Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ai Đã Nằm Trong Mộ? - R. L. Stine
Bạn tin là có ma không? Đừng nói là không, một khi bạn chưa đặt chân bước vào phố Fear. Đi qua rừng - nơi không một tiếng chim hót. Đi qua hồ - nơi dưới mặt nước không một bóng cá. Đi qua nghĩa địa - nơi tất cả những người đã chết chào đón bạn. Và đừng quên ghé qua trường cấp hai Shadyside. Zack Pepper nghĩ rằng cô giáo dạy thay của cậu có điều gì đó không ổn. Sẽ chẳng một ai tin lời cậu, vì thế cậu sẽ phải tự tìm cách gạt bỏ cô ta. Nhưng làm sao có thể tiêu diệt một người đã chết? *** R.L.STINE là bút hiệu của Robert Lawrence Stine. Ông sinh ngày 8 tháng 10 năm 1943 tại Columbus (Ohio), là một nhà văn Mỹ, tác giả của hơn 12 truyện khoa học giả tưởng kinh dị dành cho độc giả thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên. Những tác phẩm ấy được biết đến nhiều nhất là Goosebumps, Rotten School, Mostly Ghostly, The Nightmare Room và Fear Street . Tất cả các cuốn sách của ông đều có một series các đoạn truyện tạo nên một “cảm giác sợ hãi an toàn”, vì cho dù tạo cho các đọc giả một cảm giác sợ hãi đến đâu nhưng các nhân vật trong truyện “chẳng có ai chết cả”. Sách của ông được dịch ra thành 32 sinh ngữ và đã được bán hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới … Liên tiếp trong 3 năm từ 1990, nhật báo USA Today đã mệnh danh ông là tác giả có sách bán chạy nhất của Hoa Kỳ . Những câu chuyện kỳ bí được dịch và xuất bản tại Việt nam gồm có: Miếng Bọt Biển Ma Quái Ai Đã Nằm Trong Mộ Trò Chơi Trốn Tìm Ác mộng trong không gian ba chiều Cái nhìn ma quỷ Căn phòng cấm Chuyện trại Fear Con vượn bơi trong bể kính Đảo giấu vàng Đêm của ma mèo Hiệp sĩ sắt Những bức ảnh tiên tri Trở thành Ma cà rồng Nào Chúng Mình Hãy Biến Cái Đầu Khô Của Tôi Máu Quỷ Căn Hầm Bí Ẩn Chào Mừng Đến Với Ngôi Nhà Chết Lời Nguyền Trại Lãnh Hồ Chiếc Đồng Hồ Cúc Cu Vật Tìm Thấy Dưới Chậu Rửa Bát Ma Sói Trong Đầm Sốt Rét ... *** Tin tôi đi, quả là chẳng dễ dàng chút nào khi vừa đi tới trường vừa dí mũi vào một cuốn sách. Chỉ trong đoạn một phố tôi đã hai lần vấp vào lề đường và húc phải một cái hộp thư. Nhưng tôi phải đọc cho xong cuốn "Những đứa trẻ Thần thông" "Đọc cuốn sách này sớm chừng nào thì bạn sẽ mãi mãi thoát khỏi nỗi sợ hãi sớm chừng đó" - trên bìa cuốn sách người ta tuyên bố như vậy. Và nếu như bạn biết Shadyside thì bạn sẽ biết vì sao tôi cần phải đọc xong cuốn sách, thật nhanh. Trong những thành phố bình thường thì bạn sẽ chỉ phải lo lắng về những điều bình thường. Nhưng ở Shadyside thì bạn phải lo lắng về những con ma. Ít ra, tôi phải lo chuyện đó. Tôi rất sợ những con ma thích chơi trò ú tim với bọn trẻ trong rừng phố Fear. Bản thân tôi chưa bao giờ thấy ma. Nhưng tôi quen những người từng nhìn thấy chúng. Tôi rất sợ ngôi nhà cháy rụi ở phố Fear. Ma quỷ đã ở đó bao nhiêu năm nay rồi. Ít nhất đó cũng là điều các bạn trong trường cho tôi biết. Và tôi gặp những cơn ác mộng về phố Fear. Đó là phố đáng sợ nhất trong thành phố này - có khi đáng sợ nhất thế giới cũng nên. Kevin, anh trai mười lăm tuổi của tôi nói rằng những con ma ở phố Fear thực sự độc