Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly

“Tôi nhớ rằng mọi chuyện bắt đầu với một loạt thăng trầm trong cảm xúc, một chút bấp bênh của hồi hộp lo sợ” Một cô gái trẻ nhận được công việc đầu tiên trong đời là làm gia sư cho hai đứa trẻ xinh đẹp, trong sáng và lặng lẽ đến dị thường tại toà dinh thự Bly cô độc, bị bủa vây trong cái ác rình rập. Những bóng người ẩn hiện từ toà tháp tối tăm và ô cửa sổ bụi bặm, các bóng ma xấu xa lặng lẽ tiến đến ngày một gần. Với nỗi kinh hoàng lớn dần, cô gia sư bất lực nhận ra những sinh vật tàn ác đó nhắm đến bọn trẻ, rắp tâm xâm chiếm cơ thể, tâm trí và cả linh hồn các em… Nhưng không ai ngoài cô nhìn thấy những bóng ma ấy. Phải chăng những ám ảnh kia được gợi lên từ chính trí tưởng tượng của cô gia sư, hay sự thật còn chứa đựng nhiều hơn thế? HENRY JAME (1843 - 1916) Là nhà văn người Mỹ, một trong những người sáng lập và dẫn đầu trường phái hiện thực trong văn hư cấu. Ông sống phần lớn cuộc đời tại Anh và trở thành công dân Anh không lâu trước khi qua đời. Ông được biết tới chủ yếu nhờ một loạt tiểu thuyết đồ sộ miêu tả sự giao thoa giữa Mỹ và châu Âu. Truyện của ông xoay quanh mối quan hệ cá nhân, cách sử dụng quyền lực đúng mực trong các mối quan hệ đó, và nhiều vấn đề đạo đức khác. Phương pháp viết của ông lấy góc nhìn của một nhân vật trong truyện, cho phép ông khám phá các hiện tượng ý thức và nhận thức, phong cách viết trong các tác phẩm về sau của ông từng được so sánh với tranh trường phái ấn tượng. Henry James kiên định tin rằng các nhà văn ở Anh và Mỹ nên được tự do tối đa trong việc thể hiện thế giới quan của mình, giống như các nhà văn Pháp. Chất sáng tạo trong thủ pháp sử dụng góc nhìn, độc thoại nội tâm và người trần thuật không đáng tin cậy trong các câu chuyện và tiểu thuyết của ông mang lại chiều sâu và sự hấp dẫn mới cho thể loại hư cấu hiện thực, và báo hiệu sự đổi mới trong văn học của thế kỉ hai mươi. Là một nhà văn có bút lực phi phàm, bên cạnh số lượng tác phẩm hư cấu đồ sộ, ông còn xuất bản báo, sách du lịch, tiểu sử, tự truyện, phê bình văn học, và kịch. Một số vở kịch của ông được biểu diễn lúc sinh thời và đạt được thành công nhất định. Tác phẩm kịch của ông được cho là có ảnh hưởng sâu rộng tới truyện và tiểu thuyết của ông sau này. Henry James từng được đề cử giải Nobel Văn học vào các năm 1911, 1912, và 1916. Từ khi xuất hiện lần đầu vào năm 1898 đến nay, CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY đã được mệnh danh là một trong những truyện ma nổi tiếng nhất thế giới, là nguyên tác và nguồn cảm hứng cho hàng loạt các tác phẩm chuyển thể cũng như sản phẩm làm lại thuộc nhiều loại hình khác nhau: phim điện ảnh, phim truyền hình, opera, kịch, balê “Một câu chuyện nhỏ độc hại đến sửng sốt, và cũng tuyệt diệu nhất.” – OSCAR WILDE - “CHUYỆN MA ÁM Ở TRANG VIÊN BLY là một trong những câu chuyện ma rùng rợn nhất từ trước đến nay, phần lớn là vì nó khó nắm bắt theo cách quá hấp dẫn.” – GILLIAN FLYNN - *** Chúng tôi quây quần quanh lò sưởi, nín thở lắng nghe câu chuyện, nhưng ngoài lời nhận xét hiển nhiên rằng nó rất ghê rợn, mà chuyện kinh dị vào đêm giáng sinh trong một ngôi nhà cũ thì tất phải ghê rợn, tôi nhớ rằng không ai lên tiếng bình luận gì cho đến khi có người tình cờ nói rằng anh ta từng gặp duy nhất một trường hợp tương tự, xảy đến với một đứa trẻ. Tôi xin nói thêm rằng trường hợp đó là về hồn ma trong một ngôi nhà cũ giống như ngôi nhà chúng tôi đang tụ tập vào dịp này - một vụ hiện hồn kinh khủng, xảy đến với một cậu bé đang ngủ trong phòng với mẹ. Cậu bé đã đánh thức người mẹ trong cơn khiếp hãi; nhưng trước khi người mẹ kịp xua tan cơn sợ và dỗ dành cậu ngủ tiếp, bản thân bà cũng chứng kiến cảnh tượng khiến cậu run rẩy. Nhận xét này đã khơi gợi lời hồi đáp từ Douglas - không phải ngay lúc đó, mà vào tối muộn - dẫn đến một kết quả thú vị khiến tôi chú ý. Câu chuyện người khác đang kể chẳng hấp dẫn lắm, và tôi nhận thấy anh không chú ý lắng nghe. Tôi cho đó là dấu hiệu thể hiện rằng bản thân anh có chuyện muốn kể và chúng tôi chỉ cần chờ đợi. Quả thực chúng tôi đã đợi đến hai đêm sau; nhưng vào tối hôm đó, trước khi chúng tôi giải tán, anh đã nói ra ý nghĩ trong đầu mình. “Tôi đồng ý - về hồn ma của Griffin, hay dù nó là gì đi nữa - rằng việc nó xuất hiện cho cậu bé nhìn thấy trước, ở cái tuổi dễ tổn thương như vậy, đã thêm điểm nhấn cho câu chuyện. Nhưng đây không phải lần đầu tôi nghe về kiểu chuyện hấp dẫn này liên quan đến trẻ con. Nếu một đứa trẻ đã thêm nhát búa chát chúa cho hiệu quả câu