Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bẫy-22

Trên một hòn đảo ngoài khơi nước Ý thời Thế chiến II có một liên đoàn không quân Mỹ. Một trong số lãnh đạo của họ là đại tá Cathcart, kẻ khao khát muốn gây ấn tượng với cấp trên bằng cách ép lính đi ném bom mỗi lúc một nhiều hơn. Nhân vật chính của chúng ta, Yossarian, mỗi lần đủ chỉ tiêu giải nhiệm thì lại phải đối mặt với chỉ tiêu mới. Trước sự chết chóc kinh hoàng của cuộc đại chiến, tất cả những gì y mong muốn là toàn mạng trở về. Nhưng mỗi khi chỉ tiêu ra trận tăng lên, xác suất sống sót của y lại giảm xuống. Y không có cách nào thoát ra, bởi ở đó có một cái bẫy. Bẫy-22. Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng. Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên. *** Catch-22 là một cuốn tiểu thuyết chiến tranh hài hước rất nổi tiếng, luôn được xếp hạng top trong các danh sách “Những tiểu thuyết hay nhất …….”. Bản thân tác giả cũng đã từng nhập ngũ và phục vụ trong Liên đoàn không quân Mỹ trong thời kì Thế chiến thứ 2 khi mới 19 tuổi. Sau đó hai năm ông được điều đến phục vụ ở chiến trường Ý, nơi mà ông đã thực hiện 60 nhiệm vụ bay như một lính cắt bom của máy bay B-25. Đây cũng là bối cảnh thời gian và không gian chính của tác phẩm. Và nhân vật chính, John Yossarian, cũng là người cắt bom. Catch-22 là một tiêu đề rất khó dịch sang các ngôn ngữ khác. Sau khi tác phẩm này được xuất bản, Catch-22 trở thành một khái niệm mới, được bổ sung vào kho từ vựng tiếng Anh. Với ý nghĩa châm biếm hài hước, Catch-22 trở thành một khái niệm chỉ tình thế lưỡng sự (double bind), trong đó, hai sự việc có bản chất đối nghịch cùng xuất hiện một lúc. Người nào gặp phải tình trạng Catch-22 thường rơi vào cảnh huống tiến thoái lưỡng nan. Ban đầu Joseph Heller đặt tên tác phẩm là Catch-18. Nhưng để tránh trùng tên với những tác phẩm khác, gồm cả phim và sách, tác giả, lúc đó vẫn là một tay viết non trẻ và không tiếng tăm, đã phải lựa những cái tên khác như 14, 11, 20. Sau vài lần thay đổi, bỗng nhiên con số 22 xuất hiện, và sau 2 tuần được thuyết phục, Heller cuối cùng đã đồng ý vì : “22 nghe hay hơn 14”. Cũng thật trùng hợp khi số 2 cũng được cho là con số đại diện cho hiệu ứng Déjà vu, thứ được lặp lại và nhắc lại rất nhiều lần trong sách. Sau khi xuất bản vào năm 1961, Catch-22 trở nên rất phổ biến trong giới thanh thiếu niên vào thời điểm đó. Mặc dù cuốn sách viết về thời kì Thế chiến thứ 2, nhưng với bối cảnh lịch sử lúc đó, Catch-22 dường như thể hiện những cảm xúc mà những người trẻ đã có đối với những điều phi lý của cuộc chiến tranh Việt Nam. Cũng phải dành lời khen và cảm ơn cho dịch giả Lạc Khánh Nguyễn vì những ngôn từ phong phú mà dịch giả đã sử dụng. Tuy chưa được đối chiếu với bản gốc nhưng mình nghĩ tác phẩm đã được truyền tải một cách xuất sắc tuyệt vời. Ngay sau khi đọc xong mình đã phải lên mạng tìm thông tin về người dịch nhưng rốt cuộc không tìm được gì. Ngay từ trang đầu tiên, chính xác là đoạn có chữ ở một nửa trang đầu tiên, Bẫy-22 đã khiến mình liên tưởng đến Biên niên ký chim vặn dây cót. Mùi tài năng ngửi thấy được trên trang giấy và cái cách tác giả đột ngột kéo người đọc vào thế giới riêng của mình. Nếu như ở Biên niên ký là một cái gì đó xa lạ, phức tạp và vô định, thì Bẫy-22 lập tức kéo người đọc đến sự điên rồ : “ĐÓ LÀ TÌNH YÊU TỪ CÁI NHÌN ĐẦU TIÊN. Ngay từ lần đầu gặp mặt Yossarian đã say mê cha tuyên úy đến rồ dại.” Mình thì không kì thị người đồng tính, nhưng đã phải tự hỏi “Đây thực sự là cách người ta bắt đầu một tác phẩm à?”. Ngay từ phút đầu tiên tác giả đã không cho người đọc có cơ hội phản kháng và chuẩn bị, và mọi thứ tiếp theo đó thậm chí còn điên khùng hơn nữa. Và còn hài hước hơn nữa. Sự hài hước và châm biếm lớn nhất có lẽ chính là giọng văn tỉnh queo tưởng chừng như vô cảm của tác giả. Những câu văn dài nhiều vế ngồn ngộn những liên từ đa dạng trải ra liên tục những nghịch lý lặp đi lặp lại không ngớt khiến người đọc tự hỏi hay là tác giả điên mẹ nó rồi. Cách triển khai cốt truyện khá sáng tạo nhưng có thể là điểm trừ với những độc giả thích những món dễ ăn. Thực sự thì sẽ có nhiều người thấy cuốn sách này rất khó đọc. Các sự kiện hiếm khi được trình bày trọn vẹn 1 cách liên tục, mà dần được làm sáng tỏ qua các góc nhìn khác nhau và được nhắc đến hoàn toàn ngẫu nhiên. Người đọc sẽ phải tự mình liên tưởng và sắp xếp các mảnh ghép để có được cái nhìn trọn vẹn nhất về những sự kiện được nhắc đến. Viết về việc này, thì phần tóm tắt ở bìa sau cuốn sách, theo mình là, đã diễn tả lại hoàn hảo, không thể hay hơn được nữa : “Thứ logic vừa giản dị vừa điên rồ của Bẫy-22 chi phối suốt ngót 600 trang sách với hàng chục nhân vật, qua chiến trường qua đạn bom, qua bệnh viện quân y và nhà bếp hậu cần, qua tướng lĩnh và lính tráng, qua cả những số phận tan nát và những kẻ trục lợi từ chiến tranh. Sự điên rồ chảy qua mọi đối thoại, sự ngớ ngẩn thấm đẫm mọi nhân vật, cho tới tận cú nhảy kết cục cuối cùng…..” Chủ đề về chiến tranh nhưng những cảnh chiến đấu chỉ được thả lõm bõm trong một vài chương, và không hề có một cảnh nào miêu tả chân dung kẻ thù, những tên lính Đức quốc xã, theo đúng nghĩa đen. Tuy ít, nhưng những phân đoạn đó chính là giọt tinh dầu tỏa hương, là điểm sáng dẫn đường giúp người đọc xâu chuỗi được cả một tuồng những mảnh ghép rối rắm lộn xộn để có thể nhìn được trọn vẹn những sự kiện trong truyện. Những đoạn mô tả diễn biến tâm lý sống động và chân thực tuyệt vời, đa dạng và uyển chuyển, trần trụi và khô queo nhưng vẫn đầy cảm xúc. Từng nhân vật được xây dựng và đặc tả xuất sắc, ấn tượng và đáng nhớ. Nhờ đó ta có những chân dung sống động trên trang giấy. Mỗi nhân vật đều mang tính đại diện và có chiều sâu. Trải qua 600 trang giấy rồi gập sách lại, ta không thể chỉ đơn giản là chỉ nhớ tới nhân vật chính mà quên họ đi một cách dễ dàng được. Họ vốn chỉ là những hình ảnh đại diện cho những cảm xúc rất đời thường : sợ chết, sợ không được chết đúng kiểu, sợ bị lãng quên, sợ không bị lãng quên, sợ bị thất bại, sợ không được thất bại, sợ bị xa lánh, sợ bị ghét bỏ…..Chỉ có điều những cảm xúc này đã được điểu chỉnh đến mức tối đa, và cái gì quá thì cũng hóa “điên”. Nhưng nhờ thế, các nhân vật điên một cách rất thuần khiết : họ đơn giản chỉ là quá tham lam, quá hèn nhát, quá sợ hãi, quá háo danh, quá lập dị….