ác. Và nếu chúng bắt được bạn thì sẽ xảy ra những chuyện kinh hoàng. Tôi nghĩ chính Kevin mới thực sự độc ác. Anh ấy rất thích dọa cho tôi sợ. Nhưng anh ấy sẽ không thể nào dọa được tôi nữa - sau khi tôi đọc xong cuốn "Những đứa trẻ Thần thông" - cuốn sách cam đoan là như thế - nếu không tôi sẽ đòi lại tiền. Bọn trẻ trong lớp tôi sẽ rất buồn đây. Chúng cũng rất thích dọa cho tôi sợ. Nhất là trong ngày hội Ma vào thứ sáu này, chỉ còn cách năm ngày nữa thôi. Ngày hội Ma năm ngoài chúng đã làm cho tôi tin rằng người bán hàng ở quầy giày dép trong cửa hàng Dalby Department là ma. Vì thế suốt cả mùa đông tôi đành đi một đôi giày mũi cao với những cái lỗ to tướng. Ngón chân tôi lạnh cóng. Đôi khi tôi hình dung cảnh bọn bạn tôi chấm điểm cho nhau. Đứa nào kể được câu chuyện khiến tôi sợ nhất sẽ thắng. ... Mời các bạn đón đọc Ai Đã Nằm Trong Mộ? của tác giả R. L. Stine.
Miếng Bọt Biển Ma Quái - R. L. Stine
VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ R.L.STINE   R.L.STINE là bút hiệu của Robert Lawrence Stine. Ông sinh ngày 8 tháng 10 năm 1943 tại Columbus (Ohio), là một nhà văn Mỹ, tác giả của hơn 12 truyện khoa học giả tưởng kinh dị dành cho độc giả thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên. Những tác phẩm ấy được biết đến nhiều nhất là Goosebumps, Rotten School, Mostly Ghostly, The Nightmare Room và Fear Street . Tất cả các cuốn sách của ông đều có một series các đoạn truyện tạo nên một “cảm giác sợ hãi an toàn”, vì cho dù tạo cho các đọc giả một cảm giác sợ hãi đến đâu nhưng các nhân vật trong truyện “chẳng có ai chết cả”. Sách của ông được dịch ra thành 32 sinh ngữ và đã được bán hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới … Liên tiếp trong 3 năm từ 1990, nhật báo USA Today đã mệnh danh ông là tác giả có sách bán chạy nhất của Hoa Kỳ . Những câu chuyện kỳ bí được dịch và xuất bản tại Việt nam gồm có: Miếng Bọt Biển Ma Quái Ai Đã Nằm Trong Mộ Trò Chơi Trốn Tìm Ác mộng trong không gian ba chiều Cái nhìn ma quỷ Căn phòng cấm Chuyện trại Fear Con vượn bơi trong bể kính Đảo giấu vàng Đêm của ma mèo Hiệp sĩ sắt Những bức ảnh tiên tri Trở thành Ma cà rồng Nào Chúng Mình Hãy Biến Cái Đầu Khô Của Tôi Máu Quỷ Căn Hầm Bí Ẩn Chào Mừng Đến Với Ngôi Nhà Chết Lời Nguyền Trại Lãnh Hồ Chiếc Đồng Hồ Cúc Cu Vật Tìm Thấy Dưới Chậu Rửa Bát Ma Sói Trong Đầm Sốt Rét ... *** Trước khi chị em tôi nhận thấy con vật nhỏ kỳ dị ở dưới chậu rửa bát, nhà tôi là một gia đình bình thường hạnh phúc. Đúng ra phải nói chúng tôi sống rất may mắn. Nhưng vận may của nhà tôi đã nhanh chóng biến mất khi chúng tôi lôi con vật ra khỏi nơi trú ẩn tăm tối của nó. Câu chuyện hãi hùng, kinh khiếp này bắt đầu vào ngày chúng tôi chuyển nhà: – Chúng ta ở đây, các con ạ. – Bố tôi vui vẻ nói khi cho xe vòng quanh góc phố Maple Lane và dừng lại trước ngôi nhà mới của chúng tôi. “Con đã chuẩn bị cho cuộc di chuyển lớn chưa, Kitty Kat.” Bố là người duy nhất gọi tôi là Kitty Kat. Tên thật tôi là Katrina (ố là là!) Merton, nhưng chỉ các thầy giáo mới gọi tôi là Katrina. Với những người khác tôi chỉ đơn giản là Kat. – Con sẵn sàng rồi đấy! – Tôi