chuyện, thì các vị nói sao với haiđứa trẻ…?” “Tất nhiên chúng tôi sẽ bảo rằng chúng mang đến hai nhát búa! Và rằng chúng tôi muốn nghe chuyện về chúng,” có người thốt lên. Tôi vẫn còn có thể hình dung ra Douglas đứng quay lưng về phía ngọn lửa, hai tay đút túi, nhìn xuống những người đang trò chuyện với mình. “Cho đến giờ, chưa có ai ngoài tôi từng nghe chuyện này. Câu chuyện có phần quá kinh khủng.” Câu này đương nhiên là đã được vài người nói ra để tạo hiệu quả tối đa cho câu chuyện của mình, và người bạn của chúng tôi, với nghệ thuật kể chuyện tinh tế, chuẩn bị cho chiến thắng của mình bằng cách đưa mắt nhìn chúng tôi rồi nói tiếp: “Vượt ra ngoài tất cả. Tôi chưa từng biết đến thứ gì có thể chạm tới câu chuyện này.” “Về mặt đáng sợ ư?” Tôi nhớ mình đã hỏi như vậy. Dường như anh muốn đáp rằng không chỉ đơn giản như vậy; như thể anh thực sự không tìm được từ thích hợp để miêu tả. Anh đưa tay xoa mắt, khẽ nhăn mặt. “Về độ kinh hoàng!” “Ôi, hấp dẫn quá đi mất!” Một người trong cánh phụ nữ kêu lên. Anh không hề chú ý đến cô ta; anh nhìn tôi, nhưng như thể thay vì tôi, anh đang nhìn thấy thứ mình nói đến. “Về sự xấu xa dị hợm nói chung, về nỗi khiếp sợ và đau đớn.” “Chà,” tôi bảo, “thế thì hãy ngồi xuống và bắt đầu kể ngay đi.” Anh quay về phía ngọn lửa, đưa chân gẩy một khúc gỗ, ngắm nhìn chốc lát. Rồi anh quay lại đối mặt với chúng tôi: “Tôi chưa bắt đầu kể được. Tôi phải gửi thư vào thành phố đã.” Một loạt tiếng ca thán vang lên, kèm theo trách móc; sau đó anh liền giải thích, vẫn với vẻ lơ đãng: “Câu chuyện đã được ghi lại và cất giữ trong ngăn kéo suốt nhiều năm. Tôi có thể viết thư và gửi kèm chìa khóa cho người của mình; anh ta sẽ gửi bưu kiện tới đây khi tìm thấy nó.” Cá nhân tôi cảm thấy dường như anh chủ động đề xuất việc này - có vẻ anh gần như kêu gọi mọi người giúp anh thôi do dự. Anh đã phá vỡ một lớp băng dày tích tụ qua nhiều mùa đông; anh có những lí do riêng để giữ im lặng lâu như vậy. Những người khác bất mãn với sự trì hoãn, nhưng chính những trăn trở của anh đã hấp dẫn tôi. Tôi yêu cầu anh viết thư để gửi ngay chuyến bưu chính đầu tiên và anh đồng ý cho chúng tôi nghe chuyện sớm; rồi tôi hỏi anh trải nghiệm mà anh nói đến có phải của chính bản thân anh hay không. Với câu hỏi này, anh trả lời ngay tức khắc. “Ôi, ơn Chúa, không!” “Vậy còn bản ghi chép là của anh? Anh đã ghi lại câu chuyện đó?” “Tôi không ghi lại gì ngoài ấn tượng về nó. Tôi ghi khắc vào đây,” anh vỗ lên tim mình. “Tôi chưa từng quên.” “Vậy bản ghi chép…?” “Là một bản thảo cũ kĩ, đã phai màu mực, bằng bút tích đẹp nhất trên đời.” Anh lại quay về phía ngọn lửa. “Bút tích của một phụ nữ. Cô đã qua đời hai mươi năm rồi. Cô gửi cho tôi những trang giấy ấy trước khi chết.” Lúc này tất cả bọn họ đều đang lắng nghe, và tất nhiên có người tỏ ý trêu chọc, hay ít nhất là rút ra suy diễn. Nhưng anh bác bỏ suy diễn một cách nghiêm túc, dù cũng không tỏ vẻ bực bội. “Cô là một người hết sức duyên dáng, nhưng cô lớn hơn tôi mười tuổi. Cô là gia sư của em gái tôi,” anh lặng lẽ nói thêm. “Cô là người phụ nữ đáng mến nhất tôi từng biết ở địa vị đó; dù làm bất cứ nghề nghiệp gì, cô cũng sẽ là một người đáng kính, chuyện đã lâu lắm rồi, và câu chuyện kia còn lâu hơn nữa. Khi ấy tôi đang học ở trường Trinity, tôi gặp cô khi về nhà vào mùa hè năm thứ hai. Năm ấy tôi ở nhà khá nhiều - một mùa hè đẹp. Chúng tôi đã đi dạo và nói chuyện vài lần trong vườn vào giờ nghỉ của cô - những cuộc trò chuyện khiến tôi phát hiện cô cực kỳ thông minh và dễ mến. Ô đúng vậy; đừng cười: tôi yêu quý cô rất nhiều và đến tận hôm nay vẫn lấy làm vui mừng khi nghĩ cô cũng quý mến tôi. Nếu không thì cô đã không kể với tôi rồi. Cô chưa từng kể với bất cứ ai. Không chỉ vì cô nói vậy, mà tôi biết là thực sự cô chưa từng kể. Tôi không chỉ biết chắc; tôi thấy rõ như vậy. Các vị sẽ dễ dàng rút ra kết luận ngay khi nghe chuyện.” “Bởi vì câu chuyện ấy quá đáng sợ?” Anh tiếp tục nhìn chăm chú về phía tôi. “Các vị sẽ tự rút ra kết luận,” anh nhắc lại. “Anh sẽ tự rút ra kết luận.” Tôi cũng nhìn anh không chớp. “Tôi hiểu rồi. Cô ấy đang yêu.” Anh bật cười lần đầu tiên. “Anh nói đúng đấy. Phải, cô đang yêu. Đúng hơn là đã từng yêu. Điều đó thể hiện rõ ràng - cô không thể kể câu chuyện của mình mà không biểu lộ điều đó. Tôi đã thấy, và cô thấy rằng tôi đã thấy; nhưng không ai trong chúng tôi nhắc đến. Tôi nhớ như in thời gian và địa điểm - nơi góc thảm cỏ, dưới bóng râm của hàng sồi lớn và buổi chiều mùa hè dài nóng bức. Đó không phải khung cảnh thích hợp để nghe chuyện kinh