Đơn giản là thế. Chúng ta có 2 vị Thiếu tướng tính cách hoàn toàn trái ngược nhau luôn đấu đá quyền lực. Có 1 vị đại tá hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng, và dĩ nhiên không thể thiếu được tính cách đặc trưng cho những kẻ hám quyền và háo danh đến độ ám ảnh và mù quáng trong một tác phẩm châm biếm : đần độn và bất tài. Rồi còn có thêm 1 sĩ quan hậu cần, người mà thực chất có quyền lực vô biên thậm chí có thể tác động đến và điều chỉnh cuộc chiến. Và còn rất nhiều nhân vật đặc sắc khác nữa. Nhưng dù là nhân vật nào, thì ngoài những nét rất riêng, tất cả bọn họ đều có một nét tương đồng đến đáng ngạc nhiên : Không ai trong số họ nghĩ mình bị điên và cùng lúc họ nghĩ những người khác điên mẹ nó hết rồi. Nhưng thậm chí ngay cả những nhân vật “ngầm”, những người chưa bao giờ được nhắc đến cũng bị điên mẹ nó rồi. Làm thế nào mà một anh lính trơn chỉ qua một đêm đã được thăng lên tận hàm Thiếu tá? Ồ, đơn giản là vì anh ta có một cái tên quá độc đáo thể hiện sự hài hước vô bờ của người cha của anh. Xin bật mí cho các bạn nhân vật đó chính là Thiếu tá Major Major Major. Hẳn những nhân vật chóp bu quyền lực của quân đội Mỹ đã nghĩ rằng có một Thiếu tá tên là Major Major Major thì sẽ giúp họ thắng được cuộc chiến, hoặc đơn giản là vì họ thấy nó vui vãi chầy. (Thiếu tá trong tiếng Anh nghĩa là Major) Và thậm chí có một “trò đùa” nữa đã được gài gắm trước tận 200 trang, để rồi bung nở ra và “kết thúc” cuộc đời của một nhân vật. Phần còn lại của lời bạt trên bìa sau một lần nữa lại hoàn thành xuất sắc vai trò của mình : “…..Bộ mặt của chiến tranh hiện ra khủng khiếp trong sự nực cười, phi lý. Bẫy-22 hài hước một cách trần trụi, một cách dữ dội, một cách cay đắng, một cách man rợ, nhưng những ai có thể chịu đựng được nó thì hẳn sẽ không thể nào lãng quên.” Suốt nửa đầu cuốn sách, gần như trang nào cũng khiến mình cười nắc nẻ không ngớt.Nhưng qua đến nửa sau, những lời đả kích và châm biếm đột ngột rẽ theo hướng khác chỉ trong một chương. Sự điên rồ và hệ quả của nó đã tới. Các bạn sẽ được giới thiệu tới 1 cái tên, mà có lẽ với nhiều người là lần đầu tiên được nghe thấy, xanh đi ca (Syndicate) và độ bao phủ rộng lớn không tưởng của nó. Bạn sẽ nhận thấy rằng, thực chất chiến tranh cũng chỉ là một thương vụ làm ăn lớn, một cuộc đầu tư cỡ bự của một nhóm nhỏ những nhà tài phiệt, những chủ nhân đích thực của nước Mỹ. Những kẻ chi phối mọi thứ, thao túng chính trị, điều tiết cung cầu, dựng lên những mạng lưới kinh doanh khổng lồ bám rễ khắp nơi. Những chính trị gia chỉ là những con rối trong tay họ, và truyền thông chính là công cụ đắc lực nhất để tẩy não người dân như một con chó săn dẫn dắt đàn cừu. Tác giả còn không ngần ngại ném vào độc giả những tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những thứ quá phi lý tới mức nó trở thành hợp lý, hợp lý trong một thực tế đang diễn ra chính xác như những gì trong cuốn sách : tàn bạo, bất công và vô nhân đạo. Những giá trị nhân văn và đạo đức làm người bị bóp méo đến teo tóp vặn vẹo. Những câu hỏi day dứt và ám ảnh cùng với một chuỗi dài những đau đớn và thống khổ, những oan ức và trái ngang như một thỏi nam châm nặng nề kéo chùng cục sắt ám ảnh trong tâm trí người đọc khiến họ không sao dứt mắt ra được. Chiến tranh thì điên rồ, nhưng con người mới là thứ điên loạn nhất. Điều kinh khủng nhất xảy ra khi người ta không hiểu lẫn nhau, họ sẽ không thể có cái nhìn thấu cảm và lòng trắc ẩn. Sự thờ ơ đôi khi là tội ác. Và do vậy, điều tuyệt vời nhất cũng là khi người với người hiểu được lẫn nhau, biết đồng cảm và vị tha. Sau tất cả, vẫn luôn có những điều tốt đẹp đáng để ta chiến đấu, mà thứ trước nhất đó chính là quyền được sống, được tự chủ của mỗi con người. Cảm ơn tác giả vì sau những đằng đẵng điên cuồng mà ông đưa ra, mình vẫn cảm thấy rất bất ngờ và hài lòng với cái kết. Tuyệt vời. Bẫy-22 hấp dẫn đến độ trong quá trình đọc, mình đã phải đột nhiên tạm dừng rất nhiều lần để soạn cho xong một câu cảm nhận vừa lóe lên trong đầu. Đây là kiểu sách mà, ngay khi đọc xong, bạn muốn lập tức chia sẻ cảm xúc của mình với ai đó. Thực ra, khi ấy cái cảm xúc đó không phải là vấn đề chính, mà quan trọng là ai đó kìa. Mỗi một suy nghĩ của chúng ta lúc đó là một thông điệp, là một lá thư một chiều không có hồi âm gửi đến chính ta ở tương lai. Một cuốn sách hay là khi đọc xong nó, ta để lại một phần của chính mình lại và dùng một phần của nó để tạo lên chính ta, của tương lai. Không hẳn đọc sách là chỉ để hiểu được điều tác giả muốn truyền đạt, mà mỗi cuốn sách chính là một lời truyền đạt của ta đến chính mình. Tại sao lại là cuốn sách này? Tại sao bạn chọn nó? Tại sao bạn đọc nó? Không hiểu sao, đọc một tác phẩm về chiến tranh, mình bỗng nhớ đến, hay “nhận được”, “lá thư” mà mình ở trong quá khứ đã gửi : “Tình yêu, đôi khi với một số người, giống như những lá thư thất lạc mà mãi tận 10 năm sau mới đến được tay người nhận….” Vậy, nếu như bạn sẽ đọc Bẫy-22, hoặc bất kỳ cuốn sách hay nào khác, sau khi đọc xong, hãy tự hỏi mình : Bạn muốn gửi gắm điều gì cho chính mình ở tương lai? Người review: Giao Bùi *** “Bất cứ ai muốn ngừng ra trận đều không thực sự điên.” Bẫy-22, của Joseph Heller, hoàn toàn không phải là một cuốn tiểu thuyết thành công… “Theo chuẩn mực thông thường thôi nó chẳng bén mảng được tới cái gọi là hay.”