hét lên và nhảy ra khỏi xe. – Gâu! Gâu! – Killer – con chó giống xpanhin lông nâu vàng của nhà tôi cất tiếng sủa vẻ đồng lõa và cùng tôi nhảy xuống vỉa hè. Tên con chó do thằng em Daniel ngớ ngẩn của tôi đặt cho. Một cái tên ngu ngốc. Killer sợ đủ mọi thứ. Vật duy nhất nó giết hại là quả bóng cao su của nó. Tôi và Daniel đã nhiều lần đạp xe qua căn nhà mới. Nó chỉ cách đại lộ phía Tây nơi chúng tôi sống lúc trước có ba khối nhà. Nhưng tôi vẫn chưa thể tin là chúng tôi sẽ sống ở đây. Ý tôi muốn nói là tôi luôn luôn nghĩ ngôi nhà của chúng tôi sẽ đẹp hơn nhiều. Nhưng chỗ này đáng kính nể đây! Đó là một tòa nhà ba tầng ngự trên một quả đồi nhỏ, có các cánh cửa sơn màu vàng bơ và có đến ít nhất một tá cửa sổ. Một vòm cuốn lớn phủ quanh cả tòa nhà. Khoảng đất phía trước rộng như một sân bóng đá. Nó không phải là một ngôi nhà mà là một chung cư! Đúng, thực tế là một chung cư. Rộng rãi nhưng chẳng lấy gì làm hấp dẫn. Mẹ gọi đó là “kiểu nhà hình giày cũ kỹ tiện lợi”. Quả thật hôm nay trông ngôi nhà thực bẩn thỉu, cũ kỹ. Một vài cánh cửa đã bị xiêu vẹo, cỏ mọc lan tràn chưa ai cắt, khắp nơi mọi chốn phủ dày một lớp bụi. Nhưng mẹ tôi bảo: – Chẳng sao, quét dọn sạch sẽ, phủ lại nước sơn và mấy nhát búa đóng lại, thế là đâu lại vào đấy ngay. Bố mẹ và Daniel nhảy ra khỏi xe, tất cả chúng tôi đứng nhìn chăm chăm vào ngôi nhà. Hôm nay rốt cuộc tôi sẽ được thấy bên trong! Mẹ chỉ tay lên tầng hai: – Các con có thấy cái ban công lớn kia không? – Bà hỏi. – Đấy sẽ là phòng ngủ của bố mẹ. Kế bên là phòng của Daniel, – đoạn bà xiết nhẹ tay tôi. – Kat này, cái ban công nhỏ kia là phía ngoài phòng của con đấy. – Nét mặt bà rạng rỡ. Thế là tôi được cả cái vòm cuốn. Tôi nhổm lên ôm ghì lấy mẹ: – Con thích chỗ đó lắm. – Tôi thì thầm vào tai bà. Tất nhiên là Daniel lập tức gào lên. Nó đã mười tuổi nhưng cứ luôn xử sự như một đứa trẻ lên hai. – Sao phòng Kat có ban công mà phòng con thì không? – Nó kêu ca. – Thế không được. Con cũng muốn có ban công cơ! – Thôi đi, Daniel, – tôi lầu bầu. – mẹ hãy bảo nó im đi cho con nhờ. Tao hơn mày hai tuổi thì phải được cái gì chứ? Đúng, hơn gần hai tuổi. Sinh nhật nó mới bốn ngày trước đây. – Im nào các con, – mẹ ra lệnh. – Daniel, con không có ban công. Nhưng bù lại con sẽ được một chiếc giường tầng. Như thế Carlo có thể ngủ lại bất kỳ lúc nào con muốn. – Tuyệt vời! – Daniel kêu lên. Carlo là bạn thân của Daniel. Hai đứa luôn quấn quít bên nhau và thường chọc tức tôi. Nói chung Daniel là đứa chơi được, nhưng nó cứ khăng khăng cho mình là đúng. Bố tôi gọi nó là ngài Biết Tuốt. Đôi khi bố lại gọi Daniel là Người Lốc bởi vì nó cứ chạy vòng quanh như một cơn lốc, và xáo tung tất cả mọi thứ lên. Tôi giống bố tôi nhiều hơn – êm đềm, lặng lẽ. Vâng, thường là êm đềm. Và cả hai bố con tôi đều có chung những món ăn ưa thích – mì xốt, tỏi ngâm dấm, kem và cà phê môca. Thậm chí tôi trông lại giống bố, người cũng cao gầy với khuôn mặt đầy tàn nhang và mái tóc đỏ quạch. Tôi thường cặp tóc theo kiểu đuôi ngựa. Bố thì chẳng có nhiều tóc như vậy để phải bận tâm. ... Mời các bạn đón đọc Miếng Bọt Biển Ma Quái của tác giả R. L. Stine.
Nhóm Đạo Wyang - Jason Dark
Jason Dark khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình vào năm 1966 với một tiểu thuyết giả tưởng. Sau đó, ông tiếp tục viết một vài tiểu thuyết hình sự và Western, cho tới khi sáng tác ra nhân vật John Singlair, một chàng thám tử tại London, nhân viên của Scotland Yard. Đối tượng theo dõi, diệt trừ của John không phải là những tội phạm bình thường. Cùng các bạn bè, cây thánh giá thần và khẩu Beretta bắn đạn bạc, John Singlair là một chuyên gia đuổi ma diệt quỷ. Thành công của những chuyến phiêu lưu mà John thực hiện đã đẩy sáng kiến thành một loạt truyện với số lượng độc giả không ngừng tăng.  Jason Dark sử dụng tất cả mọi “ngóc ngách” của thế giới bí hiểm, từ những huyền thoại cổ đại bao trùm châu lục như quỷ Medusa, ma cà rồng, cương thi... những câu chuyện của đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Hồi, các nhóm đạo Á, Mỹ, Âu, những truyền thuyết của từng địa phương cụ thể, trộn lẫn với những lý thuyết khoa học viễn tưởng hết sức hiện đại như trường thời gian, các trường vật chất, dòng điện sinh học cực mạnh... Chất huyền thoại được tác giả dùng để “xử lý” những vấn đề thời sự nóng bỏng theo một nhân sinh quan dương bản: bảo vệ môi trường, giữ gìn nền tảng gia đình, giữ gìn lòng tin vào cái thiện...  Trong mỗi một tiểu thuyết, tác giả cho người anh hùng của mình ra trận tại một địạ điểm cụ thể tại các nước châu Âu và kể cả các địa điểm tại châu Phi, châu Mỹ. Những yếu tố đặc thù trong những huyền thoại của địa phương được sử dụng làm nền tảng cho một cuộc đụng đầu quyết liệt giữa cái tốt và cái xấu. Mạch chuyện nhanh gọn là sức thu hút chính. Những nét miêu tả tuy thoáng qua song sắc sảo về phong cảnh, tập tục của địa phương cũng tạo nên một khía cạnh hấp dẫn khác. Một điểm cần nhấn mạnh trong loạt truyện John Singlair là giới hạn tuân thủ Luật Bảo vệ Thanh Thiếu niên của nước Đức được tác giả Jason Dark luôn luôn giữ vững: rất hấp dẫn, song không quá đẫm máu, không quá căng thẳng, không quá nhiều xác chết. Cái tốt, cái dương bản luôn vượt lên, luôn chiến thắng bản thân mình, đạt tới những đỉnh cao mới. *** Một số tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt do NXB Thanh Niên phát hành trong Tủ sách Lâu đài xanh hầu hết nằm trong series Geisterjäger John Sinclair hơn 300 cuốn lận: - Hòn đảo bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #002 - Die Totenkopf-Insel) - Bàn tay gã đao phủ (Geisterjäger John Sinclair #248 - Gatanos Galgenhand) - Điệu nhảy thầy tu (Geisterjäger John Sinclair #270 - Geistertanz der Teufelsmönche) - Câu đố bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #640 - Das Blut-Rätsel) - Nhóm đạo Wyang (Geisterjäger John Sinclair #688: Der Kult) - Điệu Tango bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #718: Tango Fatal) - Con quái vật sau những nụ hoa (Geisterjäger John Sinclair #731 - Die Blüten-Bestie) - Lưỡi dao bị nguyền rủa (Geisterjäger John Sinclair #740: Todesgruß der Templer) - Bi kịch người sói (Geisterjäger John Sinclair #759 - Werwolf-Wahnsinn) - Thiên tài bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #791 - Diondra, einfach mörderisch) - Bức tường đá kinh hoàng (Geisterjäger John Sinclair #865 - Auf ewig verflucht) - Con quỷ đất (Geisterjäger John Sinclair #879 - Das Erdmonster) - Con gái quỷ Medusa (Geisterjäger John Sinclair #1778 - Das Wappen der Medusa) - Lạc vào cõi ma - Đội quân ánh sáng - Dàn máy tính quỷ ám Các bản dịch tiếng Việt thường ghi nhầm tên tác giả là Jarson Dark. *** Suko và tôi giữ chắc ông già. Người đàn ông này chắc vừa trải qua một sự kiện khủng khiếp. Nỗi kinh hoàng còn nằm nguyên trong mắt ông, như thể Bogan vừa lôi lên một hồi ức từ dưới chín tầng địa ngục. - Họ còn sống. - Tôi nói - Họ còn sống, ông nghe rõ không? - Tôi không biết... - Đi nào! Chúng tôi kẹp ông già vào giữa, bước đi. Được mấy bước chân, Suko tỏ ý muốn ở lại xem xét tầng hầm. Anh để một mình tôi đi cùng Bogan. Trong hành lang có rất nhiều người. Không hiểu họ hiện từ đâu ra như có phép lạ. Đám người im lặng dãn ra và tôi đẩy Bogan đi giữa đường hầm nhân tạo đó. Cô gái đang đứng bên cánh cửa vào căn hộ, run rẩy toàn thân. - Tôi đã gọi bác sĩ rồi. - Cô nói bằng giọng vô cảm - Bác sĩ sẽ tới ngay... - Tốt! Rồi cô gái ôm lấy cổ ông già. Shida không thể tin nổi là cha cô còn sống. Tôi đi xuyên qua căn phòng rộng. Cả hai người đàn ông đều bị thương nhưng không ngất đi. Họ rên khe khẽ vì đau đớn. Tôi trấn an họ, rồi bước tới bên khuôn cửa sổ vỡ kính. Ngoài kia, hoàng hôn đang phủ một tấm khăn bẩn thỉu lên bầu trời. Nó khiến khu dân cư với ba dãy nhà dài thượt càng thêm xám xịt, tiêu điều. Những bóng người ngồi trước mặt tiền nhà trông như những bóng ma gầy guộc. Không một ai lên tiếng. Mặc dù không một ai biết chuyện gì vừa xảy ra, nhưng tất cả bọn họ đều cảm thấy Thần Chết vừa phà hơi thở vào ngôi nhà này. Tôi chỉ xoay người đi khi nghe tiếng còi xe cứu thương. Suy cho cùng, Suko và tôi đâu có giúp được gì nhiều. Một người đàn ông khác đã nhảy vượt khỏi cái bóng của chính mình, dũng cảm đương đầu với cái chết. Tôi nghĩ tới những con cừu con dê bị giết, và biết rằng còn rất nhiều câu hỏi đang bỏ ngỏ. Chắc chắn tôi sẽ nhận được lời giải thích. Chắc chắn thế... Mời các bạn đón đọc Nhóm Đạo Wyang của tác giả Jason Dark.
