Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn

Nathan Fawles là một nhà văn nổi tiếng, đã tuyên bố ngừng viết và đến ẩn mình trên đảo Beaumont nơi người dân sống tách biệt với phần còn lại của thế giới. Khát khao gặp gỡ thần tượng đời mình, Raphaël, một nhà văn tập sự, đã một ngày kia cập bến đảo, cùng thời điểm với Mathilde, một nữ phóng viên trẻ tuổi có phần bí ẩn. Giữa ba con người tưởng chừng xa lạ ấy liệu có tồn tại mối dây liên kết nào? Cái xác người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo thuộc về ai? Cũng như mười lăm cuốn tiểu thuyết trước, Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn níu chân người đọc ngay những dòng đầu tiên. Cốt truyện được xây dựng hoàn hảo, cuốn ta vào một mê cung trinh thám tâm lý nơi số phận ba nhân vật chính đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nói như Bernard Lehut từ kênh RTL, thì đây thực sự là “một cốt truyện đỉnh cao, một tác phẩm ly kỳ hồi hộp, một trò ‘gương phản chiếu’ khéo léo giữa tác giả và độc giả.” “Thông điệp từ Cuộc sống bí ẩn của các nhà văn chắc chắn là lời tỏ tình tuyệt đẹp mà Musso dành cho việc đọc, và cả việc viết.”       - Elle *** “Mọi người đều có ba cuộc sống: Cuộc sống riêng tư, cuộc sống công khai và cuộc sống bí mật…” – Gabriel García Márquez Cuộc sống bí mật của các nhà văn (La vie secrète des écrivains) là cuốn sách thứ 16 của Guillaume Musso, đã được xuất bản ở Pháp vào đầu năm 2019. Nhã Nam đã nhanh chóng mua bản quyền và như thường niên, vào cuối năm 2019 cuốn sách đã nhanh chóng ra mắt với người đọc. Ngay sau khi mở bán, Cuộc sống bí mật của các nhà văn đã đạt được con số kỉ lục 32 triệu bản phát hành trên khắp thế giới. Vốn là nhà văn vô cùng được yêu thích ở Pháp, các tác phẩm của ông được độc giả đón đọc rất nhiều. Không chỉ vậy, sức hút của ông ở Việt Nam vô cùng lớn với lượng người hâm mộ hùng hậu. Có thể nói Guillaume Musso là một trong những nhà văn đương đại Pháp được hâm mộ nhiều nhất. Marc Levy cũng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng của Pháp, nhưng những tác phẩm của ông chủ yếu viết về tình cảm. Trong khi đó Guillaume Musso cũng viết về tình cảm đan xen cùng với trinh thám, hành động. Đây là một điểm đặc trưng và cuốn hút của những tác phẩm của ông, điều đã làm nên thành công của Guillaume Musso.   Cuộc sống bí mật của các nhà văn xoay quanh ba nhân vật chính: Nathan Fawles, Mathilde Monney và Raphaël Bataill. Nathan đã từng là một nhà văn vô cùng nổi tiếng, sau ba tác phẩm vô cùng nổi tiếng của ông là Loreleï Strange, Một thành phố nhỏ ở Mỹ- đạt được danh hiệu Pulitzer và Những kẻ bị sét đánh, Nathan đã quyết định gác lại sự nghiệp và lui về ở ẩn. Sự việc này khiến báo chí và giới công chúng vô cùng bàng hoàng. Trước khi kết thúc sự nghiệp viết, Nathan đã trả lời vô số các cuộc phỏng vấn của báo chí nhưng không ai là biết được lí do tại sao Nathan lại từ bỏ công nghiệp này khi đang đứng trên đỉnh cao sự nghiệp. Điều gì đã khiến Nathan Fawles từ bỏ danh vọng, tiền bạc? Cuộc sống bí mật của các nhà văn được kể theo ngôi thứ nhất, qua lời kể của Raphaël Bataill, một anh chàng yêu thích việc viết lách nhưng đã bị từ chối xuất bản cuốn sách đầu tay mới viết xong. Nản chí, anh nghĩ rằng tác phẩm của mình có thể được nhận xét và sửa lỗi khi anh gặp được vị thần tượng của mình: Nathan Fawles. Khi cánh cửa cơ hội gõ cửa thì Raphaël đã nhanh chóng nhắm bắt lấy, anh đã xin một công việc tạm thời trên đảo Beaumont- nơi Nathan đang sinh sống để có thể tiếp cận với ông. Một nữ nhà báo Mathilde Monney cũng có mặt trên hòn đảo Beaumont với mục đích là tiếp cận Nathan, nhưng ngoài việc tìm ra lí do bỏ sự nghiệp viết văn của Nathan thì cô ta còn có những mục đích khác. Thêm vào đó, cùng với sự xuất hiện của Mathilde thì còn kéo theo một vụ án trên đảo. Vậy mối liên kết của cả ba con người là gì? Sự xuất hiện cùng lúc của Mathilde có liên quan gì tới cái chết bí ẩn của người phụ nữ bị tra tấn dã man và gắn trên cây cổ thụ của đảo.  Có thể nói Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại là một thành công nối tiếp tác phẩm trước đó- Cô gái và màn đêm. Đặc biệt hơn nữa là tác phẩm này hoàn toàn thuần chất trinh thám, hành động, và không có những chi tiết tình cảm được đan xen như các tác phẩm trước. Cùng với cốt truyện lôi cuốn, dàn nhân vân của truyện đều để lại những hình ảnh mà Musso muốn khắc hoạ Dàn Nhân Vật Nathan Fawles, nhân vật trọng tâm của cuốn sách , là một nhà văn giấu bao điều bí mật. Trước sự rời bỏ danh vọng và lui về ở ẩn của ông, không một ai biết được lí do thực sự khiến nhà văn làm chuyện đấy.  “ Điều cốt yếu là thứ nhựa sống tưới tắm cho câu chuyện của cậu. Thứ nhựa sống phải chiếm hữu cậu và lan khắp cơ thể cậu như một luồng điện. Thứ nhựa sống phải thiêu đốt những huyết quản trong cậu để cậu không thể làm gì khác ngoài đi đến tận cùng cuốn tiểu thuyết như thể cuộc sống của cậu phụ thuộc cả vào đó. Viết chính là vậy. Chính thứ đó sẽ khiến độc giả của cậu cảm thấy bị giam cầm, chìm đắm và họ sẽ đánh mất những dấu mốc của bản thân để mặc mình bị nhấn chìm như chính cậu từng bị vậy.” Dù không ưa Raphaël, và để đạt được sự trợ giúp của cậu thì Nathan đã miễn cưỡng đưa ra lời khuyên cho cuốn tiểu thuyết của cậu. Tuy nhiên, những lời khuyên đó lại chân thật, nó xuất phát từ trái tim của một nhà văn thực sự yêu nghề, quý trọng với nghiệp viết và có nhiều kinh nghiệm trong việc này. Chỉ với đó thôi mà người đọc có thể dễ dàng hình dung ra con người của Nathan- một nhà văn thực sự tâm đắc với nghề. Lí do thực sự khiến ông bỏ nghiệp viết không ai biết, nhưng Raphaël tin chắc rằng vị cứu tinh này có thể giúp mình, và nhờ vào những lời khuyên chân thành của Nathan thì anh đã có thêm cảm hứng để viết nên cuốn tiểu thuyết thứ hai của bản thân- Cuộc sống bí mật của các nhà văn. “ Phẩm chất hàng đầu của một nhà văn là biết lôi cuốn độc giả bằng một câu chuyện hay. Một câu chuyện có khả bứt độc giả khỏi cuộc sống riêng để phóng chiếu họ vào giữa sự riêng tư và sự thật về các nhân vật. Văn phong chỉ là phương tiện phân bổ câu chuyện và giúp câu chuyện trở nên cuốn hút.” Dù chỉ là một nhà văn tập sự chưa hề có tiếng tăm, nhưng Raphaël đã có những quan điểm, nhận xét đúng đắn về một nhà văn. Anh coi trọng phẩm chất cần có của một nhà văn, họ nên đặt hết tâm huyết của mình vào cuốn tiểu thuyết, chứ không phải những cuốn sách rẻ tiền.  