dị; nhưng ối chao…!” Anh rời bỏ lò sưởi và thả mình lại ghế ngồi. “Anh sẽ nhận được bưu kiện vào sáng thứ Năm?” Tôi hỏi. “Chắc phải đến chuyến bưu chính thứ hai.” “Vậy thì, sau bữa tối…” “Các vị đều sẽ gặp tôi ở đây?” Anh lại nhìn khắp lượt chúng tôi. “Sẽ không có ai rời đi chứ?” Giọng điệu anh gần như mong đợi. “Tất cả mọi người đều sẽ ở lại!” “Tôi sẽ ở lại” và “Tôi sẽ ở lại!” là tiếng kêu của những quý cô đã định sẵn ngày rời đi. Tuy nhiên bà Griffin tỏ ý muốn biết thêm. “Cô ấy đang yêu ai?” “Câu chuyện sẽ nói rõ,” tôi tranh lời đáp. “Ôi, tôi nóng lòng nghe chuyện quá!” “Câu chuyện sẽ không nói rõ đâu,” Douglas nói; “không nói theo một cách lộ liễu, sỗ sàng.” “Thế thì thật đáng tiếc. Tôi chỉ hiểu được theo mỗi cách ấy.” “Anh cũng không nói ư, Douglas?” Một người khác hỏi. Anh lại đứng bật dậy. “Có - ngày mai. Giờ thì tôi phải đi ngủ thôi. Chúc ngủ ngon.” Rồi anh nhanh chóng vớ lấy một ngọn nến, và bỏ lại chúng tôi trong ngỡ ngàng. Từ đầu bên này của hành lang màu nâu rộng lớn chúng tôi nghe thấy tiếng chân anh bước lên cầu thang; khi đó bà Griffin nói: “Chà, nếu tôi không biết cô ấy đang yêu ai, thì tôi cũng biết anh ấy yêu ai.” “Cô ấy già hơn mười tuổi,” chồng bà đáp lại. “Càng thêm lí do… ở cái tuổi ấy! Nhưng anh ấy giữ kín lâu như vậy cũng khá là đáng quý.” “Bốn mươi năm!” Griffin nói thêm. “Rốt cuộc bảy giờ cũng vỡ oà ra.” “Sự vỡ oà này,” tôi đáp lại, “sẽ biến tối thứ Năm thành một dịp đặc biệt.” Và mọi người đều đồng ý với tôi rằng, trước tình huống này, chúng tôi đều đã mất hứng thú với mọi câu chuyện khác. Câu chuyện cuối cùng, dù không hoàn chỉnh và chỉ như mở đầu của một loạt truyện dài kì, đã được kể ra; chúng tôi bắt tay và “bắt nến”, như một người nói, rồi đi ngủ. Ngày hôm sau, tôi biết rằng một lá thư kèm theo chìa khoá đã được gửi đến căn hộ của Douglas ở London vào chuyến bưu chính đầu tiên. Nhưng dù tin đó đã bị lan truyền cho mọi người, hay phải chăng chính vì lẽ đó, chúng tôi để anh yên cho đến sau bữa tối, thực tế là tới tận khi đã khuya đến mức thích hợp với bầu không khí mà kỳ vọng của chúng tôi tạo lập nên. Khi đó anh trở nên cởi mở đúng như chúng tôi mong muốn và cho chúng tôi lí do chính đáng nhất về thái độ cởi mở đó. Một lần nữa chúng tôi tụ tập trước lò sưởi trong đại sảnh để nghe anh kể, giống như tối hôm trước, khi chúng tôi bị anh khơi gợi tâm trí. Có vẻ như bản tường thuật mà anh hứa sẽ đọc cho chúng tôi nghe thực sự cần một lời mở đầu thích đáng. Tôi xin được nói rõ rằng bản tường thuật mà tôi trình bày dưới đây được lấy từ bản chép nguyên văn do chính tôi ghi lại nhiều năm sau đó. Douglas tội nghiệp đã gửi bản thảo cho tôi trước khi chết - khi anh thấy rõ cái chết sắp đến gần. Bản thảo đến tay anh vào ngày thứ ba của cuộc tụ tập và vào đêm thứ tư, tại đúng chỗ hôm trước, với sự truyền cảm mạnh mẽ, anh bắt đầu đọc trước đám đông quây quần. May thay, các quý cô hôm trước hứa sẽ ở lại cuối cùng lại thất hứa: họ đã rời đi theo lịch trình định sẵn, mang theo lòng hiếu kì sôi sục mà anh đã gợi lên trong tất cả chúng tôi, theo như lời họ thừa nhận. Nhưng điều đó chỉ khiến đám đông thính giả cuối cùng của anh thêm thu gọn và có chọn lọc, chia sẻ một đam mê chung, vây quanh ngọn lửa. Những dòng đầu tiên cho biết rằng bản ghi chép này được thực hiện tại thời điểm sau khi câu chuyện đã bắt đầu. Theo đó, người bạn cũ của Douglas - cô con gái út của một mục sư nông thôn nghèo - ở tuổi hai mươi, đã đến London để nhận công việc dạy học đầu tiên. Lòng đầy hồi hộp, cô tới gặp mặt trực tiếp người đăng quảng cáo tuyển dụng mà trước đó cô đã trao đổi qua thư. Khi cô trình diện tại ngôi nhà đồ sộ và bề thế trên phố Harley, ông chủ tương lai thể hiện mình là một quý ông độc thân lịch thiệp đang tuổi tráng niên; hình tượng như vậy chưa từng xuất hiện, trừ trong mơ hay tiểu thuyết, trước một cô gái đầy xúc động, hồi hộp, đến từ một ngôi nhà của mục sư vùng Hampshire. Mẫu người như anh không bao giờ lỗi thời. Điển trai, bạo dạn và nhã nhặn, tự nhiên, vui vẻ và nhân từ. Tất nhiên anh gây cho cô ấn tượng lịch thiệp và phong nhã, nhưng điều chinh phục cô hơn cả và cho cô lòng dũng cảm mà cô thể hiện về sau là việc anh đã coi toàn bộ công việc của cô như một ân huệ, một trách nhiệm mà đáng lẽ anh phải vui lòng đảm đương. Cô nhận thấy anh giàu có, nhưng cũng xa hoa đến khiếp đảm - cô đã thấy anh trong trang phục đắt tiền hào nhoáng, trong diện mạo đẹp đẽ, trong những thói quen đắt đỏ, trong vẻ phong lưu trước mặt phụ nữ. Nơi ở tại thành phố của anh là một ngôi nhà rộng lớn chứa đầy chiến