Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tấn Bi Kịch X - Ellery Queen

Nhà văn Frederic Dannay (1905 - 1982) và nhà văn Manfred Bennington Lee (1905 - 1971) cùng chung bút danh tác giả đã để lại cho người đọc yêu thích thể loại văn chương trinh thám một loạt truyện bốn cuốn đặc sắc. Đây là những tác phẩm trinh thám kinh điển kể về những kỳ công khác thường của ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch đã về hưu. ‘Tấn Bi Kịch X’ là tác phẩm đầu tiên của loạt truyện này. Tại thành phố New York vào đầu thập niên 1930, đã liên tiếp xảy ra ba vụ án mạng có quan hệ với nhau. Ba vụ án mạng này xảy ra ở ba phương tiện giao thông riêng biệt, một trên xe điện, một ở bến phà và một trên tàu lửa. Mặc dù hoàn cảnh xảy ra án mạng không có gì quá đặc biệt khác thường, và những chi tiết liên quan đến diễn biến vụ án cũng khá đầy đủ và sẵn có để phục vụ công việc điều tra, thế nhưng mọi nỗ lực truy tìm thủ phạm của giới hữu trách dường như có cơ phải chịu cảnh hoàn toàn bó tay. Là một tác phẩm trinh thám mang nhiều tình tiết điều tra hấp dẫn, manh mối của mỗi một vụ án đều ẩn hiện đây đó theo sắp xếp mạch lạc của truyện đủ để giúp cho những ai ưa thích thử tài thám tử của mình có thể hào hứng suy ra kẻ thủ ác, dù độc giả hẳn nhiên cũng rất muốn đọc kỹ màn kết của câu chuyện, là phần giải thích cho toàn bộ sự việc. Song hành theo một trong những nhân vật quan trọng của truyện, ngài Drury Lane, câu chuyện cũng mang đến cho độc giả những tình tiết đậm chất kịch với nhiều cung bậc cảm xúc thật khác nhau. Chúc bạn đọc có những giây phút thật vui vẻ và tìm thấy từ tác phẩm này nhiều chi tiết thật thú vị. *** Chín năm về trước, hai chàng trai trẻ cộng tác dưới cùng một bút danh là Ellery Queen được người đọc cùng hoàn cảnh thuyết phục đã viết nên một loạt truyện trinh thám mới. Kết quả từ công sức đáp ứng theo yêu cầu đó là sự ra đời của nhân vật ngài Drury Lane, một nghệ sĩ diễn kịch Shakespeare tuổi đã về già có năng lực trinh thám tuyệt diệu khác người. Dễ hiểu rằng loạt truyện ca ngợi những kỳ công của ngài Drury Lane không thể công khai mang tên tác giả Ellery Queen; vì nếu truyện mang tên Ellery Queen thì đã tôn vinh những kỳ công của ngài Ellery Queen. Vậy nên hai chàng bèn nghĩ ra bút danh thứ hai; và “Tấn bi kịch của X”, tác phẩm đầu tiên trong loạt truyện bốn cuốn về Drury Lane, đã làm xao động thế giới văn chương bình lặng dưới tên người viết là “Barnaby Ross”. Giờ đây, mối liên hệ giữa (các) tác giả Ellery Queen và (các) tác giả Barnaby Ross trên thực tế đã hoàn toàn biến mất. Truyện của mỗi tác giả được phát hành qua một nhà xuất bản khác nhau; quanh mỗi cái tên đều được kỳ vọng thêu dệt bao điều mập mờ và bí ẩn; ở thời kỳ mang hai bút danh ấy trong đời sống công luận, quả thực đã có một giai đoạn mà hai cái tên này đã bực dọc nhìn nhau trước nhiều bục diễn đàn đầy đố kỵ, bên nào cũng mượn sự che chắn của chiếc mặt nạ giả trang để ẩn mình kỹ lưỡng… một làm bộ điệu Ellery Queen, một ra dáng là Barnaby Ross, và cả hai đều vờ vịt một cách hùng hồn ra điều là cặp đối thủ đáng gờm trong lĩnh vực sáng tác truyện trinh thám. Những gì họ nói về nhau trước sự lắng nghe đầy tò mò của thính giả diễn thuyết, từ Maplewood, New Jersey cho đến Chicago, Illinois, dù vẫn có lời khen tặng song cũng không thiếu lời công kích, vậy là bằng sự gạt gẫm này bảo vệ lấy ảo tưởng của tính cách cá nhân thô kệch. Thế nhưng, vẫn có một manh mối tinh vi luôn tồn tại mà, một khi bị thám tử ghế bành thận trọng phát hiện, sẽ lập tức xác lập rành rành mối quan hệ giữa Ellery Queen và Barnaby Ross, và tòi ra mánh lới lừa phỉnh xấu xa mà hai kẻ này đã bày ra trước công chúng cả tin trong suốt chín năm. Vì nếu bạn đọc ghé qua Lời tựa của “Chuyện bí ẩn về chiếc nón La Mã” (tác phẩm đầu tiên của Ellery Queen viết về Ellery Queen), bạn đọc sẽ tìm thấy từ dòng mười bảy đến dòng hai mươi hai trên trang X tiết lộ đáng chú ý sau đây: “Chẳng hạn, vào thời ông dành ra bao công sức trinh thám tài tình trong vụ án mạng Barnaby Ross giờ đã xưa cũ, người ta nói rằng: ‘Richard Queen bằng kỳ công này đã xác lập vững chắc tiếng tăm của mình bên cạnh những bậc thầy trinh thám hình sự như…’” Chính từ trích đoạn ngụy tác này mà “Barnaby Ross” đến lúc cần thiết đã được chọn để tạo thành bút danh mới - cốt sao cho Barnaby Ross quả thực ra đời vào năm 1928, tại thời điểm mà Lời tựa của cuốn Queen đầu tiên ấy được viết ra, dù mãi đến năm 1931 cậu ta mới được hai ông bố của mình làm lễ rửa tội và dọn vào ngôi nhà riêng của mình. Vậy nên, giờ ta có thể nói thế này: Barnaby Ross đã, đang và mãi mãi chính là… Ellery Queen; và ngược lại. *** Đôi lời về ngài Drury Lane Chúng ta luôn giữ một cảm giác nhẹ nhàng trong lòng về gã dở hơi này. Người này, bảo là nghệ sĩ quê mùa thì chưa hẳn mà gọi là con gà gô cũng không hoàn toàn … gọi là kẻ khoác