Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ)

Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch). Tóm tắt Câu chuyện kể về cô bé Assol, sống cùng cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc! Đánh giá Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn. Tác phẩm được viết theo phong cách lãng mạn, với những câu văn nhẹ nhàng, bay bổng, mang đậm chất thơ. Câu chuyện kể về tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Nội dung câu chuyện Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là cô bé Assol. Assol là một cô bé mồ côi mẹ, sống cùng cha là người thủy thủ nghỉ hưu. Cha của Assol là người rất yêu thương con gái, ông luôn dành cho cô sự quan tâm và chăm sóc chu đáo. Assol là một cô bé có tâm hồn trong sáng, ngây thơ và luôn tin tưởng vào những điều tốt đẹp. Một lần trong khi mang đồ chơi đi bán, Assol đã gặp ông già Elge. Ông già Elge là một người kỳ lạ, ông có thể nhìn thấy trước tương lai. Ông đã kể cho Assol nghe về một lời tiên tri: một ngày nào đó, một chàng hoàng tử sẽ đến đón Assol trên một con tàu có cánh buồm đỏ thắm. Lời tiên tri của ông già Elge đã khiến Assol vô cùng vui mừng. Cô luôn tin tưởng vào lời tiên tri đó và luôn mong chờ đến ngày chàng hoàng tử sẽ đến. Cha của Assol cũng biết về lời tiên tri đó. Ông không tin vào những điều thần bí nhưng ông cũng không muốn con gái mình thất vọng. Ông luôn động viên Assol tin tưởng vào những điều tốt đẹp và luôn cố gắng sống tốt để xứng đáng với tình yêu của chàng hoàng tử trong tương lai. Những năm tháng trôi qua, Assol vẫn luôn tin tưởng vào lời tiên tri. Cô vẫn luôn chăm chỉ học tập và rèn luyện bản thân để trở thành một người con gái ngoan ngoãn, xinh đẹp. Một ngày nọ, một chàng trai tên Arthur Gray đến làng Kaperna. Arthur Gray là một chàng trai trẻ đẹp, giàu có nhưng lại không thích cuộc sống giàu sang mà muốn được sống tự do, tự tại trên biển cả. Khi đi dạo trong rừng, Arthur Gray đã gặp Assol đang ngủ. Anh đã bị vẻ đẹp trong sáng, ngây thơ của Assol thu hút. Anh đã cởi chiếc nhẫn của mình và đeo cho Assol mà cô không hề hay biết. Sau đó, Arthur Gray đã tìm hiểu về Assol và biết được về lời tiên tri mà cô tin tưởng. Anh đã quyết định thực hiện lời tiên tri đó. Anh đã mua một con tàu có cánh buồm đỏ thắm và đến đón Assol. Khi thấy con tàu có cánh buồm đỏ thắm xuất hiện, Assol vô cùng vui mừng. Cô đã tin rằng chàng hoàng tử trong lời tiên tri đã đến. Cô đã cùng cha lên tàu và cùng Arthur Gray đi đến một miền đất mới, nơi có hạnh phúc và niềm vui. Ý nghĩa câu chuyện Cánh buồm đỏ thắm là một câu chuyện lãng mạn, mang đến cho người đọc nhiều cảm xúc. Câu chuyện ca ngợi tình yêu, ước mơ và niềm tin của con người. Tình yêu là một thứ tình cảm thiêng liêng và cao đẹp. Tình yêu có thể vượt qua mọi rào cản, thử thách để đến với nhau. Tình yêu của Assol và Arthur Gray là một tình yêu đẹp, chân thành và đáng trân trọng. Ước mơ là động lực để con người cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Ước mơ có thể giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt được thành công. Ước mơ của Assol là một ước mơ đẹp, một ước mơ đáng được ghi nhận. Niềm tin là sức mạnh giúp con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Niềm tin có thể giúp con người đạt được ước mơ. *** “Thức tỉnh đi! Đừng có ở đó mà mơ mộng nữa, chẳng bao giờ có ông bụt hay bà tiên nào cả! Cuộc đời không giống như là mơ đâu!”