Một nhà văn giỏi là khi anh ta có thể hút người đọc vào trong chính thế giới của câu chuyện. Khi độc giả đọc không ngừng nghỉ một cuốn sách, và sau đó là nhận ra được những giá trị bài học và thậm chí thấy bản thân của họ trong đó, thì nhà văn đó thực sự thành công.  Do được kể từ điểm nhìn của Raphaël nên mọi quan điểm của anh được thể hiện rất rõ ràng. Đó như thể chính là những điều mà tác giả Musso muốn dành tặng cho độc giả của mình. Musso như thể đã hoá thân vào chính nhân vật của mình để truyền tải những quan điểm của bản thân. Mathilde Monney là một nhân vật nữ khác biệt so với những cuốn sách khác của Guillaume Musso. Cô là một càng nàng cá tính, thông minh mưu mẹo, dám hành động một cách nguy hiểm để đạt được mục đích. Và đặc biệt hơn, là cô có những bí mật bị chôn vùi. Những bí mật mà một tai nạn năm xưa đã để lại, khiến cô mất đi trí nhớ và sống khi không hề hay biết gì. Chính vì vật ngay khi đã biết được sự thật cô đã có một kế hoạch, kế hoạch để trả thù. “- Một cuốn tiểu thuyết hay là gì?   – Bạn sáng tạo ra các nhân vật gợi nên tình yêu và sự cảm thông trong độc giả. Rồi bạn giết chết các nhân vật này. Và bạn khiến độc giả của mình tổn thương. Bấy giờ, họ sẽ luôn nhớ đến tiểu thuyết của bạn.” – John IRVING Cái kết của truyện, cú twist ở những trang cuối như cái tát của Musso dành cho độc giả của mình vậy! Bao bí ẩn, bất ngờ, sự thật bị giấu kín đều phơi bày trước ánh sáng. Người đọc phải há hốc mồm vì ngạc nhiên, trời ơi tại sao Musso lại làm vậy! Thử tưởng tượng khi cuốn sách đi được hơn 2/3 chặng đường rồi, thì nhân vật chính của câu chuyện chết? Hầu như chả bao giờ có tác giả nào dám làm vậy! Nhân vật chính sinh ra để kể chuyện, để truyền tải thay những điều tác giả muốn nói, thử hỏi có ai lại muốn giết nhân vật chính của mình! Thế nhưng đây là Guillaume Musso, điều gì cũng có thể xảy ra trong câu chuyện của ông, người đọc phải nán lại đến những dòng chữ cuối cùng để tìm ra được sự thật. Với cú lừa đầy bất ngờ ở cuối, Guillaume Musso đã khiến bao con tim bị tổn thương. Cho độc giả yêu nhân vật của mình, rồi lại để họ bị tổn thương và có cảm giác bị lừa, Musso thật đúng là tài tình trong việc kể nên một câu chuyện giả tưởng. Đây cũng chính là lí do tại sao Cuộc sống bí mật của các nhà văn lại đặc biệt hơn bao giờ hết! Kết Với bất kì fan của Musso, đừng do dự mà hãy đọc ngay cuốn sách này. Còn với những ai muốn biết thêm về ông, Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một trải nghiệm tuyệt vời để tiếp cận với văn phong của ông. Chắc chắn độc gỉa không hề thất vọng khi đặt cuốn sách này xuống! Không chỉ vén màn lên sự thật đằng sau ánh hào quang của một nhà văn, những thông điệp truyền tải của Musso vô cùng rõ ràng và nhân văn. Thêm vào đó, những câu quote đầy chất lượng đến từ chính Musso và nhiều nhà văn nổi tiếng khác cũng được thu thập và mỗi câu quote đều đại diện cho ý nghĩa của mỗi chương truyện. Ngòi bút khắc hoạ nhân vật của Guillaume Musso vẫn tài tình như thế, ông tạo được sự đồng cảm dành cho nhân vật của mình, nhân vật của ông có thể đáng ghét hay thông minh, dũng cảm, họ đều để lại dấu ấn cho người đọc. Độc giả sẽ dần dần yêu những nhân vật Musso tạo ra, và rồi chính họ sẽ để lại bao bất kì dành cho độc giả. Với những ai đang chập chững trên con đường trở thành nhà văn, hoặc đơn giản là yêu thích sách, thì Cuộc sống bí mật của các nhà văn là một sự lựa chọn tuyệt vời. Chắc chắn cuốn sách thứ 16 này của Guillaume Musso sẽ đem đến những cảm xúc tuyệt vời cho độc giả. *** Bí ẩn Nathan Fawles (báo Le Soir - ngày 4 tháng Ba 2017) Vắng bóng trên văn đàn suốt gần hai chục năm qua, tác giả cuốn Loreleï Strange huyền thoại vẫn thực sự mê hoặc độc giả ở mọi lứa tuổi. Sau khi lui về ở ẩn trên một hòn đảo thuộc Địa Trung Hải, nhà văn nhất quyết từ chối mọi lời mời mọc của giới truyền thông. Sau đây là cuộc điều tra về kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont. Người ta gọi đó là hiệu ứng Streisand: càng tìm cách che giấu bao nhiêu, bạn càng thu hút sự tò mò bấy nhiêu. Kể từ khi đột ngột rút khỏi thế giới văn chương vào năm ba mươi lăm tuổi, Nathan Fawles là nạn nhân của cơ chế tai ác này. Cuộc sống của nhà văn người Mỹ lai Pháp này như được một vầng hào quang huyền ảo bao quanh và làm nảy sinh hàng loạt chuyện ngồi lê đôi mách cùng những lời đồn thổi suốt hai thập kỷ qua. Fawles sinh năm 1964 tai New York, cha là người Mỹ, mẹ là người Pháp, tuổi thơ của ông diễn ra trọn vẹn tại Paris và ông chỉ quay trở lại Mỹ để hoàn thành việc học, trước tiên là tại Học viện Phillips, sau đó là tại Đại học Yale. Tốt nghiệp chuyên ngành Luật và Khoa học Chính trị nhưng sau đó ông lại dốc hết sức mình cho sự nghiệp nhân đạo, với vài năm làm việc trên thực địa cho tổ chức Hành động chống lại nạn đói và Bác sĩ không biên giới, nhất là tại Salvador, Armenia và Kurdistan. Văn sĩ thành công Năm 1993, Nathan Fawles quay trở lại New York và xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Loreleï