lợi phẩm và đồ lưu niệm từ du lịch và săn bắn; nhưng nơi anh muốn cô đến ngay lập tức là ngôi nhà ở quê, một biệt thự cổ của gia đình tại Essex. Anh bị trao quyền giám hộ hai đứa cháu một trai một gái, con của người anh trai trong quân ngũ, sau cái chết của cha mẹ chúng tại Ấn Độ vào hai năm trước. Với một người đàn ông ở địa vị của anh - độc thân, không có cả kinh nghiệm lẫn chút ít kiên nhẫn nào - bọn trẻ là gánh nặng rất lớn. Điều này gây ra nỗi lo lớn cùng một loạt sai lầm, hẳn nhiên là từ phía anh, nhưng anh vô cùng xót thương bọn trẻ tội nghiệp và đã làm tất cả những gì có thể. Cụ thể thì anh đã gửi chúng về ngôi nhà khác của mình ở nông thôn, là môi trường thích hợp dành cho chúng, và để chúng ở đó với những người tốt nhất mà anh tìm được để chăm nom chúng, anh thậm chí đã cử chính những người hầu của mình đi phục vụ chúng, và về thăm chúng mỗi khi có thể. Điều khó xử là chúng không còn người thân nào khác, mà việc riêng của anh đã chiếm dụng toàn bộ thời gian. Anh đã cho chúng sở hữu Bly, một nơi an toàn và lành mạnh, đồng thời cử bà Grose, một người phụ nữ xuất sắc, làm người đứng đầu tại dinh cơ nho nhỏ của chúng. Bà Grose từng là hầu gái cho mẹ của anh và anh tin chắc vị khách của mình sẽ quý mến bà. Hiện giờ bà là quản gia và cũng tạm thời đóng vai trò chăm nom bé gái; may mắn thay, bà cực kỳ yêu quý cô bé, vì bản thân bà không có con cái. Còn có nhiều người giúp việc khác, nhưng tất nhiên cô gái trẻ chuẩn bị đến đó làm gia sư sẽ nắm quyền hành tối cao. Vào các kỳ nghỉ, cô cũng sẽ phải trông nom bé trai, cậu bé đã đi học được một kì - dù tuổi hơi nhỏ, nhưng còn cách nào khác đâu? - và chuẩn bị về vì kỳ nghỉ sắp bắt đầu. Trước đó từng có một cô gái khác trông nom hai đứa trẻ nhưng cô ta không may đã mất. Cô ta làm việc khá xuất sắc - là một người hết sức đáng kính - cho đến khi qua đời, dẫn đến tình huống khó xử khiến cho Miles bé nhỏ không còn lựa chọn nào khác ngoài trường học. Kể từ đó, bà Grose đã phụ trách dạy dỗ Flora trong khả năng của mình, về mặt phép tắc và lễ nghi. Ngoài ra còn có một đầu bếp, hầu gái, người phụ nữ phụ trách việc bơ sữa, một con ngựa lùn già, cùng người giữ ngựa, và một người làm vườn già, tất cả đều vô cùng đáng kính. Sau khi Douglas trình bày bối cảnh đến đây, có người đặt câu hỏi. “Thế cô gia sư trước chết vì cái gì? Chết ngộp trong đáng kính chắc?” Bạn tôi trả lời ngay tức khắc. “Sau này sẽ nói. Tôi không báo trước.” “Xin lỗi, tôi nghĩ báo trước chính là việc anh đang làm.” “Đứng từ vị trí của người kế nhiệm cô ta,” tôi gợi ý, “tôi sẽ muốn được biết nếu công việc đi kèm với…” “Nguy hiểm đến tính mạng?” Douglas nói tiếp suy nghĩ của tôi. “Cô ấy quả thực muốn biết, và cô ấy đã biết. Ngày mai anh sẽ được nghe chuyện gì cô ấy đã biết. Còn trước mắt, tất nhiên, viễn cảnh đối với cô có vẻ ảm đạm. Cô còn trẻ, thiếu kinh nghiệm, đầy lo lắng: một viễn cảnh với nhiều trách nhiệm và ít bầu bạn, cùng nỗi cô đơn to lớn. Cô do dự - mất vài ngày đắn đo cân nhắc. Nhưng mức lương được trả cao hơn hẳn mức sống đạm bạc của cô. Cô đã nhận lời vào buổi phỏng vấn thứ hai.” Và đến đây, Douglas tạm dừng, khiến tôi góp lời thay mặt cho mọi người… “Mà cốt lõi của việc này tất nhiên là sức quyến rũ của chàng thanh niên phong nhã. Cô ấy đã bị chinh phục.” Anh đứng dậy và, như đã làm vào đêm hôm trước, bước về phía lò sưởi, dùng chân gẩy một thanh củi, rồi đứng quay lưng về phía chúng tôi trong chốc lát. “Cô chỉ gặp anh ta hai lần.” “Đúng vậy, nhưng điều đó càng nói lên tình cảm của cô ấy.” Tôi hơi ngạc nhiên khi Douglas nghe vậy và quay về phía tôi. “Chính là như thế. Có những người khác,” anh nói tiếp, “không bị chinh phục. Anh ta đã nói thành thật với cô mọi khó khăn của mình - rằng một số ứng viên khác cho rằng điều kiện công việc quá khắt khe. Vì lẽ nào đó họ thực sự e ngại. Công việc này nghe có vẻ tẻ nhạt - có vẻ kỳ quặc; và hơn hết là do điều kiện chính anh ta đặt ra.” “Đó là…?” “Là cô không bao giờ được làm phiền anh ta - tuyệt đối không bao giờ: dù là để yêu cầu, than phiền, hay vì bất kể lý do gì; cô chỉ có thể tự mình giải quyết mọi vấn để, nhận mọi khoản tiền từ luật sư của anh ta, đảm nhận toàn bộ trách nhiệm và để anh ta yên. Cô hứa sẽ làm như vậy, và cô kể với tôi rằng cô đã cảm thấy được đền đáp khi anh ta nắm lấy tay cô trong giây lát, vui mừng vì thoát khỏi gánh nặng, cảm ơn cô vì sự hi sinh.” “Nhưng cô ấy chỉ được đền đáp có như vậy thôi ư?” Một người trong cánh phụ nữ hỏi. “Cô ấy không bao giờ gặp anh ta nữa.” “Ôi!” Người phụ nữ nọ đáp. Và đó là từ duy nhất góp