vĩnh biệt anh bạn. Tôi đã vứt bỏ những ống thuốc trợ tim trước nay vẫn giữ trong tầm tay đề phòng trường hợp nguy cấp. Tôi muốn buông xuôi, phó mặc đời mình cho Chúa. Mong Người hãy trừng phạt - hay cứu vớt - thật nhanh. Chúng ta sẽ không cùng nhau sát cánh nữa. Anh nhớ không, vụ án đầu tiên mà chúng ta cùng hợp tác để phá, diễn ra tại đây. Và cũng lại ở đây, là vụ án cuối cùng... Ôi, cái thời tươi đẹp!... Mời các bạn đón đọc Thám Tử Rời Sân Khấu của tác giả Agatha Christie.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Một Lời Nói Dối
Họ tiến lại gần căn nhà cho đến khi đến đường giao giữa rừng cây và bãi cỏ. Âm thanh ban đêm bao bọc lấy họ: tiếng ếch ộp oạp, tiếng cá quẫy mình trong nước, tiếng muỗi vo ve bên tai và tiếng diều hâu từ xa kèm theo tiếng rít sợ hãi của một chú chuột. Kẻ đi săn hay kẻ bị săn. Đêm nay, họ là ai? Một loạt vụ án mạng, bắt cóc liên tiếp xảy ra ở thị trấn sau khi Jane Hardy được kế nhiệm vị trí cảnh sát trưởng của cha mình ở Cảng Pelican, Alabama. Sau khi cha bị buộc tội trộm cắp và có dính líu đến một vụ án mạng, Jane phải đối mặt với sự giám sát của công chúng trong khi cố gắng làm rõ sự trong sạch cho cha mình và chứng minh rằng phụ nữ có thể làm tốt trong những công việc thường mặc định dành cho nam giới". Liệu có phải kẻ đến từ quá khứ khủng khiếp đang cố gắng phá hủy gia đình duy nhất mà cô có - sau khi cha đưa cô trốn thoát khỏi hội cuồng giáo mười lăm năm trước? Dối trá, bí mật, giết người, cảnh giác, báo thù và xen lẫn lãng mạn, tất cả tạo nên tác phẩm MỘT LỜI NÓI DỐI hồi hộp nguyên bản và hấp dẫn. *Những đánh giá về truyện: _ “Colleen Coble lại một lần nữa khẳng định mình đang đạt đến phong độ đỉnh cao với dòng văn học kịch tính lãng mạn Ki-tô giáo. Tác phẩm gồm những nhân vật sẽ khiến bạn yêu thích, nghi ngờ rồi lại tin tưởng và những khung cảnh sẽ khiến bạn phải nín thở. Câu chuyện của Jane Hardy là hành trình khám phá mạng nhện phức tạp và rối rắm được dệt nên bằng một lời nói dối nhỏ bé.” Lisa Wingate, tác giả bán chạy nhất New Yorks Times với cuốn Before We Were Yours, nhận xét về Một lời nói dối _ “Colleen Coble luôn đưa dòng văn học hồi hộp lãng mạn lên một tầm cao mới. Tôi rất thích Một lời nói dối! Cuốn sách đã đưa tôi vào một chuyến hành trình hoang dại và tuyệt vời.”_ DiAnn Mills, tác giả bán chạy nhất _ “Một lời nói dối, cuốn sách mới nhất của Coble, là một tác phẩm giàu sức nặ Đây chắc chắn là một trong số những cuốn sách hay nhất của cô ấy. Tôi đã thức tới khuya để đọc xong cuốn sách này, vì không tài nào ngủ nổi nếu không được biết chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Một cuốn sách mà bạn nhất định phải đọc! Rất đáng khen!”_ Robin Caroll, tác giả bán chạy nhất với tiểu thuyết Xaga Darkwater Inn _ “Tôi đã luôn mong ngóng tác phẩm mới của Colleen Coble. Một lời nói dối là một hiện tượng mới. Tôi không biết cô ấy đã làm thế nào nhưng tài năng của cô ấy đang tỏa sáng. Chắc chắn bạn sẽ dành nhiều thời gian để đọc vì bạn sẽ không nỡ đặt sách xuống. Tôi đã ngấu nghiến cuốn sách này! Cảm ơn Colleen vì những giờ giải trí đỉnh cao. Tôi sẽ đón đọc tác phẩm tiếp theo!”_ Lynette Eason, tác giả đạt giải thưởng và bán chạy nhất với bộ sách Blue Justice _ “Ngay từ khi Colleen nhắc đến ý tưởng về Một lời nói dối, tôi đã rất muốn đọc. Cô ấy là một tác giả tuyệt vời và rất giỏi chơi đùa với câu chuyện hồi hộp trên từng trang sách. Tôi cho rằng đây là tác phẩm hay nhất của cô ấy, một lời khen rất đáng kể đấy!” _ Carrie Stuart Parks, tác giả Fragments of Fear _ “Trong Một lời nói dối, hậu quả của một lời nói dối len lỏi khắp thị trấn Cảng Pelican, tạo nên một mớ hỗn loạn và căng thẳng. Ai sẽ là người thoát ra được khỏi những nghi vấn? Một lời nói dối là tác phẩm mới nhất của Colleen Coble. Câu chuyện diễn ra ở vùng vịnh biển Alabama, với Jane Hardy là cảnh sát trưởng mới nhận chức, đang nỗ lực vì cha mình. Reid Dixon bám theo Jane để quay phim tài liệu, nhưng anh ta cũng có bí mật của riêng mình. Họ cùng nhau đối mặt với những bí mật của bản thân và liệu rằng bí mật có trở thành lời nói dối? Có lẽ nào đã quá muộn để được tha thứ?” _Cara Putman, tác giả bán chạy nhất và đạt giải thưởng *Về tác giả: Colleen Coble là tác giả bán chạy nhất USA TODAY và lọt vào vòng chung kết của RITA được biết đến nhiều nhất với các tiểu thuyết hồi hộp lãng mạn ven biển, bao gồm The Inn at Ocean’s Edge, Twilight at Blueberry Barrens, và loạt Lavender Tides, Sunset Cove, Hope Beach, và Rock Harbour.    *** Tác giả: Colleen Coble Dịch giả: Nguyễn Hải An Thể loại: Trinh thám, lãng mạn. Đánh giá cá nhân: 6.5/10 “Một nửa sự thật, không phải là sự thật” Một lời nói dối – Gánh nặng trên đôi vai của Jane – Nữ cảnh sát trưởng 30 tuổi, vừa mới nhận chức. Một gánh nặng được đặt lên cô dù cho cô gần chẳng có bất cứ một trách nhiệm gì, thậm chí là người “bị hại” – ngoài việc đón nhận những lời nói dối từ tất cả mọi người xung quanh – những người cô yêu quý hay quan trọng với cô trong cuộc đời. Lời nói dối, là then chốt, là móc xích, là toàn bộ những gì được diễn ra – dù theo hướng tích cực, hay tiêu cực đi chăng nữa. “Chúng ta nhận ra rằng. mình thường xuyên hay dối trá bằng một nửa sự thật. Vì ta không muốn làm tổn thương người khác, nhưng lại ghét sự dối trá”. Một lời nói dối – Là một tác phẩm có hơi hướng trinh thám lãng mạn. Tuy nhiên, mọi thứ không đủ sâu. Truyện có một phần dựng nên bối cảnh và nền truyện khá lâu để có thể đạt đến cao trào, cũng như nhiều chi tiết (gợi ý) được nêu ra một cách hơi phô trương, nhưng lại không có ấn tượng quá nhiều khi móc xích được gỡ bỏ. Một số nhân vật và bối cảnh, vẫn biết là đưa vào để đẩy cảm xúc của nhân vật lên, nhưng hình như chưa tới. Khi đọc tác phẩm, lúc mình cảm thấy hưng phấn và cuốn hút nhất, lại không nằm ở phút giây giải quyết mọi thứ (khi người tốt và người xấu đối mặt, giải quyết xung đột, hay cái kết cuối cùng sau khi mọi thứ kết thúc đều không mấy ấn tượng) mà là trước đó 1 đoạn. Cảm giác, mọi thứ chỉ hay khi ở 2/3 của con dốc, thì mọi thứ bị hụt hơi và không còn hay nữa. Cái kết cuối cùng, cũng không làm hài lòng, dù khi đó, sự thật được phơi bày, dù khi đó, ý nghĩa của những lời nói dối đã được gỡ bỏ. Hơi tiếc cho tác phẩm, hoặc là hơi tiếc cho cảm nhận của mình khi đọc hết tác phẩm. Nhưng, nếu 2 tập tiếp theo của Seri được xuất bản, có lẽ vẫn sẽ mua, vì văn phong của tác giả, mình khá thích. Sách được mua Online thông qua Tiki. Review ngày: 02/03/2021 Nguyễn Huy Hoàng *** Ôi trời chắc đây là lần đầu đọc sách trinh thám mà mình đoán đúng hết vụ án luôn. Vừa shock vừa ngạc nhiên vừa buồn cười vì tác giả thật sự không nỗ lực một chút nào trong việc che giấu hung thủ hết, bà ấy chỉ nỗ lực để che giấu cuộc sống riêng tư của nữ chính thôi. Thật sự cuốn sách này nếu xếp vào trinh thám thì 2 sao, vì quá dễ đoán, không có bug gì, mấy đoạn suy luận và hành động cũng bình thường lắm, nên đọc thấy chán. Nhưng xét về phương diện kiểu tôn giáo và lãng mạn thì cuốn này làm rất ổn đó chứ. Mình thích cả 3 nhân vật Jane, Reid, và Will, quá dễ thương và lành mạnh đi. Hứa hẹn phần sau của series này sẽ rất push and pull trong truyện tình yêu tình báo đây. Mình sẽ đọc tiếp cuốn 2 của series, mình thích cô Jane này. *** Tháng Năm... Nút Áo quan sát lối ra của trại và buộc mình lê bước theo sau cha mẹ, mặc cho cơn đau đang ngày càng nhói lên trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và nối gót vào hội trường của hội thánh Núi Sinai*. Khu đất của hội nằm lọt giữa những cánh rừng bang, gió thổi qua cánh cửa mang theo hương thơm của gỗ thông. Khối kiến trúc bằng gỗ trắng này từng là một nhà thờ của giáo hội Giám Lý và giờ vẫn che khuất những ô cửa kính màu ghép hướng về phía đường. Bên trong nhà thờ có khoảng bốn mươi người. Nút Áo lỉnh đến một băng ghế gần cửa sổ, còn cha mẹ cô thì tiến đến vị trí của họ ở hàng phía trên. Từ bé đến giờ cô chỉ biết đến cộng đồng nhỏ này, nhưng khi cơn đau ở lưng lớn dần và quấn quanh cái bụng khổng lồ, tất cả những gì cô mong ước bây giờ là có thể thuyết phục cha cho mình đến bệnh viện. Đôi mắt cha cô lộ rõ vẻ do dự, nhưng sau khi thấy mẹ cô lập tức từ chối lời van xin thì ánh mắt ông đanh lại và ông lắc đầu. Trưởng nhóm chưa bao giờ cho phép bất cứ ai rời đi, ít nhất không phải vì một việc tầm thường như sinh đẻ. Nhưng cô sợ. Cơn đau khiến cô run rẩy với những bất trắc mà mình có lẽ sẽ phải đối mặt. Người bạn thân nhất của cô đã qua đời trong khi sinh nở vào cuối mùa thu năm ngoái. Điều gì sẽ xảy ra nếu Nút Áo cũng qua đời và ai sẽ là người nuôi con thay cô đây? Cô muốn tự mình ôm lấy con. Cô đã dành vô số đêm băn khoăn về những gì có thể làm để trốn thoát cùng với đứa con của mình. Nhưng kể cả khi tìm được cách trốn ra khỏi cánh cổng trại, cô sẽ đi đâu đây? Làm thế nào cô có thể tự chăm sóc cho bản thân và đứa bé? Đó dường như là điều không thể. Moses* Bechtol xoa hai tay vào nhau khi đến gần bục giảng. Mọi người im lặng khi trưởng nhóm bắt đầu bài giảng của mình, một cơn sấm chớp rền vang rung chuyển những ô cửa sổ. Nút Áo co rúm người lại và nhắm mắt. Người đàn ông đó không có dáng vẻ thần thánh như anh ta nghĩ, còn Nút Áo thì ngày càng chán nghe những gì anh ta nói. Chẳng lẽ cô là người duy nhất nhìn thấu vẻ ngoài giả dối của anh ta? Đã đôi lần cô cố nói chuyện với mẹ. Nhưng bà yêu quý gã đàn ông đó. Có lẽ còn hơn cả tình cảm mà bà dành cho người chồng của mình. Nút Áo tỉnh ra từ sáu tháng trước, sau khi chiêu mộ được hai cô gái ở thị trấn gần đó. Hai người này đã mang theo vài cuốn sách, và cô đã hoàn toàn bị hấp dẫn bởi cuốn Nhật Ký Công Chúa. Cuốn sách mở ra một thế giới hoàn toàn khác với thế giới mà cô đang sống. Sự lơ đãng của Nút Áo bị cắt ngang bởi cơn đau đang lớn dần trong bụng. Cô nén tiếng rên rỉ và lau mồ hôi túa ra trên trán. Những bức tường dường như đang đổ sụp về phía cô, bụng cô sôi réo. Cô phải ra khỏi đây. Cô muốn mẹ ở bên, nhưng lại không dám thu hút sự chú ý của mẹ. Cô lẻn ra cánh cửa sau cũ kỹ và hòa mình vào bầu không khí mát lạnh của Michigan. Những chiếc lá khô còn sót lại của mùa thu năm ngoái lướt nhanh qua tàn tích của trận bão tuyết mùa xuân. Hơi lạnh trên gò má giải thoát cô khỏi sức nóng đang sôi sục trên da thịt. Nút Áo cúi mình xuống, lảo đảo