lác cũng đúng nhưng bảo là thiên tài cũng chẳng sai, và cũng là một thám tử khác thường nhất từng sống trên đời (ngoại trừ là kẻ mà sẽ là không có tên tuổi, có lẽ vậy). Giống người anh em của mình (chẳng phải họ vốn cùng sinh ra bởi hai gã thanh niên xảo quyệt ấy sao?), ngài Drury Lane có gốc gác từ trường phái suy luận - theo nhánh đặc biệt mà chú trọng đến độ quá đáng vào tính chất khách quan để thỏa mãn yêu cầu độc giả; vì thế trong “Tấn bi kịch của X”, cũng như những Tấn bi kịch tiếp theo, bạn đọc sẽ thấy mọi manh mối đều đã sẵn đó để tự mình suy đoán trước khi đi vào phần kết của câu chuyện. Vì vậy trong giây phút hồi sinh trang nghiêm này … Drury Lane muôn năm! Kính chào, Ellery Queen Thứ sáu, ngày 13 tháng 9 năm 1940, New York *** Đôi điều về NGÀI DRURY LANE CÁC TRÍCH ĐOẠN ĐƯỢC BIÊN SOẠN CHO NHÀ XUẤT BẢN DO NGÀI CHARLES GLEN TUYỂN CHỌN TỪ NHỮNG GHI CHÉP SƠ BỘ VỀ TIỂU SỬ CHƯA HOÀN CHỈNH CỦA LANE Trích từ Ai là Ai trong nghệ thuật sân khấu, ấn bản năm 1930: DRURY LANE, diễn viên; sinh tại New Orleans, La, vào ngày 3/11/1871; con trai của Richard Lane, nam diễn viên bi kịch người Mỹ và Kitty Purcell, nữ diễn viên hài kịch nhà hát ca múa nhạc người Anh; không kết hôn. Học vấn: kèm cặp tại gia. Xuất hiện trên sân khấu lần đầu: năm 7 tuổi; vai diễn quan trọng đầu tiên: năm 13 tuổi, vở “Sự mê đắm” của Kiralfy, Nhà hát Boston; lần đầu thủ vai chính: năm 23 tuổi, vở “Hamlet,” Nhà hát Daly’s, N.Y; vào năm 1909, tại Nhà hát Drury Lane, Luân Đôn; đã biểu diễn liên tục vở “Hamlet” trong khoảng thời gian dài nhất tính đến thời điểm ấy - hơn 24 lượt so với kỷ lục trước đó của Edwin Booth. Tác phẩm đã biên soạn: Tuyển tập Shakespeare, Triết lý của Hamlet, Tiếng gọi sau bức màn nhung, v.v. và v.v.. Câu lạc bộ: Players, Lambs, Century, Franklin Inn, Coffee House. Thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Hoa kỳ. Hội viên danh dự, Bắc đẩu Bội tinh Pháp quốc. Nhà riêng: Lâu đài Hamlet, nhìn ra sông Hudson, N.Y. (ga đường sắt: Lanecliff, hạt Westchester). Giải nghệ sân khấu: năm 1928. Trích từ Thế giới New York, thông cáo về việc giải nghệ sân khấu của ngài Drury Lane (1928): “… Drury Lane sinh ở New Orleans, tại hậu trường một nhà hát tăm tiếng hạng nhì, Nhà hát Comus, phải thời kỳ gia đình nhà Lane lâm cảnh túng bấn, vào lúc mà Richard ‘có quyền đi đâu, làm gì tùy ý’ còn Kitty thì phải quay lại sân khấu để trang trải cuộc sống hai vợ chồng và chuẩn bị cho đứa con sắp chào đời… Cái chết bất hạnh lúc sinh nở của bà là hậu quả của sự gắng sức quá độ trước ánh đèn sàn diễn, đứa bé… bị sinh non trong phòng thay đồ khi bà vừa diễn xong màn thứ nhất … “… thế rồi Drury Lane gần như được nuôi nấng trên sân khấu, được mang đi từ nhà hát này sang nhà hát khác bởi người cha cố gượng nuôi con, sống khốn khó qua ngày trong những ngôi nhà thuê chung rẻ tiền. Tiếng nói đầu đời của cậu bé là ngôn ngữ kịch; thay nhau chăm sóc cậu là những diễn viên; học vấn của cậu là những gì thuộc về kịch…. Chập chững biết đi cậu bé đã sắm những vai diễn nhỏ… Năm 1887, Richard Lane qua đời vì chứng viêm màng phổi, lời cuối trước khi nhắm mắt là tiếng nhắn nhủ khàn khàn dành cho đứa con trai vừa tròn mười sáu tuổi: ‘Con hãy trở thành diễn viên kịch.’ Thế nhưng, dù khát vọng của Richard dành cho con trai có lớn lao thế nào, nó cũng kém xa so với đỉnh cao mà chàng trai trẻ Drury cuối cùng đã đạt được…. “… Cái tên đặc biệt, theo như ông cho biết gần đây, là do cha mẹ chủ ý đặt cho ông, dựa vào truyền thống sân khấu vĩ đại gắn liền với Nhà hát Drury Lane lâu đời…. “… nói rằng ông phải giã biệt sân khấu do bệnh điếc ngày càng nặng ở cả hai tai - và đến nay căn bệnh đã trầm trọng đến mức ông không còn phân biệt được một cách toàn vẹn giữa các chất giọng trầm bổng khác nhau của chính mình…. “… Ngoại lệ duy nhất trong quyết định từ bỏ những vai diễn ruột thịt của ngài Lane là cả một sự việc lạ lùng. Ông nói rằng, hàng năm vào ngày 23 tháng 4, ông sẽ diễn trọn vở ‘Hamlet’ tại nhà hát riêng ở trang viên Hudson của mình. Lý do ông trân trọng chọn đúng ngày này vì, theo sự chấp nhận rộng rãi của công chúng, đó là dịp kỷ niệm ngày sinh lẫn ngày mất của Shakespeare. Một điều rất thú vị là ngài Drury Lane đã diễn vai này trên năm trăm lần, chiếm kỷ lục về buổi diễn trên khắp các quốc gia cùng chung gốc rễ về văn hóa và lịch sử Anh.” Trích từ bài báo đăng trên tạp chí Điền trang thôn quê, mô tả trang viên của ngài Drury Lane, lâu đài Hamlet: “… Trang viên được thiết kế theo truyền thống kiến trúc Elizabeth* thuần nhất, gồm một tòa thành khổng lồ, và bao quanh là cả một ngôi làng thu nhỏ dành cho những người sống và làm việc cho ngài Lane. Trong ngôi làng này, mỗi ngôi nhà là một bản sao nguyên vẹn của túp lều thời Elizabeth với kiểu mái rạ đặc trưng, đầu hồi chóp nhọn, v.v. Tất cả đều được trang bị tiện nghi hiện đại, nhưng được che đậy khéo