. Chắc hẳn rằng, sẽ có đôi lúc, ai trong chúng ta cũng tự nhủ với lòng mình như vậy! Nhưng sống là phải có ước mơ chứ! Cho dù ước mơ của bạn chỉ nhỏ bé thôi nhưng nó lại là một ước mơ đẹp thì hãy đặt niềm tin vào đó, bạn sẽ luôn cảm thấy hạnh phúc! Nếu bạn sống trong cuộc đời này mà chưa có lấy một ước mơ cho riêng mình thì tôi khuyên bạn nên bớt chút thời gian đọc cuốn sách  Cánh buồm đỏ thắm - The Scarlet Sails  của nhà văn Aleksandr Grin, cuốn sách sẽ giúp bạn nhận ra niềm tin, ước mơ có sức mạnh to lớn đến chừng nào! Cánh buồm đỏ thắm  là tác phẩm nổi tiếng nhất của nhà văn Nga Aleksandr Grin (1880-1932) - một nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa tân lãng mạn. Đúng như chủ nghĩa văn học mà ông theo đuổi,  Cánh buồm đỏ thắm  cũng là một tác phẩm thuộc dòng cảm hứng ấy, nó như câu chuyện cổ tích thời hiện đại cứ dạt dào âm vang, làm sống dậy niềm tin yêu của bao thế hệ đã từng một lần đọc truyện. Đừng nghĩ rằng câu chuyện viết  chỉ  dành cho lứa tuổi thiếu niên mà chính mà ai trong các bạn cũng nên đọc một lần để thấy rằng khi không có niềm tin, có ước mơ thì cũng chúng ta đã sống hoài, sống phí cuộc đời này như thế nào!   Cô bé Assol sống với cha là một thủy thủ nghỉ hưu sau khi mẹ cô là Mary mất sớm. Khi ấy cô gái bé nhỏ chưa tròn một tuổi. Cha cô - Longren đã từ bỏ nghề thuỷ thủ mà ông gắn bó đã mười năm để ở nhà chăm sóc cô, ông làm các đồ chơi với những hình ảnh gợi về nghề thủy thủ để bán kiếm tiền. Khi Assol lớn hơn một chút ông để con gái tự mang đồ đi bán. Một lần trong khi mang đồ chơi đi ngang qua cánh rừng, Assol đã gặp ông già Elge. Ông kể cho cô bé nghe về cuộc sống ngoài biển cả và nói với cô rằng, lớn lên sẽ có một chàng hoàng tử lái con tàu có cánh buồm đỏ thắm đến đón cô. Thế là Assol đã tin vào điều đó mặc cho sự gièm pha, chế giễu của người dân trong làng. Cuối cùng niềm tin đã chiến thắng tất cả. Câu chuyện kết thúc với đúng những gì mà ông già Elge kia đã nói, đúng như niềm tin của Assol - một chàng hoàng tử với chiếc thuyền đỏ thắm đã đến và đưa cha con cô đi đến xứ sở của hạnh phúc!   Tình phụ tử - sức mạnh tinh thần bất diệt.   Mở đầu câu chuyện không hề có hình ảnh ngôi làng Kaperna yên bình, ấm no hay màu xanh tươi mát trong lành của nước biển, mà nó bắt đầu với hình ảnh của một bầu trời xám xịt, đen tối. Mary - vợ của người thủy thủ kì cựu Longren dù mệt mỏi, kiệt sức nhưng với tình yêu thương con chị vẫn cố gắng xuống phố đổi chiếc nhẫn - gia sản cuối cùng của chị để lấy tiền mua thức ăn cho con mà chẳng bận tâm đến sức khoẻ của mình. Đêm đông lạnh buốt, đói rét bao trùm đã khiến chị bị viêm phổi nặng, người phụ nữ nghèo khổ ấy đã qua đời một tuần sau đó để lại đứa con thơ. Đó là một nỗi đau lớn đối với Longren, nỗi đau tinh thần chẳng loại thuốc nào có thể chữa khỏi! Đó không chỉ là một sự mất mát vô cùng to lớn đối với ông mà đồng thời đó cũng là vết thương lòng sâu sắc, ảnh hưởng đến đứa con gái bé bỏng Assol, sinh ra mà chưa thể cảm nhận hết tình yêu thương của người mẹ. Nhân vật Longren được tác giả