đi về phía căn nhà gỗ được chỉ định. Có khoảng hai mươi căn nhà gỗ và lều nằm lộn xộn xung quanh nhà thờ, căn của cô nằm ở phía tây. Cơn đau bóp nghẹt lưng cô giảm đi đôi chút, Nút Áo càng trở nên vội vã hơn. Cô dò dẫm tìm tay nắm cửa, và gần như ngã vào trong khi một cơn đau khác ập đến. Chất lỏng đọng lại dưới chân cô. Cô đang chết ư? Cô thở hổn hển khi cơn đau lan dần từ lưng xuống bụng. Hôm nay đứa bé sẽ chào đời. Cô mò đường đến chiếc cũi cứng trong phòng ngủ và ngã vào đó. Cô mất nhận thức về thời gian khi đau đớn dồn từng cơn. Có lẽ là hàng tiếng sau đó, cô mới cảm nhận được một bàn tay rắn chắc đặt lên trán và nhìn thấy gương mặt của mẹ mình. “Đứa bé,” Nút Áo thì thào qua đôi môi khô khốc. “Đúng thế, gần chào đời rồi.” Mẹ cô nhúng khăn vào thau nước và lau trán cho cô. “Con đang làm tốt lắm, con yêu. Mẹ đã báo cho Moses rồi.” Cô không muốn cha đứa trẻ đến đây chút nào. Cô thậm chí còn chưa từng nhìn rõ mặt anh ta. Cha mẹ đã hứa hôn cô cho người đó khi cô mới mười hai tuổi. Một năm trước, khi cô mười bốn, Moses đã buộc tay họ vào nhau. Anh ta đến với cô hai lần trước khi cô cảm thấy bản thân mình ngày càng nặng nề, và thời điểm này anh ta sẽ không còn cảm thấy thoải mái chút nào. Cô bám lấy tay mẹ. “Mẹ ơi, con đau quá! Con sợ. Con muốn đến bệnh viện.” “Mẹ biết là đau, con yêu.” Mẹ dỗ dành cô bằng bàn tay điềm tĩnh đặt lên trán. “Hít thở đều là cơn đau sẽ qua. Mẹ sẽ đỡ đẻ ngay cho con.” Thế giới xung quanh cô thu hẹp lại chỉ còn gian phòng nhỏ này, còn cơn đau thì xóa nhòa mọi thứ. Sau khoảng thời gian tưởng chừng như vô tận, tiếng khóc mỏng manh báo hiệu sự ra đời của một sinh linh cất lên. Nút Áo chẳng còn đủ sức để hỏi giới tính của đứa bé được nữa. “Một bé trai!” Mẹ Nút Áo đặt đứa bé lên ngực cô. “Khá bụ bẫm. Nghe tiếng khóc mà xem. Thằng bé đòi ăn đấy.” Nút Áo đã chứng kiến thủ tục này rất nhiều lần trong suốt những năm ở cùng cộng đồng, nhưng mẹ phải giúp thì cô mới giữ chắc con được. Cô đưa tay vuốt mái tóc đen của con. “Thằng bé kháu khỉnh quá!” Đứa trẻ có nước da đỏ hồng. Cô đưa tay lướt dọc theo cánh tay thằng bé. Mềm mại quá! Tình yêu ngập tràn và mãnh liệt dành cho con trai khiến chính cô cũng phải kinh ngạc. Cô nhắm mắt lại, hít vào mùi hương của con trong khi mẹ cô chụp vài tấm bằng máy ảnh lấy ngay. Sẽ phải có cách nào đó để thằng bé được hưởng nhiều hơn những gì cô có trong cộng đồng này. Nút Áo không để ý rằng mẹ mình đã để đứa bé vào một chiếc hộp nhỏ được chuẩn bị sẵn và cô cứ thế chìm vào giấc ngủ. Bị tiếng ồn bên ngoài đánh thức, cô bật dậy. “Mẹ ơi?” Không ai trả lời. Cô ngửi thấy mùi khói và nghe thấy những tiếng hét bên ngoài căn nhà gỗ. Có nhiều tiếng ồn hơn trước. Tiếng súng ư? Chẳng lẽ họ bị tấn công? Moses từng cảnh báo chuyện này có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Cô lăn khỏi giường và lao tới để bế đứa bé ra khỏi hộp, nhưng thằng bé không có ở đó. Có lẽ mẹ đã đưa con cô đi tắm, hoặc tới chỗ cha và Moses. Cô mệt lả vì thử thách ban nãy, giờ lảo đảo bước ra khỏi phòng ngủ để đi đến phòng khách. Làn khói len lỏi qua khe gỗ và ngọn lửa liếm lấy khung cửa. “Mẹ ơi?” Con của cô đâu rồi? Cô điên cuồng nhìn khắp căn nhà nhỏ, nhưng chẳng hề thấy bóng dáng con trai hay mẹ mình. Khói đã đốt cháy cổ họng và đang len dần xuống phổi. Cô ho sù sụ, tránh xa khỏi ngọn lửa bùng lên nơi vách tưởng trước của căn nhà và lê bước ra cửa sổ. Cô phải ra khỏi đây. Tấm kính cửa sổ vỡ tan sau lưng cô, ngọn lửa bùng lên nhờ luồng không khí mát lành tràn đến. “Nút Áo!” Cô quay về hướng phát ra giọng nói của cha. Ông đã đập vỡ cửa sổ và đang đưa tay ra. “Nhanh lên, không có nhiều thời gian đâu.” Cô lao đến, cha đỡ cô trèo ra ngoài hít thở không khí trong lành. “Con của con. Mẹ và con của con đâu?” “Đi theo cha.” Cha dùng tay nhấc cô lên và bế cô đi qua làn khói dày. Lửa bùng lên từ những căn nhà xung quanh, mùi khói cay sè khiến cô bật ho. Những tiếng la hét và tiếng súng vang lên khắp nơi. Một viên đạn rít qua đầu cô, khiến cô sợ hãi vùi mặt vào ngực cha. Chuyện gì đang xảy ra vậy? Cha cô đi tới bên chiếc xe Jeep cũ màu xanh lá đã móp méo với gần ba mươi năm tuổi đời. Ông đặt cô xuống cạnh cửa bên và mở nó ra. “Vào trong đi.” Cô lắc đầu quầy quậy. “Không! Con phải tìm con con. Và cả mẹ nữa!” “Mẹ con không chịu đi. Bà ấy ở lại với Moses.” Đôi mắt của Nút Áo mở to đây kinh hoàng. “Mẹ đưa con của con đi ư? Mẹ không thể giữ nó ở đây được. Nó là con của con!” Cha nhìn xuống đất. “Con yêu, đứa bé chết rồi. Chúng ta phải rời khỏi đây, nếu không tất cả sẽ phải ngồi tù. Con phải vào xe ngay.” Giọng cha mềm mỏng. Chết? Đứa con nhỏ bé hoàn hảo của cô đã chết rồi ư? “Con không tin,” cô thì thào. Cha nhìn thẳng vào mắt cô. “Chính mắt cha đã thấy đứa bé. Thằng bé tím tái và lạnh ngắt. Mẹ con đưa cha bức ảnh này để con có thể nhớ về thằng bé.” Cha dúi một tấm ảnh chụp lấy ngay vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe. Cô gần như bất tỉnh khi ngã vào trong chiếc Jeep, được cha mình lái xe đưa qua hỏa ngục để tìm về chốn an toàn. Mời các bạn mượn đọc sách Một Lời Nói Dối của tác giả Colleen Coble & Nguyễn Hải An (dịch).
