Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Đứa Trẻ Lạc Loài

Bộ ba tác phẩm Không Nơi Nương Tựa (1995), Đứa Trẻ Lạc Loài (1997) và Đi Ra Từ Bóng Tối (1999) tái hiện câu chuyện tuổi ngây thơ rúng động dư luận của David James Pelzer. Ông sinh ngày 29/12/1960, là con trai thứ hai trong gia đình có năm người con trai. Tuy nhiên, mọi thứ trở nên vô cùng tồi tệ khi David bắt đầu bị mẹ ruột của mình hành hạ từ năm lên 4 tuổi. Sự ngược đãi mà David Pelzer phải chịu đựng nghiêm trọng đến mức nó đã trở thành một trong những trường hợp ngược đãi trẻ em tồi tệ nhất được biết đến ở Mỹ. Phải ra toà để được bảo vệ, trải qua 6 lần làm con nuôi, Dave Pelzer đã vượt đã vượt lên nghịch cảnh để đưa tiếng nói của mình - tiếng nói của một người trong cuộc - đến với cộng đồng, với những người có trách nhiệm. Tác phẩm của ông tạo được sự quan tâm sâu sắc trong dư luận và trở thành nguồn khích lệ quan trọng để nhiều nạn nhân vươn lên và công khai "bí mật" của mình ra thế giới, trong số đó có nữ tác giả Jane Elliott với tác phẩm tự truyện "Người tù bé nhỏ" nổi tiếng, trở thành cuốn sách bán chạy nhất nước Anh năm 2005. "Đứa Trẻ Lạc Loài là quyển sách về tình yêu và những cống hiến không thể phủ nhận mà các tổ chức xã hội và các gia đình có con nuôi đã đem lại cho trẻ em trong con nguy hiểm. Chính Dave Pelzer là một bằng chứng sống cho lòng kiên cường, tinh thần trách nhiệm và sức mạnh của ý chí của con người" (- John Bradshaw) *** Giờ có được một mái nhà. Tài sản duy nhất của cậu là những bộ quần áo cũ kỹ rách nát đựng trong một chiếc túi bằng giấy. Thế giới của cậu tràn ngập trong bóng tối và nỗi sợ hãi. Cho dù đã được giải thoát khỏi người mẹ nghiện ngập, nhưng những tổn thương của cậu bé này thực sự mới chỉ bắt đầu - bởi cậu không có nơi nào để gọi là nhà. Đây là phân đoạn được chờ đợi từ lâu của Dave Pelzer sau Không Nơi Nương Tựa. Những câu trả lời sẽ được hé lộ, những chuyến phiêu lưu mạo hiểm của tác giả - lúc này đã là một cậu bé vị thành niên - sẽ được kể lại trong câu chuyện đầy lôi cuốn này. Giờ đây, với thân phận là một đứa con nuôi, cậu bé David lại chịu cảnh thay đổi chỗ ở liên tục với tổng cộng sáu gia đình trong suốt thời niên thiếu. Nước mắt và nụ cười, sự thất vọng và hy vọng - tất cả đan quyện trong cuộc hành trình liều lĩnh của cậu bé lạc loài này trên con đường tìm kiếm một mái ấm gia đình. Đứa Trẻ Lạc Loài là câu chuyện có thật, nên nó có khả năng khơi gợi những rung cảm sâu kín nhất trong bạn, mang đến cho bạn cảm hứng yêu thương và hy vọng mạnh mẽ hơn bất kỳ câu chuyện tưởng tượng nào. - First News *** Vượt qua một tuổi thơ u tối và nghiệt ngã, Dave trở thành một sĩ quan Không quân Hoa Kỳ. Trước khi về hưu, ông từng đóng vai trò quan trọng trong một số hoạt động mang tên Just Cause, Desert Shield và Desert Storm. Trong thời gian phục vụ trong không quân, Dave còn hoạt động trong Hội Trẻ vị thành niên và những chương trình khác về “Tuổi trẻ với những nguy cơ” trên toàn bang California. Những thành tựu đáng kể của Dave đã được thừa nhận bằng nhiều giải thưởng cũng như những nhận xét cá nhân của các cựu Tổng thống Ronald Reagan, George Bush và Bill Clinton. Năm 1990, ông là người được nhận giải thưởng J.c. Penney Golden Rule. Tháng 1 năm 1993, Dave vinh dự được bầu chọn là một trong mười thanh niên xuất sắc của Hoa Kỳ. Tháng 11 năm 1994, Dave là công dân Mỹ duy nhất được trao tặng giải thưởng Thanh niên tiêu biểu nhất của thế giới ở Kobe, Nhật, vì những cống hiến của anh trong lĩnh vực thông tin và ngăn ngừa nạn bạo hành trẻ em cũng như cổ vũ tinh thần và truyền cảm hứng để người khác có được ý chí kiên cường. Dave còn vinh dự được rước đuốc trong Thế vận hội năm 1996. Dave hiện sống một cuộc sống hạnh phúc ở Rancho Mirage, California, với vợ, con trai Stephen và chú rùa cưng tên Chuck. Những hoạt động vì thanh thiếu niên của Dave Pelzer có thể được tìm hiểu thêm tại website: www.davepelzjsr.com *** Review Nguyễn Hùng: Đây là cuốn sách thứ hai trong series kể về cuộc đời mình của Dave Pelzer (tên thật là David Pelzer ) , sau cuốn ''Không nơi nương tựa ''. Nếu bạn muốn biết vì sao người mẹ của tác giả lại bạo hành cậu như vậy mà cậu không trốn đi, và vì sao người cha lại không bảo vệ cậu- những điều mà cuốn sách thứ nhất chưa đề cập đến, thì cuốn sách này sẽ là đáp án. Tiếp nối phần một, David đã ăn cắp và bị bắt. Khi ở tòa, cậu đã khai ra những gì mình đã phải chịu đựng dưới sự bạo hành của mẹ ruột mình. Và cuối cùng, cậu được tòa án giúp, được một nhà khác nhận nuôi. Cho dù được cứu thoát ra khỏi căn nhà đầy tàn nhẫn với những trò hành hạ quái ác ấy, tuy nhiên con đường phía trước cậu đi cũng vô cùng gian nan, thử thách không kém. Với thân phận chỉ là con nuôi không hơn không kém, cậu đã trải qua 6 lần đổi người nhận nuôi. Tôi thấy thương nhân vật khi bị cộng đồng xa lánh, ghét bỏ. Chính vì thế, David đã cháy bỏng khát khao được hòa nhập với thế giới con người hơn bất cứ ai hết, và làm mọi điều để được đối xử như một con người, thậm chí kết bạn với những đứa ăn trộm và theo chúng. Tuy biết mình sai, nhưng trong thâm tâm David vẫn cảm thấy vui sướng - niềm vui của một kẻ chưa bao giờ nhận được tình yêu thương của người khác trong quá khứ. Chính vì thế, nhan đề cuốn sách mới là ''Đứa trẻ lạc loài ''. Đọc chỗ này, tôi lại nghĩ đến Chí Phèo -cũng muốn được làm người. Đọc truyện, ta luôn thấy một David luôn cố gắng vươn lên trong mọi hoàn cảnh khó khăn, nhưng vẫn không che lấp được tính cách của một cậu bé thuộc độ tuổi từ 12 tuổi đến 18 tuổi: đôi khi bốc đồng, nông nổi... Và cũng xúc động khi nhân vật vẫn luôn yêu người mẹ mà đã hành hạ, thậm chí đốt tay anh; yêu người cha không bao giờ bảo vệ mình. Chính điều đó đã làm nên sự khác biệt của nhân vật.Qua nhân vật trong truyện, ta còn có thể hiểu rõ một phần cốt cách, nội tâm những đứa trẻ bất hạnh trong xã hội, hiểu sâu hơn về cuộc sống. *** Tháng 12 năm 1993, Hạt Sonoma, California. Tôi ngồi một mình. Trời lạnh đến nỗi toàn thân tôi run lên bần bật. Các đầu ngón tay của tôi tê cóng. Những đám mây xám xịt cứ vần vũ trên nền trời. Từ những dãy đồi xa xa, hàng loạt tiếng sấm rên vang cả đất trời vọng lại. Mưa bắt đầu lất phất. Tôi không mấy quan tâm đến cái lạnh mỗi lúc một thấu xương. Tôi ngồi trên một khúc cây già nua mục nát trên bãi biển trải dài vắng bóng người. Tôi yêu lắm những phút giây được ngắm nhìn cảnh tượng hùng vĩ của những ngọn sóng xanh biếc dũng mãnh xô vào nhau thành một đợt sóng lớn rồi vỗ mạnh vào bờ. Tôi có thể cảm nhận rõ hơi biển mặn chát đang áp chặt lấy người mình. Trong lòng tôi thấy rất ấm áp. Tôi không còn sợ mỗi khi phải ở một mình nữa. Trái lại, tôi thích được một mình dể chiêm nghiệm những gì mình đã trải qua. Trên cao, đàn chim mòng biển kêu quang quác gọi nhau, chao