[1]Bài điểm cuốn Bẫy-22 đăng trên New York Times bắt đầu như vậy, dẫu tác giả của nó sau đó phải công nhận đây là một tác phẩm kỳ lạ bậc nhất. Kỳ lạ là một từ nói giảm nói tránh, với hệ thống nhân vật dày đặc, với các sự kiện sắp xếp không theo trật tự tuyến tính, với chất hài hước đen kịt và bạo lực đầy rẫy, với sự phi lý lấp đầy mọi đối thoại và cảnh huống, Bẫy-22 là một cuốn tiểu thuyết lớn, còn hơn cả vĩ đại, nó là một đại danh tác, không chỉ về Đại chiến thế giới thứ 2, không chỉ về chiến tranh, mà là về con người, và hành vi con người.   “Đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên. Ngay lần đầu gặp mặt Yossarian đã si mê cha tuyên úy đến rồ dại”: như mọi câu đầu trong tác phẩm của Heller, câu đầu của Bẫy-22 mò đến với tác giả, trọn vẹn, và chỉ trong vòng một tiếng rưỡi, gần như toàn bộ câu chuyện đã nằm trong đầu ông, với tuyến nhân vật, tình tiết, dẫu cái tên Yossarian thì chưa xuất hiện. Ấy vậy mà, khởi thảo viết từ 1953, đến 8 năm sau, Heller mới xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay, và để luôn ở đời một Bẫy-22.   Bẫy-22 bắt đầu một cách không thông thường như vậy, ở giữa bệnh viện, ở giữa cái gọi là trật tự thời gian truyện kể, ở giữa mọi tuyệt vọng và nỗ lực quẫn bách của Yossarian để sống sót. Bẫy-22, với tâm điểm là nhân vật đại úy John Yossarian, kể về một liên đoàn không quân Mỹ trong Thế chiến thứ 2, đóng quân trên đảo Pianosa ngoài khơi của Ý. Thay vì phải bay một số lần nhất định, những chuyến bay thả bom xuống quân địch, đến khi hoàn thành thì được giải ngũ, nếu vẫn còn tính mạng, lính của liên đoàn dưới sự lãnh đạo của đại tá Cathcart, liên tục bị nâng số chuyến bay, từ 25, lên 30, 35, 40, 45, 50, 55, 60, 65, 70, 80. Hậu quả đi liền, đầy nghiêm trọng, của việc tăng số lần bay để gây ấn tượng với cấp trên, để có những tấm ảnh chụp từ trên cao xuống mặt đất cảnh bom nổ tan tác thật đẹp, chính là những người lính đó, dần nướng sống chính mình.   Trong cái cảnh huống tưởng chừng bị coi là điên rồ thuần túy ấy, có ai nhận ra rằng đây là trò điên của một kẻ điên, lợi dụng cái gọi là lòng yêu nước, cái gọi là sự trung thành, để tận diệt chính hạ cấp của mình hay không? Người đọc rơi ngay vào một thảm cảnh: một trại điên tập thể. Như chính người kể chuyện tường thuật bằng một giọng tỉnh bơ, “Khắp nơi trên thế giới, các gã trai ở cả hai bên chiến tuyến đang ngã xuống cho thứ mà người ta bảo họ là tổ quốc, và dường như chẳng ai thèm bận tâm, ít nhất là chẳng ai trong số những gã trai đang ngã xuống ấy.”   Bẫy-22 là một trại điên vui nhộn nơi không ai tự nhận mình điên và tất cả đều nghĩ người khác điên và lần lượt các nhân vật đều bị các nhân vật khác gọi là điên, mà trùm cuối của điên chính là Yossarian. Với 228 từ điên, với nhân vật liên tục kết cho nhau là điên, nào “các anh điên rồi,” “bọn họ toàn những kẻ điên,” nào “bệnh điên rất dễ lây lan,” nào “Clevinger nghĩ Yossarian điên,” “McWatt bị điên,” “Nately cũng điên không kém,” “Orr cũng là một trong mấy gã điên,” “Hungry Joe bị điên,” “Dubar bị điên,” “thượng sĩ White Halfoat nghĩ bác sĩ Daneeka bị điên.” Họ lần lượt vu cho nhau điên, thuyết phục nhau rằng mày điên, tao không điên. Nhưng họ vẫn lần lượt bay, hoàn thành 25 chuyến, bị đẩy lên 30, bay luôn 30 chuyến, đẩy lên 40, bay 40 chuyến. Một sự phục tùng không phản đối bí hiểm đến khó hiểu.   Vậy vấn đề nằm ở đâu, khi không ai nhận ra mình cần phải thoát khỏi những mệnh lệnh quái quỷ đó, phải thoát khỏi hệ thống quan liêu áp đặt đó, giữa ngần ấy điên khùng và chết chóc? Đó chính là thứ mà Heller chỉ ra trong cái tình huống tắc tị này, nơi Yossarian và đồng đội của mình bị kẹt cứng trong cái gọi là Bẫy-22. Nếu anh bị điên thì anh có thể được nghỉ bay, chỉ cần anh đưa ra yêu cầu, và chính thời điểm anh đưa ra yêu cầu được nghỉ bay thì chính là lúc anh cho thấy rằng mình không bị điên và tiếp tục phải ra trận. Trong cái bộ luật quân sự quan liêu ấy, không có chỗ tồn tại cho sự bảo vệ an toàn của bản thân. Heller đã trải qua rất nhiều cái tên, Bẫy-11, Bẫy 18, Bẫy-14, để rồi đậu lại ở Bẫy-22: một cái tên vô nghĩa, đầy tính chất võ đoán, phi logic. Yossarian là người duy nhất cố gắng thoát ra khỏi hệ thống, anh càng nỗ lực ra khỏi hệ thống thì càng bị cho là kẻ điên, nhưng chỉ có thoát khỏi hệ thống, anh mới bảo toàn được tính mạng của mình.   Bẫy-22 chính vì thế là một trò đùa dai đầy chết chóc và phi lý, với một loạt nhân vật sắc nét, điên rồ, với những đối thoại luẩn quẩn, phi logic mà lại đầy có lý. Bẫy-22 là một cú tấn công vào sự quan liêu, vào bộ máy thiết chế, vào những phi lý thường trực trong chiến tranh cũng như trong đời sống con người. Ở một khía cạnh nào đó, việc nâng số lần bay lên ở Bẫy-22 mang đầy không khí thần thoại. Nó khắc họa thật tỉ mỉ sự quẫn bách của Yossarian, khi gần đạt tới được số lần bay quy định để được về nhà, thì lại ngay lập tức bị lưu đày tiếp tục. Nó như một công cuộc đẩy hòn đá lên đỉnh núi của Sisyphus. Yossarian và đồng đội y hệt như vị vua Tantalus bị các vị thần trừng phạt bằng cách cho đứng ở một hồ nước ngập đến cằm nhưng mỗi lần khát định uống thì nước rút đi, trên đầu là hoa quả trĩu cành mỗi lần đói định ăn thì mọi thứ biến mất. Nó là một trạng thái trêu ngươi kéo dài, là một sự trừng phạt không lối thoát, mà trong quá trình trừng phạt đó, hẳn nhiên là tan xác trong lúc bay ra trận. Yossarian không chịu đợi tới chuông nguyện hồn mình, như Groden, McWatt, Nately, Clevinger…   Trong thời gian ngắn ngủi từ đầu 1944 đến cuối năm, 12 tháng, Yossarian lần lượt tìm mọi cách để chống trả lại thiết chế, bằng cách trốn vào bệnh viện, giả đau gan, giả vàng da, trần truồng từ chối không chịu bay, cầu xin được tuyên bố là điên nhưng chính vào lúc cầu xin là lúc cho thấy anh tỉnh táo hơn hết thảy và ngay lập tức phải bay tiếp. Dẫu có trốn đi Rome, có yêu gái điếm, có lạy bốn phương giời, lạy mười phương phật, thì cái thiết chế phải bay ấy, Yossarian cũng không thoát nổi. Chính vì thế, có thể nói Bẫy-22 là một tiểu thuyết trào lộng về cảnh huống bi kịch đầy những nan đề của con người. Trong một bài trả lời lại một tấn công vào cuốn tiểu thuyết của mình, Heller tuyên bố, khi nhà phê bình chê Bẫy-22 dám chế giễu chiến tranh: Thực tế thì chuyện “chế giễu” chiến tranh là việc bất khả, cũng giống như không thể nào chế giễu mùa đông hay cơn đói. Tôi rất xấu hổ phải chỉ ra rằng đối tượng của chế giễu, trong gần như mọi tiểu thuyết và kịch, theo lẽ thường là con người và hành vi con người, và một trong những ý tưởng mà tôi muốn phát triển là hành vi của một số người và nhóm xã hội nhất định trong thời bình chẳng khác gì với hành vi của cũng những con người và nhóm xã hội đó trong thời chiến.