Strange, hành trình đầu đời của một nữ thiếu niên bị giam giữ trong bệnh viện tâm thần. Thành công không đến ngay tức khắc, nhưng chỉ sau vài tháng, nhờ những thông tin truyền miệng - đặc biệt trong giới độc giả trẻ - cuốn tiểu thuyết đã vươn lên đứng đầu danh sách sách bán chạy. Hai năm sau, với cuốn sách thứ hai nhan đề Một thành phố nhỏ ở Mỹ, cuốn tiểu thuyết hợp xướng uyên bác dày ngót ngàn trang, Nathan Fawles đã đoạt giải Pulitzer và nổi lên như một trong những giọng văn độc đáo nhất của văn đàn Mỹ. Cuối năm 1997, lần đầu tiên tiểu thuyết gia khiến giới văn chương sửng sốt. Sau khi định cư ở Paris, ông xuất bản cuốn sách mới của mình trực tiếp bằng tiếng Pháp. Những kẻ bị sét đánh là một câu chuyện tình đau thương đến xé lòng, nhưng cũng là một suy tưởng về nỗi đau trước cái chết, cuộc sống nội tâm và quyền năng của viết lách. Chính vào dịp này, công chúng Pháp đã thực sự khám phá ra ông, đặc biệt khi ông tham gia một ấn bản đặc biệt của Nồi hầm văn hóa cùng Salman Rushdie, Umberto Eco và Mario Vargas Llosa. Chương trình hồi tháng Mười một năm 1998 này chính là hoạt động truyền thông áp chót của ông. Quả nhiên, bảy tháng sau, khi vừa bước sang tuổi ba mươi lăm, Fawles đã thông báo việc mình quyết định ngừng viết hẳn trong cuộc trả lời phỏng vấn đầy sắc bén với hãng thông tấn AFP. Kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont Kể từ ngày đó, nhà văn vẫn giữ vững quan điểm của mình. Sống trong căn nhà riêng tại đảo Beaumont, Fawles không còn công bố bất kỳ bản thảo nào dù ngắn nhất, cũng không đồng ý trả lời phỏng vấn bất cứ phóng viên nào. Ông còn từ chối mọi đề xuất chuyển thể các tiểu thuyết của mình sang lĩnh vực điện ảnh hoặc truyền hình (mới đây Netflix và Amazon tiếp tục thất bại trong phi vụ này, bất chấp những đề xuất tài chính vô cùng hấp dẫn, theo như lời họ). Chẳng mấy chốc là tròn hai chục năm, sự im lặng chát chúa của “kẻ ẩn cư trên đảo Beaumont” không ngừng nuôi dưỡng những ảo tưởng. Tại sao Nathan Fawles lại chọn cách tự nguyện rời xa thế giới như vậy khi mới ba mươi lăm tuổi, lại đang ở tột đỉnh vinh quang? “Làm gì có bí ẩn Nathan Fawles, Jasper Van Wyck, người bấy lâu vẫn là đại diện của nhà văn cam đoan. Chẳng có bí mật nào để khám phá đâu. Đơn giản là Nathan đã chuyển sang làm việc khác. Anh ấy đã ngừng hẳn việc viết lách và đoạn tuyệt với giới xuất bản.” Khi được hỏi về cuộc sống thường nhật của nhà văn, Van Wyck vẫn tỏ ra mập mờ: “Theo như tôi được biết, Nathan đang chuyên chú vào những mối quan tâm riêng.” Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình Để chận đứng mọi trông mong của độc giả, người đại diện này nói rõ rằng tác giả “không còn viết một dòng nào nữa từ hai chục năm nay” và tỏ ra dứt khoát: “Nếu Loreleï Strange thường xuyên được so sánh với Bắt trẻ đồng xanh, thì Fawles lại không như Salinger: trong nhà anh ấy không có két sắt chứa đầy bản thảo. Cũng sẽ không bao giờ có cuốn tiểu thuyết mới nào ký tên Nathan Fawles. Ngay cả sau khi anh ấy qua đời. Đó là điều chắc chắn.” Một lời cảnh báo chẳng đời nào làm nản lòng những kẻ tò mò tìm hiểu thêm. Năm tháng trôi qua, nhiều độc giả lẫn phóng viên đã lên đường tìm tới tận đảo Beaumont để lảng vảng rình mò quanh nhà Fawles. Họ luôn thấy cửa nhà im ỉm đóng. Dân trên đảo dường như cũng sinh nghi. Không có gì đáng ngạc nhiên tại một nơi mà thậm chí từ trước khi nhà văn chuyển tới sinh sống, câu châm ngôn Để sống hạnh phúc, hãy sống ẩn mình đã được nâng tầm thành khẩu hiệu. “Tòa thị chính không chia sẻ danh tính cư dân, bất kể nổi tiếng hay không,” viên trợ giúp thị trưởng chỉ nhấn mạnh như vậy. Hiếm người dân đảo nào đồng ý nói về nhà văn. Những người chấp nhận trả lời chúng tôi coi sự hiện diện của tác giả cuốn Loreleï Strange trên đất của họ là chuyện rất đỗi bình thường. “Nathan Fawles không ở ru rú trong nhà mà cũng chẳng co rúm người, Yvonne Sicard, vợ của bác sĩ duy nhất trên đảo, cam đoan. Chúng tôi thường xuyên gặp ông ấy ngồi sau vô lăng chiếc Mini Moke khi tới Ed’s Corner, siêu thị duy nhất của thành phố, để mua sắm.” Nhà văn cũng thường xuyên tới quán rượu trên đảo, “nhất là khi có buổi tiếp phát các trận đấu của đội Olympique Marseille,” chủ quán rượu nói rõ. Một trong những khách quen của quán nhận xét “Nathan không phải kiểu người cục cằn thô lỗ như báo chí đôi khi miêu tả. Đó đúng ra là một tay đáng mến thông thạo bộ môn túc cầu và chuộng rượu whisky Nhật.” Chủ đề trò chuyện duy nhất có thể khiến nhà văn nổi cáu: “Nếu anh cố gắng mắc nối tới những cuốn sách Fawles viết hoặc tới văn chương, rốt cuộc ông ấy sẽ rời khỏi phòng.” Một khoảng trống trong văn chương Về phần các đồng nghiệp của Fawles, ta thấy nhiều người phục tùng ông vô điều kiện. Thí dụ như Tom Boyd, vốn luôn dành cho ông lòng ngưỡng mộ vô bờ bến. “Tôi nợ Fawles một vài trong số cảm xúc đẹp nhất có được từ việc đọc nên hiển nhiên, ông ấy thuộc số những nhà văn mà tôi mắc nợ.” tác giả Bộ ba thiên sứ cả quyết. Lại thêm ý kiến của Thomas Degalais cho rằng Fawles đang xây dựng ba cuốn sách hết sức khác biệt thành một tác phẩm độc đáo sẽ làm nên lịch sử. “Dĩ nhiên, tôi cũng như tất cả mọi người đều tiếc nuối khi ông ấy rút khỏi văn đàn, tiểu thuyết gia người Pháp bày tỏ. Thời đại chúng ta thấy nhớ giọng văn ông ấy. Tôi mong Nathan quay lại đấu trường bằng cách viết một cuốn tiểu thuyết mới, nhưng tôi nghĩ chuyện đó sẽ không đời nào xảy ra.” Quả nhiên, có thể là vậy, nhưng đừng quên rằng Fawles đã chọn câu nói sau trong Vua Lear làm tiểu dẫn cho cuốn tiểu thuyết sau cùng của mình: “Chính những ngôi sao, những ngôi sao trên cao vời vợi kia, đang chi phối cuộc sống của chúng ta.” Jean-Michel