lượn rồi ào xuống bờ biển tìm thức ăn. Chừng vài phút, cả đàn cất cánh bay Un cao. Một con mòng biển đập cánh phành phạch, chới với tụt lại đằng sau. Càng ra sức đập cánh, nó như càng không thể bắt kịp đàn. Cả đàn vút đi, chỉ còn lại mình nó chao nghiêng lượn lờ sát mặt biển. Thình lình, nó cắm mỏ xuống cát, tập tễnh trên bàn chân có màng màu cam. Sau một hồi tìm kiếm, nó cũng tìm được một mẩu thức ăn. Bỗng từ đâu một đàn mòng biển lại xuất hiện, bay lượn rồi ùa xuống chỗ con mòng biển yếu ớt kia hòng cướp lấy thức ăn. Con chim đơn độc dường như hiểu được rằng nó không thể bỏ chạy, vậy nên nó cứ đứng đó và cắn mổ chống trả bất cứ con chim nào đến gần. Cuộc chiến sinh tồn chấm dứt, đàn chim tan tác bay đi... Con mòng biển rít lên một hồi dài như thể tuyên bố mình vừa chiến thắng. Tôi chạnh lòng, nhớ lại khoảng thời gian tăm tối mình đã phải đấu tranh thế nào để có được cái ăn và cho cả sự sống còn khi mang thân phận một đứa con nuôi. Mong muốn được chấp nhận, được yêu thương luôn cháy bỏng trong tôi. Tôi cũng luôn hoài niệm về quá khứ, luôn loay hoay với câu hỏi “tại sao” về mảng đời tấm tối và đau thương mình đã trải qua. Nhưng càng lớn, tôi hiểu mình phải khép lại cánh cửa ấy để mở lối đi riêng cho cuộc sống mới phía trước. Tôi gia nhập Lực lượng Không quân Hoa Kỳ, thực hiện mơ ước của cuộc đời mình là được bay lượn trên bầu trời cao vút. Khi trưởng thành, tôi làm được nhiều điều từng tâm niệm. Tôi cũng đã quay trở về thăm lại mẹ ruột và hỏi bà ấy câu hỏi quan trọng nhất cuộc đời mình: Tại sao? Nhưng trên hết, tất cả những gì tôi đã trải qua càng khiến tôi thêm yêu thương cuộc sống mình đang có. Tiếng kêu quang quác của con mòng biển làm tôi chợt tỉnh. Hai bàn tay tôi run lên, nhưng không phải vì lạnh. Tôi khẽ lau nước mắt. Tôi không khóc cho bản thân mình, tôi khóc cho mẹ. Toàn thân tôi run lên. Tôi không thể kìm nén cảm xúc. Tôi khóc cho người cha và người mẹ mà tôi mãi mãi không bao giờ có được vòng tay ấp ủ của họ. Tôi lặng im, thổn thức khóc như một đứa trẻ. Tôi nhắm mắt lại, thì thầm cầu nguyện. Tôi cầu xin cho mình được sáng suốt để trở thành một con người mạnh mẽ hơn và tốt đẹp hơn. Khi đứng dậy, đối mặt với mặt biển xanh ngắt, tôi thấy lòng mình thật nhẹ nhàng, tinh trong. Đã đến lúc tôi phải đi tiếp rồi. Tôi bế Stephen lên xe rồi lái xe đến ngôi nhà thứ hai của mình - vi-la Rio ở Monte Rio. Nét đẹp yên bình của vi-la Rio vẫn luôn khiến tôi ngơ ngẩn. Nhìn thấy mắt tôi vẫn còn hoe hoe đỏ, thằng bé ôm choàng lấy cổ tôi rồi hỏi: - Cha có sao không? Mặc dù mới chỉ là một đứa trẻ, nhưng thằng bé luôn tỏ ra nhạy cảm hơn lứa tuổi của nó. Tôi ngạc nhiên vì đôi khi Stephen còn đọc được cả những cảm xúc sâu kín nhất của tôi. Ngoài việc là một đứa con trai đầy tình cảm, Stephen còn là một trong những người bạn thân nhất của tôi. Suốt buổi chiều hôm đó, Stephen và tôi cùng đi dọc bờ Dòng Sông Nga. Mùi thơm đậm của gỗ cháy hòa lẫn với hương thơm ngọt ngào của những cây tùng bách gỗ thoảng trong gió chiều. Mặt nước sông xanh ngất, trong veo và phẳng lặng. Khi mặt trời dần khuất sau ngọn Si, hình ảnh phản chiếu của mấy cây thông già trên mặt nước sông càng thêm huyền ảo. Một làn sương mù như tấm chăn trắng mềm từ núi Si phủ xuống dòng sông. Hai cha con tôi nắm tay lặng im đi bên nhau, cổ họng tôi như nghẹn lại. Tôi thấy mình hạnh phúc quá Si. Bỗng Stephen siết chặt tay tôi: - Cha ơi, con yêu cha. Chúc mừng Sinh nhật cha. Nhiều năm trước, tôi chưa bao giờ dám nghĩ đến một mái ấm thật sự. Nhung ngày hôm nay, tôi đã có được những thứ mà bất cứ ai cũng mơ ước - một cuộc sống, với tình yêu ngập tràn của đứa con trai. Tôi đã có một gia đình thật sự! Mời các bạn đón đọc Đứa Trẻ Lạc Loài của tác giả Dave Pelzer.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Rừng Sâu Tăm Tối
Trong một khu rừng tăm tối Nora đã không gặp mặt Clare suốt mười năm nay. Không hề, kể từ khi Nora bước ra khỏi cánh cổng trường cấp ba và chưa một lần ngoái đầu lại. có một ngôi nhà tăm tối; Rồi một ngày, cô bất ngờ nhận được lời mời dự tiệc chia tay đời độc thân của Clare. Liệu đây có phải là cơ hội để Nora nói lời từ biệt với quá khứ vẫn luôn hằng ám ảnh mình? Trong ngôi nhà tăm tối ấy có một căn phòng tăm tối; Nhưng một điều vô cùng, vô cùng sai trái sắp sửa xảy ra. Trong căn phòng tăm tối ấy Có một số bí mật không thể giấu mình mãi mãi. *** TÁC GIẢ: Ruth Ware (1977) bắt đầu sự nghiệp văn chương khá muộn. Trước khi trở thành nhà văn toàn thời gian, cô đã từng làm các công việc bồi bàn, bán sách và quảng cáo. Bắt đầu bằng các tác phẩm dành cho thiếu niên, nhưng cô chỉ thực sự thành công khi chuyển sang thể loại trinh thám ly kỳ, giật gân. Những tác phẩm trinh thám của Ruth Ware như Rừng sâu tăm tối và Cô gái trong cabin số 10 nhanh chóng trở thành Bestseller và nhận được sự yêu mến của độc giả. *** Tôi đang chạy. Tôi chạy xuyên qua khu rừng đẫm ánh trăng, quần áo bị cành cây cào rách và chân vướng vào đám dương xỉ diều hâu trĩu tuyết. Những bụi mâm xôi rạch qua tay tôi. Hơi thở bỏng rát trong họng. Đau quá. Chỗ nào cũng đau. Nhưng tôi phải làm điều này. Tôi chạy. Tôi có thể làm được điều này. Lúc nào chạy, tôi cũng thầm niệm trong đầu một câu thần chú. Khoảng thời gian tôi muốn đạt được, hoặc cơn giận dữ tôi nện xuống mặt đường nhựa. Nhưng lần này chỉ một từ, một ý nghĩ nện thình thình bên trong tôi. James. James. James. Tôi phải tới đó. Tôi phải tới được con đường trước khi... Nó đây rồi, con đường nhựa tựa con rắn đen dưới ánh trăng, và tôi có thể nghe thấy tiếng động cơ gầm rú chạy tới gần; những dải ánh sáng trắng chói lòa, những thân cây đen sẫm như những nhát cắt xuyên qua ánh sáng. Đã quá muộn chưa? Ba mươi mét cuối, tôi buộc mình chạy chậm lại, rồi tôi vấp chân ngã nhào qua những thân cây đổ, trống ngực đập thình thình. James. Quá muộn rồi - chiếc xe đã tới quá gần, tôi không ngăn được nữa. Tôi quăng mình lên con đường nhựa, dang rộng hai tay. “Dừng lại!” Đau quá. Chỗ nào cũng đau. Ánh sáng rọi vào mắt, cơn đau ở đầu. Mùi máu tanh xộc lên mũi, hai bàn tay dấp dính máu. “Leonora?” Giọng nói loáng thoáng xuyên qua làn sương mù đau đớn. Tôi cố lắc đầu, miệng chẳng nhếch nổi thành lời. “Leonora, em an toàn rồi, em đang ở phòng cấp cứu. Chúng tôi đang đưa em đi chụp chiếu.” Đó là một người phụ nữ, đang nói oang oang, rành rọt. Giọng nói làm tôi đau đớn. “Có người nào chúng tôi có thể liên hệ được không?” Tôi lại cố lắc đầu. “Đừng cử động đầu,” cô ta nói. “Em bị chấn thương vùng đầu.” “Nora,” tôi thều thào. “Em muốn chúng tôi gọi Nora à? Nora là ai?” “Em... tên em.” “Được rồi Nora. Thả lỏng người nhé. Không đau đâu.” Nhưng nó đau quá. Chỗ nào cũng đau. Đã có chuyện gì vậy? Tôi đã làm gì?   Mời các bạn mượn đọc sách Rừng Sâu Tăm Tối của tác giả Ruth Ware & Mon, Seal (dịch).
