Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bí mật Shakespeare - Jennifer Lee Carrell

Sau khi ra mắt (từ tháng 1/2008), “The Shakespeare Secret” (Bí mật Shakespeare) hay còn có tên khác là “Interred with Their Bones” - tiểu thuyết đầu tay của Jennifer Lee Carrell đã lọt vào top 5 cuốn sách bán chạy nhất. Tác phẩm tạo thành một hiện tượng mới của làng xuất bản Mỹ với mức độ thành công tương đương với “Mật mã Da Vinci” của Dan Brown. The Shakespeare Secret (Bí mật Shakespeare) là một tiểu thuyết ly kỳ liên quan đến một vở kịch bị mất của Shakespeare, vở kịch The History of Cardenio. Vào một ngày tháng 6 năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dựng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị, khoa trương của trường ĐH Harvard chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho cô bạn mình là Katharine Stanley - đạo diễn người Mỹ đang dựng vở kịch Hamlet ở nhà hát Globe - một hộp nhỏ gói giấy vàng.  Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta đã giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind, chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời nữ hoàng Victoria được trang trí những bông hoa liên quan đến Ophelia, đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah; Arizona; Washington, D.C.; và quay trở lại London. Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo của vụ giết người.  Từ những tài liệu của Shakespeare cho đến những hầm mỏ hoang tàn, từ hiện tại đến quá khứ, tiểu thuyết tâm lý hành động của tác giả Jennifer Lee Carrell chứa đựng nhiều bất ngờ, hồi hộp và thú vị. Sức hút của tác phẩm được thể hiện rất rõ qua viện Bản quyền tác phẩm đã bán cho 20 quốc gia trên toàn thế giới. *** Một ngày tháng Sáu năm 2004, tại nhà hát Globe được xây dụng lại ở London, Rosalind Howard, giáo sư lập dị chuyên nghiên cứu về Shakespeare, đã đưa cho Katharine Staley - đạo diễn người Mỹ một hộp nhỏ màu vàng. Tối hôm đó, vụ hỏa hoạn đáng ngờ đã phá hủy nhà hát Globe, và Rosalind được phát hiện bị đầu độc chết y như cách người ta giết chết cha của Hamlet. Món quà bí ẩn của Rosalind chứa đựng chiếc ghim đồ tang thời Nữ hoàng Victoria đã đẩy Katharine vào một cuộc điều tra nguy hiểm, đưa cô đến Utah Anzona… Mỗi bước điều tra, khi các thi thể chồng chất, Katharine đều thoát chết một cách bất ngờ khi sắp trở thành nạn nhân tiếp theo… “Những điều xấu xa người ta làm vẫn sống sau họ, trong khi những điều tốt đẹp thường bị chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ.” Bí mật Shakespeare đã tạo ra một hiện tượng mới trong làng xuất bản Mỹ, với mức độ thành công tương đương với Mật mã Da Vince của Dan Brown. *** LỜI TÁC GIẢ: Một buổi tối mùa thu khi tôi mới bắt đầu vào đại học, trong lúc đang lục lọi tìm kiếm giữa những cuốn sách cũ trong căn phòng phía sau thư viện Child, góc riêng tư của khoa Anh văn nằm ở một góc tầng trên cùng thư viện Widener của trường Harvard, tôi bắt gặp bộ sách bốn tập: Sân khấu thời Elzabeth của E. K. Chambers, xuất bản năm 1923. Tôi lần lượt giở qua từng tập. Những tập sách này đầy ắp thông tin, phần lớn chúng tôi không biết có thể sử dụng làm gì, chẳng hạn như ghi chú rằng “rất nhiều diễn viên thời Elizabeth cũng là nghệ sĩ nhào lộn, và hiển nhiên có thể đi trên dây”. Tuy vậy, ở cuối tập ba, tôi tìm thấy vài trang nói về những vở kịch của Shakespeare, gồm cả một mục ngắn có tên “Những vở kịch đã thất lạc.” Tôi biết phần lớn những vở kich được viết bằng tiếng Anh thời Phục hưng đã không tồn tại được đến ngày nay, và vì thế tôi nghĩ - một cách mơ hồ - rằng một số tác phẩm Shakespeare sáng tác chắc chắn cũng đã thất lạc. Điều làm tôi ngạc nhiên là Chambers biết được một vài điều về những tác phẩm đã mất. Đập vào mắt tôi, bằng giấy trắng mực đen, là hai cái tên, và trong trường hợp của vở kịch Cardenio còn có cả nội dung sơ lược. Tôi bắt đầu tự hỏi sẽ ra sao nếu tìm được một trong những vở kịch này. Ở nơi nào người ta có thể khám phá ra một thứ như vậy? Và khoảnh khắc của sự khám phá sẽ như thế nào? Và liệu một khám phá như thế sẽ ảnh hưởng thế nào đến cuộc đời của một người - ngoài việc hiển nhiên người đó sẽ lập tức trở nên giàu có và nổi tiếng? Nhưng địa điểm thích hợp nhất để tìm kiếm những vở kịch thất lạc của Shakespeare là các thư viện ở châu Âu và những ngôi nhà cổ. Nhưng tất nhiên, nếu một vở kịch nằm ở nơi dễ đoán như vậy, thì nó đã được tìm ra từ lâu. Theo cách chủ quan của những kẻ nằm mơ ban ngày, tôi bắt đầu suy nghĩ xem ở nơi nào ngoài nước Anh, và cụ thể hơn, ở một số địa điểm tôi có thể thực sự tìm thấy nó, chẳng hạn New England (hay ít nhất nơi nào đó ở hành lang Đông Bắc giữa Boston và Washington D. C. ) hay vùng sa mạc phía tây nam. Thỉnh thoảng, tôi đi xa đến mức tìm kiềm những chiếc hộp đựng những cuốn sách sờn cũ trong cửa hiệu bán đồ cổ nằm trong những ngôi nhà thô kệch sau nhưng con đường mà tôi tình cờ đi qua trong lúc lang thang ở New England. Nhưng chẳng có ai lại để, cho dù một khổ thơ của Shakespeare chứ đừng nói tới cả tập bản thảo, nằm yên tại đó. Ở đâu đó trên bước đường tìm kiếm, tôi tự thừa nhận với mình rằng sẽ chẳng bao giờ tôi thực sự tìm thấy một trong các vở kịch thất lạc của Shakespeare - và rằng có thể sẽ thú vị hơn khi biến nó thành một câu chuyện, vì như thế tôi có thể kiểm soát những gì xảy ra, và xảy ra với ai. Và sau đó tôi nghĩ - tại sao không bám lấy bí mật khác thậm chí còn lớn hơn về Shakespeare? Ông là ai? Tôi đã mất hơn một thập kỉ chỉ để bắt đầu, nhưng Bí mật Shakespeare hay Chôn sâu cùng nắm xương tàn của họ là kết quả. Đoạn văn trong tập sách của Chambers khởi đầu cho toàn bộ câu chuyện này, với vài chỉnh sửa nhỏ, chính là đoạn văn mà Kate đã đọc trong truyện. Những địa điểm liên quan tới Shakespeare xuất hiện trong cuốn tiểu thuyết đều là những địa danh có thật, mặc dù tôi đã tự cho phép mình hư cấu đôi chút ở một vài chỗ cho phù hợp với