Dubois NHÀ VĂN KHÔNG VIẾT NỮA Nhà xuất bản Calmann-Lévy Số 21 phố Montparnasse 75006 Paris Số định danh: 379529 Ông Raphaël Bataille Số 75 đại lộ Aristide-Briand 92120 Montrouge Paris, ngày 28 tháng Năm năm 2018 Thưa ông, Chúng tôi đã nhận được bản thảo Sự rụt rè của những đỉnh caocủa ông, và xin cảm ơn ông vì đã tin tưởng Nhà xuất bản chúng tôi. Bản thảo của ông đã được ban thẩm định của chúng tôi nghiên cứu kỹ lưỡng nhưng thật đáng tiếc, bản thảo không phù hợp với dạng tác phẩm mà chúng tôi hiện đang tìm kiếm. Chúng tôi chúc ông sớm tìm ra một nhà xuất bản cho bản thảo này. Trân trọng, Ban thư ký văn học TB: bản thảo của ông vẫn được lưu tại chỗ chúng tôi trong vòng một tháng nữa. Vậy trong trường hợp muốn nhận lại bản thảo này qua đường bưu điện, làm ơn gửi cho chúng tôi một phong bì dán sẵn tem. Mời bạn đón đọc Cuộc Sống Bí Mật Của Các Nhà Văn của tác giả Guillaume Musso & Phúc Chi Nhi (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mọi Ông Bố Đều Đã Từng Xếp Thứ Nhất - Azit Nexin
Tập truyện cười này gồm có: Bức thư đầu tiên Kiến trúc sư… đã xây nên châu Mỹ Mọi ông bố đều đã từng xếp thứ nhất Hãy quên tất cả những gì các em đã học! Có làm mới có ăn… Bài học luận lý Tôi không ngờ em lại như vậy!… Sự hối tiếc Người cha của tám cô gái Con chưa thể hiểu Cái xương Lễ sinh nhật Tôi đã làm quen với một thần đồng Nhiều giọt nước làm nên biển cả Chúng tôi bước sang năm mới bình an Con bé cẩu thả Một câu nói tục Hãy yêu nước Cần phải đọc một bài thơ như thế nào? Nhà trường và gia đình Con cái chúng ta giỏi thật! Em yêu quý! Khi nhà có khách Thật đáng hổ thẹn! Tình cảm gia đình Một lời nói dối Đêm văn nghệ thiếu nhi Cuộc thi truyện do trẻ em viết Có thể rất tuyệt! Thư của tác giả gửi các em *** Aziz Nesin, đọc là Azit Nexin hay Azit Nêxin, (tên khai sinh là Mehmet Nusret; 20 tháng 12 năm 1915 - 6 tháng 7 năm 1995) là một nhà văn châm biếm được ngưỡng mộ ở Thổ Nhĩ Kỳ và là tác giả của hơn 100 cuốn sách. Bút danh Aziz Nesin nguyên là tên cha ông, được ông sử dụng làm bút danh khi bắt đầu sáng tác. Ông đã sử dụng hơn năm mươi bút danh, như "Vedia Nesin", tên người vợ đầu, cho những bài thơ tình được xuất bản trên tạp chí Yedigün. Ông sinh tại Heybeliada, Istanbul dưới chế độ đế chế Ottoman năm 1915. Sau khi làm viên chức trong vài năm, ông trở thành người biên tập của một loạt tạp chí trào phúng châm biếm nghiêng về chủ nghĩa xã hội . Ông bị tống giam vài lần vì thái độ chính trị của mình. Aziz Nesin đã đưa ra một bản cáo trạng mạnh mẽ lên án sự áp bức và đối xử hung bạo với dân thường. Ông châm biếm bộ máy quan liêu và phơi bày sự bất công của nền kinh tế qua các tác phẩm được kết hợp giữa màu sắc địa phương và sự thật trần trụi một cách tinh tế. Aziz Nesin được trao tặng nhiều giải thưởng tại Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Bulgaria và Liên bang Xô Viết. Những tác phẩm của ông được dịch ra hơn 30 thứ tiếng. Trong nửa sau cuộc đời mình, ông được cho là tác giả Thổ Nhĩ Kỳ duy nhất sống hoàn toàn bằng thu nhập từ những cuốn sách của mình. Năm 1972, ông sáng lập Quỹ Nesin. Mục đích của Quỹ Nesin là mỗi năm đưa 4 trẻ em nghèo vào trụ sở của quỹ để che chở, nuôi dưỡng, giáo dục, đào tạo các em, bắt đầu từ bậc tiểu học cho tới khi các em hoàn thành bậc trung học, một trường dạy nghề hoặc cho tới khi các em có nghề nghiệp ổn định. Aziz Nesin đã tặng miễn phí cho Quỹ Nesin toàn bộ bản quyền tác giả của những tác phẩm của ông tại Thổ Nhĩ Kỳ và các nước khác, bao gồm tất cả những sách đã xuất bản của ông, tất cả các vở kịch được trình diễn, bản quyền tác giả cho những bộ phim, và toàn bộ các tác phẩm của ông được phát hay sử dụng trên đài phát thanh hoặc vô tuyến truyền hình. Aziz Nesin là một nhà hoạt động chính trị. Sau cuộc đảo chính quân sự năm 1980 do Kenan Evren cầm đầu, toàn bộ đất nước, kể cả giới trí thức, bị đặt dưới sự áp bức nặng nề. Aziz Nesin đã lãnh đạo một số trí thức trong hoạt động chống lại chính phủ quân sự, được biết đến với tên gọi Aydınlar Dilekçesi (Lời thỉnh cầu của trí thức). Ông đã dành trọn những năm cuối đời để chiến đấu chống lại trào lưu chính thống ngu dốt và cuồng tín. Ông đấu tranh cho quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là quyền được chỉ trích đạo Hồi một cách không thỏa hiệp. Đầu thập niên 1990, ông bắt đầu dịch cuốn tiểu thuyết gây nhiều tranh cãi của Salman Rushdie với tựa đề Những vần thơ của quỷ Satan. Việc này đã khiến ông trở thành đích nhắm của những tổ chức Hồi giáo cực đoan đang được sự ủng hộ rộng rãi trong quần chúng tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ngày mùng 2 tháng 7 năm 1993, trong lúc dự lễ hội văn hoá Alevi tại trung tâm Anatolian của thành phố Sivas, một đám đông tạo bởi những người Hồi giáo cực đoan đã tụ tập xung quanh khách sạn Madimak - nơi lễ hội đang được tổ chức. Họ kêu gọi một đạo luật Hồi giáo và cái chết dành cho những kẻ ngoại đạo. Sau nhiều giờ bao vây, đám đông đã đốt khách sạn. Khi ngọn lửa đã nhấm chìm những tầng thấp của toà nhà thì xe cứu hoả mới có thể tiếp cận, và Aziz Nesin cùng nhiều vị khác được cứu thoát. Tuy nhiên, 37 người đã thiệt mạng. Sự kiện này được xem như một đòn giáng mạnh vào quyền tự do ngôn luận và quyền con người tại Thổ Nhĩ Kỳ. Nó đào sâu thêm sự rạn nứt giữa phe tôn giáo và những người có tư tưởng ngoại đạo tại đất nước này. Ngày mùng 6 tháng 7 năm 1995, ngay sau khi ký tên cho một quyển sách, Aziz Nesin đã qua đời do một cơn đau tim. Thi thể ông được chôn cất tại một nơi bí mật trong khu đất của Quỹ Nesin mà không tổ chức bất kỳ nghi lễ nào, thể theo ước nguyện của ông. Mời các bạn đón đọc Mọi Ông Bố Đều Đã Từng Xếp Thứ Nhất của tác giả Azit Nexin.