Nguồn Gốc Dịch Bệnh: Động Vật, Con Người Và Đại Dịch Toàn Cầu Tiếp Theo
Xuất bản năm 2012, cuốn sách Nguồn gốc dịch bệnh của tác giả David Quammen đến nay vẫn hấp dẫn với những dự cảm và khai phá thú vị được các nhà khoa học ghi chép lại. Theo dõi TGVN trên Nguồn gốc dịch bệnh: Động vật, con người và đại dịch toàn cầu tiếp theo là một kiệt tác thu hút giới truyền thông của tác giả David Quammen, mang đến góc nhìn khoa học về các mầm gây bệnh trên động vật và đôi khi lây truyền cho chính con người. 'Nguồn gốc dịch bệnh': Cuốn tiểu thuyết trinh thám đặc biệt về khoa học Tác phẩm nằm trong Top 10 sách khoa học năm của Booklist, Top 11 cuốn sách của Daily Beast và được New York Times Book Review bình chọn là Cuốn sách đáng chú ý vào năm 2012. (Nguồn: Medinsights) Gương mặt của những kẻ sát nhân khác biệt: Với Nguồn gốc dịch bệnh, David Quammen đã dệt lên một câu chuyện đặc biệt, một tiểu thuyết trinh thám với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chúng là virus, vi khuẩn và những sinh vật đơn bào gây bệnh trên động vật, nhưng đôi khi, chúng sẽ thay đổi mục tiêu và nhảy sang loài người. Mỗi chương của cuốn sách là một hành trình theo đuổi một tên tội phạm mới, chịu trách nhiệm bởi một nhóm các thám tử đến từ khắp nơi trên thế giới. Cuốn sách là những ghi chép của David Quammen trong quá trình đồng hành với họ, lần theo các dấu vết để tìm ra thủ phạm. Sau chương đầu tiên về thứ virus khủng khiếp hạ gục cả ngựa và người, virus Ebola nổi lên qua câu chuyện đen tối, với những con khỉ đột chết chồng lên nhau, món thịt từ xác thối trong rừng và ma thuật. Câu chuyện chẳng cần đến những sự thổi phồng thường gặp về Ebola để tạo ra không khí rùng rợn (với nước mắt máu cũng như nội tạng tan chảy) và tác giả cũng không cần phải làm vậy, bởi chính bản thân căn bệnh cũng đã đủ khủng khiếp rồi. Ông quan tâm nhiều hơn đến việc đào sâu tìm hiểm những dịch bệnh này, tìm hiểu những gì chúng ta đã biết về chúng và cách điều đó giúp chúng ta dự phòng những căn bệnh mới xuất hiện trong tương lai, đồng thời hạn chế hậu quả của chúng. Trong mỗi chương, những căn bệnh đều dần trở nên rõ ràng, bắt đầu chỉ từ đôi ba tin đồn, vài cái chết bí ẩn dường như chẳng hề liên quan đến nhau. Quá trình điều tra dần dần bóc gỡ vấn đề, cho đến khi cuối cùng chân tướng của thủ phạm được phơi bày. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ được thấy muôn vàn cách mầm bệnh có thể di chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác – qua phân, dịch tiết, chấy nhầy và máu – và khám phá những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến phơi nhiễm: leo cây, uống nhựa chà là, ăn hay đơn thuần là chạm vào động vật đã chết. Tác giả cũng tìm kiếm cả những đồng phạm không cố ý là những loài động vật mang mầm bệnh trước khi truyền cho người: lợn, chim, khỉ, khỉ đột và dơi. Hành trình của những thám tử: Thế nhưng, những người hùng thực sự ở đây là những vị thám tử – những nhà khoa học làm việc không ngừng nghỉ, từ phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa, tìm kiếm lời giải cho những vụ án do những tên sát nhân nhỏ bé gây ra. Không chỉ tài ba trong việc mô tả cách hoạt động của virus, David Quammen còn rất thành công trong việc vẽ lên bức chân dung của những người hùng đó: từ những nhà sinh học phân tử nghiên cứu về SARS “với bản năng của một nhà dịch tễ học cùng sự dũng cảm của một con khỉ mặt đỏ”, cho đến nhà sinh thái học đam mê những món ăn phương Đông kỳ lạ, cho đến chuyên gia bệnh thú y với “thân hình rắn rỏi và nghiêm nghị của một cựu cầu thủ bóng bầu dục đã qua tuổi 40 tuổi”. Có thể thấy trong cuốn sách những chi tiết lịch sử cũng vô cùng thú vị như: các nhà khoa học thế kỷ XIX sử dụng kính hiển vi quang học để tìm kiếm các sinh vật nhỏ bé trong tế bào máu của bệnh nhân sốt rét, trong khi virus vẫn tiếp tục nấp sau tấm màn bí ẩn cho đến khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930. Độc giả cũng thấy cả những dấu mốc lịch sử quan trọng như: Tổng thống Hoover cấm nhập khẩu vẹt vào nước Mỹ; sự bùng phát của viêm khớp và phát ban, trước khi được liên hệ với bọ ve hươu, tại thị trấn Lyme tại bang Connecticut; và loạt ca bệnh tưởng chừng vô hại, nhưng thực tế lại chết người, trên hàng loạt bệnh nhân nam tại Mỹ vào những năm 1980. David Quammen đã mang chúng ta đi khắp thế giới, từ những phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa cùng các điều tra viên – bẫy dơi tại Trung Quốc, khỉ tại Bangladesh, thâm nhập sâu vào cánh rừng ở Cameroon. Đến phần cuối cuốn sách, chúng ta sẽ bỏ lại thực tại một chút để bước lên chuyến du hành viễn tưởng đi tìm nguồn gốc của HIV dọc theo sông Congo. Tác giả cũng khẳng định sự xuất hiện của những căn bệnh lây truyền từ động vật, những mầm bệnh tìm đến chúng ta từ những loài sinh vật khác, không phải điều gì mới mẻ, nhưng đang có xu hướng tăng lên. Ông đi tìm lý do ẩn sau hiện tượng đó trong chương cuối cùng của cuốn sách: dân số khổng lồ của loài người, cùng với lượng gia súc vô cùng lớn, sự hủy diệt của môi trường sống tự nhiên, những hệ sinh thái bị phá vỡ – những thứ hoàn toàn có thể biến thành cuộc tranh cãi về sự trả thù của tự nhiên lên loài người. David Quammen là một trong những nhà báo và tác giả ảnh hưởng nhất hiện nay, ba lần được trao tặng giải thưởng Tạp chí quốc gia Hoa Kỳ. Các bài viết của ông được đăng tải trên các tạp chí nổi tiếng như National Geographic, New York Times, Rolling Stone và Harpers. *** “Nguồn gốc dịch bệnh” là cuốn tiểu thuyết trinh thám hấp dẫn, lôi cuốn với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chẳng có gì phải bàn cãi khi nói đây là một cuốn sách phi thường. Tác giả cuốn sách David Quammen đã dệt lên một câu chuyện đặc biệt, một tiểu thuyết trinh thám với những kẻ sát nhân rất khác biệt, nhưng cũng rất chân thực. Chúng là virus, vi khuẩn và những sinh vật đơn bào gây bệnh trên động vật; nhưng đôi khi, chúng sẽ thay đổi mục tiêu – và nhảy sang loài người. Mỗi chương của cuốn sách là một hành trình theo đuổi một tên tội phạm mới, chịu trách nhiệm bởi một nhóm các thám tử đến từ khắp nơi trên thế giới; cuốn sách là những ghi chép của Quammen trong quá trình đồng hành với họ, lần theo các dấu vết để tìm ra thủ phạm. Sau chương đầu tiên về thứ virus khủng khiếp hạ gục cả ngựa và người, Ebola virus nổi lên qua câu chuyện đen tối, với những con khỉ đột chết chồng lên nhau trong rừng, món thịt từ xác thối trong rừng và ma thuật. Câu chuyện chẳng cần đến những sự thổi phồng thường gặp về Ebola để tạo ra không khí rùng rợn (với nước mắt máu cũng như nội tạng tan chảy), và Quammen cũng không cần phải làm vậy, bởi chính bản thân căn bệnh cũng đã đủ khủng khiếp rồi. Ông quan tâm nhiều hơn đến việc đào sâu tìm hiểm những dịch bệnh này, tìm hiểu những gì chúng