Lưỡi Dao Bị Nguyền Rủa - Jason Dark
Jason Dark khởi đầu sự nghiệp viết văn của mình vào năm 1966 với một tiểu thuyết giả tưởng. Sau đó, ông tiếp tục viết một vài tiểu thuyết hình sự và Western, cho tới khi sáng tác ra nhân vật John Singlair, một chàng thám tử tại London, nhân viên của Scotland Yard. Đối tượng theo dõi, diệt trừ của John không phải là những tội phạm bình thường. Cùng các bạn bè, cây thánh giá thần và khẩu Beretta bắn đạn bạc, John Singlair là một chuyên gia đuổi ma diệt quỷ. Thành công của những chuyến phiêu lưu mà John thực hiện đã đẩy sáng kiến thành một loạt truyện với số lượng độc giả không ngừng tăng.  Jason Dark sử dụng tất cả mọi “ngóc ngách” của thế giới bí hiểm, từ những huyền thoại cổ đại bao trùm châu lục như quỷ Medusa, ma cà rồng, cương thi... những câu chuyện của đạo Thiên Chúa, đạo Phật, đạo Hồi, các nhóm đạo Á, Mỹ, Âu, những truyền thuyết của từng địa phương cụ thể, trộn lẫn với những lý thuyết khoa học viễn tưởng hết sức hiện đại như trường thời gian, các trường vật chất, dòng điện sinh học cực mạnh... Chất huyền thoại được tác giả dùng để “xử lý” những vấn đề thời sự nóng bỏng theo một nhân sinh quan dương bản: bảo vệ môi trường, giữ gìn nền tảng gia đình, giữ gìn lòng tin vào cái thiện...  Trong mỗi một tiểu thuyết, tác giả cho người anh hùng của mình ra trận tại một địạ điểm cụ thể tại các nước châu Âu và kể cả các địa điểm tại châu Phi, châu Mỹ. Những yếu tố đặc thù trong những huyền thoại của địa phương được sử dụng làm nền tảng cho một cuộc đụng đầu quyết liệt giữa cái tốt và cái xấu. Mạch chuyện nhanh gọn là sức thu hút chính. Những nét miêu tả tuy thoáng qua song sắc sảo về phong cảnh, tập tục của địa phương cũng tạo nên một khía cạnh hấp dẫn khác. Một điểm cần nhấn mạnh trong loạt truyện John Singlair là giới hạn tuân thủ Luật Bảo vệ Thanh Thiếu niên của nước Đức được tác giả Jason Dark luôn luôn giữ vững: rất hấp dẫn, song không quá đẫm máu, không quá căng thẳng, không quá nhiều xác chết. Cái tốt, cái dương bản luôn vượt lên, luôn chiến thắng bản thân mình, đạt tới những đỉnh cao mới. *** Một số tác phẩm đã được dịch ra tiếng Việt do NXB Thanh Niên phát hành trong Tủ sách Lâu đài xanh hầu hết nằm trong series Geisterjäger John Sinclair hơn 300 cuốn lận: - Hòn đảo bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #002 - Die Totenkopf-Insel) - Bàn tay gã đao phủ (Geisterjäger John Sinclair #248 - Gatanos Galgenhand) - Điệu nhảy thầy tu (Geisterjäger John Sinclair #270 - Geistertanz der Teufelsmönche) - Câu đố bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #640 - Das Blut-Rätsel) - Nhóm đạo Wyang (Geisterjäger John Sinclair #688: Der Kult) - Điệu Tango bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #718: Tango Fatal) - Con quái vật sau những nụ hoa (Geisterjäger John Sinclair #731 - Die Blüten-Bestie) - Lưỡi dao bị nguyền rủa (Geisterjäger John Sinclair #740: Todesgruß der Templer) - Bi kịch người sói (Geisterjäger John Sinclair #759 - Werwolf-Wahnsinn) - Thiên tài bí hiểm (Geisterjäger John Sinclair #791 - Diondra, einfach mörderisch) - Bức tường đá kinh hoàng (Geisterjäger John Sinclair #865 - Auf ewig verflucht) - Con quỷ đất (Geisterjäger John