Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Gót Sắt - Jack London

Năm 1907, Jack London cho ra đời cuốn tiểu thuyết Gót sắt. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của nền văn học Mỹ đề cập đến cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước Mỹ. Đây là cuốn tiểu thuyết viễn tưởng thể hiện những tư tưởng ước mơ xã hội của ông. Nhà văn đã tự đặt mình là con người sống vào thế kỷ XXVI, lúc loài người đã trải qua bốn thế kỷ đại đồng và sau khi đã đập tan cái gót sắt là sự áp bức con người. Tiểu thuyết của nhà văn Mỹ Jack London được sáng tác theo hình thức viễn tưởng, thể hiện lòng khao khát tự do, công lý và niềm tin sâu sắc vào tương lai tất thắng của cách mạng vô sản trên toàn thế giới. *** Jack London là nhà văn nổi tiếng người Mỹ, tác giả Tiếng gọi nơi hoang dã (The Call of the Wild), Gót sắt (Iron Heel), Martin Eden, Tình yêu cuộc sống (Love of Life), Nanh trắng (White Fang) và hơn 50 tác phẩm khác. Các tác phẩm của ông được dịch ra hàng chục ngôn ngữ khác nhau trên thế giới và cho tới nay vẫn được độc giả tìm đọc. Jack London năm 1876 ở thành phố San Francisco, và mãi ra đi vào ngày 22/11/1916 khi mới tròn 40 tuổi. Năm 1896, do mong muốn làm giàu nhanh chóng, ông đã theo chân những người tìm vàng đến vùng Krondike thuộc Canada và đã nếm đủ mùi vất vả. Tại đây, Jack London đã được nghe những kẻ tha phương kể lại những câu chuyện về đói ăn, mất của và về những con chó trung thành.  Tất cả những mẩu chuyện này đã ám ảnh Jack London và ông đã viết thành những câu chuyện danh tiếng như: Đứa con của chó sói (viết năm 1902), Răng nanh trắng (1906), Ánh sáng ban ngày cháy đỏ (1910) và đặc biệt là tác phẩm Tiếng gọi nơi hoang dã (1903) đã gây được tiếng vang lớn, và từ đó Jack London đã có thể sống được bằng nghề viết truyện. *** Gió mùa hè hiu hiu lay động những cây thông khổng lồ và sông Wild-Water vỗ sóng nhịp nhàng vào những tảng đá xanh rêu. Bướm lượn dưới nắng và bốn bề tiếng ong bay vù vù như ru ngủ. Yên tĩnh quá. Thái bình quá. Và tôi ngồi đây, lo lắng, bồn chồn. Chính cái yên tĩnh làm cho tôi bồn chồn. Nó hư hư thực thực thế nào ấy. Khắp thế giới yên tĩnh, nhưng đó là cái yên tĩnh trước cơn giông tố. Tôi lắng tai nghe và tất cả các giác quan của tôi cũng căng lên chờ đón dấu hiệu của cuộc đại biến sắp nổ ra 1. Phải, miễn nó đừng nổ non! Miễn nó đừng bùng ra sớm quá! Tôi bồn chồn cũng không có gì lạ. Tôi suy nghĩ, suy nghĩ liên mien, và không thể đừng suy nghĩ. Tôi vật lộn với cuộc sống đã từ lâu, đến nỗi thấy yên tĩnh là tức thở, không chịu được. Và tôi không thể không nghĩ đến trận cuồng phong chết chóc và tàn phá sắp sửa nổi lên. Trong tai tôi vang lên tiếng kêu gào của những người gục xuống, và tôi có thể nhìn thấy, cũng như tôi đã từng nhìn thấy 2 da thịt mơn mởn của con người bị dập vùi, tan tác, linh hồn con người bị giằng khỏi những tấm thân đầy kiêu hãnh và ném cho Thượng đế. Khốn khổ thay nhân loại chúng ta, muốn đạt đến mục đích của mình phải cố giết chóc, tàn phá, để đem lại cho trái đất một nền hoà bình và hạnh phúc bền vững. Vả chăng, tôi chỉ có một mình. Lúc nào không nghĩ đến những điều tất phải xảy đến thì tôi nghĩ đến những điều đã