[2] Với hàng loạt đối thoại như thể lệch kênh giao tiếp, với các sự kiện và chết chóc trùng trùng điệp điệp xáo xào trộn lẫn vào nhau, với một hệ thống các nhân vật với những câu nói và đặc điểm riêng được nhào nặn cực đặc biệt, Bẫy-22 tạo ra một thế giới bi đát mà đẫm hài hước, nơi điên loạn ngự trị, nơi một cá nhân, bằng những nỗ lực phi thường, liên tục tấn công vào hệ thống và các thiết chế, bởi chúng chính là một sự đè ép đến ngạt thở cái gọi là lương thức thông thường. Zét Nguyễn Mời các bạn đón đọc Bẫy-22 của tác giả Joseph Heller.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Sông Xa
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính cho, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năngvà phong cách của mình. Trong số đó thì Sông xa cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc Sống xa là dòng hồi tưởng kể về số phận xót xa của những người lính đã anh dũng chiến đấu trong thời chiến. Câu chuyện có nhiều tình tiết bất ngờ, lôi cuốn và có cái nhìn hiện thực mới lạ: trong người tốt vẫn có những phần ích kỷ và trong người xấu vẫn có những phần rất nhân văn... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Đã lâu lắm chúng tôi mới có dịp ngồi lại với nhau như thế này. Chúng tôi là những người lính, hay đúng hơn là năm thằng cựu chiến binh may mắn còn sống sót trong cả đội hình một trung đoàn vượt Trường Sơn năm xưa. Hòa bình được mười năm rồi, bây giờ ngồi nhìn nhau cứ thấy buồn buồn.Cuộc đời trôi nhanh quá! Cuộc chiến cũng lùi về quên lãng với tốc độ không chậm. Mới đó mà đầu tóc đã có sợi bạc, sợi đen, đã đùm đề vợ con, đã bị cái khó của đời thường làm cho đạo mạo, làm cho nói năng trễ nải đi nhiều. Đứa nào cũng đã bước qua vạch tuổi 40 rồi. Thằng làm giám đốc, thằng làm thày giáo, thằng làm ngoại giao và có cả thằng mất sức sớm, về nhà kỳ cạch ngồi sửa xe máy cho thiên hạ kiếm sống. Tất nhiên có cả thằng đến nay vẫ còn đeo đuổi binh nghiệp mà đôi quân hàm cũng rất khiên tốn nếu đem so với những gì cậu ta đã trải qua, đã cống hiến. Thế mà đã có một thời cả năm đứa chỉ làm độc một nghề, nghĩ cùng một hướng, mang trên mặt cùng một màu da sốt rét và chỉ duy nhất một niềm hy vọng mỏng manh: còn sống mà trở về. Có lẽ khác với một số đông người khác, họ không thích nhắc lại quá khứ, không thích kể lại những tháng ngày gian khổ đã qua với một lý do nghe chừng có vẻ biện chứng: cái gì qua cho nó qua, nhớ lại làm gì, cho nhọc lòng, cuộc sống đã chẳng quá nhọc nhằn rồi sao! Đành là thế nhưng chúng tôi cứ thích tạo một thứ thành lũy cho cảm hứng hoài cổ thánh thiện của mình. Lâu lâu tụ bạn bè, chúng tôi vẫn cứ thích lôi chuyện cũ ra kể, kể chân thành, kể say sưa mà có lẽ chẳng có đề tài nào có khác khiến chúng tôi có thể đạt được độ nhiệt tâm cao như thế. Rất đơn giản: bởi lẽ chúng tôi chỉ còn lại năm người trong đội hình trai trẻ một ngàn năm trăm người; bởi lẽ, người lính không nhớ lại chuỗi ngày làm lính của mình thì còn nhớ cái gì khác nữa, và cuối cùng cũng có thể vì, bây giờ tuy mỗi đứa một hoàn cảnh, một số phận khác nhau nhưng đều ý thức rất rõ rằng: đoạn đời ở rừng cầm cây súng chắc chắn sẽ là đoạn đời đẹp nhất. Điều này được thể hiện mạnh đến nỗi, anh bạn trung đội phó công binh ngồi cạnh tôi, nay là giám đốc hay tổng giám đốc gì đó của một xí nghiệp lớn ở phía Nam, phải chân thành thốt lên: - Chao! Giá mà được sống lại một ngày của cái thời ấy....Một cái bồng, một cái võng, một khẩu súng. Tất cả chỉ có thế, bước nhẹ tênh trong cuộc đời, chẳng bận bịu, chẳng lo toan và ngay cả cái chết cũng không làm lòng bớt thanh thản... Tất nhiên đó là nghĩ ngợi của riêng cậu ấy nhưng dù sao, câu nói không đượm chút giả tạo đó đã dồn đuổi đầu óc tất cả chúng tôi cùng trôi ngược về phía sau, nơi thấp thoáng những cánh rừng ẩm thấp và những đồng bưng nhòe nhoẹt ánh hỏa châu kẻ thù... - Buồn cười nhỉ! Khi oánh nhau, bọn mình có nghĩ ngợi xa xôi gì lắm đâu mà bây giờ ngồi ngẫm lại cứ bật ra đủ thứ này nọ. Thì ra người ta nói đúng: chiến tranh ít triết lý nhất nhưng chiến tranh cũng chứa đựng nhiều triết lý nhất. Người bạn nhà giáo, vốn trước đây làm đại đội trưởng bộ binh ở một vùng rất ác liệt mào đầu với cái giọng khá khúc triết. Chúng tôi gật đầu. Nghe đâu anh bạn này gần đây có viết một vài lý luận về văn học chiến tranh sang tiếng Việt được dư luận chú ý. Trong những buổi gặp gỡ, cậu ta bao giờ cũng tìm được những câu nói thú vị để đưa đà cho một đêm tâm tình cựu chiến binh như vậy. Và để đối lập với khẩu khí thâm trầm ấy, bao giờ cũng vẫn là giọng nói bỗ bã của Tịnh, anh bạn chữa xe máy kiêm bán rượu chui ở một thị trấn buồn tênh ngoại thành Hà Nội. Tịnh vẫn giữ được cái phong độ ngang ngang, hơi bề trên của một người tiểu đoàn trưởng hào hoa và can đảm mười lăm năm về trước, khi ấy anh là thủ trưởng của tất cả bọn chúng tôi, một thủ trưởng nghiêm khắc và khó gần. Tịnh lôi từ túi áo lông ra một chai lít đựng thứ nước đùng đục: - Mỗi đứa uống một ly rồi hẵng triết lý các chú! Rượu chính tay tao cất đấy. Toàn nếp thôi. Nếp cũng do chính tay tao trồng. Chôn xuống chân giường hai năm nay, giờ mới moi lên để nhậu lai rai với các chiến hữu. Rót đi! Để một phút nhớ lại ba cái xị đế trước kia. Đế đắng bỏ mẹ, nhạt phèo, lại chỉ toàn uống