ta đã biết về chúng và cách điều đó giúp chúng ta dự phòng những căn bệnh mới xuất hiện trong tương lai, đồng thời hạn chế hậu quả của chúng. Và cũng chẳng có lời nào về “đây là cơ sở khoa học đằng sau”: các bài học về virus, dịch tễ và di truyền học được đan xen vào câu chuyện một cách rất tài tình. Trong mỗi chương của “Nguồn gốc dịch bệnh”, những căn bệnh đều dần trở nên rõ ràng, bắt đầu chỉ từ đôi ba tin đồn, vài cái chết bí ẩn dường như chẳng hề liên quan đến nhau. Quá trình điều tra dần dần bóc gỡ vấn đề, cho đến khi cuối cùng chân tướng của thủ phạm được phơi bày. Trong suốt quá trình đó, chúng ta sẽ được thấy muôn vàn cách mầm bệnh có thể di chuyển từ vật chủ này sang vật chủ khác – qua phân, dịch tiết, chấy nhầy và máu – và khám phá những hành vi nguy hiểm có thể dẫn đến phơi nhiễm: leo cây, uống nhựa chà là, ăn hay chỉ đơn thuần là chạm vào động vật đã chết… Quammen cũng tìm kiếm cả những đồng phạm không cố ý: những loài động vật mang mầm bệnh trước khi truyền cho người: lợn, chim, khỉ, khỉ đột và dơi. Những người hùng thực sự ở đây là những vị thám tử – những nhà khoa học làm việc không ngừng nghỉ, từ phòng thí nghiệm cho đến nơi thực địa, tìm kiếm lời giải cho những vụ án do những tên sát nhân nhỏ bé gây ra. Không chỉ tài ba trong việc mô tả cách hoạt động của virus, Quammen còn rất thành công trong việc vẽ lên bức chân dung của những người hùng đó: từ những nhà sinh học phân tử nghiên cứu về SARS “với bản năng của một nhà dịch tễ học cùng sự dũng cảm của một con khỉ mặt đỏ”, cho đến nhà sinh thái học đam mê những món ăn phương Đông kỳ lạ, cho đến chuyên gia bệnh thú y với “thân hình rắn rỏi và nghiêm nghị của một cựu cầu thủ bóng bầu dục đã qua tuổi 40 tuổi”. Những chi tiết lịch sử cũng vô cùng thú vị: các nhà khoa học Thế kỷ 19 sử dụng kính hiển vi quang học để tìm kiếm các sinh vật nhỏ bé trong tế bào máu của bệnh nhân sốt rét, trong khi virus vẫn tiếp tục nấp sau tấm màn bí ẩn cho đến khi kính hiển vi điện tử được phát minh vào những năm 1930. Còn cả những dấu mốc lịch sử quan trọng: Tổng thống Hoover cấm nhập khẩu vẹt vào nước Mỹ; sự bùng phát của viêm khớp và phát ban, trước khi được liên hệ với bọ ve hươu, tại thị trấn Lyme tại bang Connecticut; và loạt ca bệnh tưởng chừng vô hại, nhưng thực tế lại chết người, trên hàng loạt bệnh nhân nam tại Mỹ vào những năm 1980. Quammen mang chúng ta theo chuyến đi khắp miền thế giới, từ những phòng thí nghiệm chuẩn mực cho đến nơi thực địa cùng các điều tra viên – bẫy dơi tại Trung Quốc, khỉ tại Bangladesh, thâm nhập sâu vào cánh rừng ở Cameroon để nghe về những nghi thức trưởng thành cần hiến lên tay khỉ. Đến phần cuối cuốn sách, chúng ta sẽ bỏ lại thực tại một chút để bước lên chuyến du hành viễn tưởng đi tìm nguồn gốc của HIV, đan xen cùng hành trình của chính Quammen dọc theo sông Congo. Một trong những đoạn ấn tượng nhất của cuốn sách “Nguồn gốc dịch bệnh” là khi Quammen kể lại sự bùng nổ sâu bướm lều tại thị trấn quê nhà ở tây Montana năm 1993, “như một đại dịch trong Kinh thánh”. Ông viết: “Trong những đêm tháng Sáu, chúng ta có thể đứng dưới tán cây và nghe thấy những âm thanh lách tách như tiếng lửa, là tiếng chất thải của chúng rơi xuống trong tán lá.” Và rồi cũng đột ngột như khi xuất hiện, lũ sâu biến mất. Mãi sau này ông mới biết nguyên nhân sự sụp đổ của quần thể sâu bướm là do một loại virus gây bệnh. Liệu con người, ông tự hỏi, có phải hứng chịu số phận tương tự hay không? Cũng như loài sâu bướm lều, chúng ta quá đông đúc trên hành tinh này, và dân số loài người vẫn ngày một tăng lên. “Chính chúng ta cũng là một loại dịch bệnh”, ông viết, và là đối tượng cho một đại dịch chết người dễ dàng đánh gục cả nền văn minh nhân loại. Sự xuất hiện của những căn bệnh lây truyền từ động vật – những mầm bệnh tìm đến chúng ta từ những loài sinh vật khác – không phải điều gì mới mẻ, nhưng đang có xu hướng tăng lên, và Quammen đi tìm lý do ẩn sau hiện tượng đó trong chương cuối cùng của cuốn sách: dân số khổng lồ của loài người, cùng với lượng gia súc vô cùng lớn, sự hủy diệt của môi trường sống tự nhiên, những hệ sinh thái bị phá vỡ – những thứ hoàn toàn có thể biến thành cuộc tranh cãi về sự trả thù của tự nhiên lên loài người. Nhưng Quammen không phải một nhà hoạt động vì môi trường đầy lãng mạn và lòng trắc ẩn. Ông nhấn mạnh, một cách đầy cẩn trọng, rằng con người chính là một phần của tự nhiên – và đó chính là vấn đề. VỀ TÁC GIẢ David Quammen – Một trong những nhà báo và tác giả ảnh hưởng nhất hiện nay, ba lần được trao tặng giải thưởng Tạp chí Quốc gia Hoa Kỳ. Các bài viết của ông được đăng tải trên các tạp chí nổi tiếng như National Geographic, New York Times, Rolling Stone và Harpers. Cuốn sách “Nguồn gốc dịch bệnh”, được xuất bản năm 2012, mang đến góc nhìn khoa học về các mầm bệnh gây bệnh trên động vật, và đôi khi lây truyền cho chính con người. Bằng kiến thức và trải nghiệm thực tế, những phân tích – cũng như dự đoán – của ông đã thu hút sự quan tâm và chú ý của rất nhiều phương tiện truyền thông trên toàn thế giới. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ SÁCH “Cuốn sách đáng sợ nhất mà bạn sẽ đọc trong năm nay.”  – The Daily Beast “[Một] chuyến đi đầy tham vọng và mang tính bách khoa … Ông. Quammen đã làm một công việc tuyệt vời khi cho thấy lượng kiến ​​thức khoa học là tạm thời, với những ẩn số lớn về các bệnh truyền nhiễm.” – Richard Preston, tác giả của The Hot Zone “David Quammen đã làm được điều đó một lần nữa. Hấp dẫn và đáng sợ, Spillover là một bộ phim kinh dị đời thực với kết cục ảnh hưởng đến tất cả chúng ta.” – Elizabeth Kolbert, tác giả của The Sixth Extinction “Nguồn gốc dịch bệnh” là một kiệt tác báo cáo khoa học đáng sợ và hấp dẫn, giống như một câu chuyện trinh thám. David Quammen đưa chúng ta vào cuộc tìm hiểu về AIDS, Ebola và các căn bệnh khác có chung một điểm chung đáng sợ: chúng đều nhảy từ động vật hoang dã sang người. Giải thích cho xu hướng đang phát triển này, Quammen không chỉ đưa ra lời cảnh báo về những căn bệnh mà chúng ta sẽ phải đối mặt trong tương lai, anh ấy còn khiến chúng ta suy ngẫm về vị trí của chúng ta với tư cách là con người trong hệ sinh thái trái đất. ” – Walter Isaacson, tác giả của Leonardo Da Vinci “David Quammen là một trong những nhà báo khoa học hiếm hoi có sự pha trộn giữa sự khám phá với tài năng tổng hợp và kể chuyện.” – Nathan Wolfe – Nature *** Loại virus được biết đến với cái tên Hendra không phải loại vi sinh vật nguy hiểm mới đầu tiên. Hiển nhiên cũng không phải loại đáng sợ nhất. Thậm chí, so với một số khác, nó còn là thứ yếu. Số lượng tử vong do loài virus này gây ra ngay từ đầu đã rất nhỏ, và vẫn duy trì ở mức thấp như vậy; phạm vi địa lý của virus chỉ thu hẹp ở mức địa phương, và những đợt bùng phát sau