qua, những điều không còn nữa. Tôi nghĩ đến con Đại bàng của tôi trước kia vẫn dang đôi cánh không biết mỏi ra vùng vẫy giữa trời xanh để bay về phía lí tưởng chói lọi của tự do nhân loại. Lí tưởng đó chính là mặt trời của anh. Tôi không thể ngồi yên để chờ đợi cái biến cố lớn lao do bản thân anh làm ra, mặc dầu anh không còn sống để nhìn thấy nó. Bao nhiêu năm anh sống làm người thì bấy nhiêu năm anh cúc cung tận tuỵ vì nó. Anh đã hiến cả đời anh cho nó. Nó là sự nghiệp của tay anh. Chính anh đã làm ra nó 3. Cho nên trong thời gian chờ đợi lo lắng này, tôi sẽ viết về chồng tôi. Có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh, một con người cao quý dù ca ngợi bao nhiêu vẫn chưa đủ. Tâm hồn anh bao la như biển cả. Và khi tình yêu của tôi đã gột hết lòng vị kỉ thì tôi tiếc nhất là anh không còn sống để chứng kiến buổi bình minh sắp ló ra. Chúng tôi không tài nào thất bại được. Anh đã xây dựng vững chãi quá, chắc chắn quá rồi. Thảm hại thay cái Gót sắt đang dận trên ngực nhân loại! Chẳng bao lâu nữa, nó sẽ bị nhổ bỏ. Khi nào hiệu lệnh tung ra, lao động khắp thế giới sẽ dấy lên tầng tầng lớp lớp. Chưa bao giờ có một việc như thế trong lịch sử loài người. Sự đoàn kết của lao động đã được đảm bảo, và lần đầu tiên sẽ nổ ra một cuộc cách mạng quốc tế bao trùm cả thế giới 4. Như các bạn đã thấy, óc tôi nghĩ miên man về sự kiện sắp xảy ra. Tôi sống miệt mài với nó, sống ngày, sống đêm, sống rất lâu, đến nỗi nó luôn luôn hiện ra trong tâm trí tôi. Tôi không thể nghĩ đến chồng tôi mà không nghĩ tới nó. Chồng tôi là linh hồn của nó, làm sao trong tư tưởng tôi có thể tách rời chồng tôi với nó được? Như tôi đã nói, có nhiều điều chỉ mình tôi có thể nói rõ về anh. Ai cũng biết anh đã vì tự do mà chịu nhiều gian truân, đau khổ. Anh đã làm việc cực nhọc đến thế nào, đã đau khổ ghê gớm như thế nào, tôi biết hết. Vì tôi đã sống bên anh suốt hai mươi năm sóng gió vừa qua và tôi biết rõ lòng kiên trì, sự cố gắng không mệt mỏi và sự tận tuỵ không bờ bến của anh đối với Sự Nghiệp chung. Anh đã chết cho Sự Nghiệp, mới cách đây hai tháng. Tôi sẽ cố viết giản dị và kể ra đây Ernest Everhard đã bước vào đời tôi như thế nào – thoạt tiên, tôi gặp anh ra sao, vì duyên cớ gì tôi đã thành một phần của chính mình anh, và anh đã gây cho đời tôi những biến đổi ghê gớm như thế nào. Như vậy, các bạn có thể nhìn anh qua mắt tôi, và biết về anh cũng như bản thân tôi – biết hết, trừ những chuyện riêng của vợ chồng chúng tôi. Tôi gặp anh lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1912. Anh là khách của ba tôi và hôm ấy anh đến ăn cơm ở nhà tôi, tại thành phố Berkeley. Có thể nói, ngay từ lúc đầu, tôi không có cảm tình với anh. Ngoài anh ra, còn nhiều khách khứa khác. Chúng tôi đang ngồi trong phòng khách chờ mọi người đến đông đủ thì anh vào, trông đến là thảm hại. Tối hôm ấy là tối họp mặt của các mục sư – ở nhà, ba tôi 5 vẫn thường gọi thế. Ngồi giữa các nhà tu hành, Ernest nhất định là lạc lõng. Trước hết, quần áo anh không vừa người anh. Anh bận một bộ đồ may sẵn bằng vải sẫm, xộc xà xộc xệch. Trong thực tế, chẳng có thứ quần may sẵn nào mà anh mặc vừa. Tối hôm ấy, mà bao giờ cũng thế: các bắp thịt