Hồng Ngọc
Đôi khi sống trong một gia đình chất chứa nhiều bí mật là một gánh nặng khó khăn. Đó là suy nghĩ của một Gwendolyn mới bước vào thời thiếu nữ, cho đến ngày đột nhiên cô thấy mình ở giữa London cách đây hai thế kỷ. Và định mệnh đã gõ cửa: cô chính là điều bí mật lớn nhất của gia đình. Một chuyến đi kỳ dị đã mang cô gái trung học của thời đại cellphone, đầy khiếu hài hước sành điệu, xuyên qua mấy thế kỷ để gặp gỡ các kiểu cách của thời xưa, chếnh choáng trong trò chơi chưa hề biết luật của Hội Thập Nhị bí hiểm, đồng hành cùng Gideon, cậu trai khác hẳn cô, người mà thoạt tiên cô không biết sẽ có ý nghĩa như thế nào đối với đời cô. Trong hoàn cảnh đó, định mệnh không còn can thiệp: nếu chìm sâu vào một mối tình, mọi thứ sẽ càng không đơn giản đối với Gwen… *** Kerstin Gier chính là cây bút châu Âu có thể khiến người ta quên ngay Stephanie Meyer bằng một chuyện tình Romeo - Juliet quyến rũ xảy giữa các vùng thời gian, làm xáo động các độc giả hiện đại theo một cách khác biệt! Hồng ngọc (Rubinrot) đã trở thành hiện tượng xuất bản ở Đức trong khoảng 5 năm trở lại đây, được dịch ra khoảng 50 thứ tiếng và dựng phim năm 2013. *** Tặng Tuần lộc, Cá heo và Cú mèo, những bạn đồng hành luôn ở kề bên khi tôi viết, và tặng chiếc xe buýt nhỏ hai tầng màu đỏ đã làm tôi vui đúng lúc cần thiết. Công viên Hyde, London. 8 tháng Tư năm 1912. Anh ngó nghiêng nhìn quanh khi cô ngồi thụp xuống và òa khóc. Đúng như anh nghĩ, công viên giờ này vắng ngắt. Hồi đó còn lâu mới có mốt chạy tản bộ, còn thời tiết thì quá lạnh đối với những người vô gia cư ngủ trên ghế đá, trên mình đắp mỗi tờ báo mỏng. Anh cẩn thận lấy khăn bọc chiếc đồng hồ lại rồi đút vào ba lô. Cô ngồi rúm ró cạnh một gốc cây, trên thảm hoa nghệ tây đã úa tàn bên bờ Bắc hồ Serpentine. Vai cô run rẩy, tiếng cô nức nở như âm thanh tuyệt vọng của một con thú trúng thương. Anh không chịu nổi nữa. Nhưng kinh nghiệm khuyên anh tốt nhất nên để cô yên, vì vậy anh ngồi xuống nền cỏ ướt đẫm sương cạnh cô, đăm đăm nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như gương, và đợi. Anh đợi cô dịu bớt nỗi đau, một nỗi đau có lẽ sẽ chẳng bao giờ hết đeo bám cô. Tâm trạng anh lúc này cũng như cô, nhưng anh cố cầm lòng. Anh không muốn cô phải lo lắng thêm cho cả anh. “Người ta đã phát minh ra khăn giấy chưa nhỉ?” Rốt cuộc cô sụt sịt, ngoảnh gương mặt đẫm nước mắt nhìn anh. “Ai biết được,” anh nói. “Nhưng nếu cần thì anh có một chiếc khăn tay thêu đúng kiểu cho em đây.” “G.M. Anh lấy trộm của cô Grace?” “Tự cô ấy cho anh. Công chúa cứ thoải mái xì mũi đi.” Cô cười gượng gạo khi trả lại chiếc khăn cho anh. “Em xin lỗi, giờ thì em đã hủy hoại nó hoàn toàn rồi.” “Chẳng sao đâu! Những lúc như thế này thì cứ phơi nắng cho khô rồi dùng lại!” Anh nói. “Quan trọng là em thôi khóc.” Ngay lập tức, nước mắt cô lại ứa ra. “Lẽ ra chúng mình không được bỏ rơi con trong hoạn nạn. Nó cần mình! Giờ thì chưa biết liệu cái trò mà mình bày ra có tác dụng hay không, mà cũng không còn cơ hội để biết nữa rồi.” Lời cô khiến tim anh đau nhói. “Nhưng nếu chết rồi thì mình còn giúp được con bé ít hơn.” “Nếu có thể đem con trốn đi đâu đó ra nước ngoài, dùng tên giả, tới khi nó đủ khôn lớn…” Anh cương quyết lắc đầu ngắt lời cô. “Ở đâu thì người ta cũng sẽ tìm ra mình, chuyện này đem ra bàn cả ngàn lần rồi. Mình đâu có bỏ rơi con trong hoạn nạn, mình đã chọn cách đúng đắn duy nhất: cho con một cuộc sống bảo đảm. Ít nhất là trong mười sáu năm tới.” Cô thoáng im lặng. Xa xa, ở một nơi nào đó từ phía Tây Carriage Drive vẳng lại tiếng ngựa hí, dù đã sập tối. [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.] “Em biết anh có lý,” cuối cùng cô nói. “Nhưng thật đau lòng khi nghĩ chúng ta sẽ không bao giờ còn gặp lại con bé.” Cô đưa tay dụi đôi mắt sưng húp vì khóc. “Ít ra thì chúng ta sẽ chẳng có thì giờ mà buồn chán. Sớm muộn gì họ cũng tìm ra chúng ta, ngay cả ở thời điểm này, và Đội cận vệ sẽ truy bắt mình sát gót. Lão sẽ không dễ dàng vứt bỏ chiếc đồng hồ cũng như những kế hoạch của lão.” Anh mỉm cười khi trông thấy khao khát phiêu lưu lóe lên trong mắt cô, và anh biết, cuộc khủng hoảng đã tạm lắng. “Biết đâu mình còn ranh mãnh hơn cả lão, hoặc cỗ máy kia không hoạt động. Và thế là lão đành mắc kẹt.” “Được thế thì tốt. Nhưng nếu vậy thì chúng mình là những người duy nhất có thể làm phá sản kế hoạch của lão.” “Chỉ riêng lý do ấy đã chứng tỏ mình hành động đúng.” Anh đứng lên đập bùn bẩn trên quần bò. “Đi thôi! Đám cỏ chết tiệt này ướt sũng, mà em thì phải giữ gìn sức khỏe.” Anh kéo cô đứng lên và hôn cô. “Chúng mình làm gì bây giờ? Tìm một chỗ giấu đồng hồ?” Cô lưỡng lự nhìn cây cầu nối công viên Hyde và khu vườn Kensington. “Ừ. Nhưng trước hết mình phải vét sạch kho của Đội cận vệ và trữ tiền đã. Sau đó mình có thể đi tàu tới Southampton. Thứ tư tới, tàu Titanic sẽ bắt đầu chuyễn viễn du đầu tiên ở đó.” Cô bật cười. “Ý anh về giữ gìn sức khỏe là vậy đó! Được mà, em sẵn sàng.” Nhìn cô lại biết nở nụ cười khiến anh hạnh phúc, anh không kìm được, lại hôn cô lần nữa. “Thực ra anh nghĩ… em biết là các thuyền trưởng có quyền làm chủ hôn trên biển phải không, công chúa?” “Anh muốn kết hôn với em? Trên tàu Titanic? Anh điên rồi?” “Như thế sẽ rất lãng mạn.” “Nếu không tính đến vụ núi băng.” Cô tựa đầu vào ngực anh, giấu mặt vào chiếc áo khoác. “Em yêu anh vô cùng,” cô thì thào. “Em sẽ làm vợ anh chứ?” “Vâng,” cô đáp, vẫn vùi mặt trong ngực anh. “Nhưng với điều kiện muộn nhất là ở Queenstown, chúng mình sẽ xuống tàu.” “Công chúa, em sẵn sàng cho cuộc phiêu lưu tiếp theo chưa?” “Sẵn sàng, nếu anh cũng thế,” cô đáp khẽ. *** Một cuộc hành trình vượt thời gian ngoài tầm kiểm soát thường được báo trước vài phút, đôi khi vài giờ hoặc thậm chí vài ngày, thông qua cảm giác choáng váng trong đầu, trong bụng và/ hoặc trong chân. Nhiều người mang gien cũng tường thuật lại chứng đau đầu tương tự bệnh tiền đình. Cuộc vượt thời gian đầu tiên - còn gọi là cuộc vượt thời gian tự thân - diễn ra ở độ tuổi từ mười sáu đến mười bảy của người mang gien. Trích Biên niên sử Đội cận vệ, Tập II: Những định luật phổ quát. Mời các bạn đón đọc Hồng Ngọc của tác giả Kerstin Gier.