léo để không gây xáo trộn cảm giác về một thời đại trong quá khứ…. Cảnh quan vườn tược là cả một khung cảnh tuyệt đẹp; tỷ như, những hàng rào cây xanh là do đích thân chuyên gia của ngài Lane đưa về từ các vùng nông thôn Anh quốc.” Trích từ bài phê bình của Raoul Molyneux đăng trên tạp chí La Peinture, Paris, 1927, về Bức chân dung ngài Drury Lane, tranh sơn dầu, họa sỹ Paul Révissons: “… y như lần tiếp kiến ngài trong chuyến thăm vừa qua của tôi…. Vóc dáng cao lớn mảnh dẻ, trầm lặng nhưng mang vẻ sinh động khó tả, mái tóc trắng như cước lòa xòa dài tận cổ, đôi mắt màu lục xám tinh nhanh sắc sảo, nét mặt cân đối hoàn hảo gần như cổ điển, thoạt nhìn cho ta cảm giác bất động vô hồn song lại có khả năng đổi thay đột ngột…. Ông đứng thẳng người, sừng sững như Đại đế Carolus, cánh tay phải trong chiếc áo choàng thụng màu đen quen thuộc, bàn tay phải đặt trên quả nắm cây gậy gỗ mận gai trứ danh của ông, chiếc mũ dạ màu đen tròn vành thì để trên bàn cạnh bên…. Hiệu ứng kỳ quái của bóng tối càng nổi bật vì y phục u buồn của ông … nhưng được giảm nhẹ đi bằng cảm giác thật kỳ lạ rằng, người này chỉ cần nhấc ngón tay và thế là toàn bộ phục trang của thế giới hiện đại sẽ rơi tuột xuống chân, để lại nơi ông một dáng hình rực rỡ từ quá khứ….” Trích thư của ngài Drury Lane gởi ngài Bruno, công tố viên hạt New York, ngày 5 tháng 9 năm 193-: “Xin được thứ lỗi về việc đã mạo muội xen vào phận sự của văn phòng quý ngài khi đính kèm theo đây một bài phân tích khá dài dòng, hoàn toàn tự tay tôi biên soạn, liên quan đến vấn đề nan giải của cảnh sát về việc tìm ra kẻ giết John Cramer. “Các dữ liệu phân tích của tôi hoàn toàn dựa vào những gì tôi thu thập được từ những bài báo mà thông tin đôi lúc còn chưa thỏa đáng về vụ án này. Tuy vậy, thiết nghĩ rằng khi xem qua nội dung phân tích và đáp án, ngài sẽ đồng ý cùng tôi rằng cách sắp xếp giữa các sự việc với nhau như tôi trình bày chắc chắn sẽ dẫn đến một kết luận logic duy nhất. “Mong ngài đừng xem đây chỉ là giả định từ một người luống tuổi đã về hưu. Tôi vốn đặc biệt quan tâm đến tội ác hình sự, và sẵn sàng hỗ trợ khi có yêu cầu của ngài về bất cứ vụ án nào khác mà kết luận xem ra còn vô định hoặc bất khả thi.” Điện tín đã nhận tại lâu đài Hamlet, Ngày 7 tháng 9 năm 193-: LỜI THÚ TỘI ĐÃ XÁC NHẬN ĐÁP ÁN XUẤT SẮC CỦA NGÀI VỀ VỤ ÁN CRAMER - CHẤM - LIỆU THANH TRA THUMM VÀ TÔI ĐÂY CÓ THỂ GHÉ ĐẾN SÁNG MAI LÚC MƯỜI GIỜ BA MƯƠI ĐỂ TỎ LỜI CẢM ƠN ĐỒNG THỜI THAM VẤN Ý KIẾN NGÀI VỀ VỤ ÁN MẠNG LONGSTREET. WALTER BRUNO *** NHÂN VẬT TRONG CÂU CHUYỆN • NGÀI DRURY LANE - Nghệ sĩ kịch đã giải nghệ vì mắc chứng bệnh điếc, có khả năng quan sát suy đoán tài tình. • CÔNG TỐ VIÊN HẠT WALTER BRUNO - người đồng hành cùng thanh tra Thumm trong việc phá án. • THANH TRA THUMM - chịu trách nhiệm chính điều tra các vụ án, tính khí nóng nảy. • BÁC SĨ SCHILLING - Bác sĩ pháp y rất giỏi trong công việc. • HARLEY LONGSTREET - nhà môi giới chứng khoán, nạn nhân vụ án mạng. • JOHN O. DEWITT - nhà môi giới chứng khoán, bạn hợp doanh của Harley Longstreet, nạn nhân vụ án mạng. • PHU NHÂN FERN DEWITT - vợ của John O. DeWitt, người gốc Tây Ban Nha. • TIỂU THƯ JEANNE DEWITT - con gái của John O. DeWitt. • CHRISTOPHER LORD - hôn phu của Jeanne DeWitt, đồng thời là nhân viên cấp dưới của John O. DeWitt. • FRANKLIN AHEARN - bạn của John O. DeWitt, say mê môn cờ vua và chơi rất giỏi. • CHERRY BROWNE - diễn viên, người tình của Harley Longstreet. • POLLUX - diễn viên, bạn của Cherry Browne. Mời các bạn đón đọc Tấn Bi Kịch X của tác giả Ellery Queen.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sát Thủ Tokyo - Barry Eisler
“Sát thủ Tokyo” là một tác phẩm trinh thám xuất sắc lấy bối cảnh Tokyo – Nhật Bản, nhưng tác giả Barry Eisler lại là một nhà văn người Mỹ. Đôi nét về tác giả, Barry Eisler sinh năm 1964 tại Mỹ. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Tiểu thuyết “Sát thủ Tokyo” của Barry Eisler đã đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm" . Nhân vật chính trong “Sát thủ Tokyo” là John Rain, một người mang hai dòng máu Mỹ - Nhật Bản. Là một người hoài cổ, thích nhạc Jazz, coi trọng các giá trị truyền thống Nhật Bản, song John Rain lại là một sát thủ chuyên nghiệp, làm việc cho đảng LDP, luôn khiến các nạn nhân dường như đã chết vì những nguyên nhân tự nhiên. John Rain ra tay lạnh lùng, tàn khốc nhưng không bao giờ nhận đơn hàng là phụ nữ, người vô tội hay trẻ em. Đọc đến đây ta dễ dàng nhận thấy nguồn cảm hứng để xây dựng nên hình tượng sát thủ John Rain của Barry Eisler đến từ các Samurai – Nhật Bản, những dũng sĩ văn võ toàn tài, yêu nghệ thuật và có kỹ năng chiến đấu bậc thầy. John Rain sống như một lãng khách, một samurai vô chủ, không quê hương, không gia đình, không lí tưởng, không ràng buộc. Một nhân vật đầy hấp dẫn, đầy mâu thuẫn, và đầy chất liệu để cho tác giả xây dựng