thêm vào chủ đề này, khi bạn chúng tôi lại một lần nữa lập tức bỏ chúng tôi mà đi, cho đến đêm hôm sau, bên góc lò sưởi, trong chiếc ghế thoải mái nhất, anh mở tấm bìa đỏ phai màu của một cuốn sổ mỏng viền vàng cũ kĩ. Cả câu chuyện mất hơn một đêm để kể, nhưng ngay khi có cơ hội, vẫn người phụ nữ hôm trước đặt một câu hỏi nữa. “Đầu đề anh đặt cho câu chuyện là gì?” “Tôi chưa đặt.” “Ôi, tôi thì có!” Tôi thốt lên. Nhưng Douglas không để ý đến tôi và bắt đầu đọc bằng giọng rành rọt như thể biểu đạt với tai người nghe vẻ đẹp của bút tích tác giả. Mời các bạn đón đọc Chuyện Ma Ám Ở Trang Viên Bly của tác giả Henry James & Nguyên Hương (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mèo Đen - Edgar Allan Poe
Thế giới tâm thần hoảng loạn là một thế giới đặc trưng trong rất nhiều những truyện ngắn của Poe. Ông đã phản ánh được trong tác phẩm của mình trạng thái tâm lý nhiễu loạn của nhân vật. Nỗi lo âu tiềm ẩn và đời sống tinh thần bất an, từ đó thể hiện mặt trái của giấc mơ Mỹ, giấc mơ của những cá nhân đầy tự lập và thành đạt. Và ông đã đưa ra cái bản chất thực sự của chủ nghĩa vật chất: ấy là sự cô đơn, bất ổn và cảm giác chết chóc luôn lơ lửng trong đời sống nội tâm của những thành viên trong xã hội. Những tác phẩm kỳ dị của Poe nẩy nở từ dự cảm về vực thẳm ẩn sâu của đời sống hiện đại. Nó là một cơn ác mộng kéo dài, kinh hoàng. Nó in đậm trong những truyện ngắn vừa mang tính kinh dị, vừa đầy sự rối loại, bí ẩn, nặng nề của Poe, mà Con mèo đen chính là một điển hình. Nhân vật tôi trong Con mèo đen tính tình ban đầu vốn rất vui vẻ, yêu súc vật, đặc biệt là con mèo đen Pluto. Nhưng sau khi cảm thấy sự thân thiết quá độ của con mèo, anh ta lại trở nên khó chịu, cư xử thô bạo với vợ, và bắt đầu hành hạ động vật. Đỉnh điểm của sự tức giận chính là hành vi chọc mù mắt Pluto, giết con mèo và treo lên cành cây. Vì ân hận, anh ta đã tìm một con mèo đen khác thay thế, nhưng anh ta lại bắt đầu thấy khó chịu và muốn giết nó. Khi anh cầm rìu giết mèo, vợ ngăn lại thì anh ta bổ rìu vào đầu vợ và chôn vợ vào trong bức tường của hầm rượu. Một câu chuyện đáng sợ không phải nằm ở những hành vi giết người mà nằm trong chính sự rối loạn tâm thần của nhân vật mà Poe đã tạo ra bằng một hệ thống ngôn ngữ rất lãnh đạm, với sự tỉnh lược những miêu tả diễn biến nội tâm nhưng lại dựng nên được một bầu không khí u uẩn, chết chóc, và cô độc, quái dị của tâm hồn con người. *** Edgar Allan Poe là một nhà văn, nhà thơ, nhà biên kịch, và nhà phê bình văn học người Mỹ, được xem là một cây đại thụ lớn của văn học Mỹ thế kỷ 19. Edgar Poe (tên đầy đủ là Edgar Allan Poe) sinh ngày 19/1/1809 tại thành phố Boston, tiểu bang Massachusetts trong một gia đình nghệ sĩ. Người cha, David Poe, mất khi cậu con trai Edgar chưa chào đời, còn người mẹ Eliza cũng từ trần lúc Edgar Poe mới tròn ba tuổi. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Đen - Edgar Allan Poe.
Ảo Linh Kỳ
ẢO LINH KỲ là màn tái xuất của Quỷ Cổ Nữ, bộ đôi tác giả từng gây ấn tượng vang dội với Kỳ án ánh trăng và suốt mười mấy năm qua vẫn liên tục duy trì sức hút nhờ việc kết hợp thành công ba yếu tố kinh dị, tâm lý và tâm linh trong các tác phẩm của mình. Với “Ảo linh kỳ”, Quỷ Cổ Nữ không gây ngạc nhiên khi tiếp tục khai thác mảnh đất Giang Kinh màu mỡ ngồn ngộn chuyện người chuyện ma, quấy nhão thực-ảo, cùng những nhân vật ở lưng chừng tỉnh táo và loạn trí. Nhưng với “Ảo linh kỳ”, Quỷ Cổ Nữ gây bất ngờ khi đẩy ngược Giang Kinh lại năm trăm năm trước, lần đầu tiên trổ tài bằng thể loại trinh thám-kinh dị đặt trong bối cảnh cổ xưa. Tương truyền, Thành Cát Tư Hãn uy phong lỗi lạc là vậy, thật ra là người mù chữ. Tuy nhiên trước lúc chết, ông ta đã xoay xở để lại một cuốn sách mà đời sau gọi là Thiên thư, trong đó ghi chép bí quyết chinh phạt thiên hạ để lập nên một đế chế huy hoàng.  Cuốn sách lưu lạc vào dân gian, bí quyết thành công đâu chưa thấy, chỉ thấy nó gieo rắc những cái chết thê thảm. Chiếc thuyền chở nó, toàn bộ thủy thủ đoàn thiệt mạng, từ bấy con thuyền thành thuyền ma lững thững trôi dạt. Ai gặp phải thì thất khiếu vỡ nát, máu chảy cạn mà chết. Cái hồ giấu nó, tự dưng mọc ra một ngư dân áo tơi buông câu, mỗi lần câu là một lần có người hồn lìa khỏi xác. Dù vậy, Thiên thư vẫn khuấy lên làn sóng truy tìm của những kẻ ôm mộng danh vọng-tiền tài-quyền lực. Từ đó dẫn đến những cuộc săn lùng ráo riết. Chỉ hiềm, từ săn vật báu, chẳng bao lâu đã biến tướng thành người săn người… Mở đầu từ hai truyền thuyết, “Ảo linh kỳ” nhanh chóng lồng chúng vào thực tại bằng