của anh hằn lên mặt vải. Vai anh u lên, và cái áo vét-tông anh bận dăn dúm cả ở giữa hai vai. Cổ anh banh ra, chắc nịch: giống hệt cổ những kẻ đi đánh nhau ăn giải 6. Tôi nghĩ bụng: Té ra nhà triết học xã hội, nguyên làm nghề bịt móng ngựa, mà ba tôi đã phát hiện được, ngài là như thế đấy. Vai u thịt bắp như thế, thật đúng quá đi rồi. Tôi liền liệt anh vào hạng dị nhân và coi anh như một lão Blind Tom 7 của giai cấp công nhân. Rồi anh lại bắt tay tôi nữa kia chứ! Anh xiết mạnh quá, chặt quá, nhất là anh nhìn tôi một cách táo tợn bằng cặp mắt đen lay láy – táo tợn quá, theo ý tôi. Các bạn cũng thừa hiểu tôi là sản phẩm của hoàn cảnh và khi ấy bản năng giai cấp của tôi rất mạnh. Giá một người đàn ông thuộc giai cấp tôi cũng táo tợn như thế thì không thể nào tha thứ được. Tôi đành cúi nhìn xuống đất. Lúc anh đi khỏi, tôi nhẹ cả người, quay lại nhìn đức Giám mục Morehouse. Đức Giám mục là một người tôi rất mến, một người đứng tuổi, hiền hoà, nghiêm chỉnh, tướng mạo và từ tâm hệt như đức Chúa. Chẳng những thế, Người còn là một nhà học giả. Nhưng cái táo tợn mà tôi tưởng là tự phụ đó lại là đầu mối cho tôi tìm hiểu bản chất của Ernest Everhard. Anh giản dị, ngay thẳng, chẳng biết sợ cái gì và không thích mất thì giờ vào việc xã giao. kiểu cách. Mãi về sau, anh giải thích: “Em rất hợp ý anh, làm sao anh lại không nhìn thẳng vào người mà anh ưa thích?” Tôi đã bảo, anh chẳng sợ một cái gì. Anh là người bản chất quý phái, mặc dầu anh đứng trong phe thù địch của bọn quý phái. Anh là một siêu nhân, một “Con vật tóc vàng” như Nietzsche 8 đã miêu tả, và cộng thêm vào đó, anh mang những tư tưởng dân chủ cháy rực trong người. Vì mải tiếp những người khác, và cũng vì sẵn có ấn tượng xấu, tôi quên khuấy mất nhà triết học của giai cấp công nhân, mặc dầu tôi có chú ý đến anh một hai lần trong bữa ăn – đặc biệt là lúc anh long lanh đôi mắt nghe các vị mục sư nói chuyện. Tôi nghĩ bụng: anh là người vui tính và tôi hầu như tha thứ cho cách ăn mặc của anh. Nhưng thời gian cứ đi, bữa ăn cứ tiếp tục, anh vẫn không buồn nói nửa lời. Trong khi ấy, các vị mục sư bàn luận miên man về giai cấp công nhân, về quan hệ của nó với Nhà thờ. Nhà thờ đã làm gì và đang làm gì cho nó. Tôi nhận thấy Ernest không nói làm cho ba tôi không bằng lòng. Nhân một lúc im lặng, ba tôi yêu cầu anh phát biểu, nhưng Ernest nhún vai: “Tôi chẳng có điều gì muốn nói cả” và lại ngồi ăn hạnh đào muối. Nhưng ba tôi không chịu. Một lúc sau ba tôi bảo: - Chúng ta có một người giai cấp công nhân ở đây. Tôi tin chắc người đó có thể trình bày các việc theo một quan điểm mới, vừa hay lại vừa bổ ích. Tôi muốn nói ông Everhard. Những người khác tỏ vẻ thích thú một cách lịch sự và giục Ernest tuyên bố những quan điểm của mình. Thái độ của họ hết sức khoan dung, hoà nhã: đúng là thái độ của những kẻ đỡ đầu. Tôi thấy Ernest cũng nhận ra điều ấy và anh lấy thế làm khoái lắm. Anh chậm rãi nhìn bốn xung quanh và mắt anh sáng lên một cách ranh mãnh. - Tôi quả thật không quen với những cuộc tranh luận tao nhã của Giáo hội, – anh bắt đầu được mấy lời đã ngập ngừng ngay, vẻ mặt khiêm tốn và do dự. Họ giục: “Ông cứ tiếp tục đi!” và bác sĩ Hammerfield bảo: “Chân