lên một câu truyện tuyệt vời xung quanh anh ta. Câu truyện của John Rain bắt đầu khi anh nhận hợp đồng ám sát một chính khách người Nhật, anh đã làm việc đó một cách xuất sắc, nạn nhân đã ra đi như một tai nạn bình thường, giữa đám đông trên một chuyến tàu điện. Gã chính khách kia lẽ ra cũng chỉ là một nạn nhân bình thường giống như vô số các nạn nhân khác mà John Rain đã ra tay ám sát, và các sự kiện xảy ra tiếp theo sau cái chết của y lẽ ra sẽ chẳng liên quan gì đến anh nếu anh không chú ý và đem lòng yêu Midori một nghệ sĩ dương cầm chơi nhạc Jazz – cũng chính là con gái y. Rắc rối liên tiếp tìm đến với John Rain, không, nói chính xác thì anh tự lao đầu vào rắc rối mới đúng. Nạn nhân của anh mang theo một bí mật, một bí mật mà cả bốn lực lượng là CIA, cảnh sát Nhật Bản, Yakuza và những chính khách sừng sỏ đều thèm muốn. John Rain lao vào chính giữa vòng xoáy do cả bốn lực lượng trên tạo nên. Ai là bạn? Ai là địch? Ai là người có thể tin tưởng? Ai sẽ bán đứng anh? Anh phải dùng toàn bộ kinh nghiệm, kỹ năng từng học trong quân ngũ và trong 18 năm hành nghề sát thủ để bảo vệ bản thân và những người xung quanh mình? Những mối quan hệ đan xen phức tạp, những tình tiết lôi cuốn, dồn dập đến nghẹt thở sẽ khiến ta không thể ngừng đọc đến tận trang cuối cùng. Đánh giá nhanh tác phẩm:  - Tokyo được mô tả sống động với nhiều gam màu sáng tối đa dạng - Nhân vật hấp dẫn và đặc sắc - Các pha hành động chân thực, đặc biệt là các trường đoạn đánh đấm tay chân sử dụng võ thuật và các chiêu tất sát. - Tình tiết logic, nội dung lôi cuốn. Đến đây phải thú thật là tôi không thích thể loại trinh thám cho lắm. Hồi nhỏ tôi cũng có đọc qua vài tác phẩm trinh thám của Agatha Christie, Conan Doyle, Maurice Leblanc v.v... tuy nhiên ấn tượng của chúng với tôi không nhiều. “Sát thủ Tokyo” là cuốn sách khá đặc biệt với tôi vì cuốn sách do một học sinh lớp 11 cho tôi mượn. Cậu học sinh đó trước đây rất mê chơi game online, tuy nhiên đã nghe theo lời tôi khuyên “nên đọc sách thay vì chơi game quá nhiều”, và đây là cuốn sách đầu tiên mà cậu ta tự mua để đọc. Cậu ta đã khen hết lời cuốn sách, và cảm ơn tôi vì cậu ta chưa bao giờ nghĩ đọc sách lại hấp dẫn đến vậy “hấp dẫn hơn cả chơi LoL”. Vì vậy tôi trân trọng và đọc cuốn sách cậu ta cho mượn, cũng là để hai chúng tôi có thể trao đổi thêm với nhau về nội dung và các tình tiết truyện, và để cậu ta yêu việc đọc hơn. Thêm một lý do để tôi chia sẻ về “Sát thủ Tokyo” là hai đạo diễn Chad Stahelski và David Leitch - cũng chính là đạo diễn của John Wick – đang bấm máy dự án phim “Rain Fall” chuyển thể từ tiểu thuyết về chàng sát thủ hấp dẫn John Rain. Diễn viên Keanu Reeves (siêu sao từng đóng “Neo” của “The Matrix” và “John Wick” của phim cùng tên) sẽ đóng vai John Rain. Thật là một tin vui cho các tín đồ của điện ảnh. *** "Từ những yakuza máu lạnh Nhật Bản cho đến những đặc vụ CIA xảo quyệt, một câu chuyện hồi hộp đến nghẹt thở". *** Barry Eisler sinh năm 1964, là tác giả của nhiều tiểu thuyết trinh thám ăn khách. Sau khi tốt nghiệp ngành luật ở đại học Cornell năm 1989, ông làm việc cho CIA trong 3 năm. Tiếp đó ông sống và làm việc tại nhiều nơi ở Nhật Bản, trở thành một võ sĩ judo đai đen tại Trung tâm judo quốc tế Kodokan. Năm 2002, ông bắt đầu sự nghiệp viết văn toàn thời gian sau khi bán bản quyền tiểu thuyết đầu tay Rain Fall, cuốn đầu tiên trong series về nhân vật John Rain - đến nay đã xuất bản được 7 cuốn. Loạt truyện này của ông đã được dịch ra gần 20 thứ tiếng. Eisler từng đoạt Barry Award và Gumshoe Award cho "Tác phẩm trinh thám xuất sắc nhất năm". Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall (Sát thủ Tokyo) với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer. Eisler sống tại Menlo Park và Tokyo. *** Thích jazz, hoài cổ, coi trọng các giá trị truyền thống Nhật Bản, song John Rain lại là một sát thủ chuyên nghiệp, luôn khiến các nạn nhân dường như đã chết vì những nguyên nhân tự nhiên. John Rain ra tay lạnh lùng, tàn khốc nhưng không bao giờ nhận đơn hàng là phụ nữ, người vô tội hay trẻ em. Rain ám ảnh bởi quá khứ bị kì thị và cô lập vì bản thân là người lai Mỹ - Nhật. Tham gia chiến trường Việt Nam có thể xem là cuộc chạy trốn của Rain. Nhưng tại đây, Rain buộc phải giết một người bạn thân từ thuở nhỏ và chứng kiến vụ thảm sát dân thường tàn ác của quân đội Mỹ. Điều này khiến Rain hoang mang cảm thấy “Chúng ta không có nơi nào là nhà”. Sau khi xuất ngũ, Rain có một quãng thời gian lang thang trong các cuộc chiến dùng lính đánh thuê. Trở lại Nhật Bản, y đã phẫu thuật thẩm mỹ để có bề ngoài giống như một học giả người Nhật hơn là một tên lính lai. Tại đây, Rain làm việc cho đảng LDP Nhật Bản với tư cách là một sát thủ bí mật. Mười tám năm qua, Rain sống như một lãng khách, một samurai vô chủ, không quê hương, không gia đình, không lí tưởng, không