với lá giang, lá lộc vừng khé cổ nhưng zô hết sức. Nào, nâng ly! Nâng ly mừng cho những thằng còn sống và mừng cho những thằng đã chết. - Chết mà mừng gì anh Hai? – Tôi rụt rè đế vào. - Xét đến cùng là mừng. Còn sống, giờ này cũng cực lắm. Chết khỏe re. Tao nghiệm ra, thằng người đã chót có một thời trần thân trận mạc rồi thì sống đời thường nó cứ thế nào ấy. Vướng víu, ngứa ngáy và nặng đầu bỏ mẹ. Các chú thấy sao? Có lẽ ở đây không ai mếch lòng với lối xưng hô suồng sã của Tịnh, một anh bán hàng nước ở ngã tư đường, kể cả Hoàng, anh viên chức cao cấp đã đáp máy bay ra chỉ để gặp nhau tối nay. Tịnh cứ phải thế mới là Tịnh, tối nay chúng tôi dừng sống khác đi mới đúng là chúng tôi. Rượu uống vào cứ như không nhưng uống đến đâu, người nóng phừng phừng đến đó tưởng như tất cả tế bào thân thể muốn giãn ra, nở bung trong sự giao cảm tột cùng với những vùng sâu thẳm nhất của thần kinh tâm lý. Chúng tôi nói đến đủ thứ chuyện, ôn lại vài kỷ niệm, dăm ba trận đánh, nhắc nhở đến mấy thằng bạn chết vì B52, vì biệt kích Mỹ phục giữa rừng; đến thời tiết khí hậu của một vùng sông, một vùng đất; đến vị đắng của mìn Klêmo, vị ngọt của măng tầm vông, của trái khổ qua nhấm nháp trong đêm chờ vượt lộ...Nói đến nhiều lắm. Có chuyện hình như đã nói rồi, hôm nay nói lại vẫn thật mới, thật bồi hồi. Người này nói nhiều, người kia nói ít, có người không nói chỉ ngồi nghe. Nói bằng đủ thứ giọng. Giọng trầm lắng có, giọng sôi nổi có, lại có cả những câu văng tục đốp chát mà nghe vẫn cứ thấy đó là câu chuyện, là tâm tư của mình. Nhà ngoại giao hôm nay nói lại mười lăm lần hút chết hôm xưa để rồi bồng bột kết luận với cái cách không giống tính cách ngoại giao chút nào: “Con người ta ở đâu cũng chịu sự an bài của số phận. Sống, chết, giàu nghèo, sướng khổ đã định sẵn khi anh sinh ra đời, có gồng lên cũng chẳng thay đổi được gì, chỉ bể đầu sứt trán. Đấy như tớ - anh nói – Ngày xưa vốn nổi tiếng là một tay trinh sát nói năng bán trời không văn tự, ai ngờ hết chiến tranh lại húc vào nghề này, mà lại húc được”. “Thì cũng như tớ - ông Tổng giám đốc hùa theo – Ngày xưa đánh giặc rát như cáy, cứ nghe mùi B52 là nước đái chảy trong quần, xểnh ra là tìm cách chuồn về phía sau, vậy mà bây giờ... có khi có số thật. Cái may, cái họa nó cứ lù lù ập đến, chả đứa nào biết trước được mà tu rèn, mà chuẩn bị. Thì cứ như cái ông Tịnh này này...” Cậu ta dừng lại. Tư duy của một nhà quản lý kinh doanh cao cấp đủ tinh nhạy để giữ cậu ta không đẩy tiếp luồng ngôn ngữ buông thả đến trót câu, mặc dù Tình đã há mồm cười thật to để đón trước câu nói bạn bè đó. Duy chỉ có một người, tôi để ý từ đầu đến giờ chỉ cười không nói. Đó là Thắng. Thiếu tá Thắng, vừa ở tiền đồn Hà Tuyên về chiều nay, có thể nói từ đầu tóc, mặt mũi đến bộ quân phục mặc trên người còn sặc mùi biên ải gió sương. Thắng ngồi im lặng rót thêm rượu cho người này, đưa cái tăm cho người kia, rút thuốc châm lửa cho người kia nữa. Thỉnh thoảng lại xuống bếp giúp bà chủ nhà, vợ tôi, mang lên một đĩa xào, đĩa nấu gì đó. Thắng ngồi đấy, hiền hậu như một đứa em gái, lại bao dung như một bà chị cả tốt tính. Trong bất cứ cuộc rượu nhỏ, to nào; trong cái đám người thích nói, tranh nhau nói, nói không cần ai nghe hoặc buộc tất cả phải nghe, một tính cách hiền hậu, chu đáo như thế là rất cần. Chỉ có đôi mắt có vẻ ít ngủ của Thắng là hiện rõ vẻ yêu thương, quý trọng bạn bè đến ủy mị. - Thôi, vất mẹ nói chuyện số phận đi! - Tịnh bẻ một miếng bánh đa nghe cái rắc. – Bây giờ chuyển làn sang nói về đàn bà. Đàn bà thời chiến đàng hoàng chứ không phải thứ đàn bà vớ vẩn chung chung đâu. Tớ sống ở chiến trường lâu hơn các chú, va chạm với họ nhiều hơn các chú, tớ có quyền nói rằng: Chả có cái gì khổ bằng làm một người đàn bà trong trận mạc. Khổ kinh khủng. Và sức chịu đựng cũng kinh khủng. Tớ mê họ và kính trọng họ sát đất. À...Mà cái đó cũng lại là số phận rồi còn quái gì. Hở? Tít mù nó lại vòng quanh... Tịnh cười vang. Tiếng cười đầy sức lây lan. - Phải chăng vì thế mà ông Tịnh dám vác hẳn một cô gái Lái Thiêu ra xứ lạnh này làm vợ mà không sợ cô ta chê nghèo, chê khổ bỏ đi. Ông này khôn! Nghĩ cái gì ra cái đó. Nếu không bị vết thương ở đầu năm 1970 làm cho cụt ngẵng đường quan lộ thì lúc này ông đâu có thèm ngồi ở đây – Nhà bình luận văn học nhận định, không giấu nổi một chút tâng bốc chân thành. - Ở địa bàn tam giác sắt của tớ có một cô xã đội trưởng thân hình dềnh dàng như đàn ông, vào trận cũng thét lác như đàn ông, nhưng đêm mò về hầm lại úp mặt xuống võng khóc một mình. Dạo ấy... - Cái hồi Mậu Thân, chính tay tớ chôn cất một cô du kích nằm chết giữa rừng đã lâu ngày. Cũng là cái chết nhưng xác đàn ông trông đỡ hơn, còn xác đàn bà...Thịt da vẫn trắng, tóc xõa ra vẫn đen nhánh. Tội lắm! Nhất là... - Mình lại có kỷ niệm với một cô giao liên ở đường 14 biên giới, chẳng hiểu tại sao thỉnh thoảng lại lăn đùng ra, sùi cả bọt mép. Một lần kia... - Còn tớ... - Theo mình thì... Lại tranh nhau nói...Những đoạn hồi ức được bùng nổ bất thần, đan chéo vào nhau, khi nặng nề, lúc dí dỏm, lúc đằm xuống thành im lặng. Chính trong cái khoảnh khắc im lặng đa thanh đó. Tịnh đã buộc được Thắng phải lên tiếng. Thoạt đầu Tịnh cười cười: - Thôi chứ! Cứ cả vú lấp miệng em mãi. Cũng phải để cho thằng Thắng nó nói một câu gì chứ. Sáng mai chúng mình nghỉ, nó lại phải lặn lội lên trên đó rồi! - Nhất trí nhưng – Nhà quản lý kinh tế nói - Tớ tin chắc thằng Thắng sẽ không bao giờ nói về thế giới đó. Hận thù truyền kiếp thì có. Mang hình ảnh cô người yêu ở nhà đi suốt các cánh rừng, khi trở về cô ta đã có con với người khác. Đàn bà... Điểm chốt là nhà. Thôi, tha cho nó. - Không....không đến nỗi thế đâu - Thắng đột ngột lên tiếng bác bỏ với cái cười ngượng nghịu – Các anh chỉ hay nói quá! Tôi...thực ra tôi cũng có biết một người phụ nữ, một người chị... Cuộc đời chị ấy... Nhưng mà dài lắm! Tôi lại không biết cách kể... - Không