Aleksandr khắc họa là một người trầm tính, lạnh lùng nhưng cũng sống rất tình cảm. Hiểu được những thiếu thốn của đứa con gái thân yêu khi không được hưởng trọn vẹn tình yêu thương của cả cha và mẹ, ông càng yêu thương con hơn bao giờ hết. Longren luôn cố gắng chăm sóc và yêu thương đứa con gái Assol của mình hết mức có thể, như là một sự bù đắp cho phần bỏ trống của tình yêu từ người mẹ. Khó có thể phủ nhận rằng tình thương con sâu nặng của Longren đã chạm mạnh tới cảm xúc người đọc như thế nào. Ông là đại diện của bao người cha, người mẹ. Ông lớn lao biết bao khi dịu dàng bảo vệ con gái mình giống như những người làm cha mẹ khác. Có thể nói, Aleksandr đã rất thành công trong việc truyền tải tình cha con thiêng liêng đến bạn đọc.  Longren có thể đánh đổi tất cả để bảo vệ con gái nhưng cũng có thể tàn nhẫn bỏ mặc kẻ thù trong tình cảnh lâm nguy. Kẻ thù ấy chính là Mecne - người không bao giờ có thể đội trời chung với ông. Ông căm giận hắn đến xương tuỷ. Vì hắn mà Mary phải chết. Cũng vì hắn mà đứa con gái ông yêu quý phải sống không có mẹ. Longren là thế đấy, tốt tính nhưng cũng rất tàn bạo với những ai chà đạp lên hạnh phúc gia đình mà ông luôn cố gắng gìn giữ. Longren chính là một biểu tượng của tình thương con cao cả!   Lời tiên đoán - động lực của niềm tin, của hạnh phúc trong mơ!   Cô gái bé nhỏ với cái tên đầy dễ thương: Assol, lại mồ côi mẹ, phải sống cùng cha Longren ở một hòn đảo nhỏ. Hai cha con bị mọi người trong làng hiểu lầm bởi những suy nghĩ và hành động khác thường, đâm ra ghét bỏ và kì thị. Nhưng đâu cần một lời giải thích, cũng chẳng cần một lời thanh minh với những người không hiểu chuyện, hai cha con vẫn cứ yêu thương, đùm bọc nhau mà sống, bỏ mặc ngoài tai sự chế giễu của người đời, sống cuộc sống chỉ là của riêng hai cha con thôi nhưng đó là sự bình yên hơn bao giờ hết! Assol đã được một ông già tiên đoán rằng: một ngày nào đó, khi cô lớn lên, sẽ có một hoàng tử đến đón cô trên một con thuyền lớn với những cánh buồm màu đỏ thắm. Với người dân trong làng Kaperna, sau khi câu chuyện đến tai họ, họ cho rằng đó là một lời tiên tri thật điên rồ. Bởi vì chưa từng có và chắc chắn rằng sẽ chẳng bao giờ có con tàu lớn, hay con tàu với cánh buồm đỏ thắm nào ghé đến hòn đảo nhỏ bé, nghèo nàn này cả. Ngay cả cha cô bé khi nghe câu chuyện cũng không tin là lại có một phép màu, một lời tiên đoán nào kì diệu đến thế, ông thầm nghĩ: “ Sau này con sẽ phải nhìn thấy không phải là cánh buồm đỏ thắm mà là những cánh buồm bẩn thỉu, độc địa, trông từ xa thì có vẻ đẹp đẽ, trắng trẻo, đến gần thì rách nát, xấu xa. Một người qua đường nào đó đã đùa với con tôi”.  Dù vậy, ông cũng không nỡ cướp mất niềm tin trong trẻo của đứa con thơ, ông luôn củng cố niềm tin ấy cho con, giúp con tránh xa những điều độc ác, giúp con luôn tràn đầy niềm lạc quan, tin tưởng vào chính cuộc đời này! Chính nhờ những điều ấy mà  niềm tin của một đứa trẻ trở thành bất diệt. Assol tin vào điều đó và nuôi dưỡng giấc mơ đó từng ngày mặc kệ mọi người cười chê và cho rằng cô là người không bình thường. Cả ông già Elge nữa - người đã vẽ nên con tàu với cánh buồm đỏ thắm và tạo niềm tin đến tâm trí của cô bé Assol. Ông gieo một hy vọng đến cuộc đời của Assol với một lời tiên tri, một sự đoán trước tương lai rộng mở. Nó như một động lực để cô có thể đối mặt và bước tiếp trong cuộc sống đầy chông gai của mình. Chỉ là một cuộc gặp gỡ tình cờ thôi, nhưng chính lời tiên đoán ấy đã thắp lên sự sống, niềm tin của Assol vào tương lai! Trong cuộc đời này cũng vậy, ai trong chúng ta cũng sẽ gặp những người dẫn đường, những người đã tiếp thêm sức mạnh để ta tiếp tục phấn đấu thực hiện ước mơ.   