Chết ở Venice - Thomas Mann
Chết ở Venice là một cuốn sách quyến rũ đến bệnh hoạn. Ánh mắt của kẻ si tình, đã trở thành cái gương soi chiếu tuyệt đối của cái đẹp. Chàng thiếu niên trẻ tuổi hiện lên qua đôi mắt mê mẩn của Aschenbach thì trở nên tuyệt mỹ, không gì có thể cưỡng lại được. Đó không phải là thứ ái tình đơn thuần, và Mann ngay từ đầu cũng không chỉ viết về một câu chuyện tình yêu đơn phương tuyệt vọng. Mann đeo đuổi cậu bé niên thiếu xinh đẹp kia qua hết các đường phố ổ Venice, cũng để ngắm vẻ xinh đẹp như thiên thần của cậu. Từng chi tiết, đường nét trên khuôn mặt, thân thể cậu đều được nhìn ra bằng ánh mắt mê mụ kỳ lạ. Chỉ có cái tình của một nghệ sĩ đắm đuối cái đẹp mới có thể nhìn thấy và nâng niu từng chút từng chút đẹp đẽ đến như thế. Và đoạn cuối của cuộc hành trình, với cái chết lặng lẽ của Aschenbach, Chết ở Venice đã đạt đến sự tuyệt hảo của câu chuyện, lúc người nghệ sĩ hoàn toàn quy phục cái đẹp, bước vào của sự dấn thân vào mê đắm, con người không thể nào thoát ra được, chỉ có cái chết mới là tận cùng. Cái kết đỉnh cao này, dễ khiến người đọc liên tưởng đến cái chết của người đàn ông trong Tiếng cười trong bóng tối của Nabokov, khi đã đi đến tận cùng của si mê và cám dỗ. Ở cuốn sách mỏng này, người đọc có thể dễ dàng nhận ra cái chất đặc biệt của Mann, ấy là sự suy nghiệm đậm chất triết lý, với những quan điểm rõ ràng về nghệ thuật bằng lòng tôn sùng cái đẹp. Mann coi cái đẹp là nguồn cơn của sáng tạo, và vì thế cả đời mải miết đi tìm cái cùng sâu bản nguyên của cái đẹp. Ở kiệt tác đầu tay, Gia đình Buddenbrooks, là cái đẹp của sự những hào quang tàn lụi. Tới Núi thần lại là cái đẹp tuyệt đỉnh cô quạnh của thiên nhiên xa vắng, và lòng người mênh mang. Còn với Chết ở Venice, bên cạnh thành phố Venice xinh đẹp như hư ảo, chính Mann đã tìm ra cái con đường để phá hủy của những vòng vây triết lý khô cứng, nguyên tắc, để khai phá tận cùng bản năng thấm nhuần cái đẹp của một tâm hồn nghệ sĩ. Chết ở Venice được xuất bản lần đầu vào năm 1912, cùng thời gian đó, ông bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết đồ sộ Núi thần. Hai cuốn sách này có nhiều điểm khá tương đồng, dù xét về mặt ngôn ngữ, Núi thần đưa lại cảm giác tươi sáng dễ chịu hơn, và những suy niệm về tình yêu, lòng ham muốn nhục dục cũng như cái chết đều được miêu tả rõ ràng, chi tiết hơn, khác với sự dồn nén, ngột ngạt cực độ mà tác phẩm mang lại. Nếu nhà văn Aschenbach vì cuồng si cậu bé Tadzio mà ở lại Venice, thì chàng trai Hans Castorp cũng vì ham muốn một thiếu phụ người Nga mà ở lại núi thần. Đặc biệt, trong cả hai cuốn sách, Mann đều chọn những nơi có bối cảnh tuyệt đẹp để kể câu chuyện của mình, ấy cũng được xem là cái duy mỹ vô cùng của nhà văn. Núi thần hoàn thành sau Chết ở Venice hơn chục năm với nhiều lần sửa chữa, bỏ dở. Thomas Mann được trao giải Nobel năm 1929. *** Paul Thomas Mann là nhà văn Đức đã đoạt giải Nobel Văn học năm 1929 và Giải Goethe năm 1949. Ông được coi là nhà văn lớn nhất của Đức thế kỷ 20. Thomas Mann sinh ở Lübeck, Đức, là con trai thứ hai của Thomas Johann Heinrich Mann (thương gia và thành viên Hội đồng thành phố), và Júlia da Silva Bruhns (một người Brasil sang Đức năm lên 7 tuổi). Thomas có anh trai tên là Heinrich, cũng là một nhà văn nổi tiếng, một em trai và hai em gái. Thời nhỏ gia đình Mann sống sung túc, các con được học hành đến nới đến chốn. Năm 1891, cha Thomas Mann mất vì bệnh ung thư. Theo di chúc của cha ông, gia đình bán công ty và nhà ở Lübeck, mẹ ông và các con chỉ sống bằng tiền gửi tiết kiệm. Từ đây cả gia đình chuyển đến sống ở München - một trung tâm văn hóa và tri thức của nước Đức. Năm 19 tuổi Thomas Mann đã bắt đầu viết báo nhưng luôn mơ ước trở thành nhà văn như anh trai mình. Những truyện ngắn đầu tiên của ông in trong tập Der kleine Herr Friedemann (Ngài Friedemann bé nhỏ) xuất bản năm 1898. Năm 1901, Mann xuất bản tiểu thuyết đầu tiên Buddenbrooks - Verfall einer Familie (Gia đình Buddenbrooks) - kể về sự suy sụp của một gia đình ba đời buôn bán ở Lübeck trong bối cảnh cạnh tranh của chủ nghĩa đế quốc. Bộ tiểu thuyết đặc sắc này đã mang lại cho ông giải Nobel năm 1929. Thomas Mann là nhà văn có tư tưởng nhân đạo dân chủ tư sản, chống phát xít, đại diện cho truyền thống tốt đẹp của dân tộc Đức. Ông tập trung miêu tả quá trình suy sụp của giai cấp tư sản với một ngòi bút hiện thực, mỉa mai, chú trọng phân tích tâm lý, đi sâu vào các khía cạnh bệnh hoạn, cái phù du và cái chết. Văn của Mann chính xác, từ ngữ gọt giũa kĩ lưỡng, đòi hỏi người đọc phải tập trung suy nghĩ, ông dùng nhiều từ ngữ nước ngoài, sử dụng nhiều kiến thức về triết học, tôn giáo, lịch sử, văn hóa, nghệ thuật, y học, xã hội học, phân tâm học. *** T   HOMAS MANN (1875 - 1955) là văn hào Đức nổi tiếng đầu thế kỷ XX với bút pháp hiện thực sinh động, ẩn giấu nụ cười mỉa mai thâm thúy. Mùa hè năm 1911 Thomas Mann đến nghỉ mát ít ngày trên hòn đảo Lido thuộc Venice, và một loạt sự kiện cùng ấn tượng ở đó đã tạo cảm hứng cho nhà văn sáng tác truyện dài này. Đầu tiên chỉ là một ý tưởng hoàn toàn ngẫu húng, nhưng rồi câu chuyện tự nó có sức sống riêng, tự nó phát triển theo Logich của riêng mình để dẫn đến một kết cục tất yếu. Cũng như đa số các tác phẩm của Thomas Mann, Chết ở Venice không phải là một cốt truyện hoàn toàn hư cấu: gã lái đò gondola kỳ quái, cậu bé Tadzio và cả gia đình, chuyến đi không thành vì hành lý bị thất lạc, trận dịch tả, anh nhân viên văn phòng du lịch thật thà, tay nghệ sĩ hát rong hung ác -tất cả đều có thật ngoài đời, nhà văn chỉ cần đặt vào trong tác phẩm. Cả nhân vật chính Aschenbach cũng có hình mẫu thực, trong bài nói chuyện On Myself đọc trước sinh viên trường đại học Princeton ở Mỹ năm 1940 tác giả đã thú nhận, ban đầu ông dự định viết khác hẳn. Ông muốn viết về mối tình muộn màng Goethe (1749 -1832) dành cho cô Ulrike von Levetzow, khai thác đề tài một vĩ nhân khi về già sa ngã vì tình yêu với một cô gái trẻ. Nhưng rồi