đó cũng không đưa căn bệnh lan rộng hơn bao nhiêu. Virus Hendra xuất hiện lần đầu tiên ở gần Brisbane, Úc vào năm 1994 với có hai ca nhiễm bệnh và một trong số đó tử vong. Hay chính xác hơn: hai người mắc bệnh, một trong hai đã tử vong. Những sinh vật khác cũng mắc bệnh và tử vong, bao gồm hơn chục con ngựa, và chúng cũng là một phần của câu chuyện này. Đề tài dịch bệnh trên động vật và dịch bệnh trên người, như chúng ta sắp được tìm hiểu, có mối quan hệ chặt chẽ với nhau như những sợi dây trong một bện thừng. Đợt bùng phát đầu tiên của virus Hendra dường như không mấy đáng sợ hay mang tính thời sự, trừ khi bạn sống ở miền đông nước Úc. Nó không thể sánh với một trận động đất, một cuộc chiến tranh, một vụ xả súng ở trường học hay một cơn sóng thần; nhưng đầy kỳ lạ và ma quái. Dù hiện nay người ta đã biết nhiều hơn về nó, ít nhất là trong giới bệnh lý học, nhưng virus Hendra, dù có bớt ma quái hơn, dường như vẫn rất kỳ lạ. Một nghịch lý hoàn toàn: cận biên, lẻ tẻ, nhưng ở một góc độ lớn hơn lại mang tính đại diện. Chính vì lý do đó, Hendra là dấu mốc quan trọng hướng tới hiểu được sự xuất hiện của những thực thể chết người trên hành tinh này – cũng như sự thật là chúng mang đến cái chết của hơn 30 triệu người kể từ năm 1981. Những câu chuyện đó liên quan tới hiện tượng mang tên Bệnh Lây truyền từ Động vật. Sở dĩ có cái tên như vậy bởi đó là những căn bệnh có khả năng lây truyền sang người. Và chúng có số lượng nhiều hơn bạn nghĩ. AIDS là một căn bệnh như thế. Và cúm là cả một phân nhóm cho những bệnh còn lại. Xem xét tổng thể những căn bệnh này dường như củng cố nhận định từ lâu của Darwin (nhận định đen tối nhất của ông – được nhiều người biết đến và thường xuyên bị cố ý bỏ quên) rằng loài người là một loài động vật, có liên hệ mật thiết với những loài động vật khác: từ nguồn gốc cho đến tiến hóa, khi ốm đau lẫn khi khỏe mạnh. Còn khi xét một cách riêng rẽ, đơn cử trường hợp mơ hồ này ở Úc, đây là lời nhắc nhở vững vàng rằng mọi thứ, bao gồm cả dịch bệnh, đều phải bắt đầu từ đâu đó. 2 Tháng Chín năm 1994, một tai họa khủng khiếp giáng xuống những con ngựa ở vùng ngoại ô phía bắc của Brisbane: những con vật thuần chủng, bóng bẩy và chăm chút, được sinh ra chỉ để chạy đua. Vùng ngoại ô cổ kính với cái tên Hendra, là một khu dân cư lâu đời với các trường đua và những người đam mê đua ngựa; những căn nhà gỗ mà sân sau được cải tạo thành chuồng ngựa; các sạp báo đầy tờ rơi hay những quán café góc đường với cái tên như The Feed Bin (Tạm dịch: Máng ngựa). Con ngựa đầu tiên nhiễm bệnh là một con ngựa cái với lông màu nâu đốm đen tên là Drama Series, đã được cho nghỉ đua vì mang thai, và sắp đẻ. Drama Series bắt đầu biểu hiện những dấu hiệu của vấn đề trong một chuồng ngựa trên đồng cỏ nghèo nàn vài dặm về phía tây nam Hendra, nơi mà những con ngựa được đưa tới để nghỉ ngơi giữa các cuộc đua. Đáng ra Drama Series sẽ ở lại đó cho tới trước lúc sinh nở, nếu nó không bị ốm. Tuy vậy, tình trạng của con ngựa cái không quá xấu – ít nhất là tại thời điểm đó. Nó chỉ có vẻ không được ổn, và người huấn luyện cho rằng nó sẽ khỏe lại. Người huấn luyện tên là Vic Rail: một người đàn ông từng trải với dáng người nhỏ bé, áp đặt nhưng dễ mến, với mái tóc nâu vuốt ngược và nổi tiếng với phương pháp luyện tập cứng rắn trong giới đua ngựa địa phương. “Cứng rắn nhưng dễ mến”, có thể tóm gọn Vickie bằng một câu như vậy. Một số người có thể không ưa gì anh ta, nhưng không ai phủ nhận rằng anh biết rất rõ về những con ngựa. Bạn gái của Rail, Lisa Symons, là người đã đem xe kéo ngựa tới để đón Drama Series. Con ngựa cái miễn cưỡng di chuyển. Chân của nó có vẻ bị mỏi. Quanh vùng môi, mi mắt và hàm có những vết sưng. Trở về khu chuồng nhỏ của Rail ở Hendra, Drama Series đổ mồ hôi đầm đìa và tỏ ra uể oải. Với hi vọng chăm nom ngựa mẹ và cứu lấy con con, anh ép nó ăn cà rốt bào và mật mía nhưng không thành. Sau nỗ lực, Vic Rail đi rửa hai bàn tay và cánh tay, dù sau này khi ngẫm lại, có vẻ như điều đó không đủ. Hôm đó là thứ Tư, ngày 7 tháng Chín năm 1994, Rail gọi cho bác sĩ thú y Peter Reid, một người đàn ông cao lớn, nghiêm túc và chuyên nghiệp, để đến khám cho Drama Series – lúc này đang được nhốt trong ô riêng tại khu chuồng bê tông với sàn phủ cát, gần với những con ngựa khác của Rail. Bác sĩ Reid không tìm thấy dịch quanh mũi hay mắt của nó, hay bất kỳ dấu hiệu nào của sự đau đớn. Tuy vậy, con ngựa chẳng còn giữ được chút nào vẻ vạm vỡ trước đây. “Suy nhược thể chất” là kết luận của ông. Thân nhiệt và nhịp tim của nó đều cao. Reid để ý thấy những vết sưng trên mặt. Khi mở miệng con ngựa ra để kiểm tra lợi, ông thấy những mẩu cà rốt bào mà nó chẳng buồn hoặc chẳng thể nuốt. Sau cùng, ông ta tiêm cho nó thuốc kháng sinh và giảm đau, rồi ra về. Khoảng sau bốn giờ sáng ngày hôm sau, Reid nhận được cuộc gọi thông báo: Drama Series đã ra khỏi chuồng của nó, đổ gục trên sân, và đang hấp hối. Tới khi Reid đến nơi, con ngựa đã chết. Mọi thứ diễn ra nhanh và khủng khiếp. Bị kích động do tình trạng sức khỏe xấu đi, con ngựa lết ra ngoài, ngã xuống một vài lần khiến chân rách toạc đến xương, đứng dậy, rồi đổ gục ở sân trước. Người trông coi chuồng ngựa đã phải đè nó xuống đất. Con ngựa cố gắng vùng vẫy trong tuyệt vọng và va vào một chồng gạch. Lần này để giữ nó nằm xuống, người coi chuồng cần đến cả sự hỗ trợ của Rail. Để giúp Drama Series thở, Rail đã chùi đi chỗ bọt trên mũi của con ngựa – một nỗ lực hoàn toàn vô ích. Reid kiểm tra cái xác và phát hiện một chút bọt vẫn còn sót lại trong lỗ mũi, nhưng không khám nghiệm tử thi bởi Vic Rail không có vẻ hứng thú đến thế, và, cũng không ai đoán trước được tình trạng khẩn cấp sắp xảy để, khi mà mọi chi tiết dù là nhỏ nhất cũng có thể trở nên vô cùng quan trọng. Xác của Drama Series cứ thế được một chiếc xe tải hợp đồng chở tới bãi tập kết của vùng Brisbane. Nguyên nhân gây ra cái chết của con ngựa vẫn chưa được xác định. Liệu có phải nó bị rắn cắn? Hay ăn phải loại cỏ độc nào đó trong cái chuồng bụi bặm, xập xệ đó? Những giả thuyết đó nhanh chóng sụp đổ sau 13 ngày, khi những con ngựa khác trong chuồng nối tiếp nhau bị ốm. Đây không thể là do rắn cắn hay thức ăn độc. Phải là thứ gì đó truyền nhiễm. Những con ngựa còn lại bị sốt, suy hô hấp, mắt đỏ ngầu, co giật, và lờ đờ; một số có bọt máu sùi ra từ lỗ mũi và miệng, số khác lại bị sưng ở mặt. Reid chứng kiến thấy một con ngựa sục miệng điên cuồng vào một xô nước, trong khi một con khác điên cuồng đập đầu vào bức tường bê tông. Mặc cho nỗ lực của Reid và những người khác, chỉ trong vài ngày đã có thêm 12 con ngựa tử vong. Reid sau đó thừa nhận rằng: “tốc độ lây lan giữa những con ngựa thật khó tin,” nhưng tại thời điểm đó, không ai hiểu được vấn đề là gì . Thứ gì đó lây lan qua những con ngựa. Thời