Mối Bất Hòa Truyền Kiếp
Sau Vệ sĩ vô hình, tập tiếp theo trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo tiếp tục dẫn người đọc đến với những con đường huyền ảo của xứ Basque u tối, mưa mù nhưng lại rất quyến rũ bởi núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút  và sự hiện diện của những thế lực siêu nhiên.  Một năm sau vụ bắt giữ thủ phạm giết hại các thiếu nữ ở thung lũng Baztan, nữ thanh tra Amaia Salazar chờ đợi tham dự phiên tòa xét xử kẻ sát nhân. Nhưng hắn đã bất ngờ tự sát trong nhà vệ sinh của phòng xử án và để lại thông điệp “Tarttalo” được viết bằng máu. Đây không phải là trường hợp duy nhất, bởi trước đó một người đàn ông sau khi cưỡng hiếp và giết chết bạn gái của mình đã tự sát và để lại thông điệp khó hiểu này. Dường như ai đó đang thao túng hắn phạm tội. Và không dừng lại ở đó, thi thể nạn nhân sau khi bị sát hại đã bị cắt rời: một phần cánh tay được lưu giữ và bảo quản như một món quà lưu niệm, trong khi thủ phạm lại không hề nhớ gì về việc này. Một lần nữa, thanh tra Amaia Salazar quay về thị trấn quê hương Elizondo để điều tra về hàng loạt các vụ tử tự kỳ quái cũng như các vụ mạo phạm nhà thờ địa phương. Lần theo dấu vết, cô dần vén màn những bí mật kinh hoàng trong chính gia đình mình, cùng với quá khứ đeo bám và nỗi lo sợ cho cậu con trai mới chào đời khiến Amaia như muốn nổ tung. *** Tác giả Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả trinh thám được đọc nhiều nhất tại Tây Ban Nha năm 2017 Bà là một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Review Mối Bất Hòa truyền kiếp - Doroles Redondo người viết Nguyễn Quang Huy #Review_sách #Mối_Bất_Hòa_Truyền_Kiếp #Dolores_Redondo Cuốn thứ hai trong series Trinh thám TBN về Thung lũng Báztan xứ Basque gồm 3 tập. Trong phần này Amaia đã hạ sinh một bé trai. Trước khi nghỉ sinh Amaia tham dự phiên toà xét xử Jason Medina, kẻ giết hại sau đó cưỡng hiếp tàn nhẫn cô con gái vợ, Johanna Marquez ở phần một. Không ngờ Jason Medina tự sát trong nhà vệ sinh ngay tại tòa. Trước khi chết hắn để lại dòng chữ ký khó hiểu: TARTATLO. Sau khi nghỉ sinh, Amaia được giao điều tra một vụ mạo phạm các nhà thờ trong vùng. Đồ cúng lễ bị đập phá, nhà thờ bị húc đổ cửa. Đặc biệt là sự xuất hiện của các mẩu xương trẻ em trên gian cúng lễ. Giữa lúc cuộc điều tra mạo phạm đang gặp bế tắc, thì bỗng Amaia liên tiếp nhận được tin những kẻ phạm tội bạo hành, sát hại dã man các phụ nữ trẻ xinh đẹp đều tự sát sau đó. Tất cả đều để lại một dòng chữ ký khó hiểu kia. Trước khi tự sát chúng đều đòi được đích thân Amaia thẩm vấn, và nói rằng chúng chờ đợi điều gì đó. Linh cảm có điều bất thường, Amaia nhận ra có mối liên quan giữa đống xương ở nhà thờ với đống xương trong hang đá ở cuối phần một. Cả hai đống xương này, những vụ tự sát với chữ ký ghê rợn kia tất cả đều cho thấy một âm mưu kinh hoàng, ghê rợn. Một âm mưu mà không ngờ lại có dây mơ rễ má đến những gì yêu thương nhất của Amaia, mà ban đầu chị cứ ngỡ chỉ là cơn ác mộng. Một lời khuyên cho ai đọc Mối Bất Hòa Truyền Kiếp là phải đọc phần một, Vệ Sĩ Vô Hình trước. Vì cuốn này có nhiều nội dung mà nếu không đọc phần một sẽ không thể hiểu được. Chẳng hạn như xác của Johanna Marquez có vết cắn chỗ cánh tay bị cắt cụt mà phải đến phần này nó mới được làm rõ. Dolores Redondo đã xây dựng nên không khí thung lũng Báztan còn đáng sợ hơn cả phần một. Nó vừa mang tính huyền bí, ma mị vừa mang tính kinh dị, đẫm máu rùng rợn. Bí mật trùng trùng bí mật, những cảnh hiện trường đẫm máu, bối cảnh ma mị, huyền bí hư hư thực thực và nỗi lo toan khi lần đầu tiên làm mẹ của Amaia tất cả đan xen vào nhau nhưng không hề rối, khiến mình bị cuốn hút đến không thể dứt ra. Sách dày hơn 500 trang tuy nhiên không hề khiến mình bị mệt mỏi và chán nản. Tình huống hồi hộp, rợn tóc gáy diễn ra liên tiếp. Nếu đã thấy quá khiếp sợ những cảnh hiện trường rùng rợn thì có thể được giải trí với chuyện tình giữa Thẩm phán Markina và Amaia. Vì công việc nên Amaia thường xuyên phải gặp gỡ chàng thẩm phán đẹp trai, quyến rũ, lịch thiệp nho nhã và anh ta cũng có ý định thả dê Amaia, dù biết thừa nàng đã có chồng. Những đoạn Amaia cũng thấy lòng xao xuyến trước Markina nhưng cố gắng kiềm chế đọc rất vui. Điều đó khiến câu chuyện toát lên vẻ chân thực. Ở phần này Amaia cũng gặp lại nàng tiên cô từng chỉ cho Amaia cái hang đá ở phần một. Nhiều bạn thích trinh thám thuần có lẽ rất ghét chi tiết nàng tiên cô này. Nhưng mình nghĩ với một vùng đất đậm nét huyền bí, thần thoại như thung lũng Báztan thì chuyện này là bình thường, miễn là nó không ảnh hưởng nhiều đến cốt truyện. Và chính nó tạo ra nét đặc biệt và cuốn hút của series này. Và cả phần 2 này mình cũng không đoán ra được hung thủ. Rất thú vị khi mình cảm tưởng như gặp lại Kẻ Nhắc Tuồng phần cuốn Mối Bất Hòa Truyền Kiếp này. Cùng một dạng hung thủ, cùng một phương thức tác động mọi người đọc xem sao nhé. Mối Bất Hòa Truyền Kiếp được dịch và biên tập tốt hơn nhiều so với phần một. Các đoạn khó hiểu ít hơn hẳn, mong cuốn ba sẽ được giảm thiểu. Điểm: 8/10 *** Mối bất hòa truyền kiếp là cuốn thứ 2 trong sery bộ 3 của Dolores Redondo. Tập 1 Vệ sĩ vô hình ta đã biết về thân thế, quê hương của nữ thanh tra Amaia Salazar cùng vụ án giết hại những thiếu nữ xảy ra tại thung lũng Baztán quê hương cô. Trong tập này những vụ án giết người tàn bạo lại xảy ra tại nơi đó, khởi đầu với những vụ mạo phạm nhà thờ, rồi những người phụ nữ bị giết hại dã man, 1 bên cánh tay bị cắt bởi một lưỡi dao sắc ngọt và biến mất khỏi hiện trường. Và những kẻ sát nhân đều đã tự tử, để lại 1 dòng chữ: Tarttalo. Tất cả các đầu mối đều chỉ ra 1 điều có 1 kẻ nào đó giật dây điều khiển chúng và nhắm tới nữ thanh tra Amaia. Sau một cuộc điều tra khá dài, diễn