Sinclair #879 - Das Erdmonster) - Con gái quỷ Medusa (Geisterjäger John Sinclair #1778 - Das Wappen der Medusa) - Lạc vào cõi ma - Đội quân ánh sáng - Dàn máy tính quỷ ám Các bản dịch tiếng Việt thường ghi nhầm tên tác giả là Jarson Dark. *** Lúc con dao găm ma quỷ bắt đầu bay cũng là lúc Suko nhào tới từ góc phải và nhanh như chớp né người xuống tránh. Mục tiêu của anh là Malraux! Gã đàn ông dang rộng hai cánh tay, bước tách ra khỏi nhóm bốn người đàn ông còn lại để nhìn bao quát trận chiến. Gã tin toàn tâm toàn lực vào cái Ác, gã thờ phụng quỷ Satan và sức mạnh của gã. Hắn chỉ không ngờ trên đời thật đang có Suko và quyền lực của cây roi diệt ma trừ quỷ. Khi Malraux nhìn thấy cả hai thì mọi chuyện đã quá muộn. Suko lúc bấy giờ đã rút roi, vung lấy đà và quật tới. Cả ba làn roi tóe ra như một cây quạt khổng lồ. Chúng không thể đánh trượt mục tiêu trong một khoảng cách gần tới thế, mà Malraux cũng chẳng có cơ hội xoay người né tránh, bởi ngọn roi được quật theo hướng chênh chếch, cả ba làn roi thay nhau quấn lấy đầu, lấy vai và ngang hông cái vật thể nửa người nửa ma. Chúng hủy diệt gã, một lần và mãi mãi! Malraux gào lên, rùng rợn tới tận xương tủy, chắc chắn gã đàn ông đang có cảm giác bị một tấm lưới lửa trùm lấy toàn thân thể. Gã giãy giụa sang trái rồi sang phải, trước khi quyền lực của ngọn roi thần giật gã văng xuống đất. Đột ngột, bầu không khí trong nhà thờ nồng nặc mùi lưu huỳnh, mùi của cơ thể người bị đốt cháy. Cái thực thể mang tên Malraux giãy giụa trên nền đất, gào thét, tan rã. Nó bị hút kiệt sức lực. Từ cơ thể đó vọt lên những lưỡi lửa giống hệt những lưỡi lửa đang bốc ra từ làn da quấn quanh cán cây dao găm. Quỷ Satan đã rời bỏ cả hai thực thể này, bởi thế lực đối chọi, thế lực của Ánh Sáng, lại một lần nữa chứng tỏ thế áp đảo. Những làn bụi bốc lửa và kêu xào xạo trong ngôi nhà thờ Templer, đi kèm với tiếng thét rùng rợn cuối cùng, tiếng thét kéo dài xuyên vào không gian vô biên của thế giới bóng tối… Tôi không cần phải sử dụng đến cây thánh giá thần. Con dao bằng bạc được rửa nước thánh cuối cùng cũng đã mạnh mẽ hơn món vũ khí của Harun El Basra. Tôi còn đâm thêm một lần nữa, để chứng kiến cảnh con dao quỷ quái bị tước hết quyền lực và tan rã. Không khí trong nhà thờ nồng nặc mùi cháy, nhưng không hề có người chết và không hề có người bị thương. Suko và tôi bước lại gần những cây nến còn đang cháy. - Ổn chứ? – Anh bạn tôi hỏi. - Dĩ nhiên rồi. Suko mở cửa nhà thờ để không khí trong lành từ bên ngoài tràn vào. Tôi đứng lại bên nhóm bốn người đàn ông. Họ vẫn chưa nói nên lời. Họ đang kiệt lực cả về thể xác lẫn tinh thần. Sau những biến cố quá kinh hoàng vừa xảy ra. - Cảm ơn! – Dean Ellroy cuối cùng cũng lên tiếng được. Nghe giọng như thể cổ họng ông bây giờ đang mọc đầy cỏ. Thế rồi người luật sư quay lưng đi, bởi ông không muốn ai nhìn thấy những giọt nước mắt của mình. Tôi bước ra bên ngoài, ra với dãi sương mù lạnh lùng, nơi dáng hình của Suko đang hiện lên mờ ảo, thấp thoáng như bóng ma. - Việc này vậy là xong. – Anh lẩm bẩm hài lòng. – Thế còn kẻ phản bội trong hàng ngũ chúng ta thì sao? Tôi chỉ biết nhún vai. Đáng tiếc… Mời các bạn đón đọc Lưỡi Dao Bị Nguyền Rủa của tác giả Jason Dark.