lí dù ở miệng ai nói ra chúng tôi cũng đều không ngại. Miễn là nó trung thực”. - Vậy ra ngài tách rời trung thực khỏi chân lí ư? – Ernest cười hỏi rất nhanh. Bác sĩ Hammerfield luống cuống trả lời: - Giỏi đến đâu cũng phải có lúc nhầm, ông bạn trẻ ạ. Người giỏi nhất trong chúng ta cũng phải có lúc nhầm. Ernest bỗng thay đổi hẳn. Anh đã thành một người khác. - Vâng, được, – anh đáp. – Và tôi xin phép bắt đầu bằng câu này: là các ngài nhầm tuốt. Các ngài không biết gì về giai cấp công nhân, không biết một tí gì hết. Khoa xã hội học của các ngài sai bét và vô giá trị, cũng như phương pháp suy luận của các ngài. Những lời anh nói chính lại không nặng bằng cách anh nói. Tôi giật cả mình trước hết vì giọng nói của anh. Nó cũng táo tợn không khác gì hai con mắt anh. Nó là một tiếng kèn chiến đấu và nó làm cho toàn thân tôi rung lên. Bàn tiệc xao động. Cái không khí đều đều buồn tẻ bị phá vỡ. - Ông bạn trẻ tuổi! Phương pháp suy luận của chúng tôi có chỗ nào sai lầm và vô giá trị ghê gớm đến thế kia, thưa ông? – Bác sĩ Hammerfield hỏi, vẻ khó chịu thoáng hiện ra giọng nói và cách phát biểu của ông. - Các ngài là những nhà siêu hình học. Các ngài có thể dùng siêu hình học để chứng minh bất cứ một cái gì, và xong thì mỗi nhà siêu hình học lại có thể tuỳ thích chứng minh rằng các nhà siêu hình học khác là sai. Các ngài là những kẻ vô chính phủ trong lĩnh vực tư tưởng. Các ngài là những nhà chế tạo ra vũ trụ. Điên rồ ơi là điên rồ! Mỗi ngài sống trong một vũ trụ riêng, do trí tưởng tượng riêng và những sở thích riêng của mình tạo nên. Các ngài không biết gì về cái thế giới thực các ngài đang sống, và tư tưởng điên loạn của các ngài hoàn toàn không có chỗ đứng trong thực tại. ... Mời các bạn đón đọc Gót Sắt của tác giả Jack London.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Leo Lên và Tụt Xuống - Azit Nexin
Azit Nexin là nhà văn trào phúng nổi tiếng của đất nước Thổ Nhĩ Kỳ. Những chi tiết nhỏ nhặt trong cuộc sống như chuyện uống trà, cưới hỏi, vệ sinh ăn uống... qua con mắt của Nexin đều mang một ý nghĩa hài hước và thú vị bởi ông luôn có những liên tưởng hết sức độc đáo, sáng tạo. Những châm biếm đả kích của ông lại rất tế nhị mà sâu sắc, khiến người đọc cười đó mà cũng không khỏi suy ngẫm.  Những truyện ngắn trào phúng đặc sắc nhất của Azit Nexin đã được chọn lọc tập hợp trong bộ truyện "Azitnexin", hi vọng bộ sách sẽ đem lại cho các bạn những phút cười sảng khoái. Tập truyện cười Leo Lên và Tụt Xuống gồm có: Con chó và đoàn tàu Hỡi các con, Hãy khôn lớn thành người! Chú lừa nhận huy chương Tiếng đàn tam bura Giải sầu chủ nhật Chúng tôi muốn nuôi người ở Tại sao mèo chạy cụp đuôi Bà chủ Cái kính Quê hương đất nước muôn năm! Bí quyết của lòng ngoan đạo Điệp viên OX-13 Hội cứu vớt gia đình Hét thật to vào! Một đêm khủng khiếp Bức thư gửi người ngồi trong ghế bành Leo lên và tụt xuống Chúng tôi đã chịu đựng gian khổ như thế nào? Đồng hồ của ông mấy giờ rồi ạ? Trả tiền sợ Chế độ bầu cử đại cử tri Tôi đã nói chuyện với Atachúc Nhiệm vụ quan trọng Một trăm lia tiền thưởng Người chồng của bà Aiten Những bức thư từ thế giới bên kia Người lính da đen *** Tôi cho rằng, tấm ảnh này được cắt từ báo, anh cũng nhìn thấy: người lính da đen bị thương, có súng tự động trong tay, chưa kịp bắn, dưới hoả lực mạnh mẽ đang tìm chỗ che chắn, ẩn nấp, cứu tính mạng. Người con trai da đen Châu Phi đã đến đây giao chiến chống lại trên mặt đất và trong không gian, chàng trai cao lớn và khoẻ mạnh, với bộ mặt dễ mến, trông có vẻ bé bỏng đáng thương. Bây giờ bộ mặt đó nhăn nhó, méo mó vì sợ hãi và đau đớn. Khi nhìn vào tấm ảnh, tôi như nghe thấy tiếng gào thét vô vọng. Có thể ngày trước người lính da đen bất hạnh chưa biết tên nước này, không có khái niệm nước đó ở đâu. Người ta đã gửi anh đến đây, để bắn giết những người Việt Nam đang vùng dậy bảo vệ tổ quốc và nền độc lập của mình. Tôi nhìn vào tấm ảnh người lính. Anh tươi tỉnh, đứng thẳng người, tôi muốn hỏi: - Cậu đã để quên gì ở đây? Đến đây làm gì? - Bảo vệ nền tự do, giải phóng... Phải, người ta đã nói như vậy với thanh niên da đen này từ Châu Phi. Tôi đã thấy vài người Việt Nam, cả Nam và Bắc, từ mặt trận, đến hội nghị Hoà Bình thế giới... Dáng vẻ hiền dịu mảnh khảnh. Tiếng cười giòn tan. Những ngón tay họ mềm dịu, mảnh mai. Tôi hình dung, những bàn tay này ném lựu đạn, bóp cò súng ra sao. Đúng, những bàn tay này đã góp phần bảo vệ tổ quốc của mình. Khởi sự xâm lược của ai? Của những người lính da đen Châu Phi như thế đó. Có lẽ, người ta đã nói với người da đen Châu Phi, rằng người Việt Nam gồm phụ nữ, trẻ nhỏ, các cụ già là kẻ thù chính của tự do trên trái đất. Người lính da đen, cậu đến đây bảo vệ sự tự do nào? Phải chăng không là sự tự do ở Châu Phi, do những người hạ đẳng bảo vệ? Người lính da đen bị găm lỗ chỗ những viên đạn chì, quằn quại đau đớn. Máu chảy khắp người. Đất Việt Nam thấm máu này, từ người lính quân đội nước ngoài chảy xuống. Anh nghĩ thoáng qua chăng, vì cái gì anh chết? Vì cái gì nào? - Vì tự do ư! ... Mời các bạn đón đọc Leo Lên và Tụt Xuống của tác giả Azit Nexin.
Ngực Và Trứng - Mieko Kawakami
Câu chuyện liên quan đến chuyến đi thăm ngắn của một phụ nữ và cô con gái từ Osaka đến một căn hộ ở Tokyo của người em gái, mà cò vai trò là người tường thuật trong câu chuyện; người chị gái 39 tuổi là Makiko, đến thăm Tokyo; và cô con gái đến tuổi dậy thì của Makiko là Midoriko. Makiko là một bà mẹ độc thân, là một nữ hầu bàn ở quán bar, và đang nghĩ cách để làm to bộ ngực của mình lên thông qua phẫu thuật; Midoriko là một đứa trẻ buồn rầu, suốt ngày im lặng. Cả 2 bọn họ đến thăm em gái của Makiko, người dẫn chuyện, ở Tokyo, và câu chuyện diễn ra trong thời gian 3 ngày trong chuyến đi thăm của họ. Chuyện kể được đặt rải rác với các trích đoạn nhật ký của Midoriko. Chủ đề của cuốn sách là những người phụ nữ họ cảm thấy về cơ thể của họ như thế nào. Chúng ta chưa bao giờ tìm hiểu được ngọn nguồn vì sao Makiko muốn ngực của mình to lên, vấn đề tranh cãi thực sự được đưa ra là liệu cô ấy làm việc đó cho chính bản thân mình hay cho những người đàn ông. Trong lúc đó, cô bé Midoriko lại lo sợ về điều đó, và bị ám ảnh về chu kỳ rụng trứng, kinh nguyệt của phụ nữ. Cô bé ghét phải sinh sản, ghét suy nghĩ về sinh sản. Và thương hại mẹ cô, và mong muốn giá mà mẹ đã không sinh ra mình. Đây là một vấn đề đang gây tranh cãi, và được đông