ra trong 550 trang giấy khổ lớn, ở tập này nghiệp vụ của Amaia và các đồng sự đã sắc bén hơn, khúc cua cuối truyện đã không đến nỗi ngoặt gấp như tập 1. Lại một lần nữa vụ án liên quan đến quá khứ. Phải chăng có một Mối bất hòa truyền kiếp. Tuy đã giảm bớt những yếu tố siêu nhiên song những giấc mơ báo mộng vẫn khá nhiều trong chuyện. Đọc cuốn sách này không hiểu sao tôi không tập trung được với các tình tiết của các vụ án mà cứ mải mê với đời tư của Amaia, ngay từ đầu có các vụ án ghê rợn xảy ra song tôi không nhập tâm mà cứ chú ý vào sự kiện thiên thần nhỏ của cô ấy sắp ra đời. Rồi sự bất hòa với chị gái, rồi sự tán tỉnh của thẩm phán Markina không hiểu tác giả cho vào có ý đồ gì. Đọc cuốn sách này tôi ghê sợ người mẹ của Amaia, bà ta như một loại ác quỷ hiện về chứ không phải là bệnh nhân tâm thần. Đây là một mẫu nhân vật người mẹ khá lạ lẫm… Vẫn như tập 1 tôi đánh giá cao các yếu tố trong truyện , trừ trinh thám của tập 2 bộ sách của tác giả Doroles Redondo… Huỳnh Thu Giang *** Itxusuria Lần theo vệt nước mưa rỏ giọt từ mái hiên, thật dễ tìm ra ngôi mộ. Một hình người quỳ gối, lần tìm trong quần áo một cái bay và cái cuốc chim nhỏ để phá bỏ bề mặt rắn chắc của lớp đất đen. Đất bở tơi thành những cục mềm, ẩm ướt, tỏa mùi của gỗ và rêu. Một nhát nạo cẩn thận vài xen ti mét, để lộ những mảnh vải mục nát lẫn với đất. Người đó giật mảnh vải vốn là tấm phủ giường cũi, để lộ ra một cái xác quấn trong lớp vải dầu. Chỉ còn lại những mẩu dây thừng buộc chặt cái gói, in vết hằn sâu trên vải ở những chỗ siết chặt. Gạt những mẩu dây sang một bên, người đó lần mò tìm mép mảnh vải và cảm thấy nó được quấn vài lần. Xé một đầu cái gói, mảnh vải liệm mở toang như được cắt bằng dao. Đứa trẻ được chôn sấp, vùi vào lòng đất, những chiếc xương hình như được bảo quản tốt như chính lớp vải dầu, mặc dù lấm đất đen vùng Baztán. Duỗi thẳng bàn tay gần như che kín hình hài bé xíu, người đó ấn ngực đứa trẻ vào sâu hơn trong đất và giật cánh tay phải của nó ra khỏi hốc xương. Lúc cánh tay lỏng ra, xương đòn gẫy thành tiếng tách khẽ, giống như tiếng thở dài của ngôi mộ, một lời than van vì hành động báng bổ thánh thần. Như bỗng thấy bứt rứt, hình người mờ ảo đó chùn bước đứng dậy, nhét bộ xương vào lớp vải, rồi liếc nhìn cái xác lần cuối trước khi cào đất lấp lại ngôi mộ. Mời các bạn mượn đọc sách Mối Bất Hòa Truyền Kiếp của tác giả Dolores Redondo & Đinh Thanh Vân (dịch).
Lời Nguyền Của Người Cá
Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động bởi hai vụ án mạng man rợ diễn ra. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ theo cách thức vô cùng dã man và xác bị vứt tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr., Tử tước Devlin. Cuộc điều tra đã dẫn anh tới một vụ án xảy ra trước đó không lâu - con trai của một vị mục sư ở hạt Kent - chàng sinh viên khoa thần học tại Đại học Cambridge - cũng bị sát hại theo cách tương tự. Chưa dừng lại ở đó, thêm một nạn nhân nữa, viên đại úy Hải quân Hoàng gia cũng thiệt mạng ngay trên bến cảng thành phố London. Chỉ có điều, khác với ba nạn nhân trước, thi thể viên đại úy vẫn còn nguyên vẹn và không có dấu hiệu bị tùng xẻo. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về nhưng vụ án mạng rùng rợn gây ra bởi kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi năm năm trước. Cha mẹ của nạn nhân từng là hành khách trên con tàu đó. Khi tàu gặp bão, bị mất hướng và hết lương thực, họ đồng ý ‘chia nhau’ một đứa bé sắp chết. Cha đứa bé biết được câu chuyện và trả thù bằng con cái họ. *** Cuốn sách kể về những vụ giết người hàng loạt, nạn nhân đều là những chàng trai trẻ tuổi quý tộc, gia thế giàu sang đến từ vùng West End, “Lời nguyền của cá” thu hút ngay từ những chương đầu tiên. Vào một buổi sáng phải sớm rời khỏi giường người tình, Sebastian bị “ném” vào vụ án rùng rợn mà nạn nhân là một chàng quý tộc mới chỉ 18 tuổi, bị cắt lìa nửa dưới và hung thủ thì cố ý bỡn cợt dư luận khi cố tình để nạn nhân ở khu công cộng với một móng guốc của một con dê trong miệng. Và đó không phải là vụ án đầu tiên trong ba tháng trở gần đây. Sebastian chẳng thích thú gì những vụ án mạng, nhưng để đền đáp hàm ơn của ngài Chánh thẩm Lovejoy đã khiến chàng không thể từ chối tham gia phá án. Anh đâu ngờ rằng vụ điều tra này lại đặt chàng và Kat, cô gái chàng yêu vào tình thế nguy hiểm khi liên tiếp có kẻ luôn muốn truy sát họ. Án mạng xảy ra càng nhiều, càng dẫn Sebtian quan tâm đến chuyến tàu Harmony từng gặp nạn nhiều năm trước, nhất là khi các nạn nhân đều liên quan đến một bài thơ. Khi bí mật năm ấy được lật tung cũng là khi người đứng sau những vụ án mạng lộ diện. Và những âm mưu, những toan tính đứng sau vụ giết người hàng loạt ấy là gì ? Hãy tìm đọc “Lời nguyền của người cá” để khám phá những bất ngờ nối tiếp bất ngờ nhé ❤️ Đỗ Như Quỳnh Tác Giả: C.S Harris. Dịch giả Thu Huyền. Điểm: 10 Mức: Rất hay (vkl). Truyện hay lắm khỏi đọc review nha mọi người mua liền đi, nhớ mua luôn tập trước để nắm được “Timeline” của truyện. Nối tiếp phần trước của vụ án mạng kinh khủng khiếp của việc sát hại dã man cô gái ở điện thờ đức mẹ trong “Khi thiên thần sợ hãi”, nối tiếp cuộc đời về tử tước Devlin sự kiện diễn ra vào dòng thời gian 8 tháng sau tử tước Devlin cool ngầu lại tiếp tục một cuộc hành trình mới với vụ án liên quan đến biển cả “Lời nguyền của người cá”. Đi hứng sao rơi Ân ái với rễ sâm độc Kể cho ta nơi thời gian thất lạc Hay kẻ nào đã xẻ chân ác quỷ Dạy ta nghe tiếng hát người cá Hay giữ cho mình khỏi châm ngòi đố kỵ…. Go and catch a falling star, Get with child a mandrake root, Tell me where all past years are, Or who cleft the devil’s foot, Teach me to hear mermaids singing, Or to keep off envy’s stinging, JOHN DONNE Trích đoạn