mạch chuyện. Những giả thiết về danh tính thực của Shakespeare cũng đều có thật - ít nhất với tư cách là những giả thiết. Cuối cùng, rất nhiều nhân vật lịch sử được hư cấu từ các sự kiện có thật. Tất cả các nhân vật hiện đại đều là hư cấu. Một mục ghi chú trong cuốn Đăng kí Stationers (một dạng bản quyền sơ khai ở nước Anh) xác nhận Shakespeare là đồng tác giả của vở kịch Cardenio cùng với John Fletcher, người kế tục ông trong vai trò nhà soạn kịch chính cho đoàn kịch của nhà vua (và cũng là đồng tác giả với ông trong nhiều vở kịch khác). Tôi chọn “tìm ra”  Cardenio vì trong hai vở kịch đã thất lạc mà chúng ta biết nhan đề, đây là vở kịch chúng ta biết được nhiều chi tiết về nội dung hơn, và cũng bởi vì nguồn gốc của vở kịch này, từ cuốn tiểu thuyết Don Quixote của Miguel de Cervantes, cho nó một mối liên hệ mơ hồ với vùng thuộc địa Tây Ban Nha ở châu Mỹ, và do đó liên quan tới vùng tây nam nước Mỹ - một vùng đất tôi yêu mến, và là nơi tôi muốn các nhân vật của mình chơi trò đi tìm kho báu với vở kịch của Shakespeare. Vở kịch thất lạc còn lại - những nổ lực vì tình yêu được đền đáp - đã biến mất hoàn toàn, nhưng Cardenio đã xuất hiện trở lại dưới dạng bản thảo vào thế kỉ mười tám, khi Lewis Theobald “hiện đại hóa” nó trên sân khấu London. Bản thảo gốc, mà phần lớn học giả chấp nhận coi là xác thực, đã thất lạc, nhưng một bản rút gọn với cái tên Hai sự dối trá [sic] đã tồn tại tới ngày nay. Nhìn chung, bản phóng tác này thực sự kinh khủng đúng như Kate nói: đầy những lỗ hổng, chằng chịt những chỗ vá víu vụng về như khuôn mặt của Frankeinstein. Tuy vậy, rải rác trong bản thảo này có những câu có vẻ như đúng là do Shakespeare hay Fletcher - ở mức độ từng câu riêng lẻ, khó mà phân biệt giữa sự phụ hay đồ đệ, cũng giống như việc phân biệt giữa tranh của Rembrandt với tranh có xuất xứ từ “xưởng họa của Rembrandt” ở mức độ nhát cọ. Hai sự dối trá là nguồn gốc của những từ mà Kate cũng như những người khác đã nhận định là của Shakespeare trong cuốn tiểu thuyết này. Ngoại lệ duy nhất là câu chỉ đạo diễn xuất và dòng thoại về Sancho và Don Quixote: tôi phải mang gánh nặng trách nhiệm về những câu này vì trong bản rút gọn tôi đang nói đến không còn chút dấu vết nào của nhà quý tộc già điên rồ cùng anh hầu thực dụng của ông. Tuy vậy, giống như Kate, tôi muốn nghĩ rằng Shakespeare hẳn sẽ nhìn ra hai người này là không thể thiếu cho sự trào phúng và dẫn dắt mạch chuyện, và do đó chắc đã đưa họ vào dưới một dạng dẫn chuyện nào đó. Tôi đã đọc một giả thiết học thuật, do Richard Wilson đưa ra trong cuốn Shakespeare bí mật (Đại học Manchester xuất bản năm 2004) , cho rằng Cardenio có thể có mối liên hệ nào đso với gia đình Howard và cái chết của hoàng tử Henry. Gia đình Howard ủng hộ Tây Ban Nha và là những tín đồ Thiên chúa giáo bí mật, và nổi tiếng đố kỵ, nhất là bá tước Northampton và cháu ông ta, bá tước Suffolk (Để cho đơn giản, tôi sử dụng tước vị này để nói về hai người đó trong cuốn tiểu thuyết, mặc dù cả hai chỉ được phong bá tước sau khi vua James lên ngôi). Đúng là có những lời đồn đại về mối quan hệ tình ái giữa Frances Howard và hoàng tử, và theo những lời đồn “sự kiện chiếc găng tay” đã thực sự xảy ra (mặc dù tên của quý bà vẫn được giữ kín) ; câu chuyện khủng khiếp về việc Frances đầu độc một trong những tình nhân của chồng bằng những chiếc bánh tẩm thuốc độc đã được ghi lại rất chi tiết trong các tài liệu tư pháp, và bà ta đã thực sự bị phán quyết là có tội trước tòa. Tuy nhiên, chi tiết về những rắc rối của gia đình Howard và Shakespeare và nhà hát Quả cầu hoàn toàn do tôi tưởng tượng ra. Trong khi cách đơn giản nhất nói rằng William Shakespeare người Stratford đã viết những vở kịch mang tên ông, vẫn có rất nhiều ý kiến phản biện, từ thú vị gây tò mò tới thô thiển kỳ quặc, cho rằng có thể không phải như vậy. Tuy nhiên, vấn đề chính mà mọi giả thiết về “một người khác” đều không tránh khỏi, đó là tất cả đều đòi hỏi một sự đồng thuận im lặng: Nếu có một ai khác đã viết những vở kịch, thì chưa từng ai tiết lộ bí mật này. Trong một môi trường đầy rẫy những chuyện ngồi lê đôi mách, nói xấu sau lưng, những lời châm chọc đến mức chuyên nghiệp như tại triều đình của Elizabeth và James, đây là một thiếu sót không nhỏ. Nhiều hiệp hội của những người “chống lại giả thiết người Stratford (anti-Stratfordian)” hiện vẫn tồn tại - từ những tổ chức học thuật cho tới những nhóm theo lý thuyết âm mưu mang tính sùng bái. Rất nhiều người hâm mộ giải mã nhưng thông điệp được mã hóa mà theo họ tiết lộ danh tính của rất nhiều rác giá khác như là tác giả thực thụ, người đã ẩn danh một cách có chủ ý, của những tác phẩm được xuất bản dưới cái tên của “William Shakespeare”. Hai cái tên thay thế mà số người ủng hộ nhiều nhất - và cũng đáng tôn trọng nhất - là bá tước Oxford và Francis Bacon. Các ứng viên sáng giá khác gồm Christopher Marlowe; Edmund Spence; Philip Sidney và em gái ông Mary Herber, nữ bá tước Pembroke; Nữ hoàng Elizabeth; Walter Raleigh; bá trước Southampton, Derby, và Rutland, và một hội đồng bí mật gồm tất cả những người kể trên, được cho là do Bacon, hay Oxford, hoặc cả hai, chủ tọa. Còn điên rồ đến mức khó lý giải hơn là những người ủng hộ cho Henry Howard, bá tước Sussex (bị chặt đầu bốn mươi tư năm trước buổi công diễn đầu tiên một vở kịch của Shakespeare) và Daniel Defoe (ra đời bảy mươi năm sau buổi công diễn đầu tiên vừa nhắc tới ở trên). Một bổ sung mới nhất cho danh sách thu hút được sự chú ý nghiêm túc là vị triều thần khiêm tốn Henry Neville. Edward de Vere, bá tước Oxford đời thứ bảy, hiện là nhân vật được những người anti-Stratfordian ưa thích nhất. Những đoạn đảo chữ và ám chỉ về Oxford tromg cuốn sách này trên thực tế đều đã được đưa ra làm bằng chứng để chứng minh rằng bá tước là người viết các vở kịch. Như Athenaide đã chỉ ra, họ của ông ta - Vere - có liên quan tới từ Latinh verum, hay “sự thật” , theo một truyền thống lâu đời, và câu phương châm của gia đình ông ta - Vero nihil verius, tức “Không có gì đúng hơn sự thật” cũng tham dự vào mối liên hệ này. Đó là cách làm của những người ủng hộ ông ta ngoài đời thực: tìm kiếm những quan hệ “nghi ngờ” hay “có ý ngĩa” tới sự thật về Shakespeare. Từ “ever” là một bằng chứng thuyết phục khác. Người đầu tiên ủng hộ Oxford (hay Oxfordian) một cách nghiêm túc là J. Thomas Looney (đọc là “Loney” ), cuốn sánh Nhận diện “Shakespeare” của ông được xuất bản năn 1920 đã thuyết phục được nhiều người, trong đó có Sigmund Freud. Tuy vậy, Francis Bacon mới là tác giả thay thế được nhắc tới sớm hơn cả; những lập luận nghiêm túc nghiêng về ông đã được Delia Bacon và một vài người khác đưa ra từ những năm 1850. Những người ủng hộ Bacon (hay các Baconian) đã nghiên cứu kỹ lưỡng những tác phẩm của Shakespeare và các tác pharm thời Phục hưng khác với một sư hăng say mãnh liệt, khám phá ra vô số đoạn đảo chữ, ẩn ngữ theo chữ cái đầu, mật mã số và từ đồng nghĩa (thường là về “hog” (lơn thịt) và “bacon” (thịt muối) mà theo họ đã chỉ ra người hùng của họ chính lá tác giả các vở kịch; và thêm vào đó Bacon còn thường được cho là con trai của Nữ hoàng Elizabeth). Một số người thậm chí còn đi xa tới mức xem xét những buổi lên đồng hay đi đào trộm mộ. Tuy vậy, không phải tất cả những người ủng hộ Vacon đều dễ dàng bị khuất phục; trong số họ có cả các học giả, tác giả, luật gia, và thẩm phán ở cả nước Anh lẫn nước Mỹ. Tính đến nay bài viết mà các Baconian thích đọc nhất là bài tiểu luận của Mark Twain - “Có phải Shakespeare đã chết?”. Cho dù anh ta còn là gì khác nữa, chắc chắn Bacon là một người vừa xuất chúng vừa khôn ngoan. Đã từng có thời gian là chánh án của Hoàng gia, ông đã phát minh ra một hệ thống mật mã phức tạp đáng khâm phục mà Jem Branville đã sử dụng trong cuốn tiểu thuyết này. Bacon đã công bố mật mã năm 1623, cùng năm Tuyển tập Đầu tiên xuất hiện. Người đề xướng ra cái tên của bá tước Derby đời thứ sáu là Abel Lefranc, nhà nghiên cứu lịch sử văn học Pháp và giáo sư trường đại học Pháp, vào những thập kỷ đầu của thế kỉ hai mươi. Bất chấp tên của Derby (William) , những chữ cái đầu tiên tên goi (W. S. ), và cuộc đời nằm trong khoảng thời gian phù hợp, với những người nói tiếng Anh, tư cách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. ách ứng cử viên của ông này có ít được biết đến hơn của Bacon hay Oxford. Tác phẩm không hư cấu (và cũng không thiên vị) đáng chú ý nhất nói về những tranh cãi về tư cách tác giả này là cuốn Ai đã viết những tác phẩm của Shakespeare? Của John Mitchell (Thames và Hudson, 1996). Về một cái nhìn ủng hộ Shakespeare người Stratford, xin mời xem Cuộc điều tra vì Shakespeare của Scott McCrea (Praeger, 2005). Nhà hát Quả cầu nguyên bản bị cháy rụi vào ngày 29 tháng Sáu năm 1613 (một ngày thứ Ba, theo lịch Julian cũ) trong một buổi biểu diễn vở Henry VIII, sau đó được biết đến với cái tên Tất cả đều đúng. Theo những gì đã biết cho tới nay, đó là một tai nạn, do những tia lửa từ những phát đại bác bắn ra làm hiệu ứng đặc biệt rơi vào mái rạ. Những nhân chứng tận mắt chứng kiến đã thuật lại có một người đàn ông bị bỏng nhẹ trong khi cứu một đứa bé bị kẹt trong đám cháy; lửa bám vào người anh ta được dập tắt bằng bia. Nhà hát Quả cầu mới đúng là tòa nhà đầu tiên lợp mái rạ được chấp nhận ở khu vực phụ cận London từ sau vụ cháy lớn năm 1666. Những công trình kỉ niệm và nà hát về Shakespeare ở Stratford-upon-Avon đều nổi tiếng trên toàn thế giới. Thư viện Folger về Shakespeare ở trên đồi Capitol tại Washington D. C. sở hữu bộ sưu tập phong phú nhất về Shakespeare. Witon, tư gia của bá tước Pembroke, là một trong số ít địa điểm mà Shakespeare chắc chắn đã từng tới thăm còn tồn tại đến ngày nay - việc ông từng có mặt ở đây còn chắc chắn hơn tại bất cứ tòa nhà nào ở Stratford, ngoại trừ nhà thờ nơi ông được an táng. Bản copy tại tại Wilton, đài tưởng niệm Shakespeare ở Westminster cùng những thay đổi và những chữ cái viết hoa lạ lùng đều chính xác, mặc dù tôi đã tưởng tượng ra những màu sơn nhấn mạnh sự đảo chữ. Cũng như vậy, có một loạt tranh về chủ đề Arcadia trong gian phòng theo phong cách Palladian vẫn được gọi là phòng Lập phương, mặc dù tôi đã hư cấu đôi chút cho phù hợp với câu chuyện của mình. Ngăn hốc bí mật đằng sau một trong những bức họa đó là do tôi tưởng tượng ra. “Bức thư bị thất lạc” của nữ bá tước gửi cho con trai, nói rằng “chúng ta đang có Shakespeare ở đây” , đã được đề cặp tới trong tài liệu vào thế kỉ mười chín, nhưng từ đó tới nay chưa có học giả nào được nhìn thấy tận mắt. Bức thư của Will gửi cho con Thiên nga Ngọt ngào nhất là do tôi hư cấu. Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid được vua Tây Ban Nha Philip II thành lập nhằm mục đich đào tạo các thanh niên người Anh thành tu sĩ  Thiên chúa giáo và (theo cách nhìn của Nữ hoàng Elizabeth) gây ra những cuộc nổi loạn tôn giáo tại đất nước họ. Học viện này hiện vẫn tồn tại đào tạo thanh niên người Anh thành tu sĩ. Trong thư viện tuyệt vời của học viện này đã từng có một cuốn Tuyển tập Đầu tiên, nhưng tôi được nghe kể lại cuốn sách đã bị bán đi vào đầu thế kỉ hai mươi. Vào năm 1601, tám năm sau khi Christopher Marlowe bị sát hại, một “Christopher Morley” - tên gọi Marlowe từng sử dụng khi còn sống - được ghi lại trong tư liệu lưu trữ là đang theo học tại học viện. Tới năm 1604, Cervantes cũng có mặt tại thành phố này và hoàn tất Don Quixote tại đây. Những khu mỏ, thị trấn, và các nhà hát liên quan đến Shakespeare tồn tại nhiều vô số kể ở khắp miền tây Hoa Kỳ: những khu mỏ được đặt tên theo các nhân vật và vở kịch của Shakespeare rải rác khắp dãy núi Colorado. Nghiên cứu của Roz về chủ đề này chính là của tôi, được tiến hành cho một bài viết tôi thực hiện cho tạp chí Smithsonian với tên gọi “Một thi sĩ đã chinh phục miền Tây