ràng buộc. Cho đến ngày Rain gặp nữ nghệ sĩ nhạc jazz xinh đẹp và cũng là cô con gái nạn nhân gần đây nhất của y. “Tôi tự nhủ đây là nghiệp chướng, những bánh xe lớn của vũ trụ đang xoay vẫn. Đời trước tôi đã giết anh trai của bạn gái tôi. Bây giờ sau khi sát hại một người, điều tiếp theo mà tôi biết lại là tôi có quan hệ tình cảm với con gái của ông ta. Nếu chuyện này xảy ra với ai khác, tôi sẽ nghĩ nó thật nực cười.” Giữa vòng vây của CIA, cảnh sát Nhật Bản, Yakuza và cảnhững chính khách sừng sỏ muốn che giấu bê bối chính trị, John Rain sẽ làm gì để bảo vệ bản thân và những người xung quanh mình? Những mối quan hệ đan xen, những tình tiết lôi cuốn, dồn dập sẽ khiến bạn không thể ngừng đọc cuốn sách đầu tiên trong series 7 tập về sát thủ John Rain này. Với kinh nghiệm từ những ngày học luật và làm việc tại CIA, tác giả Barry Eisler đã “Khơi lại sức hấp dẫn thôi miên của dòng truyện sát thủ hành động” (James Ellroy). Tháng tư năm 2009, hãng Sony Pictures Nhật Bản đã phát hành bộ phim dựa trên tiểu thuyết Rain Fall với Shiina Kippei vào vai Rain và diễn viên gạo cội Gary Oldman vào vai đối thủ của Rain, giám đốc chi nhánh CIA William Holtzer.   Mời các bạn đón đọc Sát Thủ Tokyo của tác giả Barry Eisler.
Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án - Robert Van Gulik
Năm 680, Địch Công đã là Đại Lý Tự Khanh ở triều đình. Ông vi hành đến Quảng Châu, vùng đất cảng, nơi giao thương của dân tứ xứ (Trung Hoa, Ả Rập, Ba Tư) để điều tra vụ mất tích bí ẩn của Ngự sử Đại phu Liễu Đạo Viễn. Địch Công nghi ngờ ông ta đến đây để tìm hiểu lời đồn về âm mưu phản loạn của người Hồ. Trong quá trình điều tra, những nhân vật có liên quan mật thiết tới vụ án lần lượt bị sát hại, khiến bí ẩn càng chất chồng bí ẩn... Thực hư vụ mất tích của Ngự sử Đại phu cùng những vụ án mạng đó là gì? Liệu chúng có thực sự liên quan đến âm mưu phản loạn của người Hồ như Địch Công đã phán đoán ban đầu hay không? *** Robert Van Gulik (1910-1967) là một nhà Đông phương học uyên thâm, từng học Pháp luật và Ngôn ngữ phương Đông tại Hà Lan; năm 1935 nhận học vị tiến sĩ nhờ công trình nghiên cứu về Ấn Độ, Tây Tạng (Trung Quốc) và Viễn Đông. Những năm tiếp theo, liên tục làm công việc của một quan chức ngoại giao tại Trùng Khánh, Nam Kinh (Trung Quốc), Tôkyô (Nhật Bản) và một số nước khác; cuối đời trở thành đại sứ Hà Lan tại Nhật Bản. Ông là tác giả của hàng loạt cuốn sách nổi tiếng về văn hóa phương Đông, như “Trung Quốc cổ đại cầm học”, “Kê Khang cầm phú”, “Trung Quốc hội họa giám thưởng”, “Địch công án”, “Xuân mộng tỏa ngôn”, “Bí hí đồ khảo”, Trung Quốc cổ đại phòng nội khảo”… Celebrated Cases of Judge Dee (Địch Công Án/ Những cuộc điều tra của quan Địch) gồm 16 tập. Một loại tiểu thuyết trinh thám - công án về quan án Địch Công được xây dựng dựa trên nguyên mẫu của tể tướng Địch Nhân Kiệt (630 - 700) một nhân vật có thật sống vào đời nhà Đường thế kỷ thứ VII. Sinh tại Tĩnh Châu, phủ Thái Nguyên (Sơn Tây) Địch Nhân Kiệt đã làm quan tại các địa phương dưới các chức vụ huyện lệnh, Pháp tào Tham quân, Tuần phủ,Thứ sử. Năm 47 tuổi ông về kinh đô Trường An làm Đại lý thừa Tự khanh rồi lần lượt được thăng lên Thị ngự sử, Thị lang bộ Công, thượng Thư tả thừa, hai lần làm Trung thư lệnh (tể tướng) và đô đốc dưới quyền nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên. Phẩm chất đạo đức và tài phá án của ông đã được người đời ca tụng sủng ái đến mức như huyền thoại. Không những là người có hiểu biết về pháp luật, về tâm lý con người, Địch Công còn biết cả kiếm thuật, võ thuật lẫn chữa bệnh, một quan toà cổ đại Trung Quốc mang dáng dấp của Sherlock Holmes... Cùng với bốn hộ vệ mưu trí, dũng cảm, xả thân vì chủ như Hồng Lương, Mã Tôn, Triệu Thái và Tào Can - những giang hồ hảo hán được ông giác ngộ và cho đi theo, Địch Công đã phá được rất nhiều vụ án ly kỳ. Robert Van Gulik cũng khéo léo đưa vào bộ tiểu thuyết trinh thám này những nét văn hóa, lịch sử, phong tục của Trung Quốc.  *** Địch Công kỳ án là bộ tiểu thuyết 16 tập thuộc dòng trinh thám quan án. Nội dung tác phẩm xoay quanh nhân vật Địch Nhân Kiệt và các trợ thủ thân tín, cùng những vụ kỳ án muôn màu muôn vẻ ông đã phá giải trên hành trình thăng tiến từ một Huyện lệnh lên đến chức Tể tướng. Có thể nói, tác giả đã hội tụ và đúc kết những gì tinh hoa nhất của hai dòng trinh thám phương Đông và phương Tây vào kiệt tác Địch Công kỳ án. Bộ tiểu thuyết được viết theo phong cách đậm chất duy lý, đồng thời cũng là tác phẩm trinh thám phương Tây đầu tiên đi theo mô tuýp trinh thám quan án và mang lại sức sống mới cho dòng trinh thám đậm chất phương Đông này. Nhờ vậy mà đến tận bây giờ, Địch Công kỳ án vẫn giữ vị trí độc tôn đặc biệt, là tác phẩm thành công nhất trong dòng trinh thám quan án. Mời các bạn đón đọc Địch Công Kỳ Án Tập 16: Quảng Châu Án  của tác giả Robert van Gulik.