bài thơ trên sẽ đưa ta phiêu lưu vào những miền quên lãng của quá khứ dẫn đến những vụ sát hại đẫm máu của các cậu thanh niên trai trẻ 18+. Cuộc phiêu lưu tìm ra sự thật bắt đầu nhé. Sơ lược nội dung: Thành phố London những ngày cuối hạ đầu thu năm 1811 rúng động vì những vụ án mạng man rợ. Nạn nhân là những chàng trai trẻ có địa vị cao quý hoặc gia thế giàu sang. Thi thể họ bị hành hạ vô cùng dã man như róc xương tay chân, bị rút cạn máu và bị vứt xác tại những địa điểm công cộng, nhiều người qua lại. Dân chúng xôn xao lo sợ, truyền tai nhau về những vụ án mạng rùng rợn của kẻ được mệnh danh là “Tên đồ tể khu West End”. Đứng trước bài toán hóc búa, sự thúc ép ghê gớm từ cấp trên và nỗi hoang mang ngày càng tăng trong dân chúng, Chánh thẩm Henry Lovejoy buộc phải nhờ tới sự trợ giúp của Sebastian St. Cyr, Tử tước Devlin. Càng đi sâu tìm hiểu, Sebastian càng phát hiện ra nhiều chi tiết lạ lùng về mối liên hệ giữa chuỗi án mạng và những người còn sống sót trên con tàu Harmony gặp nạn ngoài khơi 5 năm trước. Họ có liên quan gì tới những vụ án gây chấn động London thời gian qua? Và bí mật động trời mà họ cố giữ kín bằng mọi giá thực sự là gì? Cũng giống như tập trước, lần này tử tước Devlin lại tiến hành độc mã điều tra vụ án mạng liên hoàng được gây ra bởi một người ra tay hết sức tàn nhẫn và ác độc ấy, sau 8 tháng kể từ sự kiện ở điện thờ Đức mẹ chỉ có hai xác chết là nữ thôi thì qua đến phần này, tác giả đã mạnh tay hơn khi tạo ra một chuỗi án mạng liên hoàn khi mà các chàng trai độ tuổi từ 18-29 lần lượt bị sát hại và để biết được sự thật đó chỉ có 1 mà thôi khi mà tử tước Devlin một lần nữa ra tay đi tìm cho ra sự thật. Xuyên suốt câu truyện là hành trình tìm kiếm những mối dây mơ rễ má liên hệ giữa các nạn nhân với nhau nhưng họ thì không có mối liên kết nào cả vì độ tuổi, tầng lớp, địa vị và gia cảnh đều rất khác nhau, thế nên một độ nghi ngờ về việc đây là việc làm có khả năng gây ra bởi một tên sát nhân “đồ tể” có mối thù với thân phụ của các nạn nhân trong quá khứ. Cuộc hành trình lần này đã có sự giúp đỡ của cô Kat và cậu bé Tom móc túi ở phần trước, giờ đã về làm tiểu đồng cho tử tước và Devlin xưng ta em với cậu bé 12 tuổi thay vì xưng ngươi ta như ở phần 1, cho thấy tử tước ngoài thông minh mẫn cán ra luôn tôn trọng mọi người, không phân biệt giai cấp. Trong quá trình điều tra thì có rất nhiều sự uẩn khuất nằm phía sau sự liên quan tới những người cha của nạn nhân khi mà họ quá khứ đã từng đi trên một chiếc tàu và sự kiện kinh khủng khiếp đã diễn ra trên con tàu ấy. khi mà trong số những hành khách trên tàu đang rơi vào khủng hoảng kẹt lương thực và đói khát nên bọn họ đã cùng nhau làm việc thật sự kinh khiếp nhất trong lịch sử hàng hải(sự việc ấy là gì mình sẽ không spoi, ai muốn biết pm mình. Phải thật sự một điều là khi đọc đến đây mình thấy rất tội cho ‘nạn nhân’ đã bị những người khách đó làm một việc để sinh tồn nhưng lại rất là thất đức
Gọi Tên Kẻ Chết
Một vụ án mạng xảy ra – nhưng vì nạn nhân là kẻ vừa mãn hạn tù, không một ai thực sự quan tâm, cho dù Thanh tra John Rebus và Hạ sĩ Siobhan Clarke đangcảm thấy còn điều gì gờn gợn…   Bấy giờ các nhà lãnh đạo thế giới đang đổ về Scotland tham dự hội nghị quốc tế G8. Giới cảnh sát đang bận rộn cho sự kiện, ngoại trừ John Rebus. Ông là người duy nhất đang trực trụ sở cảnh sát hoang vắng khi một cuộc gọi khẩn đổ chuông. Một nghị sĩ trẻ nào đó đã ngã tử vong từ trên tường cao lâu đài Edinburgh. Tai nạn, tự sát, hay là điều gì khác đáng quan tâm?Liệu có liên quan gì đến bằng chứng đáng sợ tìm thấy ở hiện trường nhiều vụ án gần đây? Trong khi phía cơ quan chính phủ và lực lượng đặc vụ chỉ nỗ lực ém nhẹm mọi chuyệnhòng đảm bảo hội nghị tầm cỡ quốc tế diễn ra êm đẹp, Rebus biết ông có không quá bẩy mươi hai giờ để tìm ra câu trả lời sinh tử…   “Một Rankin kinh điển, và nếu đã từng yêu mến một Rebus kiên định, bạn sẽ say đắm cuốn tiểu thuyết này. Một tội ác đầy tinh vi, khiến người đọc không ngừng lật trang.” - Independent   “Kết hợp một tác phẩm trinh thám hiện đại đầy lôi cuốn khiến phải lật trang liên tục vớimột tiểu thuyết chính trịđầy phức tạp luân lý.” - Irish Times *** IAN RANKIN sinh tại Fife năm 1960, Ian Rankin tốt nghiệp Đại học Edinburgh năm 1982, sau đó dành ba năm viết tiểu thuyết thay vì tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ Văn chương Scotland. Trước khi thành công trong nghiệp viết, ông đã từng trải nghiệm nhiều công việc như thu hoạch nho, chăn lợn, thu thuế, nhà nghiên cứu về thức uống chứa cồn, ký giả chuyên viết về hệ thống âm thanh chất lượng cao và cả công việc của một nhạc sĩ chơi nhạc punk. Series tiểu thuyết Thanh tra Rebus nổi tiếng của ông cho đến nay đã được dịch ra trên hai mươi hai thứ tiếng, nhiều tiểu thuyết trong series là sách bán chạy xuyên lục địa. Ian Rankin là thành viên ủy ban giải thưởng Hawthorden, tác gia đoạt giải thưởng Chandler Fullbirght Award cao quý, cùng với bốn giải Dao găm do Hội Nhà văn Trinh thám (CWA) trao tặng. Cho những cống hiến đối với nền văn học, ông còn được trao Huân chương Anh quốc. *** Gọi tên kẻ chết “Chúng ta phải quan tâm đến chính trị, vì chính thứ đó đẩy quay bánh xe cuộc sống của chúng ta.” Chính câu nói này đã khiến tôi có thêm động lực để nhảy vào cái hố khá sâu của tác phẩm này. Câu chuyện kéo dài gần 600 trang, theo như mọi cuốn sách ngôn tình khác, nó có thể kể hết câu chuyện tình yêu đau thương mấy đời mấy kiếp của các nhân vật, nhưng trong “ Gọi tên kẻ chết”, đó là câu chuyện vỏn vẹn trong vòng chín ngày : 1/7/205 – 9/7/205. Đây là thời gian diễn ra hội nghị thượng đỉnh của khối G8 tại Scotland, một giai đoạn lịch sử đã từng tốn không biết bao nhiêu bút mực của giới báo chí, và sự quan tâm của thế giới.   