như thế nào” [Tháng Tám, 1998]. Thành phố Cedar, nằm ở vùng núi đá đỏ au của bang Utah, là nơi diễn ra Festival về Shakespear ở Utah, thành phố này rất tự hào về một bản sao mới xây lại của nhà hát Quả cầu thời Elizabeth - mặc dù tôi đã thêm vào Văn khố Preston dưới dạng bản sao ngôi nhà Shakespeare ra đời tại Stratford-upon-Avon. Vụ cá cược về vai diễn Hamlet của Jem Granville được lấy cảm hứng từ một vụ cá cược có thật đã diễn ra vào năm 1861 ở Denver. Tôi đã xây dựng nội dung những bài báo trong tiểu thuyết từ những phóng sự trên tờ Tin tức Rocky Moutain thuật lại một cách chi tiết cuộc cá cược có thật trong lịch sử này. Thị trấn ma mang tên Shakespeare nằm ở miền tây New Mexico, gần Lordsburg, trên biên giới bang Arizona; tôi đã nghe được câu chuyện về Bean Belly Smith vài lần từ những người chủ nhà. Tuy nhiên, tòa dinh thự của Athenaide nằm ở cuối con đường duy nhất của thị trấn là do tôi hư cấu thêm, mặc dù tòa lâu đài “nguyên bản” của Hamlet mà dinh thự đó mô phỏng theo là một địa điểm có thật - lâu đài Kronborg ở ngoại ô Elsinore (hay Helsingor) ở Đan Mạch, cũng như đại sảnh khiêu vũ tại lâu đài Hedingham, nơi đã từng là tư dinh của bá tước Oxford. Sự ám ảnh của những người theo trường phái Oxfordian với vở kịch Hamlet là có thật; những người này đã diễn giải giải vở kịch như một cuốn tự truyện được mã hóa của ứng cử viên họ ủng hộ. Như nhận xét của Kate và Athenaide, quả thực vở kịch có không ít điểm tương đồng đến kỳ lạ với cuộc đời của Oxford. Học giả người Mỹ Delia Bacon đã bị điên năm 1857 trong khi đang viết tác phẩm nổi tiếng Làm sáng tỏ [sic] triết lý trong những vở kịch của Shakespeare. Câu chuyện bà thức trắng đêm trước ngôi mộ của Shakespeare tại nhà thờ Thánh Ba ngôi ở Stratford được tái hiện theo đúng lời kể của chính bà về sự kiện này, trong một lá thư gửi cho người bạn Nathanien Hawthorne. Mục sư của nhà thờ Thánh Ba ngôi, Granville J. Granville, đã cho phép bà làm việc đó; mục sư Granville có vài người con, nhưng Jeremy (Jem) là do tôi hư cấu thêm vào gia đình ông. Cũng như vậy, bác sĩ George Fayrer đúng là người đã đưa Delia vào trại điên tư của ông ở Henley-in-Arden vào ngày 30 tháng Mười một năm 1857, nhưng cô con gái Ophelia của ông hoàn toàn là sản phẩm từ trí tưởng tượng của tôi. Francis J. Child là giáo sư Anh văn tại Đại học Harvard từ năm 1876 cho tới tận khi ông qua đời năm 1896; bộ sưu tập các bản ballad bình dân của Anh và Scotland do ông thực hiện cho đến nay vẫn là một trong những công trình học thuật lớn về văn học Anh. Ông cũng là một học giả xuất sắc về Shakespeare. Giống như trong tiểu thuyết, hoa hồng là một niềm đam mê lớn nữa của đời ông (và quả thực có một cây hồng Lady Banks lâu năm rất nổi tiếng mọc trong vường sau một nhà trọ - ngày này là bảo tàng - ở Tombstone, bang Arizona, mặc dù tôi đã lùi thời gian nó được trồng sớm lên vài năm). Tôi hy vọng hương hồn ông sẽ tha thứ cho tôi vì đã gán cho ông một đứa con sinh ra từ tình yêu. Những bài sonnet của Shakespeare có vẻ được viết một cách rõ ràng dành cho chàng thanh niên tóc vàng rụt rè hoặc quý bà tóc đen bí hiểm, thi sĩ có vẻ như bị ràng buộc với hai người này trong mối tình tay ba. Rất nhiều nhà nghiên cứu đã bỏ công sức nhằm xác định xem quý bà và chàng thanh niên là ai; chưa ai trong số hai nhân vật bí ẩn này được xác định danh tính một cách thuyết phục. Trong mười bảy bài sonnet đầu tiên, Shakespeare cầu khẩn chàng thanh niên hãy có một đứa con. Thật đáng tò mò, lòi nói đầu của Theobald cho vở kịch Hai sự dối trá có ảm chỉ đến một người con gái ngoài giá thú của Shakespeare chưa từng được nhắc tới ở bất cứ nơi nào khác. Thi sĩ - người kể chuyện của những bài sonnet bị giày vò bởi ngọn lửa ghen tuông vì mối quan hệ giữa chàng thanh niên và quý bà tóc đen, việc gán đứa bé gái này cho quý bà và làm cho danh tính người cha đưa bé mơ hồ cũng là tự nhiên - nhưng mối liên hệ này là do tôi hư cấu nên và không hề được tìm thấy trên thực tế. Nicholas Hilliard quả thật là họa sĩ nổi bật nhất nước Anh vào thời Shakespeare còn sống; theo một nghĩa nào đó, có thể coi ông như là Shakespeare của mỹ thuật. Hilliard chuyên vẽ những bức chân dung cỡ nhỏ với những chi thiết tinh xảo, chính xác như một bức ảnh chụp. Bảo tàng Victoria và Albert ở London sở hữu một bức chân dung như vậy, vẽ một người đàn ông với hậu cảnh là những ngọn lửa. Thomas Shelton là quản gia mang hai dòng máu Anh và Ireland của gia đình Howard, đúng là người đã dịch Don Quixote sang tiếng Anh; bản dịch của ông ta được xuất bản năm 1612. Trong khi người em của ông ta chỉ là nhân vật hư cấu, trên thực tế đã có một số lượng không nhỏ người Anh theo Công giáo mộ đạo bí mất trốn tới lục địa để học tại các trường dòng giống như Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid. Những tu sĩ Jesuit người Anh thường được gửi trở lại Anh để coi sóc phần hồn cho những tín đồ Thiên chúa giáo ở nước này một cách bí mật. Những tu viện xuất hiện sớm nhất ở Santa Fe và vùng lân cận, ở khu vực hiện nay là bang New Mexico, đều thuộc dòng tu Franciscan. Người bản địa châu Mỹ ở khắp vùng tây nam - lúc đó là Tân Tây Ban Nha với người Âu - liên tiếp nổi dậy trong thế kỉ mười bảy, tàn sát những người Tây Ban Nha xâm lược, đặc biệt là các tu sĩ. Dãy núi Dragoon ở vùng đông nam Arizona là căn cứ địa của người Apache cho tới khi Geronimo bị bắt năm 1886. (Người thủ lĩnh Apache vĩ đại Cochise yên nghỉ ở một địa điểm bí mật nào đó trong những dãy núi này). Mặc dù tôi đã hư cấu ra hẻm núi và khu hang động trong đó Kate tìm thấy kho báu bị chôn vùi cùng những bộ hài cốt, quả thực vùng này chứa đựng vô số hang động. Hang động Kartchner nằm gần đó (và mới được phát hiện gần đây) là một ví dụ tuyệt vời về những “cung điện tự nhiên” mà những lòng núi rỗng chắc hẳn vẫn còn ẩn giấu. “Chữ ký” trong cuốn Kinh thánh của vua James vẫn luôn nằm đó cho bất kỳ ai muốn