sao! Cứ nói đi! Nói đại đi! Đêm nay giành cho cậu. Cậu hoàn toàn có quyền được sử dụng phần thời gian còn lại của hội cựu chiến binh đêm nay. Mạnh dạn lên! Chú lính! Hầu như tất cả chúng tôi đều nhất loạt lên tiếng giục Thắng như thế. Không phải vì để lấp đầy khoảng trống, cũng chẳng phải do tò mò muốn được nghe một câu chuyện lạ - còn cái gì là lạ nữa khi chúng tôi đã đi hết tuổi trẻ của mình trong chết chóc – Mà có lẽ bạn bè muốn được nghe Thắng nói, Thắng tâm sự một cái gì đấy. Giữa năm thằng, Thắng là đứa trẻ nhất và có lẽ cuộc đời cũng trắc trở, lận đận nhất, lận đận đến tận hôm nay. Chúng tôi muốn san sẻ với Thắng tất cả, muốn Thắng ngày mai lên đường có thể mang theo được chút ít hơi ấm của tình bạn chân thành đêm nay. Chúng tôi muốn được nghe Thắng nói. Và Thắng đã nói. Nói nhỏ nhẹ, nói vấp váp, thỉnh thoảng lại quên, lại ngừng, lại ho khan. Những điều Thắng nói không sáo rỗng, không một chi tiết giả trá. Thắng nói như rút ruột của mình ra phơi bày trước mặt bạn vè. Và, rất không ý thức, chúng tôi ngồi nghe mà trời sáng khi nào chẳng hay... Hôm nay, Thắng không còn nữa, anh đã hy sinh ngay sau tháng thứ hai khi tạm biệt chúng tôi. Nhớ bạn, thương bạn, bốn đứa còn lại bảo tôi xin nghỉ phép năm mà chép lại những điều Thắng kể. Chép tỉ mỉ, đừng để sót, đừng bịa đặt, mà cũng đừng tránh né sự thật trần trụi, kẻo Thắng nó oán. Họ nhủ tôi thế. Và tôi đã cố gắng làm đúng như thế. Dưới đây là tất cả những lời của Thắng kể về người đàn bà ấy, gần như hoàn toàn nguyên văn, tôi chỉ làm cái động tác sắp xếp điều chỉnh một chút cho rõ ý, rõ nghĩa.   Mời các bạn đón đọc Sông Xa của tác giả Chu Lai.
Hùng Karô
Cùng với Lê Lựu, Ma Văn Kháng, Bảo Ninh, Nguyễn Khắc Tường, Khuất Quang Thụy, Dương Hướng... Chu Lai là một trong những nhà văn tự khẳng định mình trong giai đoạn văn học sau 1975. Ông được đọc giả biết đến là một nhà văn quân đội " đậm chất lính tráng": rắn rỏi mạnh mẽ nhưng không kém phần sâu sắc. Chu Lai sáng tác trên nhiều thể loại khác nhau: tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch, hồi ký, bút kí... Tất cả đã chứng tỏ ông là một nhà văn có sức viết khỏe và bền bỉ. Trong đó, tiểu thuyết của ông là bức tranh toàn cảnh gồm nhiều tầng, nhiều mảng khác nhau của hiện thực đời sống. Hùng Karô là một thể nghiệm bút pháp khác lạ của Chu Lai, câu chuyện kể về cuộc đời giông bão của nhân vật chính cùng tên Hùng Karô, một gã giang hồ có một tuổi thơ và cả tuổi trưởng thành lầm than khốc liệt.  Gã từ hoang sơ cỏ dại đi lên, vượt qua mọi thăng trầm trong cuộc sống, vào tù rồi ra tù, hối cải để trở thành một công dân tử tế, rồi từ công dân tử tế thành một doanh nhân thậm chí là doanh nhân thành đạt để rồi nhận một cái kết thật buồn khi cuộc đời này, thể chế còn nhiều góc khuất chưa phân định sáng tối này đã đánh vào anh một đòn cuối cùng... Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Tôi tên là Hùng, gọi đủ theo giấy khai sinh là Trần Văn Hùng, nhưng người đời chẳng hiểu sao lại cứ thích gọi tôi là Hùng Ka Rô, Hùng tướng cướp, Hùng hung thần, tử thần, Hùng sát thủ máu lạnh rồi gọi cả cái tên xem ra có vẻ rất rắc rối này nữa: Kẻ đa tình dữ tợn!) Vâng, thôi thì cứ để mặc cho người ta gọi, miệng lưỡi thế gian có khi nào không ngứa ngáy song tôi có đa tình hay dữ tợn thật không thì những trang viết vụng về dưới đây sẽ trả lời các bạn tất cả. Viết! Khổ! Tôi có viết lách bao giờ đâu. Từ nhỏ tôi đã kinh sợ cây bút và trang giấy, như sợ ma. Chữ nghĩa dưới tay tôi nó đùn ra lục cục, lôi thôi lắm, có lúc còn nhăng nhít, thô lậu nửa, ấy vậy nhưng mọi người cứ bảo tôi ngồi vào bàn đi, cuộc đời ông phong trần trồi sụt khác thường như thế, không viết nó phí đi, phí lắm! Rồi ngay cả.ông nhà văn già bất đắc chí ở phố núi tối tối mút xương gà như mút kẹo cũng bảo: "Tất cả bọn cầm bút thật hay giả ở cái nước không coi văn chương là trọng này đều ước muốn có một phần mười cái vốn sống mà cậu đã trải qua" Trời đất! Oách thế kia à? Vậy thì tôi viết, không, đúng ra là kể, chỉ kể thôi chứ viết nghe có vẻ sang quá, véo von vít vông quá, người ta cười, tức là thấy gì kể nấy, không thấy không kể, tức là dòng đời tôi thế nào tôi cứ cho nó tuôn ra ùng ục ra thế ấy, một mạch từ đầu đến cuối, thẳng đuột, phẳng lỳ, không chìm nổi, không lắt léo, không bịa đặt, không tô vẽ, không chơi chữ chơi nghĩa, không chương hồi, không lớp lang, không đảo lên đảo xuống, không cắt dán, không bố cục, không hồi tưởng, không đa chiều đa kích lằng nhằng, không màng đến tính nhân văn tính tư tưởng cao siêu gì gì đó mà có màng cũng chả được, và cũng không hư cấu tí tẹo nào hết, bởi tôi có biết hư cấu là cái quái gì đâu mà hư, hư bậy bạ, có khi lại thành cái thằng rao bán thuốc hôi nách thuốc hắc lào ngoài chợ. Kệ thì giống như kể câu chuyện mình đã trải qua, đã ngửi thấy, sờ thấy, nếm thấy vậy việc gì phải tính nọ tính kia cho rắc rối. Kệ, vả lại tôi viết rồi để đó, viết để lấp đầy im lặng, viết cho riêng tôi, viết cho khỏi cắn lưỡi mà chết chứ có viết cho ai đâu mà đo đắn nọ kia. Và còn vì điều này nữa tôi giấu cho riêng mình, giấu cả vợ, người đàn bà thân yêu nhất mà tôi đi tìm cả đời mới thấy, đó là tôi đã nhìn thấy cái lỗ huyệt há hoác đang từng phút chờ nuốt tôi vào cái bụng đen ngòm, tanh tưởi của nó. Những dòng chữ chắc chắn sẽ là hết sức nhức nhối này tôi muốn gửi lại như một món quà lòng thành tặng riêng cho cô ây, chỉ một cô ây thôi. Tất nhiên tôi cũng bắt chước thiên hạ là đánh số một số hai, ghi rõ phần một phần hai để cô ây dễ theo dõi. Cái này lại ông nhà văn già bất đắc chí ở phố huyện chỗ tôi thường gọi là: Thái độ tôn trọng người đọc. Tôi bắt đầu kể đây! Kể đúng theo ngôn từ, khẩu khí của một thằng đã trải qua những tháng ngày ở dưới đáy xã hội nên có thể sẽ rất nghịch nhĩ, rất dễ gây phản cảm, rất khó chịu nhưng cái tạng nó trót là vậy rồi, có muốn sửa cũng chả được. Mời các bạn đón đọc Hùng Karô của tác giả Chu Lai.