Ở vùng đất bên kia ngôi làng cũng có một ước mơ đẹp tựa như thế... "Chàng hoàng tử" trong truyện là con trai một gia đình giàu có - Arthur Gray. Ngay từ nhỏ, cậu bé đã không thích sống trong sự giàu sang quyền quý bên trong lâu đài kia, cậu hoàn toàn không thích thú gì với cái gọi là  “làm vẻ vang dòng dõi” .  Ước mơ của cậu bé là  được trở thành một thủy thủ. Để thực hiện ước mơ ấy, cậu rời nhà ra đi mặc sự can ngăn, doạ nạt của cha, cậu xin vào làm thủy thủ tàu Anselm. Ban đầu thuyền trưởng Hop có vẻ không tin cậu thiếu niên nhà giàu này có thể chịu được khắc nghiệt nơi đầu sóng  ngọn gió , nhưng qua chuyến đi biển dài ngày cùng cậu, Gray đã hoàn toàn làm thuyền trưởng Hop nể phục. Sau này, cậu rời bỏ thuyền Anselm để tự mua một con tàu cho riêng mình - tàu  "Bí mật" . Thay vì nối gót cha trở thành một ông chủ quyền thế, cậu chọn cho mình nghề thuyền trưởng, bạn đồng hành của cậu là chiếc thuyền lớn gắn bó với biển cả mênh mông. Đâu dễ dàng gì cho nghề thuỷ thủ ấy, có những lúc Gray phải hứng chịu những đau đớn khi  "vòng dây xích neo cuốn anh ngã đập người vào boong tàu, có khi dây chão không quấn được vào cọc trụ tuột khỏi tay anh làm bong cả mảng da tay, có khi một góc buồm ẩm ướt đính những vòng sắt bị gió thốc đập mạnh vào mặt anh;...".  Nhưng trong tim chàng trai ấy luôn rực cháy sức mạnh của tình yêu nghề, của chiến thắng, không bao giờ từ bỏ quyết tâm!   Hiện thực hoá ước mơ, lời tiên tri không còn là mộng tưởng... Một hôm, trên đường đi, đoàn  tàu của Gray đi ngang qua làng Kaperna (nơi Assol đang sống), chàng chợt có hứng muốn câu cá nên thủy thủ đoàn đã dừng chân ở đây. Tại bụi cỏ gần khu rừng họ nghỉ chân, Gray tìm thấy Assol đang ngủ và ngay lập tức yêu cô. Anh cởi chiếc nhẫn trên tay và nhẹ nhàng đeo cho cô mà cô chẳng hề hay biết. Sau đó, Gray vào làng để tìm hiểu thêm về cô gái mình vừa gặp, và biết được câu chuyện về con thuyền với cánh buồm đỏ. Muốn hiện thực hoá lời tiên tri mà dân làng từ trước đến nay vẫn luôn cười nhạo cha con Assol, anh đã chuẩn bị con tàu y hệt như lời kể và đến rước cô trong sự ngỡ ngàng của dân làng. Chính Gray đã làm được điều kỳ diệu đó, anh đã tự mình hiện thực hóa chuẩn xác và hoàn hảo đến từng chi tiết trong lời tiên tri của ông già Elge. Một buổi sớm mai, Gray - chàng hoàng tử của Assol xuất hiện. Chàng đến đón cô và cha trên con tàu với những cánh buồm màu đỏ thắm. Một tình yêu trong sáng và thuần khiết, họ yêu nhau từ lần gặp đầu tiên và biết đó chính là định mệnh. Câu chuyện tình yêu lãng mạn kinh điển này đã tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho những người trẻ thêm tin vào tình yêu chân chính. Không chỉ dừng lại ở một câu chuyện  tình  lãng mạn, nhà văn đã khéo léo truyền tải thông điệp đến với độc giả về niềm tin vào những điều kì