ông chưa dám đụng đến thần tượng Goethe vì sợ mình không đủ sức. Vậy nên ông đã dựng lên nhân vật chính là một nhà văn hiện đại, một nghệ sĩ nhạy cảm, tiêu biểu cho đạo đức và đạt đến vinh quang nhờ lao động. Tướng mạo bề ngoài của Gustav von Aschenbach ông mượn của Gustav Mahler (1860 -1911), một nhạc sĩ lớn người Áo khi ấy vừa từ chuyến lưu diễn Mỹ trở về và đang lâm bệnh nặng. Chủ đề chính của ông vẫn là sức công phá mãnh liệt của tình yêu, khi mù quáng lao theo dục vọng đã hủy diệt cả một cuộc đời nền nếp, một sự nghiệp tưởng chừng vững như bàn thạch. Câu chuyện được kể với nhiều ẩn dụ, giàu hình ảnh và tính nhạc, kết cấu rành mạch với năm chương sách như năm màn của một vở bi kịch cổ điển: chương một dẫn dắt vào đề, chương hai giới thiệu nhân vật chính; chương ba giới thiệu bối cảnh xảy ra sự việc, chương bốn diễn biến sự việc và chương năm đạt đến cao trào với kết cục bi thương. Tác giả cho ta làm quen với một Aschenbach đạo cao đức trọng, đã đạt tới tột đỉnh vinh quang, có những sáng tác "chính thống" và "mô phạm" được đưa vào sách giáo khoa để giáo dục thanh thiếu niên. Ngôn ngữ trang trọng với "phong cách bậc thầy" được nhấn mạnh một cách cố ý, để sau đó dần dần càng làm nổi bật từng bước sa ngã của Aschenbach, đánh mất phẩm giá, trở nên lố bịch và vô liêm sỉ. Chắc chắn tác giả có nhiều mối tương đồng với nhân vật chính, tiểu sử Thomas Mann có rất nhiều điểm trùng hợp với cuộc đời Aschenbach, nội dung tác phẩm cũng là mối ưu tư của tác giả, diễn giải nội tâm Aschenbach cũng là cách ông giải quyết xung đột giữa tư tưởng thị dân tiểu tư sản và nhân sinh quan nghệ thuật của chính mình. Nhưng Thomas mann không phải là Aschenbach. Có một điều khác biệt căn bản, mấu chốt của vấn đề, đó là sau mấy ngày nghỉ ngơi trên đảo Lido. Thomas Mannđã trở về với công việc sáng tác, với "cuộc vật lộn hằng ngày". Ông chỉ để trí tưởng tượng tiếp tục bay bổng tìm cách trả lời câu hỏi, nếu nhà văn buông thả theo cảm xúc, lơ là nghĩa vụ và trách nhiệm, thì kết cục sẽ ra sao? Ông nhìn thấy kết cục thảm hại của Aschenbach, ông biết cách giữ mình không để rơi vào kết cục như thế, nhưng lòng ông vẫn day dứt không yên vì ông biết mình đã phải đánhnh đổi những gì. Như vậy Chết ở Venice là sự tiếp nối những tác phẩm trước của Thomas Mann, cũng như Hanno trong Gia đình Buddenbrook (1901), Spinell trong Tristan (1903) và Tonio Kröger trong tác phẩm cùng tên (1903), nhân vật Aschenbach bị giằng xé trong mối xung đột nội tâm giữa nghệ thuật và cuộc sống. Bằng những hình tượng này, Thomas Mann đã đưa cuộc đời nghệ sĩ của mình ra mổ xẻ, cuộc đời "một thường dân lạc lối vào nghệ thuật, một lãng tử giang hồ luôn hoài vọng mái ấm gia đình, một nghệ sĩ không ngừng bị lương tâm cắn rức", như nhân vật Tonio Kröger của ông tự nhận. Bây giờ xin mời độc giả lần tìm vào những ngõ ngách nội tâm của nhà văn Aschenbach, ở nhiều khá cạnh cũng là của chính Thomas Mann... Hannover, tháng Giêng 2012 Nguyễn Hồng Vân Mời các bạn đón đọc Chết ở Venice của tác giả Thomas Mann.
Từ Chiến Trường Khốc Liệt - Peter Arnett
Tác giả là người Mỹ gốc New Zealand Peter Arnett, phóng viên nổi tiếng của Hãng AP, CNN, người đã có mặt ở miền Nam Việt Nam từ những năm 1962 cho tới 1975, chứng kiến rất nhiều sự kiện lịch sử trong chiến tranh Việt Nam và giờ khắc sụp đổ của chính quyền ngụy Sài Gòn. Cuốn sách được xuất bản lần đầu tại Mỹ năm 1995, sau đó được tái bản nhiều lần, gây tiếng vang lớn và hấp dẫn độc giả. Dư luận trong và ngoài nước Mỹ đánh giá "Đây là một cuốn tự truyện hay nhất", "Một cuốn hồi ký mẫu mực", "Một tài liệu có sức mạnh hay nhất", v.v,.. Từ chiến trường khốc liệt - cuốn tự truyện - hồi ký mang tính báo chí được ghi chép cẩn thận, công phu, là tập tài liệu lịch sử vô cùng quý giá của một phóng viên chiến trường, gần như dành cả phần lớn thời gian cuộc đời mình viết về đề tài chiến tranh. Ông viết về tất cả những điều cảm nhận, trải qua, chứng kiến ở những nơi chiến sự mà Ông đặt chân tới: VIệt Nam, Lào, Iran, Iraq, Afganistan... Trong cuốn sách, tác giả ghi lại khá kỹ về những sự kiện Chiến tranh Việt Nam, diễn biến những hoạt động tác chiến ở chiến trường, đặc biệt là những sự kiện dấu mốc như: cuộc đấu tranh, biểu tình của các tăng ni, phật tử ở Huế, vụ tự thiêu của nhà sư Thích Quảng Đức, cuộc đảo chính lật đổ anh em Ngô Đình Diệm, các trận đánh, các chiến dịch lớn giữa quân Mỹ - Ngụy và quân giải phóng miền Nam Việt Nam, cuộc nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, các chiến dịch dẫn tới giải phóng Sài Gòn và cuối cùng là giờ khắc sụp đổ của chế độ ngụy quyền Sài Gòn,.. cùng tâm trạng hoang mang, bi quan, thất vọng của các tổng thống, tướng tá Mỹ, ngụy tham gia điều hành bộ máy chiến tranh trước các sự kiện. Tất cả được tác giả ghi chép và kể lại một cách chân thực, khách quan với tư cách là một phóng viên chiến trường chuyên nghiệp. Chính những tin, bài, phóng sự của tác giả được đăng tải trên báo chí khi đó đã gây tranh cãi và có tác động ảnh hưởng sâu sắc tới dư luận Mỹ và nhiều nước trên thế giới, làm cho nhân dân Mỹ và nhân dân nhiều nước trên thế giới hiểu đúng hơn về cuộc chiến tranh Việt Nam. Nhờ đó mà Perter Arnett đã giành được giải thưởng báo chí Pulitzer danh giá vào năm 1966 và rất nhiều giải thưởng khác. Trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 và tháng 3-2003, Peter Arnett đã gây chấn động thế giới bởi những phóng sự nóng hổi được truyền hình trực tiếp trên CNN từ chiến trường Baghdad. Những sự kiện về Chiến tranh Iraq cũng được phản ánh chân thực trong cuốn sách. Peter Arnett là phóng viên phương Tây đầu tiên và duy nhất phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden. *** Công việc làm tin chiến trường về Chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng lớn tới 35 năm trong nghề phóng viên quốc tế sau này của tôi. Khi đến với Việt Nam như một chàng trai trẻ đầy lý tưởng tôi nhận thấy không sự thỏa mãn cá nhân nào quá lớn cho một phóng viên