Gió Không Thổi Từ Biển
Gió không thổi từ biển, gió thổi từ lòng người là câu chuyện viết về những tính cách, những số phận khác nhau của các chiến sĩ khu biệt động Sài Gòn. Ba Xuân một vị đội trưởng đội biệt động anh dũng, bất khuất, dù có bị uy hiếp, đe dọa, thậm chí cái chết có cận kề ngay trước mắt vẫn kiên quyết giư kín thân phận, không hé răng dù chỉ một lời bán đứng đồng chí, anh em chiến đấu của mình. Trái ngược với anh là tên phản bội Hoàng Xanh, một kẻ mưu mơ, xảo quyệt, tìm mọi cách để tiêu diệt anh, người đồng đội cũ của mình. Câu chuyện còn là sự hy sinh thầm lặng, kiên cường chiến đấu của người vợ Ba Xuân - Thanh Nhàn. Cô vượt qua nỗi đau mất chồng mà tiếp tục vững bước, cùng với những người đồng đội mà đứng lên tiêu diệt kẻ thù, chống lại âm mưu của Hoàng Xanh, thực hiện nốt ước mơ vẫn còn dang sở của Ba Xuân. Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hi vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Mấy bữa nay xuất hiện ở trước chợ Vườn Chuối một người đàn ông bán thuốc nam. Nhìn vẻ ngoài anh ta chẳng có gì đáng chú ý. Tuổi anh ta, vì nước da mai mái nên thật khó đoán. Tóc anh ta để dài, rồi xoăn, người tầm thước. Hai con mắt nhìn vừa hiền lành, vừa rụt rè như tất cả những người dân cao nguyên một năm đôi bận xuống thành phố mua bán. Nếu có gì khác chăng, thì là việc các môn thuốc của anh ta thường được nhiều người mua, nhiều người tới ngó nghiêng. - Cái nhà anh này làm ăn coi bộ thiệt thà. - Dùng thuốc của anh trị bịnh cho con nít thì khỏi liền. - Tiền nong ông cũng lấy chừng mực lắm, không mắc như mấy người khác đâu. Bà con đi chợ thường nói về anh như vậy. Có người khen ngay trước mặt, anh chỉ cười. Cái cười ngượng nghịu như chỉ quen với núi đồi hoang vắng mà không quên phô bày tình cảm ở trước phố chợ đông người, để lộ hàm răng xỉn màu ngồ ngộ như cái cười của đứa trẻ sún răng. Dáng ngồi làm lũi của anh thật tương phản với cảnh chợ nhức mắt những sắc màu, những ồn ào chát chúa của hàng rẫy quán tiệm, của những tốp lính người Việt, người ngoại quốc xộc vào, xộc ra, nghiêng ngả và của tất cả những âm thanh hỗn tạp, kì quái vốn có của một cái chợ tràn ngập hàng hóa. Màu áo chàm của anh càng tương phản với tòa cư xá Mỹ cao vòi vọi ở gốc phố bên kia đường. Vào những lúc xế chiều, cái dáng nhỏ nhoi hơi khập khiễng của anh bị bóng rợp tòa nhà làm bạc đi xiêu vẹo. Anh ngước nhìn lên một chút, mặt hơi nhăn lại như bị ngộp thở rồi lại cúi xuống chậm rãi cất từng bước một. Người bán thuốc đi tìm chỗ nghỉ đêm. Vào những lúc ấy, nếu anh bớt rụt rè đi một chút hoặc giả có ai đó đột nhiên gọi lại đưa nốt số tiền mà anh quên chưa lấy, có lẽ anh sẽ bắt gặp một đôi mắt từ xa đang dọi thẳng vào gáy mình. Dưới đôi mắt ấy là cái miệng mím chặt và phía trên vàng trán vuông căng ra, kéo đôi mắt xếch lên.   Mời các bạn đón đọc Gió Không Thổi Từ Biển của tác giả Chu Lai.