Một vụ án mạng 6 tuần ngay trước hội nghị thượng đỉnh nhưng không nhận được sự quan tâm tối thiểu nhất của giới pháp luật và cảnh sát. Cái chết của Cyril Colliar, một kẻ vừa mãn hạn tù với một lố những tiền án tiền sự và nóng hổi nhất là vụ cưỡng hiếp hắn vừa thụ án xong. Tất cả điều tra viên đều lãnh đạm không thèm dùng đến từ “ nạn nhân” như thường lệ, mà thay bằng từ “kẻ chết”, đủ hiểu bọn họ đối với hắn chán ghét cỡ nào. Cyril Colliar bị chết do nứt sọ và kẻ sát nhân đã bồi thêm cho hắn một cylinder đầy heroin nguyên chất. Một mảnh của áo khoác da hắn mặc bị cắt ra và sau đó được tìm thấy treo lủng lẳng trên cây ở một nơi gọi là Clootie Well chung với rất nhiều mảnh vải và thứ đồ dị hợm khác như một phong tục âm linh quái dị. Sau khi pháp chứng làm việc, qua một số manh mối, họ lại tìm ra được 2 nạn nhân khác và xác định đây là một vụ giết người hàng loạt, và nạn nhân là những kẻ có tiền án tiền sự và đặc biệt là đã từng dính dáng đến tội dâm ô- cưỡng hiếp hoặc quấy rối tình dục. Dự định đi theo phương hướng này để điều tra, nhưng thanh tra- sắp-về-hưu John Rebus và hạ sĩ trẻ Siobhan Clarke không được sự ủng hộ của cấp trên lẫn sự trợ giúp của các đồng nghiệp. Tất cả bọn họ đều thờ ơ với cái chết của những kẻ đã từng phạm tội và cho rằng đó chính là quả báo của cuộc sống ngoài vòng luật pháp. Trong lúc vụ án này có tiến triển thì lại một vụ án khác xảy ra, một nghị sĩ rơi từ tường cao của lâu đài Edinburgh khi buổi tiệc chào đón trước thềm G8, không nhân chứng, không một dấu vết chứng tỏ anh ấy bị giết hay tai nạn. Nhưng mối quan hệ của nạn nhân và những manh mối trong cuộc sống và công việc của anh ta để lại khiến Rebus và Siobhan không thể đánh đồng vụ này với một tai nạn. Một vụ án mạng liên hoàn còn chưa được kết thúc lại xuất hiện thêm một vụ án khác, nhưng tất cả đều bị giấu nhẹm đi và ém tin tức một cách triệt để vì hội nghị thượng đinh chính là rào cản lớn nhất với vô số bạo loạn, diễu hành, an ninh và thể diện quốc gia cần được đặt lên hàng đầu. Mọi thứ như những bánh xe trong một guồng máy phức tạp, một khi một chiếc bánh đã quay sẽ kéo theo hàng loạt thứ trượt xa hơn so với những gì ban đầu dự tính.Mở đầu tác phẩm là một không khí ảm đạm, tang thương và có phần bức bối của gia đình Rebus và các vụ án mạng, tiếp theo đó là sự náo loạn vồn vập của hội nghị thượng đỉnh và giới chính trị. Tác phẩm hội tụ đầy đủ một xã hội với giới pháp luật, chính trị, thương nhân, ký giả , tội phạm và người dân. Họ xâu xé lẫn nhau, tính kế lẫn nhau, đối địch lẫn nhau nhưng rồi lại có lúc như những sinh vật lại chạy về cộng sinh với nhau để cầu sống, cầu tài, cầu danh vọng và cầu bình an. Tác phẩm này có lẽ sẽ không để dành cho những bạn trẻ không đủ kiên nhẫn vì nó rất chậm, và rất thật. Trong một mớ bòng bong hỗn loạn và không có một đội điều tra của riêng mình, thanh tra Rebus và hạ sĩ Siobhan phải tranh thủ từng li từng tí các mối quan hệ hoặc cơ hội để gom về chút ít thông tin và manh mối từ miệng của cấp trên, những kẻ trong cuộc và ngoài cuộc, thậm chí là những con chốt được cài vào các ván cờ chính trị của những kẻ đứng sau đó. Họ chật vật với từng giây từng phút, ngột ngạt trong một mạng nhện khổng lồ càng ngày càng thít chặt họ. Họ đặt cược cả sinh mạng và tiền đồ chỉ để mong không một kẻ phạm tội nào có thể thoát được lưới pháp luật. Câu chuyện rất dài nhưng tác giả không để độc giả nghỉ ngơi trong một giây một phút nào. Không một trang giấy nào để các nhân vật chúng ta nói chuyện phiếm hay thư giãn phí hoài thời gian. Mọi mối quan hệ đều qui về công việc, mỗi trang giấy đều chạy từ đầu này của vụ án đến đầu kia của cuộc bạo loạn. Từng chi tiết, từng ngõ ngách của cuộc diễu hành, từng nét mặt của những người bạo loạn đều được mô tả kỹ càng. Kỹ năng mô tả và liên hệ của tác giả rất tốt, liên kết rành mạch từ chuyện này sang chuyện kia rồi quay lại nhưng không bị quá lố hoặc quá lan man. Tuy nhiên, vì cố gắng giăng một cái bẫy quá lớn, quá nhiều người bị kéo vào vòng xoáy vụ án này mà câu chuyện rề rà đến mức khá mệt mỏi. Chạy một vòng lớn, rất lớn, và đôi lúc bị trì trệ một cách thảm hại, các nhân vật của chúng ta lại quay trở về điểm xuất phát và phát hiện ra sự thật đơn giản sau vấn đề phức tạp. Một cái kết vô lý nhưng vô cùng hợp lý trở thành điểm trừ cho tác phẩm vì nó thực sự gây ức chế với độc giả sau chặng đường dài gian nan đã đi qua. Điểm trừ lớn nhất cho tác phẩm này chính là dich thuật và biên tập của Nhã Nam. Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi dịch thuật đầy rẫy trong cuốn sách như một chén cơm nóng đầy sạn và đá. Từ ngữ Anh-Việt được dùng lẫn lộn, danh từ chỉ tên riêng của địa danh và nhân vật lại bị dịch ra một cách không mượt mà, viết hoa tá lả linh tinh và chưa kể một số từ tiếng anh được phiên âm để đọc theo tiếng việt thực sự gây ức chế tột cùng khi đọc. Meeting- mít tinh London- Luân Đôn ( nhưng Scotland, Edinburgh và Clootie Well giữ nguyên) Blouse- Áo bờ-lu Pudding- bánh pút đinh Gothic- kiến trúc gô- tích Techno- tếch-nô Minh Hằng *** Tiếng nhạc nổi lên tiếp nối những thanh âm vang vọng của bản thánh ca. Ca khúc “Tình yêu bao trùm lên tôi” của ban nhạc Kẻ Nào. Rebus nhận ra bài hát ngay từ đoạn dạo đầu với tiếng sấm và tiếng mưa rơi đặc trưng giờ đã tràn ngập không gian nhà thờ. Chrissie cứ nhất định muốn Rebus ngồi ở hàng ghế trên. Ông thực lòng chỉ muốn lui xuống phía sau: nơi ông thường ngồi mỗi khi dự tang lễ. Con trai và con gái của Chrissie ngồi ngay bên cạnh bà. Lesley đang vỗ về mẹ, vòng tay ôm lấy người bà khẽ siết chặt mỗi khi bà nức nở. Kenny chỉ đăm đăm nhìn vào khoảng không trước mặt, cố gắng kìm chặt mọi cảm xúc. Buổi sáng, khi còn ở nhà, Rebus đã hỏi tuổi cháu trai. Vào tháng tới Kenny