những án mạng tàn khốc, vào những giao ước đẫm máu của dân băng đảng, vào cả những mối quan hệ sâu kín bị thời gian lẫn âm mưu đạp mờ. Cuối cùng tất thảy đều không thoát khỏi định luật tham sân si là họa hại, mà hung thủ thực sự thì, cứ liên tục đảo chân ẩn mình về sau tấm màn đen. Mạch phá án được triển khai rất nhanh, dồn dập, nhưng đó đây vẫn điểm chút thư thái khi ta bắt gặp những nhân cách lớn trân trọng lẫn nhau, chút buồn đau khi người tốt bị đem ra tùng xẻo, và cả chút vui vẻ ngắn ngủi trước khi một bi kịch khủng khiếp ập tới… *** Giang hồ hiểm ác, nay bạn mai thù, chẳng thể phân biệt rạch ròi. Một lá cờ làm nên tai họa, một cuốn Thiên Thư làm nên tội nghiệt. Danh vọng - tiền tài - quyền lực dường như là thứ hấp dẫn nhất đối với mỗi võ lâm nhân sĩ, thậm chí quan quân triều đình. Tương truyền, Thành Cát Tư Hãn trước khi qua đời có để lại một cuốn Thiên Thư, có nó, nghiệp lớn tất thành. "Linh kỳ" được đồn giấu dưới đáy hồ ở vùng Giang Kinh. Bao người thiệt mạng, sự việc kỳ bí diễn ra liên tiếp: người mặc áo tơi buông cần câu mạng, con thuyền ma trôi nổi,... và bao ngón nghề tưởng chừng như thất truyền đều dần xuất hiện. Một lá linh kỳ đã khuấy sóng nước Giang Kinh trở nên đục ngầu. "Ảo linh kỳ" lấy bối cảnh là vùng đất Giang Kinh vào khoảng cuối thời Minh, nếu ai từng đọc "Tơ đồng rỏ máu" chắc sẽ không quên được giai thoại về tên sát nhân giết người chặt ngón tay ở cuối thời Minh, viết trong cuốn sách cổ: Bổ khoái Giang Kinh Lã Diệp Hàn sau bao năm theo dõi, đi sâu tìm hiểu hung thủ nhưng không bắt được, tâm thần phân liệt, giết vợ của Mạc Tông Trạch, cuối cùng bị Mạc Tông Trạch giết. Sau khi Mạc Tông Trạch lên chức bổ khoái Giang Kinh, lại vẫn nhận được ngón tay máu ấy, và vụ án vẫn tiếp diễn... Mười tám năm sau, "Đoạn Chỉ Ma" quay lại, tiếp tục gây án, và dường như hắn cũng đang truy lùng tung tích linh kỳ. Có thể coi "Ảo linh ký" giống như cuốn bút ký của người ngoài cuộc ghi lại hành trình tìm kiếm Thiên Thư, với hệ thống nhân vật nhiều, phong phú, cốt truyện li kỳ, khiến độc giả không bị nhanh chán vì độ dày của truyện, thậm chí còn chờ mong những tập sau. Hơi tiếc vì hung thủ cuốn này không quá khó đoán, plot twist thường thường, không bất ngờ bằng "Tơ đồng rỏ máu". Bên cạnh những tình tiết giang hồ hấp dẫn, cuốn hút, lại có những mối tình ngọt ngào, mối tình đắng cay, không rõ là duyên hay là nợ. Những nhân vật có tình nhưng chưa chắc có phận, vì một lá linh kỳ mà đến bên nhau, rồi phải lòng lúc nào không hay, và dù có yêu thích, cũng chẳng mở lòng nói thật toàn bộ với nhau. Nay gặp mặt, sát cánh, mai xa cách, ở hai phía đối lập nhau, lừa gạt nhau, yêu thương nhau, dằn vặt giữa ranh giới bạn - thù. Cuốn truyện khép lại, cũng kết thúc đi bao sinh mạng nhân vật, mà mọi việc vẫn quá nhiều dấu hỏi, vừa gợi mở, vừa gây tò mò cho độc giả. Rốt cuộc, thiên thư là họa, hay con người là họa? *** Quỷ Cổ Nữ không phải là một tác giả cụ thể mà là bút danh chung của hai vợ chồng người Trung Quốc hiện đang sống ở Mỹ, vợ là Dư Dương, một kỹ sư phần mềm máy tính tại thung lũng Silicon, chồng là Dị Minh, chuyên gia y học nổi tiếng trong giới học thuật. Mùa xuân năm 2004, hai người dùng tên thật, cùng xuất bản cuốn tiểu thuyết dài "Mùa xuân trên dòng sông băng", đã được giới chuyên môn đánh giá cao.  Hai vợ chồng chỉ mới dùng bút danh Quỷ Cổ Nữ khi công bố tiểu thuyết kinh dị ly kỳ "Kỳ án ánh trăng" trên mạng Internet vào giữa năm 2004. Tác phẩm đã nhận được sự hưởng ứng nhiệt tình từ cộng đồng mạng, đã có trên 10 triệu đọc giả, 10 trang web khắp Bắc Mỹ và Châu Á cạnh tranh truyền tải. Khi sáng tác đến nửa chừng tác giả đã nhận được lời đề nghị xuất bản của Nhà xuất bản Nhân dân Thượng Hải. Mồng 1 Tết âm lịch năm 2005, tiểu thuyết "Kỳ án ánh trăng" đã ra mắt bạn đọc, và Quỷ Cổ Nữ đã bất ngờ trở thành một trong những đại diện tiêu biểu của các tác giả văn học thể loại truyện kinh dị Trung Quốc. Từ đó cái tên Quỷ Cổ Nữ đã gắn liền với những truyện kinh dị, được mệnh danh là "Stephen King của Trung Quốc", Quỷ Cổ Nữ cũng được tờ "Tin tức buổi trưa" bình chọn là "Người cầm bút khổng lồ của năm 2005".    Các tác phẩm đã dịch và xuất bản tại Việt Nam Đau Thương Đến Chết - Quỷ Cổ Nữ Số 13 - Quỷ Cổ Nữ Sưu Qủy Thục Lục - Quỷ cổ nữ Nỗi Đau Của Đom Đóm - Quỷ Cổ Nữ Kỳ Án Ánh Trăng - Quỷ Cổ Nữ Hồ Sơ Tội Ác 1: Hồ Tuyệt Mệnh - Quỷ Cổ Nữ Hồ Sơ Tội Ác 2: Tuyết Đoạt Hồn - Quỷ Cổ Nữ Hồ Sơ Tội Ác 3: Tơ Đồng Rỏ Máu - Quỷ Cổ Nữ Tiệc Báo Thù - Quỷ Cổ Nữ Ảo Linh Kỳ ... Mời các bạn đón đọc Ảo Linh Kỳ của tác giả Quỷ Cổ Nữ.