Bãi Bờ Hoang Lạnh
Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khoác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu Lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Trong số đó thì Bãi bờ hoang lạnh cũng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với những câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Cuốn tiểu thuyết mở ra với bối cảnh là một bãi bờ ven biển heo hút thời hòa bình, chỉ vỏn vẹn bốn căn chòi với ba người đàn ông độc thân sinh sống. Ba người họ mang trong mình những số phận riêng biệt, đều là những nỗi khổ, dằn vặt nhưng không có ai có thể san sẻ cùng ai. Bãi biển đã chết, sự có mặt của ba người này càng làm cho nó quạnh quê giá lạnh hơn. Thế rồi một ngày, cô họa sĩ Dung - một người đàn bà đẹp đã từ thành phố xuống và nhậm cư vào cái xóm nhỏ ven biển này. Cô gái ấy là ai? Liệu giữa họ đã từ có sợi dây ràng buộc gì trong quá khứ? Cuộc sống nơi đây từng chút từng chút một thay đổi cùng với sự xuất hiện của cô Bãi bờ hoang lạnh nhưng tình người thật ấm áp. Có thể nói, mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cụng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thưc. *** Đại tá, nhà văn Chu Lai có tên khai sinh là Chu Văn Lai, sinh ngày 5 tháng 2 năm 1946, tại xã Hưng Đạo, huyện Phù Tiên, tỉnh Hưng Yên, hiện ở Hà Nội. Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam (từ năm 1980). Ông là con trai của nhà viết kịch Học Phi. Trong chiến tranh Việt Nam ông công tác trong đoàn kịch nói Tổng cục Chính trị rồi trở thành chiến sĩ đặc công hoạt động trong vùng Sài Gòn. Sau 1973, ông về làm trợ lý tuyên huấn Quân khu 7. Đến cuối năm 1974 ông tham dự trại sáng tác văn học Tổng cục Chính trị và sau đó học tại Trường Viết văn Nguyễn Du khóa 1. Sau khi tốt nghiệp, ông biên tập và sáng tác cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Nhà văn Chu Lai còn viết một số kịch bản sân khấu, kịch bản phim và tham gia đóng phim. Chu Lai là một trong những nhà văn quân đội có tên tuổi trong nền văn học sau 1975. Đã từng một thời khác áo lính, ông rất thành công với đề tài chiến tranh. Và tiểu thuyết là thể loại mà Chu lai đã khẳng định được tài năng và phong cách của mình. Nắng Đồng Bằng là một trong những tác phẩm để đời của nhà văn khi viết về đề tài chiến tranh với câu chuyện và những phận người đầy gai góc. Người lính trong Nắng đồng bằng không chỉ biết có chiến đấu vì lý tưởng, biết đấu tranh, giành giật sự sống trước bom đạn, trước kẻ thù mà cũng có những suy tư, tính toán thiệt hơn... nhưng cuối cùng họ vượt qua tất cả để góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Chính Chu Lai từng bộc bạch "Cuộc đời có thể xô đẩy người lính, quăng quật người lính nhưng người lính vẫn bật lại để sống xứng đáng với màu xanh áo lính". Có thể nói mỗi trang văn của Chu Lai là một câu chuyện của những cái tận cùng, cố gắng hướng đến cái tận cùng, nỗi khổ niềm vui, hy vọng và tuyệt vọng, can đảm và yếu hèn, tất cả đều được nổi lên một cách đậm nét và hết sức chân thực. Một số tác phẩm của tác giả Chu Lai: Cuộc Đời Dài Lắm Mưa Đỏ Phố Nắng Đồng Bằng Ăn Mày Dĩ Vãng Út Teng Truyện Ngắn Chu Lai Hùng Karô Chỉ Còn Một Lần Khúc Bi Tráng Cuối Cùng Người Im Lặng Nhà Lao Cây Dừa 3 Lần Và 1 Lần Sông Xa Vòng Tròn Bội Bạc Bãi bờ hoang lạnh Gió không thổi từ biển *** Vào lúc nửa đêm, không gian chỉ toàn những gầm gào của sóng của gió và thời gian lại dường như ngưng đọng đạc sệt, dẻo quánh, người đứng đầu thị trấn đột nhiên bị dựng dậy bởi hàng loạt những tiếng đập cổng bấn loạn vô hồi. Chưa đến ba mươi tuổi, tráng kiện săn rắn hệt một gã thuyền chài chuyên đi săn bắt cá lớn ở khơi xa, không thích lấy vợ nhưng lại ưa dính dáng đến đán bà, chủ tịch thị trấn nhanh tỉnh như sáo, cây súng ngắn nhét hờ dưới gối được chuyển thành thạo lên tay. Tiếng đập cổng vẫn riết róng đến vô lễ, đến hỗn hào. - Cái gì thế? Cái gì vậy? - Chủ tịch hỏi gay gắt. Một bóng người cao lớn, ở trần, mặc độc chiếc quần cụt đã đứng choán ngay trước mặt anh. Trong đêm tối chỉ thấy một đôi mắt trợn ngược, một hàm răng nhe ra trắng ởn, một đống những râu và tóc dữ tợn rậm rì. Giọng chủ tịch thị trấn chợt dịu xuống: - Có gì không Quang? Vào nhà đã? Đừng đứng đó lạnh. Một tiếng cười khô và nhạt thếch. Sau đó là tiếng nói khàn khàn vọng âm như được phát từ trong đất đai, trong chum vại: - Bạn bè coi thường nhau hả? Sao lại không có gì? Không có gì mà dám đến đá cổng lão chủ tịch lúc nửa đêm này à? Láo! - Ừ thôi, cho xin lỗi đi! - Chủ tịch nhăn nhó - Mình vừa đi họp về, mệt quá! Vào nhà uống bậy ly rượu cho ấm bụng đã rồi có gì ta tính. - Bây giờ không phải lúc - Con mắt trắng đã xếch lên - Chủ tịch mà chỉ lo uống rượu say mèm trong khi ngoài bãi chúng nó đang tụ tập làm bạo loạn hả? Láo! - Cái gì? Ai bạo loạn? Ở đâu bạo loạn? Bãi nào? - Chủ tịch hỏi giật giọng. - Khắc ra khắc biết. Vui lắm! Ông cố nội nó! Nói xong, để văng ra một tiếng cười nhạt thếch nữa, bóng đen ngoắt người đi luôn. Vai rộng, bụng thon, đùi nhái… Anh ta đi xiêu xiêu ra biển, in vào nền trời màu cháo loãng, đẹp như một pho tượng đá biết chuyển dịch trong thế giới cổ tích, huyền thoại âm thầm. Nhoáng lát, guồng máy bạo lực của thị trấn được bôi trơn phát nổ rầm rầm. Hơn năm chục con người súng ống tua tủa, nai nịt đầy người, đằng đằng sát khí đã tề tựu đầy đủ. Với cây súng nhỏ xíu trên tay, chủ tịch Lân trực tiếp chỉ huy trận càn mang ý nghĩa tổng lực vào đêm tối, nom anh đẹp ra đáng. Bộ quân phục năm xưa còn giữ được tóc bay tung, giày Adidas đế mềm, khuôn mặt vuông vức sáng láng khá hấp dẫn, anh lao lên trước, giò xoải dài hệt một chú ngựa chiến. Hơn năm chục con người cả trai lẫn gái ưu tú của thị trấn bươn bả theo sau. Một tiếng thét lạnh khí tử thần sắp vang lên: Những tiếng nổ chát chúa sắp xuyên vào da thịt con người… Một cảnh bao bủa gầm ghì rồi tiếp liền một cảnh đầu hàng còm róm… Kết cục bao giờ cũng xảy ra gọn sạch như trong băng hình VIDEO. Thường là như thế. Nhưng lần này cái màn chót mang tính bi kịch tất yếu không xảy ra. Nằm dang chân dang tay giữa vòng người thở dốc lại không phải ai khác ngoài Quang, kẻ báo tin, bức tượng âm thầm đang tạc dở. Gió mát hây hẩy, trăng bắt đầu lên… Những con người nắm bạo lực trong tay thoáng lặng đi. Vẻ đẹp hoang sơ của người đàn ông một chân đạp vào cát mịn, chân kia thọc sâu vào nước, mắt nhắm thiêm thiếp, tóc bồng bềnh, vồng ngực vuông vức đẫm ánh trăng và cát sáng, và ngoài kia sóng lại sóng cứ từng đợt, từng đợt dội về như mơn man, như khảm bạc, như muốn cuốn lấy, rủ rê đứa con của biển, của bóng đêm trở về cõi thân thuộc vĩnh hằng đá tưới rảy vào trái tim họ, cái góc trong cùng của mọi điều bừa bộn lo toan chút tĩnh lặng mơ hồ. - Thôi về nghỉ! Cám ơn các bạn. Coi như đêm nay ta tập trận giả nhân thể ngắm trăng dạo mát. Câu nói có duyên của vị chủ tịch được tán thưởng bằng sự tản ra nhanh chóng của vòng người. Thoáng thấy vài ba ánh mắt con gái kín đáo nhìn lại … Chủ tịch Lân nấn ná ở lại sau cùng. Anh khẽ khàng đắp lên tấm thân trần đang sáng dần lên chiếc áo bludông màu bộ đội vừa được cởi ra của mình, lầm bầm nói một câu gì đó rồi đứng dậy rảo bước theo dòng người. Mời các bạn đón đọc Bãi Bờ Hoang Lạnh của tác giả Chu Lai.