diệu: Điều kì diệu trong cuộc sống là do chính chúng ta tạo nên và nắm bắt. “Tôi đang đến với người con gái đợi và chỉ đợi mỗi mình tôi, còn tôi thì không muốn ai ngoài cô ấy, có lẽ chính nhờ cô ấy mà tôi ngộ ra được một chân lý đơn giản. Đó là phải tự tay mình tạo ra những điều kỳ diệu” Không chỉ là ước mơ, là niềm tin, câu chuyện dần khép lại trong hạnh phúc của cặp vợ chồng trẻ cùng thông điệp ý nghĩa mà Gray sau bao năm sống cuộc đời của một người thủ lĩnh nhận ra rằng: “Nhưng còn có những điều không kém phần kỳ lạ hơn: đó là nụ cười, niềm vui, lòng độ lượng và có thể chỉ là một lời cần thiết được nói đúng lúc. Có được cái đó có nghĩa là có tất cả.” Cánh buồm đỏ thắm  hệt như một câu chuyện cổ tích vậy. Assol, cô bé tin rằng - một ngày kia ước mơ sẽ quay trở lại - nhưng là trên một con tàu thực sự -  “một con tàu với cánh buồm đỏ thắm như tình yêu mà chàng hoàng tử sẽ dành cho cô” . Cuộc hội ngộ của hai nhân vật như một bản tình ca được viết nên từ những nốt nhạc thần tiên trong cổ tích, không toan tính, không vụ lợi, chẳng còn nỗi cô đơn và sự sợ hãi như cũng biến tan cùng bọt nước. Cánh buồm đâu chỉ đơn thuần là dấu hiệu để họ nhận ra nhau giữa biển cả bao la mà chính cái màu đỏ thắm ấy như ẩn dụ cho màu của niềm tin và sự trân quý những giá trị đẹp đẽ trong cuộc đời. Màu đỏ như màu nắng soi sáng cho con người để họ không đi vào con đường lầm lạc, để tâm hồn cô bé Assol không bị hoen ố, lụi tàn bởi những cái xấu xa, để chàng trai Gray không còn đắm mình trong nỗi cô đơn đến nỗi không nhận ra mình phải làm gì, phải đi kiếm tìm điều gì trong cuộc đời mênh mông vô định…   Những câu văn ngọt ngào trải dài từng trang sách mỏng, khiến người đọc phải ngất ngây trong một cảm xúc khó diễn đạt thành lời:  “Từ một nơi rất xa, rất xa, anh nhìn thấy em trong mơ và anh đã đến đây, để đem em đi mãi mãi về xứ sở của anh. Em sẽ sống với anh nơi ấy, trong một thung lũng đầy hoa hồng. Em sẽ có tất cả những gì em mơ ước, chúng ta sẽ sống thuận hoà, vui vẻ với nhau và tâm hồn em sẽ không bao giờ biết đến nỗi buồn và nước mắt” . Dịu dàng và ấm áp, chàng trai đưa cô lên thuyền, đi về xứ sở xa xăm - nơi mặt trời thức dậy và những vì sao trên trời sa xuống để đón chào ngày mới… “Câu chuyện thần thoại mà người đời sau sẽ còn nhớ mãi, có lần vào buổi sớm mai, từ phía biển khơi xa tít tắp sẽ hiện ra rực rỡ dưới ánh mặt trời một con tàu với cánh buồm đỏ thắm, uy nghiêm rẽ sóng lướt đi, tiến gần lại bờ trong tiếng nhạc du dương. Rồi từ con tàu đó, sẽ có một vị hoàng tử khôi ngô tuấn tú đứng trên thuyền, đến đây để đưa em đi mãi mãi về xứ sở của chàng”. Lời kết.  Cánh buồm đỏ thắm  là một câu chuyện lãng mạn dành cho lứa tuổi mới lớn của nhà văn Aleksandr Grin. Tác phẩm được ông tận tâm sáng tác trong sáu năm, từ năm 1916 đến 1922 mới hoàn tất và đã được hãng Mosfilm chuyển thể thành phim năm 1961, được sự đón nhận của rất nhiều độc giả ở khắp mọi nơi trên thế giới! Các bạn có thể xem phim cũng có thể đọc truyện nhưng với những ai muốn tự mình cảm nhận, muốn hiểu tận sâu ý nghĩa của câu chuyện thì hãy một lần tìm đến một trong những quyển sách tuyệt vời này nhé! Mong rằng sau khi gấp cuốn sách lại, bạn sẽ tìm ra ước mơ của chính mình, sống một cuộc đời thật ý nghĩa hơn bao giờ hết!  Review chi tiết bởi Kim Chi –  Bookademy Mời các bạn mượn đọc sách Cánh Buồm Đỏ Thắm (Song Ngữ) của tác giả Alexander Grin & Ngô Thanh Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển - Jean-Marie Gustave Le Clézio