điểm tồi tệ nhất, chỉ trong 12 giờ, họ phải chứng kiến bảy con ngựa chết trong đau đớn quằn quại, đến mức một số trường hợp họ phải thực hiện an tử . Bảy con ngựa chỉ trong mười hai giờ – đó là một thảm kịch, ngay cả với một bác sĩ thú y dày dạn kinh nghiệm. Một trong số chúng, con ngựa cái có tên Celestial Charm, đã vùng vẫy và thở hổn hển một cách tuyệt vọng đến lúc tắt thở, khiến Reid không thể tới gần để cho nó mũi tiêm nhân đạo. Con ngựa thiến 5 tuổi mà Rail gửi tới một chuồng ngựa phía bắc phát bệnh ngay khi đến, và người ta cũng phải kết thúc sự sống của nó không lâu sau đó. Một bác sĩ thú y đã khám nghiệm tử thi con ngựa thiến và phát hiện tình trạng xuất huyết trên toàn bộ nội tạng. Chuồng ngựa ở góc đường lân cận chuồng ngựa của Rail ở Hendra, cùng lúc đó, một con ngựa thiến khác cũng đổ bệnh với triệu chứng tương tự, và cũng bị buộc phải cho an tử. Điều gì gây nên tình trạng hỗn loạn này? Làm thế nào nó có thể lây lan từ con ngựa này qua con ngựa khác, hay đồng thời tiếp cận được nhiều ngựa đến thế cùng một lúc? Có khả năng là một tác nhân độc hại nào đó trong nguồn cung thực phẩm. Hay thuốc độc, từ những kẻ thù hằn. Ngoài ra, Reid cũng bắt đầu tự hỏi liệu đây có thể do một loại virus lạ, giống như loại virus gây ra bệnh ngựa châu Phi (AHS), loại bệnh được truyền do ruồi cắn ở vùng Hạ Sahara châu Phi. Virus AHS tác động lên các con la, lừa và ngựa vằn cũng như ngựa nhà, nhưng chưa từng được phát hiện ở Úc, và cũng không lây lan trực tiếp từ ngựa sang ngựa. Hơn nữa, ruồi mang bệnh ở Queensland thông thường không cắn ngựa vào tháng Chín, khi thời tiết mát mẻ. Do đó AHS không phải là câu trả lời hợp lý. Hay nguyên nhân có thể là một loại mầm bệnh lạ? “Tôi chưa từng thấy virus nào gây ra tình trạng như vậy trước đây,” Reid nói. Một người có xu hướng nói giảm nói tránh, ông ta gọi thời điểm đó là “một khoảng thời gian tương đối hoảng loạn.” Reid tiếp tục chữa cho những con ngựa bị bệnh với tất cả các phương tiện cũng như phương pháp ông có, dựa trên chẩn đoán vẫn còn không chắc chắn –kháng sinh, truyền dịch, thuốc chống sốc. Trong khi đó, bản thân Vic Rail cũng bắt đầu đổ bệnh. Người trông coi chuồng ngựa cũng vậy. Thoạt tiên có vẻ họ đều bị cúm – một cơn cúm nặng. Rail tới bệnh viện, nơi tình trạng của ông tiếp tục xấu đi, và qua đời sau một tuần chăm sóc đặc biệt. Nội tạng của ông ngừng hoạt động. Rail cũng không thở được. Khám nghiệm tử thi cho thấy phổi của ông chứa đầy máu, các loại dịch, và (sau khi kiểm tra bằng kính hiển vi điện tử) một loại virus nào đó. Ray Unwin, người coi chuồng, đã về nhà và tự chịu đựng qua cơn sốt, lại sống sót. Peter Reid, dù phải chăm sóc những con ngựa bị bệnh đến mức sùi bọt máu, vẫn khỏe mạnh. Ông và Unwin đã kể cho tôi câu chuyện của mình khi gặp được họ nhiều năm sau đó, sau khi hỏi han xung quanh Hendra và gọi một vài cuộc điện thoại Ở Máng ngựa có người nói rằng: Ray Unwinhả, nhiều khả năng anh ta sẽ ở chỗ của Bob Bradshow. Tôi đi theo chỉ dẫn tới chuồng ngựa của Bradshaw và gặp Unwin ngay ở lối vào với xô cám trong tay. Thời điểm đó, ông ta đã đứng tuổi với mái tóc đuôi ngựa màu đỏ cát với đôi mắt u ám nỗi buồn. Ông hơi ngại khi được từ một người lạ sự chú ý, thứ ông đã nhận đủ từ các bác sĩ, cán bộ y tế công cộng và phóng viên địa phương. Ngay khi ngồi xuống nói chuyện, ông thừa nhận ông không phải là một kẻ hay than vãn, nhưng sức khỏe của ông đã kém đi rõ ràng từ khi chuyện đó xảy ra. Mời các bạn mượn đọc sách Nguồn Gốc Dịch Bệnh - David Quammen.
Du Khách Bất Đắc Dĩ
Macon Leary thường xuyên du hý khắp châu Âu và nước Mỹ để viết sách cẩm nang du lịch. Với nhiều người, đó hẳn là công việc trong mơ. Tuy nhiên tất cả những gì Macon khuyên độc giả của anh lại nhằm mục đích: Làm thế nào để có được cảm giác như ở nhà trong mỗi chuyến đi. Bởi vì anh là một du khách bất đắc dĩ. Trên đường đời cũng vậy. Macon luôn luôn bình lặng đón nhận những đổi thay của cuộc sống, dù đó là niềm vui nho nhỏ hay mất mát lớn lao. Nhịp điệu đều đặn ngày thường đã trở thành sự yên ủi bất tận với anh. Cho đến một ngày kia, trong rạo rực của khu phố nghèo dưới nắng đầu xuân, giữa đống quần áo cũ quăng bừa bộn, nơi gian bếp ấm áp đượm mùi cà phê và bánh nướng của một người phụ nữ đầy sức sống, lần đầu tiên anh đưa ra một quyết định lớn cho cuộc đời của chính mình... Du khách bất đắc dĩ là một trong những tác phẩm thành công nhất của nhà văn Mỹ nổi tiếng Anne Tyler, được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Anne Tyler sinh ngày 25 tháng Mười năm 1941 tại Minneapolis, Minnesota. Mười chín tuổi bà tốt nghiệp Đại học Duke, và hoàn thành luận văn tốt nghiệp ngành Nga học tại Đại học Columbia (New York). Bà làm công việc thủ thư và sưu tầm danh mục một thời gian rồi chuyển tới Maryland. Năm 1963, Tyler kết hôn với Taghi Mohammad Modarressi, nhà tâm thần học đồng thời là tiểu thuyết gia người gốc Iran. Họ có hai con gái. Năm 1997, Modarressi qua đời. Tyler vẫn tiếp tục sống tại Baltimore (Maryland), vùng đất đã trở thành bối cảnh cho hầu hết tác phẩm của bà. Sự nghiệp văn học của Anne Tyler có nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên bà là người khiêm tốn, không khoa trương. Bà không tổ chức các chuyến đi tuyên truyền sách, không phỏng vấn trực tiếp mà chỉ trả lời email, cũng không xuất hiện nhiều trên các phương tiện truyền thông. Cuốn tiểu thuyết thứ chín với nhan đề Dinner at the Homesick Restaurant, tác phẩm bản thân bà hài lòng nhất, đã lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1983. Cuốn tiểu thuyết thứ mười một của bà, Breathing Lessons, đã giành được giảithưởng Pulitzer năm 1989. The Accident Tourist (Du khách bất đắc dĩ) cũng là một cuốn sách hết sức thành công của Anne Tyler, tác phẩm được trao giải thưởng National Book Critics Circle Award và lọt vào vòng chung kết giải thưởng Pulitzer năm 1985. Tác phẩm được dựng phim vào năm 1988 với diễn xuất của hai ngôi sao William Hurt và Geena Davis. *** Họ đã nghĩ sẽ ở lại bãi biển một tuần, nhưng chẳng ai cảm thấy hứng thú gì nên quyết định quay về sớm. Macon lái xe. Sarah ngồi ghế bên cạnh anh, đầu tựa vào của xe. Những mảng trời đầy mây lấp ló sau những lọn tóc nâu rối tung của cô. Macon mặc một bộ vest mùa hè chỉn chu, bộ anh vẫn thường mặc mỗi khi đi du lịch - anh luôn cho rằng so với đồ jean thì bộ này phù hợp cho du lịch hơn nhiều. Quần jean thì cứng, đường may thô mà lại có nhiều đinh rivê. Sarah mặc chiếc đầm hở vai bằng vải bông - loại thường mặc khi dạo biển. Trông họ giống như đi nghỉ về từ hai nơi hoàn toàn khác nhau. Sarah có làn da rám nắng, còn Macon thì không. Anh có dáng người cao lớn, đôi mắt màu xám, nước da trắng xanh, tóc hoe vàng được cắt tỉa gọn gàng. Và làn da anh mỏng đến độ rất dễ bắt nắng. Anh hầu như chẳng bao