xem (hay muốn đếm). Tại sao nó lại có mặt ở đó là câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, và tôi cũng không rõ ai đã “phát hiện” ra nó. Không ai biết rõ bài Thánh thi số bốn mươi sáu, hay toàn bộ Sách các Thánh thi, được hoàn thành vào thời điểm nào (mặc dù thời điểm đó chắc chắn nằm giữa năm 1604 và 1610) , hay ai đã phụ trách bài Thánh thi nào. Cả Lancelor Andrewes, thu viện trưởng Westminster và sau đó là giám mục Chichester, và Laurence Chaderton, hiệu trưởng trường Đại học Emmannuel ở Cambridge, đều là những nhà thần học đã tham gia biên soạn cuốn Kinh thánh, và Chaderton, một người theo Thanh giáo, là thành viên của “Ủy ban Cambridge thứ nhất” được phân công phụ trách các bài Thánh thi. Tuy nhiên, bức thư của giám mục có nói đến Chaderton là do tôi tưởng tượng ra. Mặt khác, ngày tháng năm sinh của Bacon, Derby, và nữ bá tước Pembroke đều dựa trên các tư liệu lịch sử chính thức. Biến một giấc mơ giữa ban ngày thành một cuốn tiểu thuyết hóa ra lại cần đến vô số sự giúp đỡ và lời động viên. Trước hết và trên hết, tôi muốn cám ơn Brian Tart và Mitch Hoffman, sự kiên nhẫn cùng đôi mắt sáng suốt của họ đã giúp tôi định hình cuốn sách này. Bằng cách nào đó, họ đã giúp tôi luôn giữ được tiếng cười. Neil Gordon và Erika Imranyi đã giúp quá trình sáng tác của tôi được trôi chảy. Noah Lukeman tin chắc đây là cuốn sách tôi nên viết và đã làm những điều kỳ diệu để biến nó thành sự thật. Vì những ý kiến chuyên môn và tư liệu về nhiều lĩnh vực mà họ đã cung cấp, tôi cũng muốn gửi lời cám ơn tới Ilana Addis, Michelle Alexander, Kathy Allen, Bill Carrell, Jamie de Courcey, Lionel Faitelson, Dave và Ellen Grounds, cha Peter Harris, Jessica Harrison, Charlotte Lowe-Bailey, Peggy Marner, Karen Melvin, Kristie Miller. Liz Ogilvy, Nick Saunders, Brian Schuyler, Dan Shapiro, Ronald Spark, Ian Tennent, và Heidi Vanderbilt. Diễn đàn Straw Bale và Câu lạc bộ văn học Tucson đã được nghe một số trang bản thảo ban đầu, và để được tham dự vào hai nhóm này, tôi phải biết ơn Bazy Tankersley. Tôi muốn gửi lời cảm ơn đặc biệt tới tiến sĩ Javier Burrieza Sanchez, thủ thư và quản lý văn khố tại Học viện Hoàng gia St. Alban ở Valladolid; tới Nigel Bailey, người quản lý, và Carol Kitching, hướng dẫn viên chính tại dinh thự Wilton và Wiltshire; và tới Sarah Weatherall tại nhà hát Quả cầu của Shakespeare, London. Tập thể nhân viên thư viện Folger ở Washington D. C. , cũng như nhà thờ Thánh Ba ngôi và trung tâm Thư viện Shakespeare, đều ở Stratford, cũng đã giúp ích cho tôi rất nhiều. Hơn bất cứ ai khác, Marge Garber đã góp phần định hình suy nghĩ của tôi về Shakespeare trên những trang giấy. Những thành viên của đoàn sân khấu Hyperion tại trường Harvard, trong những năm 1996 - 1998, và Shakespeare & Company, tại Lenox, Massachusetts, đã dạy cho tôi biết tất cả những gì về Shakespeare trên sân khấu. David Ira Goldstein và đoàn kịch Arizona đã đón tiếp tôi đến với thế giới của sân khấu chuyên nghiệp như một người khách thường xuyên. Ba người đã lắng nghe, đọc và nhận xét không ngừng trong suốt quá trình cuốn sách này hình thành: Kristen Poole, học giả, người kể chuyện, và người bạn: mẹ tôi, Melinda Carrell, người đầu tiên truyền cho tôi tình yêu với những cuốn sách; và chồng tôi, Johnny Helenbolt. Không gì có thể nói hết lòng biết ơn của tôi dành cho Johnny. *** Jennifer Lee Carrell sống tại Tucson, Arizona, Mỹ. Bà có bằng tiến sĩ về văn học Anh và Mỹ, chuyên đạo diễn các vở kịch của Shakespeare cho đoàn sân khấu Hyperion. Jennifer Lee Carrell là một tác giả người Mỹ của ba cuốn tiểu thuyết và nhiều bài viết cho Tạp chí Smithsonian và Ngôi sao hàng ngày Arizona   Mời các bạn đón đọc Bí mật Shakespeare của tác giả Jennifer Lee Carrell.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhân Chứng Bảy Tuổi - Linda Barnes
Nhà thể dục YWCA ở đại lộ Hơnlinhtơn ở trong một phường tệ nhất thành phố. Nó có những người láng giềng nổi tiếng như nhà hát giao hưởng, nhà thờ Môdơ, trường đại học âm nhạc New England và trường đại học Nơritxtơn. Vậy đây là một chốn đầy rẫy những người say mê âm nhạc, những môn đệ của chủ nghĩa khoa học và nói chung là sinh viên. Tôi có có một niềm vui nho nhỏ nên để xe ở nhà. Tôi đi xe buýt từ quảng trường Havơt. Chỉ mất vừa đúng năm phút chờ đợi, đây thực sự là một điều kỳ diệu. Tôi trèo lên xe, túi xách thể thao cầm ở tay. Tôi đứng mà không chờ đợi điều gì khác. Kritxti - đội trưởng và cũng là huấn luyện viên của chúng tôi đã ăn mặc chỉnh tề đang khởi động. Những người khác mới đến đang nhốn nháo. Trong phòng gửi quần áo, tôi gặp lại người to béo nhất đội mặc quần cộc thi đấu, áo may ô dài tay, bao che đầu gối, tất ngắn và giầy đánh quần vợt. Phòng gửi quần áo phô bày những bức tường màu xanh nhạt tương xứng với những chiếc tủ xộc xệch và những chiếc gương soi dành cho người lùn, bốc lên mùi mồ hôi, tất ngắn, ẩm mốc. Tôi thay nhanh quần áo rồi đi gặp Kritxti. Sau khi làm nóng người, chúng tôi luyện những quả đập. Nhà thể dục dần đầy người, tôi đoán thế vì tiếng ồn ào. Một hồi còi vang lên. Sau năm phút nữa, trận đấu bắt đầu. Đội của tôi tập hợp ở cuối nhà thể dục và Kritxti nói ngắn gọn với chúng tôi về những sự nguy hại của việc quá tự tin. Hôm nay đối thủ của chúng tôi đến từ ngoại ô phía Tây - một ngoại ô giàu có và từ lâu chúng tôi đinh ninh là sẽ thắng họ dễ dàng. Chúng tôi đã trông thấy họ chạy ra trước. Đồng ý, đó là một ý định trước nhưng nó tương ứng với sự nổi tiếng của những vùng ngoại ô giàu có, ở những người có tấm lòng sắt đá ở quảng trường trung tâm Cămbritdơ. Đội của họ tên là Những con bướm. Một cái tên không gợi được điều gì khiếp sợ cả. Còn chúng tôi là đội Oai Bớt. Cái tên này làm tôi luôn nghĩ tới những con chim trong lồng, nhưng theo tôi biết, trong số chúng tôi không có ai từng bị giam giữ cả. ... Mời các bạn đón đọc Nhân Chứng Bảy Tuổi của tác giả Linda Barnes.