đảo giới trẻ quan tâm. Cuốn sách đoạt Giải thưởng văn học uy tín nhất của Nhật Bản Akutagawa dành cho các tác giả trẻ năm 2008. *** Mieko Kawakami vốn là một blogger đang được xếp vào vị trí trang trọng trên văn đàn Nhật, thậm chí ngay cạnh Haruki Murakami. Trước khi viết văn, Mieko Kawakami là một ca sĩ và một nhạc sĩ. Sau đó, cô chuyển sang làm thơ và tìm đến blog như là một nơi để thổ lộ, bày tỏ những cảm nhận, suy nghĩ của mình về những điều xảy ra trong cuộc sống của cô, cũng như trong một nước Nhật hiện đại. Tiểu thuyết đầu tay của Mieko là cuốn sách được cô viết trước tiên trên mạng Internet. Đến nay cô đã viết được 4 cuốn và cuốn gần đây nhất Ngực và Trứng, vừa đoạt giải Akutagawa, một trong những giải văn học Nhật lớn nhất dành cho tiểu thuyết gia mới. *** Trứng(1) phần lớn còn được gọi với cái tên là tế bào trứng, nếu vậy thì tại sao nó lại được gắn với chữ “tử”? Hay chữ “tử” cũng chỉ được ghép để thành từ “tinh trùng”?(2) Mình đã nhiều lần đến phòng đọc nhưng thủ tục mượn sách khá phức tạp, hầu như rất ít đầu sách, nào là chật chội này, tối này, và nhất là thật khó chịu khi đang tập trung đọc một cuốn nào đó, có người vào rồi lại bị soi nên gần đây mình lại hay tới thư viện, ở đó có thể xem máy tính tùy thích, với lại lý do chính là vì ở trường học chán ngắt. Có rất nhiều chuyện thật ngớ ngẩn. Nếu ngớ ngẩn thế thì việc viết ra như thế này cũng là “ngớ ngẩn” nhưng chí ít thì ở trường mình có thể làm những gì tùy thích, còn ở nhà không thể tùy ý làm gì cũng được. Việc viết lách có thể thực hiện ở bất kỳ nơi đâu, chỉ cần có bút và giấy là có thể viết bất kỳ thứ gì nên đây là một cách khá hay. Việc này cũng được gọi là “ghi chép”. Từ “đáng ghét” được viết theo hai chữ Hán là chữ “yếm” và chữ “hiềm” nhưng chữ “yếm” tạo cho ta cảm giác thực sự thấy đáng ghét hơn cả nên mình luyện tập cái gọi là “đáng ghét” viết bằng chữ “yếm”. Đáng ghét. Đáng ghét. Cả hai mẹ con chị Makiko cùng từ Osaka lên, tôi cũng rõ cả khoảng thời gian họ sẽ tới nên không có chuyện không thể gặp được, vả lại ở đây chỉ có một sân ga, mà tôi cũng đã lưu sẵn trong máy di động thời gian rõ ràng, rồi tôi cũng đã gọi điện thoại một lần nữa để xác nhận lại nên về khoản thời gian là có thể yên tâm. Tôi bước đi, qua bao nhiêu là bao nhiêu tấm áp phích quảng cáo được dán nhoe nhoét trên những cái cột, nhưng riêng ở tấm in hình một bà diễn viên mặc kimono, tôi không rõ đó là Kagamimochi(3) hay là con thỏ nữa. Sau khi xem kỹ lại bảng thông báo điện tử, tôi đếm rồi bước lên cầu thang, trong khi đang choáng váng bởi tiếng ồn khá lớn của tàu Shinkansen, tôi nhanh chóng tìm thấy hai mẹ con chị Makiko. ... Mời các bạn đón đọc Ngực Và Trứng của tác giả Mieko Kawakami
Kẻ Hai Mặt - Amélie Nothomb