giờ bước chân ra ngoài vào buổi trưa. Xe vừa chạy lên đường cao tốc thì bầu trời chợt tối sầm lại và dăm ba hạt mưa khổng lồ quất lộp bộp vào kính chắn gió. Sarah ngồi bật dậy, “Mong sao trời không mưa.” Macon bảo, “Mưa ít ít thì chả sao.” Sarah trở lại tư thế cũ, nhưng mắt dán vào con đường trước mặt. Ấy là một buổi sáng thứ Năm. Trên đường không có nhiều xe cộ. Họ vượt qua một chiếc xe tải nhỏ không mui, rồi một chiếc xe tải cỡ lớn trên thùng chi chít miếng nhãn dính lòe loẹt nhưng cũng khá bắt mắt. Mưa quất vào kính chắn gió mỗi lúc một dày hơn, dữ dội hơn. Macon bật cần gạt nước. cần gạt nước đưa qua đưa lại với âm thanh đều đều soàn soạt soàn soạt và mưa đã bắt đầu tí tách xuống mui xe. Thi thoảng một cơn gió mạnh ào tới. Mưa ập xuống rạp cả những vạt cỏ úa dài hai bên đường. Mưa xiên thẳng xuống các bến thuyền, những trại gỗ, các cửa hàng nội thất giảm giá, mọi thư trông tối sầm mù mịt như thể mưa đã đến từ lâu lắm rồi. “Thấy đường chứ anh?” Sarah lên tiếng. Macon bảo, “Hẳn rồi, có gì đâu.” Xe họ đang ở ngay sau một xe moóc vói hai bánh sau xé nước mưa trên đường thành những vạt nước hình vòng cung. Macon đánh tay lái sang trái và vượt. Một màn nước dày đặc táp thẳng vào hông phải xe họ, rồi chiếc xe moóc tụt lại phía sau. Sarah bấu chặt một tay vào bảng đồng hồ xe. “Thật không hiểu anh làm thế nào thấy đường mà lái như vậy,” cô nói. “Có lẽ em nên đeo kính của em vào.” “Anh có thể nhìn đường nếu đeo kính của em hả?” “Không phải anh, em ấy,” Macon nói. “Em cứ để ý kính chắn gió thay vì nhìn đường.” Sarah tiếp tục bấu lấy bảng đồng hồ xe. Khuôn mặt cô khoáng đạt và trầm mặc khiến người ta có cảm giác cô đang điềm tĩnh, nhưng nếu nhìn gần một chút có thể thấy nét căng thẳng ánh lên nơi khóe mắt cô. Chiếc xe quây lấy họ như một căn phòng. Hơi thở họ phả ra làm mờ cả các cửa kính. Mới đây điều hòa chạy và đến giờ vẫn còn quanh quất chút hơi lạnh phả ra từ máy, thoáng cái không khí trong xe đã chuyển sang ngột ngạt khó chịu kèm theo mùi ẩm mốc. Xe phóng nhanh qua một đường hầm. Ngay lập tức không còn cảm thấy mưa nữa. Sarah chực thở phào nhẹ nhõm, nhưng cô chưa kịp thở phào thì tiếng mưa đã lại đập liên hồi lên mui xe. Cô ngoái nhìn khắc khoải về phía đường hầm. Macon tiếp tục nhấn ga về phía trước, tay đặt lơi trên vô lăng. “Anh có thấy cậu bé với chiếc mô tô không?” Sarah lên tiếng. Cô phải nói thật to, cố át đi cái âm thanh ầm ĩ dai dẳng ở bên ngoài. “Cậu bé nào?” “Cái cậu dựng xe bên dưới đường hầm ấy.” “Thật khùng điên mới đi mô tô vào lúc thời tiết như thế này,” Macon nói. “Mà chẳng cứ gì hôm nay, thật điên khùng mới đi mô tô. Em cứ hay để ý những thứ vặt vãnh.” “Ta có thể làm vậy mà,” Sarah bảo. “Dừng xe lại đợi mưa tạnh rồi hãy đi anh à.” “Sarah, nếu cảm thấy chúng mình sẽ gặp nguy hiểm dù chỉ một chút thôi, anh đã tấp vào vệ đường lâu rồi.” “Ồ, em không biết là anh đã có ý như thế đấy." Họ chạy ngang qua một cánh đồng, ở đây mưa dường như nặng hạt hơn, từng mảng từng mảng nước lớn ập xuống oằn những thân ngô, ngập cả những rãnh đất. Vô số vạt mưa khổng lồ tiếp tục quất thẳng vào tấm kính chắn gió. Macon chuyển cần gạt sang tốc độ nhanh hơn. Em không biết anh thật sự để ý nhiều đến điều đó,” Sarah bảo. “Phải chứ?” “Để ý?” “Có một ngày em đã nói với anh, em bảo, ‘Macon, Ethan đã bỏ chúng ta mà đi, thế nên có đôi khi em tự hỏi cuộc sống này còn ý nghĩa gì nữa không.’ Anh có nhớ đã trả lời ra sao không?” “À, anh chưa thể nhớ ngay được.” “Anh đã nói, ‘Em yêu, nói thật, dường như với anh chưa bao giờ có nhiều ý nghĩa để bắt đầu.’ Chính xác lời anh nói đấy.” “Ừm...” “Và anh thậm chí cũng không biết điều đó có gì không ổn.” “Không, chắc là anh không biết.” Xe chạy ngang qua một hàng dài ô tô đậu ngay bên đường, cửa kính mờ đục, mưa rơi trên mặt kính trơn bóng nảy lên những đốm nước trắng lóa. Có một chiếc xe hơi nghiêng như thể sắp đổ xuống dòng bùn đục ngầu bị khuấy tung đang chảy trong rãnh. Macon vẫn duy trì vận tốc cũ. “Chẳng bao giờ anh làm cho em cảm thấy được an ủi,” Sarah nói. “Em yêu, anh đang cố làm điều ấy mà.” “Anh chỉ sống theo cách anh từng sống trước đây. Công việc hàng ngày tầm thường, những lề lối, những thói quen nhàm chán, ngày nào cũng thế. Chẳng có chút gì khiến em có cảm giác được an ủi.” Chứ em nghĩ anh không cần được an ủi sao?” Macon hỏi. "Đâu phải một mình em, Sarah. Anh không hiểu sao em cứ cho rằng nỗi mất mát ấy chỉ có riêng em chịu.” “À, đôi lúc em nghĩ thế thật.” Họ im lặng một hồi. Một vũng nước rộng, có vẻ như thế, ở ngay giữa đường dội nước ngược lên gầm khiến xe đảo sang bên phải. Macon ghìm phanh, rồi chạy tiếp. “Cơn mưa này, chẳng hạn,” Sarah nói. “Anh biết nó khiến em hoảng sợ. Đợi một chút thì có hại gì cơ chứ? Lẽ ra anh nên tỏ ra quan tâm đến cảm giác của em. Lẽ ra anh nên nói với em rằng, có anh ở đây, bên cạnh em lúc này, chẳng còn gì phải lo lắng nữa.” Macon chăm chú nhìn qua kính chắn gió, nước mưa chảy thành dòng trên kính khiến nó trông như cẩm thạch. Anh lên tiếng, “Sarah, anh biết cách. Em biết là anh lái đúng lề lối mà.” “Dẹp anh và những cái cách chết tiệt của anh đi!” “Thêm nữa,” anh tiếp, “nếu em không tìm thấy ý nghĩa gì trong cuộc sống, anh chẳng thể hiểu nổi tại sao một cơn mưa lớn lại khiến em căng thẳng.” Sarah ngồi thụp xuống ghế. “Nhìn kìa!” anh nói. “Một cái nhà lưu động đã bị hất tung qua bãi đậu xe moóc kìa.” “Macon, em muốn ly hôn,” Sarah lên tiếng. Macon đạp phanh và liếc nhanh sang cô. Cái gì? Chiếc xe loạng choạng. Anh lại phải hướng mắt về phía trước. “Anh đã nói gì chứ? anh hỏi. “Em nói vậy là có ý gì?” “Chỉ là em không thể sống cùng anh được nữa.” Macon tiếp tục dõi mắt về con đường phía trước, nhưng mũi anh dường như buốt hơn và nhợt hơn, như thể toàn bộ da mặt anh bị kéo căng. Anh hắng giọng, “Em yêu. Nghe này. Một năm qua thật khó khăn. Chúng mình đã phải trải qua một quãng thời gian đầy khó khăn. Ai mất con cũng thấy như vậy; ai cũng nói như thế; ai cũng cho rằng chuyện đó khiến vợ chồng sống trong căng thẳng...” “Em muốn tìm chỗ ở riêng cho em ngay khi mình về đến nhà,” Sarah nói với anh. “Chỗ ở riêng cho em,” Macon lặp lại lời vợ, nhưng giọng anh quá nhẹ, mà mưa ngoài trời đập vào mui xe thì quá ầm ĩ, nên giống như anh chỉ mấp máy môi. “À, được. Nếu em thật sự muốn vậy.” “Anh có thể giữ lại ngôi nhà ấy. Anh không bao giờ thích chuyển đi mà.” Vì một lý do nào đó, đây chính là điều rốt cuộc khiến Sarah thấy sụp đổ. Cô vội quay đi. Macon bật đèn xi nhan bên phải lên. Anh rẽ vào ga Taxeco, đỗ lại bên dưới mái hiên, tắt máy. Anh xoa xoa lòng bàn tay vào hai đầu gối. Sarah dúi mình vào một góc ghế xe. Âm thanh duy nhất còn nghe thấy được là tiếng mưa rơi vỗ lên mái hiên ở phía xa bên trên đầu họ. Mời các bạn mượn đọc sách Du Khách Bất Đắc Dĩ của tác giả Anne Tyler & Dạ Thảo (dịch).