Theo Em Vào Bóng Đêm
Trái tim Louis Durand đã khép kín suốt mười lăm năm qua, khi vị hôn thê đột ngột qua đời một ngày trước hôn lễ. Giờ đây ở tuổi 37, anh quyết định mở nó ra một lần nữa để bắt đầu cuộc đời mới, kết hôn với Julia Russell - cô gái mà anh quen biết qua những lá thư. Và rồi, ngày ấy cũng đến, cô xuất hiện trước mặt anh, trẻ trung và xinh đẹp hơn rất nhiều so với bức hình mà anh nhận được trước đó, khiến anh ngỡ đây chính là hạnh phúc bấy lâu nay mình kiếm tìm. Anh cứ lâng lâng trong hạnh phúc mà chẳng hề hay biết cô gái trước mặt là một người mà cả trái tim và quá khứ đều chìm ngập trong bóng tối. Kể từ đó Durand đã bị cuốn vào điệu waltz quay cuồng của tình yêu và định mệnh... Khi vũ điệu bắt đầu cũng là lúc tội ác được thực thi... *** Tiết tháng Năm, nắng vàng rực, trời xanh biếc. New Orleans chính là thiên đường và nếu có thiên đường thứ hai thì cũng chỉ được như thế này mà thôi, không hơn. Tại nơi ở dành cho người độc thân trên đường St. Charles, Louis Durand đang thay quần áo. Không phải để bắt đầu ngày mới, bởi mặt trời đã lên cao và anh đã dậy từ mấy tiếng trước; mà vì một sự kiện lớn trong ngày. Hôm nay không phải một ngày bình thường, hôm nay là ngày quan trọng nhất. Một ngày chỉ đến với người đàn ông một lần, và giờ nó đã đến với anh. Dù muộn nhưng nó đã đến. Chính là ngày hôm nay. Anh không còn trẻ nữa. Bản thân anh tự bảo như vậy chứ không phải người khác bảo. Đàn ông ở tuổi anh chưa già. Nhưng với chuyện này, 37 tuổi không còn quá trẻ. Trên tường treo một cuốn lịch, bốn tờ đầu đã lật qua, phô ra tờ thứ năm. Trên cùng, ở giữa, chữ Tháng Năm nằm trang trọng. Hai bên, in nghiêng, đổ bóng, là những con số cuộn xoắn nặng nề, chỉ năm - ngày hờ hững lướt qua mắt người xem: 1880. Bên dưới, trong từng ô nhỏ, 19 chữ số đầu tiên đã bị gạch bỏ bằng bút chì. Riêng số thứ 20 được khoanh tròn bằng bút sáp đỏ. Tô đi tô lại, như thể nhấn mạnh bao nhiêu cũng không đủ. Và những con số tiếp theo trống trơn; nó thuộc về tương lai. Anh mặc chiếc sơ mi có diềm đăng ten hồ bột mà bà Alphonsine đã giặt ủi vô cùng chăm chút, mỗi diềm xếp nếp là một tác phẩm nghệ thuật. Cổ tay áo đính những chiếc cúc bằng đá thạch lựu phủ bạc. Trong chiếc khăn ascot tie mượt mà trải từ cằm anh trở xuống, nhô ra cây ghim cài theo thông lệ mà bất cứ người đàn ông ăn vận trang trọng nào cũng phải có. Trong dịp này, nó là một mảnh trăng lưỡi liềm nạm kim cương điểm ở mỗi đầu một viên hồng ngọc. Một sợi dây đeo đồng hô bằng vàng nặng nề treo nơi túi áo gi-lê bên phải của anh. Nối nó với túi áo bên trái, gồ lên một mặt đồng hồ to bản, là chuỗi những sợi vàng dày dặn, nổi bật giữa bụng anh, và chủ đích như vậy. Đàn ông không có đồng hồ bỏ túi có còn đáng mặt đàn ông? Và một chiếc đồng hồ không được nằm ở đó là thứ đồng hồ vứt đi. Bên trên áo gi-lê bó sát, chiếc sơ mi đẹp đẽ, buông chùng khiến anh trông như một chú bồ câu to diều. Nhưng dù không có nó thì lúc này đây niềm kiêu hãnh cũng đủ làm căng tràn lồng ngực anh. Trên bàn làm việc mà anh đang đứng trước để chải tóc, là gói thư từ cùng một bức ảnh chụp dương bản. Đặt lược xuống, anh tạm dừng việc soạn sửa, cầm lên, xem từng bức thư. Bức thư đầu tiên có tiêu đề Cộng đồng Bạn hữu qua thư ở St. Louis, Mo. - Nhịp cầu giữa những quý cô và quý ông tài hoa, mở đầu bằng nét chữ đàn ông bay bướm. “Thưa ngài! Theo yêu cầu của ngài, chúng tôi hân hạnh chuyển tới ngài tên tuổi và địa chỉ của một thành viên trong nhóm, nếu ngài muốn liên lạc với cô ấy, chúng tôi dám chắc rằng sự trao đổi thư từ tốt đẹp có thể được thực hiện…” Bức thư kế tiếp nét chữ còn thanh thoát hơn, lần này là nét chữ phụ nữ, “Gửi ngài Durand…” Và ký tên, “Trân trọng, cô J.Russell.” Bức thư tiếp, “Gửi anh Durand… Trân trọng, cô Julia Russell.” Bức thư tiếp theo, “Gửi Louis Durand… Người bạn của anh, Julia Russell.” Sau đó, “Louis thân mến… Bạn của anh, Julia.” Sau đó, “Louis thân mến… Người bạn Julia của anh.” Sau đó, “Louis thân yêu… Julia của anh.” Và cuối cùng. “Louis yêu dấu… Julia đang vô cùng chờ mong của anh.” Bức thư này có tái bút, “Bao giờ mới đến thứ Tư đây? Em đếm từng giờ mong được bước lên tàu!” Anh đặt chúng vào chỗ cũ, vỗ nhẹ cho cân, đầy dịu dàng trìu mến. Rồi anh đút chúng vào túi áo