Ngáo Ộp Lúc Nửa Đêm
Đọc rồi, ta nghĩ… Các em đã đọc xong cuốn truyện nhỏ rồi phải không? Em thấy những gì? Phải chăng đây đúng là câu chuyện lạ lùng của một ngôi nhà của những người tí hon. Nếu em cho là phải, thì cũng… được thôi! Nhưng được mà chưa đúng. Thật ra chuyện trong sách là chuyện khoa học mà lại là khoa học vui đấy. Chuyện vui thì rõ rồi. Em có thấy câu chuyện thật là sinh động, mà rất hợp với trẻ em. Chuyện trong nhà, chuyện thu dọn bàn ghế, sách vở, chuyện làm các món ăn, chuyện học hành ở lớp ở trường. Ít có một cuốn sách nào sôi nổi, linh hoạt như ông Stine đã kể cho chúng ta nghe. Rất hợp với đối tượng trẻ em, hợp với cả hoàn cảnh sinh hoạt của các em nữa. Trẻ em thích sôi nổi, mà cũng thích ly kỳ. Kể chuyện ly kỳ mà phải khai thác kho tàng các truyện thần tiên hay truyện hoang đường quái đản thì cũng hay, nhưng khai thác ngay trong cuộc sống của các em, trong tâm hồn và tính khí của các em nữa, thì lại càng hấp dẫn. Cách viết của Stine là đi theo cái hướng ấy. Đọc truyện, em thấy gần gũi, tức là tác giả đã thành công rồi. Còn sự ly kỳ nữa! Cần phải ly kỳ mới sinh động. Em đã có lần nào được đi xem những trò ảo thuật chưa? Các trò ảo thuật thường có những sự biến hóa khiến chúng ta ngạc nhiên mà thích thú. Có cả những sự ngạc nhiên đi đôi với sự kinh hoàng. Có những trò xiếc bỏ con người vào hòm, dùng dao đâm ngược đâm xuôi, khiến cho ta phải rùng rợn, nhưng sau cùng, con người làm vật thí nghiệm ấy vẫn cuối cùng hiện ra, không suy suyển gì cả. Vậy thì một cái bóng đèn va vào đầu, hàng chục cuốn sách va vào mặt, vào lưng v.v…, thì có gì là lạ! Ngay trong sách, tác giả đã nói cái gác của nhà này: “Thật sự là cả một bảo tàng ảo thuật” kia mà. Hai chị em Jill và Freddy, xem là điều kinh lạ, nhưng bà mẹ chỉ thấy đó là chuyện vật nhau, là trò tung hứng của trẻ em mà thôi! Còn ông bố thì lại thích chế giễu hơn. Ông đã đeo kính vào và bảo rằng qua cặp kính ông thấy bao nhiêu điều kỳ quặc. Cái tài của Stine là ở chỗ, tác giả đã dựng cảnh rất khéo, đã tưởng tượng rất tài tình, làm cho chúng ta cứ tưởng như là có thực. *** R.L.STINE là bút hiệu của Robert Lawrence Stine. Ông sinh ngày 8 tháng 10 năm 1943 tại Columbus (Ohio), là một nhà văn Mỹ, tác giả của hơn 12 truyện khoa học giả tưởng kinh dị dành cho độc giả thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên. Những tác phẩm ấy được biết đến nhiều nhất là Goosebumps, Rotten School, Mostly Ghostly, The Nightmare Room và Fear Street . Tất cả các cuốn sách của ông đều có một series các đoạn truyện tạo nên một “cảm giác sợ hãi an toàn”, vì cho dù tạo cho các đọc giả một cảm giác sợ hãi đến đâu nhưng các nhân vật trong truyện “chẳng có ai chết cả”. Sách của ông được dịch ra thành 32 sinh ngữ và đã được bán hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới … Liên tiếp trong 3 năm từ 1990, nhật báo USA Today đã mệnh danh ông là tác giả có sách bán chạy nhất của Hoa Kỳ . Những câu chuyện kỳ bí được dịch và xuất bản tại Việt nam gồm có: Miếng Bọt Biển Ma Quái Ai Đã Nằm Trong Mộ Trò Chơi Trốn Tìm Ác mộng trong không gian ba chiều Cái nhìn ma quỷ Căn phòng cấm Chuyện trại Fear Con vượn bơi trong bể kính Đảo giấu vàng Đêm của ma mèo Hiệp sĩ sắt Những bức ảnh tiên tri Trở thành Ma cà rồng Nào Chúng Mình Hãy Biến Cái Đầu Khô Của Tôi Máu Quỷ Căn Hầm Bí Ẩn Chào Mừng Đến Với Ngôi Nhà Chết Lời Nguyền Trại Lãnh Hồ Chiếc Đồng Hồ Cúc Cu Vật Tìm Thấy Dưới Chậu Rửa Bát Ma Sói Trong Đầm Sốt Rét Ngôi Nhà Cây Xin Đừng Ốm Cái Máy Ăn Hợp Chất Màu Da Cam Ngôi Nhà Của Những Người Tí Hon Cái Đầu Người Khô Đêm Của Bầy Rối Chúng Từ Phương Đông Tới Ngáo Ộp Lúc Nửa Đêm ... *** — Ê, Julie! Đợi em với! Làm gì mà đi nhanh thế! Tôi ngoảnh mặt lại. Ánh nắng chói chang làm tôi phải nheo mắt. Mark, em trai tôi đang hớt hải chạy theo trên sân ga. Con tàu đang lầm lũi bò lê trên con đường sắt chạy ngoằn ngoèo qua cánh đồng. Henry, người làm công cho ông bà nội tôi, đang đứng cạnh tôi, tay xách hai chiếc va ly. — Cháu tin chắc rằng trong từ điển, ở mục từ “bò lê”, thế nào cũng có ảnh của cái thằng nhóc Mark này. – Tôi vừa thở dài vừa nói với Henry. Thằng em tôi lúc nào cũng thích la cà. Bây giờ cũng vậy, nó lê bước như một con sên, mặt mũi như kẻ mất hồn. Tôi quắc mắt, tay hất ngược mớ tóc ra sau. Rõ ràng là thằng Mark có vẻ không nhiệt tình lắm. Nhưng dẫu sao chúng tôi cũng đã không tới thăm trang trại của ông bà nội từ hơn một năm nay rồi. Henry chẳng có gì thay đổi. Bà tôi vẫn gọi ông là cò hương. Dạo này Henry vẫn lẻo khẻo như bấy lâu. Tôi có cảm giác cái ống quần bò ông đang mặc phải rộng gấp năm lần cái cẳng chân của ông mất. Người đàn ông này khoảng bốn mươi lăm tuổi. Ông có mái tóc rễ tre ngắn và đôi mắt nâu tròn như mắt búp bê. Đôi tai vểnh như tai thỏ lúc nào cũng đỏ tía. Trông ông không được lanh lợi cho lắm. Ông nội tôi thường bảo rằng “nguồn năng lượng” của Henry không hoạt động hết cỡ. Nhưng tôi và Mark luôn quý mến ông, đặc biệt là tính hài hước của ông. Đó đúng là một con người hiền từ và đầy thiện cảm. Ông luôn có hàng tá chuyện kỳ quặc đủ để cho chúng tôi khám phá khi tới trang trại. Cuối cùng thì Mark cũng lò dò đến được chỗ chúng tôi. Cả ba bước tới trước chiếc xe tải mi ni màu đỏ của ông bà nội tôi. Thời tiết hôm nay kể cũng không đến nỗi tồi. Mark chìa cho tôi chiếc ba lô của nó.   Mời các bạn đón đọc Ngáo Ộp Lúc Nửa Đêm của tác giả R. L. Stine.