Daniel hầu như ko nói chuyện với ai và cũng ko có bạn bè. Người ta thấy nó thường mơ mộng với đôi mắt mở to. Nó có dáng vẻ như đến từ nơi khác. Đáng lẽ nên gọi nó là thuyền trưởng Sinbad, bởi nó đọc nhiều những chuyện phiêu lưu ấy, và đó là cuốn sách duy nhất nó thuộc nằm lòng: mắt nó sáng rỡ chỉ khi nói chuyện về biển cả và việc du hành. Nhưng, nó chưa bao giờ nhìn thấy biển. Rồi một ngày tháng mười một, chẳng bảo ai, nó ra đi và không bao giờ trở lại… *** Jean-Marie Gustave Le Clézio, một trong những nhà văn lọt vào danh sách để xét giải Nobel văn học năm 1999, đã thành danh từ khá sớm. Những năm 60 của văn học Pháp là những năm khó khăn với các cuộc tìm tòi thí nghiệm, những quan niệm mới và những khuynh hướng mới. Chính vào thời kỳ ấy, cụ thể là vào năm 1963, “một chàng trai trẻ, cao lớn, đẹp trai, có mái tóc vàng”, ít nói, đã "trình làng" với cuốn tiểu thuyết Biên bản (Le Procès - verbal), in tại Gallimard, một nhà xuất bản lớn hàng đầu, có uy tín ở Pháp. Cuốn tiểu thuyết lập tức thu hút sự chú ý của bạn đọc cũng như giới phê bình không những vì nó đoạt giải thưởng Renaudot, mà chủ yếu vì nó đã đặt ra nhiều vấn đề lý thú cho thể loại tiểu thuyết dường như đang ngắc ngoải. Thế là, mặc dầu anh còn quá trẻ (23 tuổi) để thành tên tuổi, người ta vẫn cứ “xếp hạng” và anh “có chỗ” trong làng văn Pháp đương đại đang khá là nhốn nháo. Tính đến nay, cầm bút được hơn 30 năm, Le Clézio đã có 47 đầu sách gồm tiểu thuyết, truyện ngắn, tiểu luận và dịch thuật, trong đó có 4 cuốn viết chung. Ðó là chưa kể đến rất nhiều bài viết ông đăng trên các tạp chí, các báo... và hoạt động giảng dạy của ông ở các trường đại học tại Pháp, Mỹ, Mexique, Thái Lan.   Bảo vệ xuất sắc khoá luận cao học về H.Michaux vào năm 1964, sau đó Le Clézio bảo vệ luận án tiến sĩ về Lautréamont. Le Clézio và những tác phẩm của ông đã là đề tài nghiên cứu của 21 cuốn sách và 29 luận án cao học và tiến sĩ (riêng ở Nice, thành phố quê hương ông có 7 luận án). Năm ông 49 tuổi (1989) tạp chí Sud đã ra số chuyên san về sự nghiệp sáng tác của ông. Năm 1994, tạp chí Lire mở cuộc điều tra xã hội học với câu hỏi “Ai là nhà văn Pháp ngữ lớn nhất trong số hiện đang còn sống?” đã có 13% độc giả trả lời đó là Le Clézio.   Cùng một số nhà văn khác, Le Clézio đã làm cho bức tranh toàn cảnh của văn học Pháp thế kỷ XX đỡ màu ảm đạm: “Suốt cả thế kỷ, người ta nói đến “cái chết của văn học”, bị giết bởi báo chí, điện ảnh, truyền hình, những trò giải trí đại chúng v.v… Vậy mà, nó không chết. Người ta viết và công bố nhiều hơn. Thành công của những tác phẩm cách tân, những tác phẩm hay và có giá trị (chúng đa dạng biết bao) của Claude Simon hay Marguerite Duras, của Jean-Marie Gustave Le Clézio hay Georges Perec đã làm cho chúng ta trở nên lạc quan”.   Thói quen của các ngòi bút phê bình nghiên cứu hay dẫn chúng ta đến việc “xếp loại” “sắp đặt” các nhà văn ngồi chỗ này, chỗ kia... hoặc thuộc trường phái này, khuynh hướng nọ... Đối với Le Clézio và các sáng tác của ông, việc này quả là không dễ dàng (có thể nói là không thể). Bởi vì, hình như ông thuộc về nhiều trường phái và hình như cũng chẳng thuộc về khuynh hướng nào cả.   