trong, kề sát trái tim. Bây giờ anh cầm bức ảnh nhỏ lồng khung ngắm nhìn thật lâu và chăm chú. Người trong ảnh không còn trẻ. Chắc chắn cô chưa đến nỗi già, nhưng hẳn cũng không còn là thiếu nữ. Những đường nét của cô hóp vào với sự biến đổi dần rõ nét. Cái miệng đã bắt dầu sắt lại. Đôi mắt đã xuất hiện dấu hiệu của những nếp nhăn và trũng xuống, sẽ đến trong nay mai. Da mặt đang chùng. Sống mũi đã cong và sắp trở thành hình quặp, cằm nhô về phía trước và sẽ xuất hiện cục lồi. Cô không đẹp. Nhưng có thể coi là hấp dẫn, bởi anh thấy cô hấp dẫn, mà xấu đẹp là do mắt người nhìn. Mái tóc đen của cô được búi thành hình nón sau gáy, một vạt tóc mỏng được để lại, rủ lòa xòa trước trán, theo mốt thời trang thịnh hành xưa nay. Thực ra nó đã lặng lẽ hết mốt từ lâu. Do sự hạn chế của khuôn hình mà món trang sức duy nhất góp mặt là dải ruy băng nhung đen thắt ở cổ cô, vì ngay bên dưới, bức ảnh đã kết thúc trong lớp mây nâu khói của nước ảnh. Đây chính là thỏa thuận của anh với tình yêu, vơ lấy những gì có thể trong sự vội vàng bạt mạng, bởi vì anh sợ không còn gì để mà lấy, vì đã chờ đợi quá lâu, sau khi anh đã chờ 15 năm, kiên quyết quay lung với nó. Tình yêu thuở hoa niên, mối tình đầu (mà anh đã thề là tình cuối) giờ chỉ còn là hồi ức nhạt nhòa, một cái tên trong quá khứ đã gần lãng quên. Marguerite, bây giờ anh có thể gọi tên mà không thấy xốn xang. Khô và phẳng như một bông hoa ép trong sách nhiều năm trời. Cái tên trong quá khứ của một người khác, không phải anh. Người ta nói cứ sau 7 năm chúng ta lại thay đổi hoàn toàn, không còn chút gì của con người cũ. Như vậy, anh đã hai lần trở thành một người khác xưa. Anh đã hai lần giã từ cậu thanh niên 22 tuổi -Louis Durand xưa kia, và là mối liên hệ duy nhất giữa họ - người đã gõ cửa nhà cô dâu tương lai vào buổi tối trước đám cưới, mắt long lanh, tay ôm hoa. Rồi đứng đợi mãi. Và anh thấy cửa từ từ mở ra, hai người đàn ông xuất hiện, khiêng một chiếc cáng phủ kín. “Tránh ra nào, bệnh sốt vàng da đấy.” Anh trông thấy chiếc nhẫn trên ngón tay cô ấy, kéo lê trên đường. Anh không khóc òa. Anh không thốt ra lời nào. Anh cúi xuống đặt những bông hoa mang tình yêu đôi lứa lên cái cáng chở người chết đi qua. Rồi anh quay lưng rời khỏi đó. Rời khỏi tình yêu, trong 15 năm. Marguerite. Cái tên ấy là tất cả những gì anh còn lại. Anh chung thủy với cái tên ấy cho đến lúc chết. Vì anh cũng đã chết, dù chậm hơn cô. Chàng thanh niên 22 tuổi chết đi trở thành người đàn ông 29 tuổi. Đến lượt anh ta chung thủy với cái tên mà người đi trước đã chung thủy, cho đến khi chết. Rồi người đàn ông 29 tuổi trở thành người đàn ông 36 tuổi. Và bỗng một ngày, nỗi cô đơn chồng chất suốt 15 năm, bị dồn nén, đã vỡ òa và nhấn chìm anh, khiến anh hoảng loạn tìm đường thoát. Bất cứ tình yêu nào, ở bất cứ đâu, dưới bất cứ hình thức nào. Nhanh lên, trước khi quá muộn, để không phải cô đơn thêm nữa. Khi ấy, chỉ cần anh gặp một người trong tiệm ăn… Hoặc chỉ cần anh gặp một người qua đường… Nhưng anh không gặp ai cả. Thay vào đó, mắt anh cụp xuống dõi theo mục quảng cáo trên báo. Một mục quảng cáo của St. Louis trên một tờ báo ở New Orleans. Bạn không cách nào thoát khỏi tình yêu! Những suy nghĩ trong anh chấm dứt. Tiếng bánh xe ngựa dừng ngay bên ngoài khiến anh nhét bức ảnh trong ví và cho vào túi. Anh bước ra hiên tầng hai nhìn xuống. Ánh nắng rọi trắng xóa lưng anh như bột mì khi anh vươn người, đè lên nhánh hoa giấy đỏ tươi leo quanh thành lan can. Một người đàn ông da đen từ ngoài đường đi vào sân qua một hành lang. “Làm gì mà lâu thế?” Durand hỏi vọng xuống. “Có hoa cho tôi chưa?” Câu hỏi hoàn toàn tu từ, vì anh đã thấy cái gói hình nón, phía trên những lớp giấy sáp bọc ngoài lấp ló sắc hồng. “Chắc chắn rồi ạ!” “Còn xe ngựa thì sao?” “Nó đang đợi cậu đấy!” “Tôi tưởng ông chẳng bao giờ thuê xe ngoài,” anh nói tiếp. “Ông chỉ thích…” Người đầy tớ da đen lắc đầu vẻ triết lí. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả.” “Nhanh lên, Tom,” anh nôn nóng giục giã. “Đừng đứng dưới đó cả ngày như thế.” Vẫn giữ nụ cười trêu chọc, Tom đi tiếp, khuất dạng dưới sườn nhà. Lúc sau, cửa phòng mở ra và ông bước đến sau lưng ông chủ. Anh quay lại, đến gần ông, giành lấy bó hoa, lột hết những lớp bọc ngoài, với sự vội vàng nôn nóng hơn là cẩn thận nâng niu. “Cậu định tặng cho cô ấy, hay là phá nát nó?” Ông ta hỏi mát. “Chà, tôi phải xem trước chứ, đúng không? Ông nói xem cô ấy có thích hoa hồng và hoa đậu thơm không, Tom?” Có sự tuyệt vọng trong câu hỏi cuối, giống như khi người ta đã hết cách. “Không phải tất cả phụ nữ đều vậy ư?” “Tôi không biết. Cô gái duy nhất mà tôi…,” anh không nói hết câu. “Ôi, bọn họ,” Tom nói với vẻ bao dung. “Người bán hàng nói họ sẽ thích, anh ta bảo phụ nữ đều yêu cầu loại hoa này.” Ông cẩn thận vuốt phẳng lớp giấy bọc phía trên, trả lại sự gọn gàng cho bó hoa. Trong lúc đó Durand nháo nhào thu gom quần áo còn lại, chuẩn bị lên đường. “Tôi muốn đến nhà mới trước,” anh nói, có phần hổn hển. “Cậu mới ở đó hôm qua,” Tom chỉ ra. “Hình như cậu sợ nếu xa nó một ngày thì nó sẽ bay mất ấy.” “Tôi biết, nhưng đây là lần cuối cùng tôi phải đảm bảo mọi thứ đều… ông nói với em gái ông chưa? Tôi muốn bà ấy ở đó khi chúng ta đến.” “Bà ấy sẽ ở đó.” Durand đặt tay lên nắm đấm cửa, rồi lại dừng bước, nhìn quanh, và bộ dạng hăm hở chùng hẳn. “Đây sẽ là thời khắc cuối cùng của nơi này, Tom ạ.” “Nó thật đẹp và yên bình, cậu Lou,” người đầy tớ thừa nhận. “Trong mấy năm qua, từ lúc cậu bắt đầu già đi.” Như bị tác động trước lời cảnh báo ngấm ngầm về sự trôi qua của thời gian, không khí khởi hành lại sôi động. “Ông hãy đóng gói nốt, để ý đồ của tôi đằng kia. Nhớ trả chìa khóa cho Madame Tellier trước khi đi.” Anh lại dừng lại, quả đấm cửa đã xoay, nhưng cửa vẫn chưa mở. “Sao thế, cậu Lou?” “Tôi thấy sợ. Tôi lo cô ấy…,” anh nuốt khan qua cổ áo dựng đến tai, đưa mu bàn tay thấm những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán, “… sẽ không thích tôi.” “Tôi thấy cậu rất bảnh.” “Cho đến giờ, mọi chuyện chỉ diễn ra qua thư từ. Trong thư thì dễ.” “Cậu đã gửi ảnh cho cô ấy. Cô ấy biết cậu trông như thế nào,” Tom tìm cách khích lệ. “Ảnh chỉ là ảnh. Người thật thì khác.” Tom tiến đến chỗ anh đang đứng ủ rũ chếch một bên cửa, phủi bụi sau vai áo vest cho anh. “Cậu không phải người đẹp trai nhất N’Orleans, nhưng cũng đâu phải người xấu nhất.” “Tôi không định nói đến vẻ ngoài. Tính cách của chúng tôi…” “Tuổi tác hai người hợp nhau. Cậu đã cho cô ấy biết.” “Tôi đã bớt đi một năm. Tôi đã nói mình 36 tuổi, như vậy nghe đỡ hơn.” “Cậu có thể cho cô ấy một cuộc sống thoải mái, cậu Lou.” Durand sốt sắng gật đầu, như thể đến giờ mới cảm thấy tự tin. “Cô ấy sẽ không nghèo khổ.” “Vậy thì không cần quá lo lắng nữa. Đàn ông khi yêu coi trọng ngoại hình. Còn phụ nữ khi yêu, nói vô phép cậu, họ chỉ muốn biết mình sẽ sống sung túc ra sao thôi.” Nét mặt Durand tươi tỉnh hẳn. “Cô ấy sẽ không phải chắt bóp.” Anh ngẩng cao đầu trước phát hiện mới mẻ. “Cho dù tôi không được như kỳ vọng, cô ấy cũng sẽ dần quen với tôi.” “Cậu chỉ muốn yên tâm thôi phải không?” Tom lục lọi trong người, lôi ra sợi dây cất kĩ trong ngực, treo một cái chân thỏ cũ mèm lồng trong chiếc vòng nhỏ mạ vàng. Ông đưa nó cho Durand. “Ồ, tôi không tin vào…,” Durand lúng túng từ chối. “Chúng không sai khiến được người đàn ông da trắng nói đồng ý,” Tom cười tủm tỉm. “Chúng cũng chẳng khiến cho anh ta nói điều ngược lại. Cậu cứ để nó trong túi, không hại gì đâu.” Durand áy náy cất nó đi. Anh nhìn đồng hồ, rồi đóng nắp lại. “Muộn rồi! Tôi không muốn lỡ chuyến tàu!” Lần này anh đẩy mạnh cánh cửa, bước qua ngưỡng cửa đánh dấu đời độc thân. “Cậu còn hơn nửa tiếng trước khi tàu của cô ấy hiện ra trên sông.” Nhưng Louis Durand, chú rể tương lai, chẳng chần chờ, anh chạy bổ xuống cầu thang lát đá bên ngoài ngôi nhà của Madame Tellier với dáng vẻ tất tả. Lát sau từ cửa sổ dưới sân vọng lên những tiếng rầm rập. Tom sải bước ra ngoài hiên tầng hai. “Mũ của tôi! Ném nó xuống đây.” Durand nôn nóng nhảy lên nhảy xuống. Tom ném nó xuống rồi đi vào. Một giây sau, tiếng rầm rập lại vang lên, còn bức thiết hơn. “Gậy của tôi nữa!” Nó rơi xuống, được bắt lấy khéo léo giữa không trung. Một làn bụi nhỏ nhuộm nắng vẩn lên từ những phiến đá lát không được sạch lắm của Madame Tellier. Tom quay đi, lắc đầu chịu thua. “Đàn ông đang yêu lúc nào cũng hối hả, chắc chắn rồi!” Mời bạn đón đọc Theo Em Vào Bóng Đêm của tác giả Cornell Woolrich & Nguyễn Thị Hạnh (dịch).