sẽ tròn ba mươi, còn Lesley kém anh trai hai tuổi. Trông hai anh em đều rất giống mẹ, khiến cho Rebus nhớ lại những lời nhận xét kiểu như Giỏ nhà ai, quai nhà ấy mà mọi người vẫn nói về Michael và ông. Michael… mà mọi người vẫn quen gọi là Mickey. Em trai của Rebus, giờ đang lặng thinh nằm đó trong chiếc quan tài có tay cầm sáng bóng, ra đi ở tuổi năm mươi tư, cái tuổi mà theo tiêu chuẩn của xứ Scotland này thì chỉ ngang với tuổi thọ người dân ở một nước nghèo thuộc thế giới thứ ba. Có rất nhiều giả định - nào là lối sống, chế độ ăn, rồi cả yếu tố di truyền. Biên bản khám nghiệm tử thi đầy đủ vẫn chưa được thực hiện. Qua điện thoại, Rebus được Chrissie cho hay đó là một cơn đột quỵ nghiêm trọng, trấn an ông rằng mọi chuyện xảy ra “hoàn toàn đột ngột” - cứ như thể như thế thì có gì khác biệt. Đột ngột - tức là Rebus chẳng thể nói lời từ biệt với em trai. Cũng có nghĩa những lời cuối cùng giữa hai anh em chỉ là một mẩu chuyện phiếm trên điện thoại hồi ba tháng trước về câu lạc bộ Raith Rovers mà Michael yêu mến. Một chiếc khăn quàng của đội Raith, màu xanh lục pha trắng, được vắt ngang qua quan tài, kế bên vòng hoa tang. Kenny đeo chiếc cà vạt mà bố Michael từng dùng, trên có tấm khiên biểu tượng của đội Raith - con mãnh thú gì đó đang giơ cao một cái đai lưng. Rebus đã hỏi về ý nghĩa của biểu tượng đó nhưng Kenny chỉ khẽ nhún vai. Dõi mắt dọc theo hàng ghế, Rebus thấy người chỉ dẫn làm dấu. Tất cả những người dự tang lễ đều đứng lên. Chrissie chậm rãi bước dọc lối đi, hai người con theo sát ở hai bên. Người chỉ dẫn đưa mắt nhìn Rebus, nhưng ông vẫn đứng yên tại chỗ. Xong ngồi xuống để ra hiệu cho em dâu và các cháu không phải chờ mình. Bài hát mới được nửa chừng. Đó là ca khúc cuối cùng trong đĩa nhạc Quadrophenia. Michael vẫn luôn là fan hâm mộ cuồng nhiệt của nhóm Kẻ Nào, còn cá nhân Rebus thì lại yêu thích ban nhạc Rolling Stones hơn. Dù vậy vẫn phải công nhận rằng các album như Tommy và Quadrophenia đã làm được những điều mà The Rolling Stones không tài nào có thể. Giọng ca Daltrey của ban nhạc đang phấn khích gào về việc muốn uống rượu. Rebus cũng đồng tình, nhưng còn phải tỉnh táo cả chặng lái xe trở về Edinburgh. Phòng họp của một khách sạn địa phương đã được đặt trước. Đứng trên bục giảng kinh, vị mục sư chủ tọa nhắc nhở rằng tất cả bạn bè thân hữu đã tới chia buồn đều được mời. Những ly whisky và những tách trà được bưng ra, rồi bánh kẹp cũng sẽ được mang lên. Mọi người sẽ cùng nhau ôn lại những câu chuyện và kỷ niệm thân thương về người quá cố, mỉm cười an ủi, trầm ngâm đồng cảm với nhau và cùng chia sẻ nỗi buồn qua ánh mắt. Các nhân viên khách sạn sẽ rút lui trong lặng lẽ, để tôn trọng bầu không khí. Rebus cố gắng sắp xếp câu chữ trong đầu mình, những từ ngữ sẽ thay ông xin lỗi. Chrissie à, tôi cần phải trở về ngay. Có quá nhiều việc. Ông có thể nói dối và đổ lỗi cho hội nghị thượng đỉnh G8. Buổi sáng nay, trước khi ra khỏi nhà, Lesley đã nói rằng Rebus chắc hẳn đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho hội nghị này. Ông đã có thể nói thế này với cô cháu gái, Ta là viên cảnh sát duy nhất mà dường như họ không cần tới. Cảnh sát được triệu tập từ khắp mọi nơi. Chỉ tính riêng ở Luân Đôn đã có tới mười lăm nghìn sĩ quan. Thế nhưng thanh tra John Rebus dường như lại trở thành người thừa trong cuộc điều động nhân lực khổng lồ này. Phải có người ở lại chèo lái con thuyền chứ - những lời từ chính miệng tổng thanh tra James Macrae, đi kèm kiểu cười thầy dòng tự mãn đáng ghét quăng lại. Thanh tra Derek Starr đoan chắc mình sẽ trở thành người kế vị ngai vàng của triều đại Macrae. Rồi sẽ có ngày hắn nắm trong tay quyền điều hành Sở Cảnh sát quảng trường Gayfield này. John Rebus chẳng thể nào là một mối họa cho viễn cảnh đó, còn chưa đầy một năm nữa là đến ngày ông phải về hưu. Chính Starr cũng đã nói những lời đại loại như: John à, sẽ không ai chê trách anh về việc tụt dốc trong nghề đâu. Ai ở độ tuổi của anh cũng vậy cả. Có thể là đúng vậy thật, nhưng các thành viên nhóm The Rolling Stones đều già hơn Rebus; cả Daltrey và Townshend cũng nhiều tuổi hơn ông. Ấy vậy mà họ vẫn chơi nhạc, vẫn cứ đi lưu diễn đấy thôi. Bài hát đang dần đi vào đoạn kết, Rebus lại nhỏm người đứng dậy. Lúc này chỉ còn mình ông trong nhà thờ. Đưa mắt nhìn về phía tấm màn nhung màu tía lần cuối. Chiếc quan tài có thể vẫn nằm sau tấm màn; nhưng cũng có thể nó đã được chuyển tới khu khác của lò hỏa táng. Rebus ngẫm nghĩ nhớ lại thời niên thiếu, hai anh em ông hào hứng thưởng thức những ca khúc của thập niên 45 trong căn phòng chung trên con phố High của thị trấn Kirkcaldy, bài ”Thế hệ của Tôi” và ”Sự thay thế”, Michael thắc mắc về cách mà Daltrey nhấn nhá ca từ trong bài hát đầu tiên, còn Rebus thì nói ông đã từng đọc được ở đâu đó rằng việc hát như thế là có dính líu đến chất kích thích. Hồi ấy, chất kích thích duy nhất mà hai anh em cùng ham mê là chất cồn, những ngụm đầy tràn từ các chai trên chạn bếp, một can bia đen mùi tanh tanh được khui ra, vậy là say sưa trong bóng đêm sau giờ tắt đèn. Mickey đứng trên khu phố tản bộ của Kirkcaldy, hướng ánh nhìn chăm chú ra ngoài biển, miệng lẩm nhẩm lời hát “Tôi có thể trông qua hàng dặm trường”. Nhưng liệu khung cảnh này có thực sự là những gì đã xảy ra không nhỉ? Đĩa nhạc này ra lò vào những năm 66-67, khoảng thời gian ấy Rebus vẫn đang phục vụ trong quân ngũ. Ắt hẳn là một kỳ nghỉ phép của Rebus. Phải rồi, Mickey khi ấy để tóc dài ngang vai, cố gắng bắt chước phong cách của thần tượng Daltrey, còn Rebus để kiểu đầu quân nhân đặc trưng, bịa những mẩu chuyện nhằm tô hồng cho cuộc sống quân ngũ, Bắc Ai-len vẫn đang ở phía trước…   Mời các bạn mượn đọc sách Gọi Tên Kẻ Chết của tác giả Ian Rankin & Trịnh Xuân Thắng (dịch).