Nếu Như Được Làm Lại - Marc Levy
Với Nếu như được làm lại, Marc Levy khiến người đọc ngây ngất với sức viết dồi dào của ông, và sự chuyển mình quá đỗi hoàn hảo từ chất lãng mạn thường thấy sang phong cách trinh thám ly kỳ, cuốn hút. Andrew Stilman, nhà báo nổi tiếng của tờ The New York Times, vừa kết hôn. Sáng ngày 9 tháng 7 năm 2012, anh đột ngột bị tấn công khi đang chạy bộ dọc sông Hudson. Anh gục ngã trong vũng máu… Andrew tỉnh lại vào ngày 9 tháng 5 năm 2012, hai tháng trước lễ cưới. Kể từ giờ phút đó, anh có 60 ngày để tìm ra kẻ giết mình, 60 ngày giằng co với số phận. Từ New York đến Buenos Aires, Stilman lao vào cuộc chạy đua hối hả với các sự kiện, tình tiết đan cài, một cuộc chạy đua với thời gian, phập phồng lo sợ xen lẫn háo hức thách thức định mệnh, cho đến khi nút thắt cuối cùng được gỡ. Một kết thúc bất ngờ đến nghẹt thở. *** Marc Levy (sinh ngày 16 tháng 10 năm 1961, tại Boulogne-Billancourt, nước Pháp) là nhà văn người Pháp gốc Do Thái. Marc Levy viết quyển tiểu thuyết đầu tiên của mình với tên Và nếu như chuyện này là có thật... vào năm 1998. Ông viết cuốn sách này cho con trai mình, khi đã là một thương gia thành công. Năm 1999, sau khi bán bản quyền phim Et si c'était vrai... cho hãng Dreamworks, ông kết thúc công việc ở hãng kiến trúc để theo đuổi sự nghiệp viết văn của mình. Xuyên suốt sự nghiệp viết văn kéo dài gần 20 năm của mình, nhà văn người Pháp Marc Levy sáng tác được tổng cộng 14 quyển tiểu thuyết. Trong số đó có 13 tác phẩm đã được dịch ở Việt Nam. Điểm thu hút trong văn chương của Marc Levy nằm ở chỗ lãng mạn, ngọt ngào. Ông bao giờ cũng khai thác những câu chuyện tình yêu ở khía cạnh tròn trịa và hấp dẫn nhất. Các tác phẩm của Marc Levy đã được xuất bản tại Việt Nam: - Và nếu như chuyện này là có thật (Nếu Em Không Phải Một Giấc Mơ) - Nếu em không phải một giấc mơ - Em ở đâu    2001 - Bảy ngày cho mãi mãi    2003 - Kiếp sau    2004 - Gặp lại    2005 - Bạn tôi, tình tôi    2006 - Những đứa con của tự do    2007 - Mọi điều ta chưa nói    2008 - Ngày đầu tiên    2009 - Đêm đầu tiên    2009 - Người trộm bóng    2010 - Cuộc hành trình kỳ lạ của Ngài Daldry    2011 - Nếu như được làm lại    2012 - Mạnh hơn sợ hãi    2013 - Một ý niệm khác về hạnh phúc 2014 - Chuyện Chàng và Nàng - Cô gái cuối cùng của bộ tộc Stanfield -... *** "Nên đọc ngay, đừng chần chừ!" - La Dépêche du Midi "Một cách suy nghĩ thú vị về số mệnh." - Metro "Nhiều nút thắt mở, một cốt truyện được đan cài khéo léo." - Paris Match "Đủ mọi sắc thái cảm xúc... say mê, hồi hộp, hài hước." - Le Figaro Litteraire *** Xe cứu thương chở Andrew Stilman vào phòng cấp cứu lúc 7h42 phút. Buổi sáng hôm đó, mật độ giao thông không dày đặc như thường lệ. Bệnh viện đã được thông báo trước qua điện đàm, các bác sĩ và y tá hối hả chờ bên chiếc băng cáng. - Người đàn ông ba mươi chín tuổi này đã bị đâm ở phần cuối đốt sống lưng cách đây nửa tiếng. Anh ta đã mất rất nhiều máu, tim đã ngừng đập ba lần, chúng tôi đã cố gắng hồi tim cho anh ta những vẫn chưa thế bắt mạch được, thân nhiệt anh ta đã giảm xuống còn 35 độ. Bây giờ đến lượt các anh, nhân viên cứu thương vừa nói vừa chạy vào đưa giấy tờ cho bộ phận nội trú phụ trách phẫu thuật. Andrew mở mắt trở lại, ánh đèn nê ông phía trên đầu anh tạo thành một đường không liên tục khi anh được đưa vào phòng phẫu thuật. Anh cố gắng nói nhưng viên bác sĩ nội trú đã cúi xuống nói với anh nên giữ sức, họ đưa anh vào phòng mổ. - Xin lỗi em... Valérie... Nói với cô ấy giúp tôi..., Andrew thì thào rồi mất dần nhận thức. ... Mời các bạn đón đọc Nếu Như Được Làm Lại của tác giả Marc Levy.
Sát Thủ Lạnh Lùng
“Tôi đã đặt bom vào một hành lý được đưa lên chuyến bay A320 tại Sân bay Quốc gia vào sáng nay”; “Và tôi cũng đã leo vào khoang hành lý của chiếc máy bay 737 từ D. C. Tôi có thể cho nổ tung bất cứ lúc nào”… Đó là lời của Harry Finn - một “sát thủ” nói với nhân viên an ninh sân bay ở Detroit (Mỹ) và là một trong những tình tiết kỳ lạ của chương mở đầu cuốn tiểu thuyết trinh thám Sát thủ lạnh lùng của D. Baldacci. “Sát thủ” là “không tặc”, “tin tặc” hay là một “tặc” nào đó theo kiểu Al Qaeda sao? Hoàn toàn không phải. Harry Finn giống như bất kỳ người đàn ông nào khác trong một gia đình bình thường: yêu vợ, thương con và có hiếu với mẹ già. Nhưng anh thực sự “sống” với hai cuộc sống đối lập nhau. Một cuộc sống gia đình đầm ấm, thân thiện, và một cuộc sống công việc của một sát thủ “máu lạnh”. Nhận công việc Bộ An ninh Nội địa ủy quyền, anh một mặt muốn thể hiện khả năng siêu việt của mình (có thể trượt vào một sân bay, đặt một quả bom trên máy bay, vượt qua các hàng rào bảo vệ của chính phủ để gài kíp nổ trong máy tính mà không bị sự nghi ngờ từ bất cứ ai). Mặt khác, công việc này của H. Finn cũng còn mang mục đích của riêng anh. Từ khi còn là cậu bé, anh nung nấu trong mình lòng căm thù kẻ đã giết cha - một người yêu nước nhưng bị nghi oan và bị giết hại với tội danh phản quốc. Trong quá trình đi tìm công lý và tiêu diệt kẻ thù, H. Finn đã nhiều lần gặp nguy hiểm, anh được “người đàn ông nằm trong đá của quá khứ” Jone Carr giúp đỡ. Đó chính là người từng ra tay sát hại bố anh. Cuộc sống thật trớ trêu khi sau này chính Carr lại giúp mẹ con H. Finn thoát khỏi cái chết trong giờ phút nguy hiểm nhất. Trong tiểu thuyết, có biết bao nhiêu những tình tiết nghịch lý và trớ trêu như thế. Sát thủ lạnh lùng là một tác phẩm văn học đề cao sức mạnh phi thường và tài trí tuyệt vời của con người. Các nhân vật, bằng tài năng và sức mạnh của mình đã chiến thắng được cái ác, tiêu diệt kẻ thù của cá nhân, quan trọng hơn cả là họ luôn ý thức tìm lại công bằng trong xã hội. Qua tiểu thuyết, Baldacci còn muốn ca ngợi tình cảm bền chặt giữa cha con, chồng vợ trong gia đình, bởi chính mối quan hệ này là một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh cho con người, giúp họ có thể chiến đấu và chiến thắng trong mọi hoàn cảnh khó khăn nhất của cuộc sống. David Baldacci đặc biệt xuất sắc trong việc sáng tạo ra những nhân vật chính diện (Harry Finn, Jone Carr... ) rồi bắt họ phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua. Nghịch lý, trớ trêu, bất ngờ… nhưng lại thấm đẫm tính nhân văn, Sát thủ lạnh lùng mang đến cho người đọc những khoảnh khắc hồi hộp đến nghẹt thở, và cũng khiến chúng ta lắng mình lại để cảm nhận một cách sâu sắc vẻ đẹp tâm hồn ẩn trong mỗi con người.   *** DAVID BALDACCI sinh ngày 05/08/1960, là một tác giả sách bán chạy người Mỹ gốc Ý. Ông sinh ra và lớn lên ở Virginia. Ông tốt nghiệp khoa Luật của Đại học Virginia, sau đó hành nghề luật chin năm tại Washington, D.C. Trong quá trình làm luật sư, ông chuyển sang viết tiểu thuyết. Baldacci xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu niên năm 1996. Đến nay, ông đã cho ra mắt 33 tiểu thuyết, bao gồm cả tiểu thuyết dành cho thiếu niên và người lớn. Tác phẩm của ông luôn nằm trong danh sách bán chạy nhất tại Mỹ. Tiểu thuyết của ông đã được dịch ra 45 thứ tiếng và bán tại 80 quốc gia, với trên 110 triệu bản in. Hiện ông sống tại Virginia cùng vợ và hai con. *** Tóm tắt: Sát thủ lạnh lùng là một cuốn tiểu thuyết trinh thám hành động của tác giả David Baldacci. Câu chuyện kể về cuộc hành trình của Harry Finn, một sát thủ được Bộ An ninh Nội địa thuê để tiêu diệt kẻ đã giết cha anh. Harry Finn là một người đàn ông bí ẩn. Anh có hai cuộc sống hoàn toàn khác nhau: một cuộc sống gia đình bình thường và một cuộc sống công việc của một sát thủ. Anh là một người có tài năng phi thường, có thể vượt qua mọi hàng rào an ninh để thực hiện nhiệm vụ của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Harry Finn đã gặp nhiều nguy hiểm, nhưng anh luôn vượt qua được nhờ vào tài năng và sức mạnh của mình. Anh cũng đã gặp được những người bạn đồng hành, những người đã giúp anh thực hiện nhiệm vụ và tìm ra sự thật về cái chết của cha mình. Cuối cùng, Harry Finn đã thành công trong việc tiêu diệt kẻ đã giết cha mình. Anh cũng đã tìm được sự bình yên trong tâm hồn, khi biết được rằng cha anh là một người vô tội. Review: Sát thủ lạnh lùng là một cuốn tiểu thuyết hấp dẫn và lôi cuốn. Tác phẩm có nhiều tình tiết kịch tính và bất ngờ, khiến người đọc không thể rời mắt. Nhân vật: Harry Finn: Một nhân vật chính hấp dẫn và đáng nhớ. Anh ta là một sát thủ tài năng, nhưng cũng có những mâu thuẫn nội tâm. Jone Carr: Một nhân vật phức tạp và đáng đồng cảm. Anh ta là một kẻ sát nhân, nhưng cũng là một người có quá khứ đau thương. Cốt truyện: Cốt truyện của Sát thủ lạnh lùng được xây dựng rất chặt chẽ và hấp dẫn. Tác phẩm có nhiều tình tiết kịch tính và bất ngờ, khiến người đọc không thể rời mắt. Đánh giá: Sát thủ lạnh lùng là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, xứng đáng là một trong những tác phẩm kinh điển của thể loại trinh thám hành động. Điểm cộng: Nhân vật được xây dựng tốt, có chiều sâu và tính cách phức tạp. Cốt truyện chặt chẽ, hấp dẫn và có nhiều tình tiết bất ngờ. Thể hiện rõ ràng những mâu thuẫn giữa thiện và ác. Điểm trừ: Một số tình tiết hơi phi logic, khiến người đọc cảm thấy khó hiểu. Kết luận: Sát thủ lạnh lùng là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho những ai yêu thích thể loại trinh thám hành động. *** Oliver Stone đã nã súng từ một khoảng cách an toàn mà không cần phải trốn chạy bọn cận vệ. Trước đây, các đường bắn của ông còn khó khăn hơn thế này, nhưng giờ đây nó không còn nghĩa lý gì nữa. ông thận trọng băng qua khu rừng để tiến gần đến ngôi nhà người đàn ông vừa bị ám sát. Mưa mỗi lúc một nặng hạt, với những cơn giông và sấm chớp gầm thét. Tất cả như muốn xé toạc màn trời đêm.   Ông bắn Simpson từ tòa nhà đang xây dở phía bên kia đường, khấu súng bắn tỉa được đặt trên một thùng dầu. Bức ảnh Stone dán vào tờ báo chính là chân dung của vợ mình, Clair. Ông muốn Simpson biết điều đó. ông đặt bức ảnh ở một vị trí dễ tiếp cận trên tờ báo, và nhắm bắn. Mọi bằng chứng về bức ảnh hoàn toàn bị xóa sạch.   Stone buộc phải lái xe đến đây để giết Gray ngay trước khi cái chết của Simpson bị phát hiện và Gray kịp lấn trốn, ông đã kiểm tra dự báo thời tiết từ đêm hôm trước. Cơn bão từ ngoài khơi đổ vào đất liên sẽ rất dữ dội. Trực thăng không thể cất cánh trong điều kiện thời tiết xấu như thế. Gray buộc phải đi bằng xe hơi. Stone đặt một tấm bia và lá cờ bên vệ đường, ông biết chắc rằng dù có cảnh giác đến mấy Gray cũng sẽ quay cửa kính xuống để nhìn rõ hơn. stone chỉ cần có vậy. Với khả năng thiện xạ không bị mài mòn theo thời gian cùng khẩu súng bắn tỉa còn tốt, chác chắn ông sẽ bắn trúng mục tiêu. Và ông đã làm được.   Ông rảo một vòng quanh khuôn viên nhà Gray. Những bước đi vững vàng, không vội vã. Ông biết chẳng mấy chốc thuộc hạ của Gray sẽ ập đến. Nhưng đây là những khoảnh khắc ông đã chờ đợi từ lâu. ông không muốn nó trôi qua vội vã.   Ông đứng trên mép của vách đá, nhìn xuống Lần nước sâu thẳm. Hình ảnh tràn về tâm trí ông lúc này là một người đàn ông chan chứa tình yêu thương, một tay ôm vợ, một tay ôm con. cả thế giới như thuộc về họ. Tương lai tươi sáng mở ra trước mắt họ. Rồi nó ngày càng thu hẹp lại theo các cuộc mưu sát tàn bạo của John Carr suốt mấy thập kỷ qua. ... Mời các bạn đọc Sát Thủ Lạnh Lùng của tác giả David Baldacci.