Chúng Từ Phương Đông Tới - R. L. Stine
Đọc rồi, ta nghĩ… Các em đã đọc xong cuốn truyện nhỏ rồi phải không? Em thấy những gì? Phải chăng đây đúng là câu chuyện lạ lùng của một ngôi nhà của những người tí hon. Nếu em cho là phải, thì cũng… được thôi! Nhưng được mà chưa đúng. Thật ra chuyện trong sách là chuyện khoa học mà lại là khoa học vui đấy. Chuyện vui thì rõ rồi. Em có thấy câu chuyện thật là sinh động, mà rất hợp với trẻ em. Chuyện trong nhà, chuyện thu dọn bàn ghế, sách vở, chuyện làm các món ăn, chuyện học hành ở lớp ở trường. Ít có một cuốn sách nào sôi nổi, linh hoạt như ông Stine đã kể cho chúng ta nghe. Rất hợp với đối tượng trẻ em, hợp với cả hoàn cảnh sinh hoạt của các em nữa. Trẻ em thích sôi nổi, mà cũng thích ly kỳ. Kể chuyện ly kỳ mà phải khai thác kho tàng các truyện thần tiên hay truyện hoang đường quái đản thì cũng hay, nhưng khai thác ngay trong cuộc sống của các em, trong tâm hồn và tính khí của các em nữa, thì lại càng hấp dẫn. Cách viết của Stine là đi theo cái hướng ấy. Đọc truyện, em thấy gần gũi, tức là tác giả đã thành công rồi. Còn sự ly kỳ nữa! Cần phải ly kỳ mới sinh động. Em đã có lần nào được đi xem những trò ảo thuật chưa? Các trò ảo thuật thường có những sự biến hóa khiến chúng ta ngạc nhiên mà thích thú. Có cả những sự ngạc nhiên đi đôi với sự kinh hoàng. Có những trò xiếc bỏ con người vào hòm, dùng dao đâm ngược đâm xuôi, khiến cho ta phải rùng rợn, nhưng sau cùng, con người làm vật thí nghiệm ấy vẫn cuối cùng hiện ra, không suy suyển gì cả. Vậy thì một cái bóng đèn va vào đầu, hàng chục cuốn sách va vào mặt, vào lưng v.v…, thì có gì là lạ! Ngay trong sách, tác giả đã nói cái gác của nhà này: “Thật sự là cả một bảo tàng ảo thuật” kia mà. Hai chị em Jill và Freddy, xem là điều kinh lạ, nhưng bà mẹ chỉ thấy đó là chuyện vật nhau, là trò tung hứng của trẻ em mà thôi! Còn ông bố thì lại thích chế giễu hơn. Ông đã đeo kính vào và bảo rằng qua cặp kính ông thấy bao nhiêu điều kỳ quặc. Cái tài của Stine là ở chỗ, tác giả đã dựng cảnh rất khéo, đã tưởng tượng rất tài tình, làm cho chúng ta cứ tưởng như là có thực. *** R.L.STINE là bút hiệu của Robert Lawrence Stine. Ông sinh ngày 8 tháng 10 năm 1943 tại Columbus (Ohio), là một nhà văn Mỹ, tác giả của hơn 12 truyện khoa học giả tưởng kinh dị dành cho độc giả thuộc lứa tuổi thanh thiếu niên. Những tác phẩm ấy được biết đến nhiều nhất là Goosebumps, Rotten School, Mostly Ghostly, The Nightmare Room và Fear Street . Tất cả các cuốn sách của ông đều có một series các đoạn truyện tạo nên một “cảm giác sợ hãi an toàn”, vì cho dù tạo cho các đọc giả một cảm giác sợ hãi đến đâu nhưng các nhân vật trong truyện “chẳng có ai chết cả”. Sách của ông được dịch ra thành 32 sinh ngữ và đã được bán hơn 300 triệu bản trên toàn thế giới … Liên tiếp trong 3 năm từ 1990, nhật báo USA Today đã mệnh danh ông là tác giả có sách bán chạy nhất của Hoa Kỳ . Những câu chuyện kỳ bí được dịch và xuất bản tại Việt nam gồm có: Miếng Bọt Biển Ma Quái Ai Đã Nằm Trong Mộ Trò Chơi Trốn Tìm Ác mộng trong không gian ba chiều Cái nhìn ma quỷ Căn phòng cấm Chuyện trại Fear Con vượn bơi trong bể kính Đảo giấu vàng Đêm của ma mèo Hiệp sĩ sắt Những bức ảnh tiên tri Trở thành Ma cà rồng Nào Chúng Mình Hãy Biến Cái Đầu Khô Của Tôi Máu Quỷ Căn Hầm Bí Ẩn Chào Mừng Đến Với Ngôi Nhà Chết Lời Nguyền Trại Lãnh Hồ Chiếc Đồng Hồ Cúc Cu Vật Tìm Thấy Dưới Chậu Rửa Bát Ma Sói Trong Đầm Sốt Rét Ngôi Nhà Cây Xin Đừng Ốm Cái Máy Ăn Hợp Chất Màu Da Cam Ngôi Nhà Của Những Người Tí Hon Cái Đầu Người Khô Đêm Của Bầy Rối Chúng Từ Phương Đông Tới ... Mời các bạn đón đọc Chúng Từ Phương Đông Tới của tác giả R. L. Stine.