Warcross Thợ Săn Tiền Thưởng
Warcross Thợ săn tiền thưởng. Cuốn tiểu thuyết viễn tưởng nằm chiễm chệ ở top đầu danh sách những cuốn sách bán chạy trên New York Times trong 16 tuần. Điều gì đã làm nên kì tích này? Đầu tiên về thể loại tiểu thuyết: Một thể loại hết sức là thú vị bởi nội dung cuốn hút, ý đồ, tư tưởng tác giả gửi gắm vào trong đó qua từng câu, từng chữ, từng cuộc hội thoại, từng nhân vật, từng bối cảnh,… Chúng hòa quyện với nhau một cách hài hòa để cô đọng lại trong một cuốn sách vài trăm trang. Để rồi người đọc phải tò mò, đoán này đoán kia, tư duy, nghiền ngẫm, lật đi lật lại từng trang sách xem là tác giả muốn nói gì thông qua những hình tượng đó. Và rồi ta có hiểu thì dường như cũng chỉ hiểu theo tư duy của ta, một phần nào đó là cái đồ, tư tưởng lớn lao kia của người viết. Bởi nó là tiếng nói sâu thẳm của cả một giai cấp, một thời đại, một bối cảnh lịch sử thu nhỏ trong cuốn sách! Dù thời gian có trôi thì những giá trị ấy vẫn còn nguyên, có khi còn vượt cả thời đại, làm nên những cuốn tiểu thuyết kinh điển! Về cuốn sách WARCROSS có lẽ tác giả trọn thể loại tiểu thuyết viễn tưởng để lột tả cái xã hội tương lai của con người khi bối cảnh chính trong cuốn sách là thời kì công nghệ số, con người đắm chìm trong những trò chơi, trong thế giới ảo. Chỉ cần che đe đôi mắt nhìn đời hiện thực bằng một cặp kính là ta có thể sống trong thế giới mơ ước với những cảm xúc thật đến khó tin. Để rồi ta quên đi hiện tại, quên đi những nỗi đau, quên đi áp lực cuộc sống,…thật cám dỗ phải ko nào? Nhân vật chính trong cuốn sách Emika Chen lớn lên trong hoàn cảnh éo le, thiếu thốn tình thương từ mẹ, mất đi nốt người ba cũng là người duy nhất thương yêu chăm sóc cho cô. Ôm những mất mát đó cùng sự xa lánh, bắt nạt trong môi trường giáo dục tạo nên hình ảnh một cô gái vừa mạnh mẽ nhưng cũng đầy sự yếu đuối. Một biến cố lạ lùng đã đưa cô gái này từ New York tới thành phố Tokyo hoa lệ, nơi có một giải đấu Warcross hoành tráng, một âm mưu phá hoại nham hiểm, và cả Hideo Tanaka – chàng CEO tỷ phú điển trai, lạnh lùng đứng đằng sau trò chơi đình đám kia. Emika ngay lập tức vướng vào một mạng lưới đan xen những bí mật và cảm xúc mà cô không thể ngờ tới.Với sự tài tình trong việc sử dụng ngôn từ, khéo léo trong việc sắp xếp bố cục, tác giả đã biến từng câu chữ thành những dòng cảm xúc đan xen, lúc vui lúc buồn, lúc nghẹn ứ, lúc dâng trào trong lòng người đọc. warcross tho san tien thuong Đâu đó, ta thấy mình trong nhân vật, thấy cảm xúc, kí ức của ta rung lên đồng cảm với họ. Ta và Emika Chen như hòa làm một, cùng chung những ước mơ, sở thích, cùng lý tưởng sống cao đẹp muốn vượt lên chính bản thân mình, thoát ra khỏi tình trạng buồn chán hiện tại. Để ta nín thở, dõi theo từng bước đi, từng hành động của cô, tò mò, hồi hộp đoán xem cô sẽ sống và thể hiện tình yêu, bản chất con người mình ra sao?Warcross của Marie Lu quá khác biệt so với những cuốn sách tôi từng đọc — tài tình, thông minh, lãng mạn — nhưng cũng bùng nổ đầy màu sắc, hành động và tốc độ.” Sabaa Tahir, tác giả của An Ember in the Ashes, tiểu thuyết bán chạy số 1 trên New York Times. Nguồn Facebook: Hải Lit *** Marie Lu là nhà văn người Mỹ chuyên viết dòng tiểu thuyết phiêu lưu kỳ ảo dành cho giới trẻ. Trước khi trở thành một nhà văn toàn thời gian, cô là chỉ đạo nghệ thuật ở một công ty sản xuất trò chơi điện tử. Bên cạnh Warcross, các tác phẩm nổi bật của cô gồm có loạt truyện Legend, loạt truyện Young Elites, tiểu thuyết truyện tranh Batman: Nightwalker,… *** Đúng hôm trời rét kinh khủng thế này thì phải đi săn. Tôi rùng mình, kéo khăn choàng che miệng rồi lau đi một vài bông tuyết trên mi mắt. Đoạn, tôi giậm mạnh lên tấm ván trượt điện. Như mọi món đồ khác của tôi, tấm ván này đã cũ và mòn quá rồi. Tuy lớp sơn xanh gần như đã bị trầy hết cả, để lộ ra một lớp nhựa màu bạc rẻ tiền bên dưới, nhưng nó vẫn còn tạm dùng được. Khi tôi nhấn gót ủng thật mạnh, nó rốt cuộc cũng khởi động, kéo tôi bất thình lình về phía trước, len lỏi giữa hai hàng ô tô. Mái tóc sáng, màu cầu vồng của tôi theo gió quất lên trên mặt. “Ê!” Một tài xế hét lên khi tôi vọt qua chiếc xe của ông ta. Tôi ngoái lại về phía cửa kính xe đang mở và thấy ổng đang dứ dứ một nắm đấm về phía tôi. “Tí thì tông vào tao rồi!” Tôi cứ ngoảnh mặt đi và mặc kệ. Thường thì tôi không xấu tính thế này, hoặc ít nhất là cũng hét lên một câu xin lỗi thật to, nhưng sáng nay khi tôi vừa tỉnh dậy, đập vào mắt tôi đã là một tờ giấy thông báo có dòng chữ được in bằng phông chữ lớn nhất từng có: THANH TOÁN TRONG 72 GIỜ TỚI! KHÔNG THÌ BIẾN! Nghĩa là: Tôi đã chậm tiền thuê nhà ba tháng rồi. Thế nên tôi phải có 3.450 đô la ngay và luôn, không thì đến cuối tuần này sẽ phải ra đường ngủ. Thông báo ấy làm tôi nẫu hết cả ruột. Má tôi lạnh buốt vì gió rét. Bầu trời phía trên những tòa nhà vốn đã xám xịt nay ngày càng xám hơn, báo hiệu cơn mưa tuyết bất ngờ này sẽ rơi dày hơn trong vài giờ nữa. Xe ô tô tắc nghẽn cả đường phố, tạo ra một dãy dài toàn đèn phanh và tiếng còi xe, suốt từ đây đến tận Quảng trường Thời đại. Thỉnh thoảng, tiếng còi từ người kiểm soát giao thông lại nổi lên trên nền những âm thanh hỗn loạn. Không khí dày đặc mùi khí thải ô tô, hơi nước bốc lên cuồn cuộn từ một lỗ thông hơi mở gần đó. Từng dòng người đổ xô hết lên lại xuống vỉa hè. Rất dễ nhận ra đám sinh viên tan trường lẫn trong đám đông nhờ những chiếc ba lô và tai nghe nhạc cỡ bự. Đáng ra tôi phải là một trong số đó. Đáng lẽ ra năm nay là năm đầu ở đại học của tôi. Nhưng tôi đã bắt đầu trốn tiết sau khi bố qua đời và bỏ học hẳn từ cách đây vài năm. (Rồi, thực ra, là tôi bị đuổi học, nhưng đằng nào tôi cũng bỏ học mà thôi. Sẽ bàn vụ đó sau.) Tôi ngó xuống điện thoại một lần nữa và tâm trí tôi ngay lập tức trở về với cuộc săn. Hai ngày trước, tôi đã nhận được tin nhắn sau: ... Mời các bạn mượn đọc sách Warcross Thợ Săn Tiền Thưởng của tác giả Marie Lu & Nhóm TownH (dịch).