Cuốn tiếu thuyết đầu tay xuất hiện khi ông còn rất trẻ đã khiến người ta xếp ông vào “chủ nghĩa hiện thực mới”. Có lẽ đó là một cách nói để làm rõ vấn đề và để đối sánh với các khuynh hướng “Tiểu thuyết Mới” “Phê bình mới” đang rất rầm rộ lúc đương thời. Vậy thì “Chủ nghĩa hiện thực mới” của Le Clézio không phải như chủ nghĩa hiện thực thời Balzac. Muốn hiểu cho rõ ngọn ngành vấn đề này, ta không thể nói trong phạm vi một hoặc vài trang giấy. Để tham khảo, chúng tôi chỉ xin nêu ở đây ý kiến của các tác giả trong cuốn Văn học Pháp từ 1945 đến 1968. Khi viết về Le Clézio họ đã dùng một cái tít lạ thường “Cách viết địa chấn học” (Une écriture sismographique). Đó là cách viết tuân theo quy luật tự nhiên, ghi theo kiểu máy đo độ rung của trái đất, ghi lại “những độ rung nhỏ nhất của những điều nhạy cảm, đem lại sự sống náo nhiệt của thế giới”. Bởi vì theo Le Clézio, thế giới vô cũng sống động. Trong tiểu luận Thế giới sống động ông đã viết: “Đây chính là điều cần phải làm: đi về nông thôn, như một họa sĩ đi vào ngày chủ nhật, cùng với một tờ giấy lớn và bút chì. Hãy chọn một nơi thanh vắng, một thung lũng xung quanh là đồi núi, ngồi trên mỏm đá và ngắm nhìn thật lâu xung quanh mình. Và rồi, khi đã nhìn thật kỹ, cầm lấy giấy, và miêu tả bằng chữ những gì ta đã thấy”. Đó là đoạn mở đầu tác phẩm. Đọc tiếp những câu cuối, ta có cảm giác như là “nghệ thuật thơ ca” của Le Clézio, một quan niệm thật giản dị: “Đó. Thế giới sống động như thế, trong những tiếng động nhỏ xíu, những cú trượt, tiếng rả rích của dòng nước. Trong những lùm cây, trong hang động, trong đám cây cối chằng chịt, rối rắm, thế giới hát ca, cùng ánh sáng hoặc bóng tối, nó sống một cuộc sống nổ tung, không ngừng nghỉ, đầy tai biến và chết chóc. Cần phải sống cùng nó, như thế, hàng ngày, nằm áp má xuống đất, tai nghe ngóng, sẵn sàng lắng nghe tất cả những tiếng ồn ào và tất cả những tiếng thì thầm. Dây thần kinh cắm sâu vào đất như rễ cây và tự nuôi dưỡng bằng sức mạnh quật khởi khó mà hiểu nổi; cần phải uống thật lâu ở suối nguồn của sự sống và cái chết, rồi sẽ trở thành vô địch không ai thắng nổi”.   Xét về mặt nội dung các tiểu thuyết của Le Clézio đều có thể kể được, có nhân vật, cùng với các “phụ tùng” của nó: Adam Polo trong cuốn Biên bản (1963), Franois Besson trong Cơn hồng thủy (Le déluge, 1966), cô gái Lalla trong tiểu thuyết Sa mạc (Désert, 1980), tác phẩm đoạt Giải Lớn Paul Morand, Alexis trong Người tìm vàng (Le chercheur d'or, 1997) v.v... Có vẻ như những lời tuyên ngôn hùng hồn của N. Sarraute trong tác phẩm nổi tiếng Thời đại hoài nghi cùng các quan điểm cách tân táo bạo của Tiểu thuyết Mới hầu như chẳng thấy có khúc xạ nào qua sáng tác của Le Clézio.   Chính bản thân ông từng kể lại: “Khi tôi đưa bản thảo tiểu thuyết đầu tay của tôi đến Nhà xuất bản Gallimard, tôi đã nói rõ rằng tôi không có quan hệ gì với Tiểu thuyết Mới”. Thế nhưng, không phải hoàn toàn không có những điểm tương đồng nào đó giữa ông và các nhà Tiểu thuyết Mới. Thậm chí người ta còn tìm thấy sự tiếp nhận những tư tưởng từ Roland Barthes trong Lời tựa cho cuốn sách thứ hai của ông có tên là Cơn Sốt.   