Blanche, 16 tuổi, nhút nhát, chưa từng có bạn bất ngờ được Christa, xinh đẹp, quyến rũ, nổi trội nhất khoa đến kết bạn. Không chỉ Blanche, cả cha mẹ cô cũng bị cuốn vào “cơn lốc” Christa. Từ một người xa lạ, Christa bốc chốc trở thành bạn, người ở nhờ rồi nhân vật trung tâm trong gia đình Blanche. Nhưng rồi Blanche nhanh chóng nhận ra một cái bẫy đang được giăng ra với mình và cha mẹ. Cô đã hành động và tìm ra được sự thật về Christa. Một sự thật đáng buồn và bất ngờ tuyệt đối… Bằng lối dẫn chuyện giản dị, ngôn ngữ hiện đại, Amélie Nothomb đưa độc giả đến gần hơn với những thực tế đôi khi quá trần trụi trong tình bạn, tình yêu và những vấn đề của thanh niên Bỉ hiện nay. Amélie Nothomb là nhà văn Bỉ viết tiếng Pháp nhưng lại chào đời ở Kobe (Nhật Bản) ngày 13 tháng 8 năm 1967. Xuất thân trong một gia đình quý tộc có cha làm đại sứ, tuổi thơ bà được rong ruổi qua nhiều nước từ Nhật Bản, Trung Quốc cho đến Mỹ, Myanmar,… Tác phẩm đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân (1992) đã gây tiếng vang lớn và mang lại cho bà giải thưởng Alain-Fournier. Ngoài ra, bà còn giành Giải thưởng lớn của Viện Hàn Lâm Pháp cho tác phẩm Sững sờ và run rẩy (1999). Kẻ hai mặt (2003) là tác phẩm thứ mười một của cô. *** Amélie Nothomb sinh ngày 13/8/1983 là người Bỉ, nhưng Amélie Nothomb lại chào đời và trải qua một phần tuổi thơ tại Nhật Bản. Từ sau cuốn tiểu thuyết đầu tay Hồi ức kẻ sát nhân xuất bản năm 1992 đến nay, mỗi năm cô cho ra mắt bạn đọc thế giới một tác phẩm mới. Trong đó phải kể đến Phá ngầm tình tứ (1993) với các Giải thưởng Vocation và Chardonne; Sững sờ và run rẩy (1999) với Giải thưởng Lớn của Viện Hàn lâm Văn học Pháp; Không Adam cũng chẳng Eva (2007) với Giải thưởng Flore. CÙNG MỘT TÁC GIẢ: - Phá ngầm tình tứ, 1993. - Những chất dễ cháy, 1994. - Những bài châm biếm, 1995. - Xiêm y, 1996. - Mưu sát, 1997. - Thủy ngân, 1998. - Sững sờ và run rẩy, 1999. (Tác phẩm đoạt giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp). - Lý luận trừu tượng về điện thoại, 2000. - Thuốc xức tóc của kẻ thù, 2001 - Từ điển Robert về danh từ riêng, 2002. - Kẻ phản Chúa, 2003. - Tiểu sử của cơn đói, 2004. - Axit sunfuric, 2005. - Không Adam cũng chẳng Eva (2007) *** Ngày đầu tiên, tôi thấy nó mỉm cười. Lập tức tôi muốn làm quen ngay. Tôi biết rõ sẽ chẳng bao giờ quen được nó. Lại gần nó, tôi không thể. Tôi luôn chờ người khác đến bắt chuyện: chẳng bao giờ có ai đến cả. Trường đại học là thế. Ta nghĩ sẽ mở lòng với thế giới quanh ta và rồi chẳng gặp được ai hết. Một tuần sau, đôi mắt nó nhìn tôi. Tôi tưởng đôi mắt ấy sẽ nhanh chóng chuyển hướng. Nhưng không, chúng vẫn ở đó mà dò xét tôi. Tôi chẳng dám nhìn ánh mắt ấy. Mặt đất như sụt lở dưới chân, tôi cảm thấy khó thở. Vì tình trạng ấy cứ tiếp diễn nên sự đau khổ càng trở nên khủng khiếp. Với lòng can đảm chưa từng có, tôi nhìn thẳng vào mắt nó. Nó khẽ đưa tay ra hiệu với tôi rồi cười. Sau đó, tôi thấy nó nói chuyện với đám con trai. Ngày hôm sau, nó lại gần và chào tôi. Tôi chào lại rồi imlặng. Tôi ghét sự ngượng nghịu của bản thân. - Cậu trông trẻ hơn những bạn khác, nó nhận xét. - Là vì tôi trẻ hơn thật. Tôi mới tròn mười sáu tuổi được một tháng. - Tôi cũng vậy. Tôi tròn mười sáu cách đây ba tháng. Hãy thú nhận là cậu không tin tôi trẻ thế đi. - Đúng vậy. Sự tự tin làm nó trông già hơn tôi hai đến ba tuổi. - Cậu tên là gì? nó hỏi tôi. - Blanche. Còn cậu? - Christa. Cái tên ấy thật đặc biệt. Tôi lại im lặng vì kinh ngạc. Nó nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói thêm: ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Hai Mặt của tác giả Amélie Nothomb.
Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac - Jules Verne
Trong một chuyến thám hiểm và lòng Châu Phi, đoàn thám hiểm với người đứng đầu là Barsac đã cóchuyếnduhành vào một thành phố bí ẩn giữa lòng sa mạc Sahara.  Thành phố phát triển này là do một nhà khoa học thông minh nhưng đầy tham vọng đen tối xây nên. Sức tưởng tượng của Jules Verne kết hợp với kiến thức khoa học đã tôn vinh những thành tựu tuyệt diệu của con người, và cũng cho thấy những thành tựu ấy chỉ nở hoa và trường tồn khi phục vụ cho mục đích tốt đẹp. *** Jules Gabriel Verne sinh ngày 8 tháng 2 năm 1828 tại Pháp và được coi là cha đẻ của thể loại Khoa học viễn tưởng. Để theo đuổi việc viết văn, Jules Verne đã bỏ học luật, nghề cha ông định hướng. Cuốn tiểu thuyết đầu tay thành công Năm tuần trên khinh khí cầu (1863) đã mở đầu cho hàng loạt các tác phẩm nổi tiếng về sau của Jules Verne như Cuộc Thám Hiểm Vào Lòng Đất (1864), Hai vạn dặm dưới biển (1870), 80 Ngày Vòng Quanh Thế Giới (1873)… Các  tác phẩm của ông được dịch khắp nơi trên thế giới. Jules Verne mất ngày 24 tháng 3 năm 1905. Sau khi ông qua đời, nhiều tiểu thuyết chưa in của ông vẫn được tiếp tục xuất bản. *** Sau khi đã khóa chặt cửa, những người trốn chạy lo săn sóc các thương binh. Với sự giúp đỡ của Barsac và Amédée Florence – chính anh cũng bị thương nhẹ. – Jane chăm sóc những người mà số phận trớ trêu đã đưa đẩy họ đến chỗ ở của kẻ thù tàn bạo của họ. Khi việc băng bó đã xong, thì cô gái lại phải lo cho những người bất hạnh, bị cái đói hành hạ mấy ngày nay, ăn uống. Sau hồi lùng sục thức ăn ở khắp tất cả các tầng, mọi người cũng đã được ăn uống chút đỉnh. Nhưng tình thế vẫn hết sức nghiêm trọng, giờ cáo chung không thể tránh khỏi dường như chỉ kéo dài thêm mấy tiếng đồng hồ. Mười một giờ trưa. Các vụ nổ vẫn tiếp tục, trên bãi đáp nghe rõ tiếng la hét của các Chàng trai Vui tính, thỉnh thoảng chúng lại phí công công phá cánh cửa, còn từ trên sân hiên thì vọng xuống tiếng chửi bới của William Ferney và đồng bọn của hắn, song những người chạy trốn ý thức được rằng pháo đài của họ gần như là bất khả xâm phạm. Vừa mới được rảnh tay là Jane Buxton hỏi ngay Amédée Florence lý do họ rời khỏi nhà máy và đánh nhau trong điều kiện không cân sức như thế ngoài bãi đáp. Chàng phóng viên kể lại những gì đã xảy ra sau khi nàng đi khỏi. Anh kể rằng cuối cùng Tongané đã phát tín hiệu hằng mong đợi và Marcel Camaret đã chuyển sang khu giữa một vài gói thuốc nổ cùng với nhiều gươm đao, giáo mác. Sau đó những người bị bao vây tập trung đến cửa chính, sẵn sàng lao vào trận đánh khi nó bắt đầu. ... Mời các bạn đón đọc Cuộc Phiêu Lưu Kỳ Lạ Của Đoàn Barsac của tác giả Jules Verne.