Muốn Sống Thì Hãy… - James H. Chase
James Hadley Chase là bút danh của tác giả người Anh – Rene Brabazon Raymond (24/12/1906 – 6/2/1985), người cũng đã viết dưới tên James L. Docherty, Ambrose Grant và Raymond Marshall. Ông được sinh ra ở Luân Đôn, là con của một đại tá người Anh phục vụ trong quân đội thuộc địa Ấn Độ, người dự định cho con trai mình có một sự nghiệp khoa học, bước đầu đã cho học tại trường học Hoàng gia, Rochester, Kent và sau đó học ở Calcutta. Ông rời gia đình ở tuổi 18 và làm nhiều công việc khác nhau, một nhà môi giới trong nhà sách, nhân viên bán sách bách khoa toàn thư của trẻ em, người bán sách sỉ trước tập trung vào sự nghiệp viết lách, đã sản xuất hơn 80 cuốn sách bí ẩn. Năm 1933, ông đã cưới Chase Sylvia Ray và có một con trai. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, với khoảng 90 tiểu thuyết, hầu như câu chuyện nào của James Hadley Chase cũng có một nhân vật chính muốn làm giàu nhanh bằng cách phạm tội ác - lừa gạt, cướp bóc hay ăn trộm. Nhưng kế hoạch của họ luôn thất bại, phải giết người để gỡ bí, và càng bí thêm. *** Các tác phẩm của James H. Chase đã được xuất bản tại Việt Nam: Cái Chết Từ Trên Trời Cả Thế Gian Trong Túi Ôi Đàn Bà Cạm Bẫy Gã Hippi Trên Đường (Frank Terrell #5) Thằng Khùng Cạm Bẫy Bản Đồng Ca Chết Người (Frank Terrell #1) Kinh Cầu Hồn Cho Ai Muốn Sống Thì Hãy Tỉa Dần Hứng Trọn 12 Viên Đam Mê và Thù Hận Tệ Đến Thế Là Cùng Mười Hai Người Hoa và Một Cô Gái Buổi Hẹn Cuối Cùng Trở Về Từ Cõi Chết Không Nơi Ẩn Nấp Đồng Tiền và Cạm Bẫy Lại Thêm Một Cú Đấm Hãy Đặt Nàng Lên Tấm Thảm Hoa Cành Lan Trong Gió Bão Những Xác Chết Chiếc Áo Khoác Ghê Tởm Món Quà Bí Ẩn Âm Mưu Hoàn Hảo Cướp Sòng Bạc Cạm Bẫy Dành Cho Johnny Những Xác Chết Câm Lặng Em Không Thể Sống Cô Đơn Thà Anh Sống Cô Đơn Buổi Hẹn Cuối Cùng Mùi Vàng Phu Nhân Tỉ Phú Giêm Tình Nhân Gã Vệ Sĩ Dấu Vết Kẻ Sát Nhân Trong Bàn Tay Mafia Này Cô Em Vòng Tay Ác Quỷ Thiên Đường của Vũ Nữ Châu Dã Tràng Xe Cát .... *** Ngọn lửa trùm lên cả chiếc xe thứ ba bị tai nạn. Lepski và Jacoby chen qua đám đông những kẻ vô công rồi nghề không biết ở đâu ra, khói đen tản ra trên xác của Chuck – đúng lúc ấy bàn tay màu nâu không rõ của ai túm lấy cổ tay Meg và lôi cô ta ra khỏi ngọn lửa. Meg bị choáng. Nhờ phép lạ nào không rõ, cô thoát được mảnh kính vỡ tan tành, nhưng cú đâm xe thật khủng khiếp. Bây giờ cô cảm thấy cô được dẫn đi đâu đó, nhưng chân cô chỉ di chuyển một cách bất lực. Meg không thấy gì xung quanh, cô chỉ run lên, cảm thấy sự đụng chạm vào những tấm thân ai đó – một người da đỏ nào đó kéo cô qua đám đông. Người ta ngạc nhiên quay lại nhìn cô, nhưng rồi lập tức cắm mắt vào những chiếc xe cháy rực. Khi thùng xăng của chiếc xe thứ ba nổ và đám đông tản đi, Meg cảm thấy cô chết ngất. Nhưng lúc ấy, người da đỏ luồn tay dưới đầu gối cô, vác cô lên vai và bắt đầu mở đường qua đám đông. Ngọn lửa bùng bùng và khói đen kịt là cảnh tượng lôi cuốn hơn nhiều so với cảnh một người da đỏ mang một con híp pi bẩn thỉu đi đâu đó. Đám đông để cho người đó đi qua, rồi xô về phía trước xem xác Chuck cháy. Dave Farrell ở trong xe cảnh sát khởi hành từ cổng phía bắc sân bay quan sát tất cả những việc đó, gọi điện cho Beigler. — Ở đây xảy ra một tai nạn rùng rợn. – Anh ta báo cáo. – Đường nhựa hoàn toàn bị nghẽn. Cần có sự giúp đỡ. Cả Buick 55789 cũng bị tai nạn. Xe chữa cháy đang phóng tới đây. Nghẽn tắc ghê gớm. Tôi nhắc lại… cần có sự giúp đỡ. Lúc đó, Lepski, và tiếp theo anh ta, cả Jacoby xuyên qua đám đông và khói, tới gần chiếc Buick cháy. Hai thám tử thấy xác Chuck bên chiếc Jaguar lật ngược bị trùm lấp trong ngọn lửa dữ dội, không thể tới gần được. Lính chữa cháy từ sân bay phóng tới trong tiếng còi rú và phun chất bọt thử dập tắt lửa. Mãi mười phút sau Lepski mới có được một lúc rảnh và anh liên lạc với Beigler. Nghe xong, Beigler ra lệnh cho anh trở về sở, còn các thám tử khác ở lại giúp khôi phục trật tự trên đường. Người da đỏ đã lôi Meg ra khỏi chiếc Buick vênh vẹo ngồi trong ca bin cao của chiếc xe tải mười lăm tấn. Đặt tay lên tay lái, y kiên nhẫn chờ cảnh sát lôi những chiếc xe cháy đen đi và giải phóng đường. Meg nằm như chết trên sàn ca bin. Cô vẫn chưa tỉnh, và gã da đỏ tên là Manatee thỉnh thoảng lại nhìn cô với vẻ nghi ngờ. Gã da đỏ gầy gò mắt hẹp này hai mươi bảy tuổi, tóc đen cắt ngắn, nom giống cái chổi bằng ni lông, gã có bốn con. Gã lái một trong những ô tô tải của Ocida, chuyên chở những hòm cam từ chợ ra sân bay và kiếm khá tiền về việc đó. Manatee đã sống ba năm ở trại của nhà tù, ở đấy chẳng lấy gì làm dễ chịu. Gã bị tù vì cướp của có dùng bạo lực. Không có Ocida giúp đỡ – Ocida vốn biết ai là người cần dùng, – gã sẽ không đời nào có được bằng lái xe và phần nhiều chắc là sẽ chết đói cùng với gia đình. Manatee luôn luôn ghi nhớ bổn phận của mình và không bỏ lỡ dịp tỏ lòng biết ơn Ocida. Với những người da đỏ làm nghề ở khu dân cư ven biển thì không có gì bí mật đối với nhau, hầu hết bọn họ đều biết Poke Toholo đã nghĩ ra cách moi tiền của bọn nhà giàu da trắng, chính gã đã làm cho bọn kia khiếp sợ ghê gớm. Bởi vì Poke ở nhà Ocida và là bạn của Jupiter Lucie mà Manatee vẫn lấy cam ở ông ta, nên Manatee cho rằng mình có bổn phận giúp đỡ Poke. ... Mời các bạn đón đọc Muốn Sống Thì Hãy… của tác giả James H. Chase.