chiến trường bằng việc nói ra sự thật về lòng dũng cảm và những bi thương đồng hành cùng người lính. Tôi viết về chiến tranh ở Việt Nam từ năm 1962 đến 1975, và tôi đã học được rằng trong chiến tranh hiện đại người dân thường thiệt thòi nhiều hơn những người tham chiến và vai trò của phóng viên chiến trường là phải nói lên câu chuyện của họ. Đó cũng là niềm tin đồng hành cùng tôi nhiều năm sau này tới Baghdad trong Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991 đã kiểm nghiệm sự ảnh hưởng của lệnh cấm vận đối với 25 triệu người dân Iraq như sự trừng phạt lên người đứng đầu của họ, Saddam Hussein. Cũng như trong cuộc Chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất, tôi làm tin truyền hình trực tiếp về các trận đánh bom Baghdad trong suốt chiến tranh vùng Vịnh lần thứ hai vào thảng-2003. Giống như khi ở Việt Nam trước đó 40 năm, để chứng kiến sự thật ác liệt về chiến tranh của người Mỹ, tôi đã ở lại Iraq hơn 4 năm nữa để ghi lại những hỗn loạn và bi thương dẫn đến án treo cổ dành cho Saddam Hussein năm 2006. Tôi có nhiều dấu mốc quan trọng trong suốt 50 năm làm tin chiến trường của mình, đó là vào tháng 3-1997, cùng với đội quay phim của CNN tôi đã phỏng vấn trùm khủng bố Osama Bin Laden ở nơi ẩn nấp trên núi của ông ta ở Afghanistan. Vào thời điểm đó, Bin Laden ít được công chúng biết đến, nhưng ông ta đã bị các cơ quan tình báo quốc tế theo dõi như một người cuồng tín Hồi giáo nguy hiểm với nguồn tài chính cá nhân đáng kể. Trong bài phỏng vấn cá nhân của mình, Bin Laden tuyên bố một cuộc thánh chiến với Mỹ và hứa sẽ gây ra nhiều xung đột và thiệt hại cho quân đội nhằm xóa bỏ sự ảnh hưởng của phương Tây trong giới Hồi giáo. Vào thời gian phỏng vấn ông ta, những mối đe dọa của Bin Laden từ những ngọn núi phía xa chỉ là lối nói hoa mỹ rỗng tuyếch. Nhưng khi cuộc tấn công không tặc mà ông ta tổ chức tấn cống vào Tòa nhà Thương mại thế giới ngày 11-9-2001 giết chết 3.000 người dân đã làm thay đổi trật tự. thế giới Nhiều năm làm phóng viên quốc tế, tôi hiểu rõ vai trò quan trọng của truyền thông trong thời sự thế giới và đây cũng là thông điệp tôi truyền tải trong bài giảng ở các Trường Đại học Báo chí và các Tổ chức truyền thông trong nhiều năm. Tôi đã dẫn một nhóm sinh viên của Trường Đại học Shantou (Sán Đầu) ở phía nam Trung Quốc tới thăm Việt Nam trong chuyến đi thực tế viết tin ba tuần đáng nhớ vào mùa hè năm 2007. Với kinh nghiệm trước đây của tôi ở Việt Nam vào những năm 1960 và 1970 và rất nhiều chuyến thăm sau này, tôi đã giảng bài về chủ đề đó ở Trường Đại học Shantou. Tôi muốn các sinh viên có cảm nhận về cuộc chiến tranh đó và những người Việt nam đã được sinh ra khi chiến tranh kết thúc vào năm 1975. Rất nhiều người quan sát đã viết rằng cuộc chiến tranh không còn ảnh hưởng trong đời sống của người Việt Nam, đất nước đã hòa bình và khôi phục kinh tế là mục tiêu hàng đầu của mọi người. Dọc hành trình từ Bắc tới Nam, chúng tôi thấy sự tốt bụng và niềm vui trên những gương mặt người Việt Nam với những người khách nước ngoài. Tôi nhận ra rằng Chính phủ nhấn mạnh tầm quan trọng trong hợp tác kinh tế và chính trị với những kẻ thù trước đây ở phương Tây. Hầu hết những người Việt Nam chúng tôi gặp ở miền Bắc đều hiểu được những đau thương mất mát trong chiến tranh họ phải gánh chịu và chúng tôi được biết có khoảng 3 triệu người chết. Chúng tôi tìm thấy rất nhiều tàn tích của chiến tranh ở miền Nam nhưng cũng hiểu rằng đó là miền Bắc đã cung cấp sức người sức của cho miền Nam với khẩu hiệu "sinh ra ở miền Bắc và chết ở miền Nam". Đó là lời thương xót của những gia đình Việt Nam mất con trong chiến tranh. Cảm nhận về nỗi đau đã lan tỏa trong Văn học Việt Nam vài thập kỷ qua. Các sinh viên Trường Đại học Shantou nhanh chóng nhận ra rằng Chính phủ Việt Nam ghi nhận lòng yêu nước và sự hy sinh từ việc dựng lên nghĩa trang Trường Sơn ở khu vực Bến Tắt, Quảng Trị với hơn 10.000 ngôi mộ tôn kínhcho đến nhà tù của Pháp cũ có tên "Hỏa lò" ở trung tâm thủ đô, nơi bộ quần áo phi công còn vấy máu của Jonh McCain ở một trong những phòng nơi những người tù Mỹ bị giam giữ trong nhiều năm. Bi thương hơn nữa, nhà tù còn phác họa những hình ảnh và mô hình về các hình thức tra tấn dã man mà thực dân Pháp đã sử dụng đối với tù chính trị trong suốt 100 năm thống trị gồm máy chém cao bằng gỗ với lưỡi dao sắc và chiếc rổ đựng đầu vấy máu nằm gần đó. Có một khung cảnh đặc biệt thu hút sự chú ý của các sinh viên và tôi hy vọng nó sẽ đọng lại lâu trong ký ức của họ. Đó là một căn phòng lớn trong Bảo tàng Chiến tranh ở thành phố Hồ Chí Minh với những trưng bày cho các phóng viên nước ngoài, những người đã làm tin về các cuộc chiến tranh chống Mỹ và chống Pháp. Những khuôn mặt và hình ảnh đều quen thuộc với các sinh viên Shantou bởi vì họ là những đồng nghiệp trước đây của tôi và tôi thường nói về họ trong các bài giảng của mình, các phóng viên ảnh hy sinh trong chiến tranh như Larry Borrow của tạp chí Life, Henri Huet và Huỳnh Công la của AP và Koichi Sawada của UPI cùng nhiều người khác nữa. Sự đau thương mất mát của chiến tranh đã không làm mờ đi sự ghi nhận của Chính phủ Việt nam về lòng dũng cảm và sự hy sinh của các phóng viên chiến trường ở các quốc gia đã đấu tranh để nói lên sự thật về cuộc chiến và sự hy sinh của họ. Đó là điểm nhấn trong chủ đề bài giảng của tôi ở Trường Đại học Shantou rằng báo chí có một vài trò to lớn và đáng giá trong thế giới ngày nay. Những chuyến thăm trở lại Việt nam, đặc biệt là hành trình cùng với các sinh viên là những chuyến thăm hài lòng trong cuộc đời tôi. Đó là những chuyến thăm khép lại vòng tròn từ khi lần đầu tiên tôi đến với tư cách là một phóng viên trong một đất nước bị chiến tranh tàn phá vào năm 1962 đến khi từ những tàn tích của một cuộc chiến tranh dài, một đất nước hòa bình, độc lập xuất hiện tự hào trên chính trừong quốc tế. Peter Arnett, tháng 3-2009 Mởi các bạn đón đọc Từ Chiến Trường Khốc Liệt của tác giả Peter Arnett.