Trong một cuộc phỏng vấn P.Lhoste có nói với Le Clézio về những từ được lặp đi lặp lại trong các tác phẩm của ông. Nhà văn đồng ý với nhận định đó và cho rằng đó “là những điểm mốc” để có thể khẳng định là mỗi người đều có một “huyền thoại cá nhân” (mythologie personelle). Ðề cập đến vấn đề này có thể Le Clézio có liên hệ gì đó với khái “huyền thoại cá nhân” (mythe personnel) của Ch.Mauron, nhà phê bình phân tâm học đã nhấn mạnh đến việc nghiên cứu quá trình vô thức trong sáng tạo của nhà văn.   Cũng trong cuộc nói chuyện ấy, Le Clézio đã gợi lên sự hàn gắn giữa nhà văn và thầy phù thủy. Cả hai đều có một “thao tác ma thuật”, có một “mã” (code) và những ký hiệu để “hành nghề”, tất nhiên là những ký hiệu khác nhau, thầy phù thuỷ với những ký hiệu của cây lá, của rắn... nhà văn với “những ký hiệu chính xác của từ ngữ gắn bó với các hình ảnh đặc biệt sẽ cho phép độc giả thực hiện thao tác có tính chuyển đổi thành một hiện thực khác, cao hơn”. Nghe đến những “ký hiệu”, đến “mã”, chúng ta có cảm giác như lại sắp bước sang một lĩnh vực khác…   Là một người đọc rất nhiều, ngay từ đầu Le Clézio đã quan tâm đến những vấn đề thuộc lý luận văn học. Ở Lời tựa với hình thức như một bức thư nho nhỏ gửi đến bạn đọc trong tiểu thuyết Biên bản, nhà văn đã dành nhiều dòng cho độc giả, một nhân tố tạo thành quan trọng được chú ý đặc biệt ở văn học thế kỷ XX với tư cách là người tiếp nhận. Ngay cách viết Lời tựa với hình thức hoàn toàn như một bức thư gửi đến bạn đọc có lẽ cũng là một cách để nói rõ thêm quan điểm này của nhà văn.   Như vậy có thể thấy một quan niệm mở của Le Clézio, chấp nhận cùng lúc mọi lối biểu hiện của thực tiễn sáng tác văn học đa dạng và phong phú. Đó là xét về mặt lý luận, còn trong sáng tác, nhà văn đã thể hiện điều đó, trước hết trong tiểu thuyết. Về mặt hình thức được trình bày trên trang giấy, bản thân các tiểu thuyết của ông không phải toàn các con chữ bình thường theo lối viết xưa nay. Văn bản được gài xen vào đủ thứ: từ các bức họa, các công thức toán, lý, hoá, các con số, các đoạn thơ, nhật ký, các mẩu quảng cáo, các mẩu báo chí (có khi được in ở giữa những trang đầu hoặc cuối), có cả những đoạn chữ bị xóa vẫn còn nguyên dấu gạch chéo X… Với cách đó, dường như ông đã thu hẹp lại khoảng cách giữa hư cấu và hiện thực. Hiện thực tràn vào trang giấy bằng của bản thân nó, chứ không phải bởi uy quyền tối cao và độc đoán của nhà văn. Các sáng tác của Clézio vào những năm đầu thể hiện rõ điều này; Biên bản (1963), Cơn hồng thủy (1966), Những người khổng lồ (Les géants, 1973)... Thậm chí có những đoạn tác giả còn để nguyên tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Nga, tiếng Trung Quốc xen lẫn giữa toàn bộ văn bản bằng tiếng Pháp. Những tiếng vọng đến từ xa được thể hiện thành nhiều con chữ trên mặt giấy: i i i i i i i i i i i…, woou woou woou…, hom! hom!, hom!, hom!, hom!, v.v…   Ðọc tiểu thuyết của Le Clézio chúng ta thấy ông một mặt vẫn ràng buộc với tiểu thuyết truyền thống qua những đặc điểm cơ bản nhất, mặt khác, ông đã tạo ra một lối của riêng mình. Điều đó được thể hiện không chỉ ở việc làm “vỡ tung" văn bản, thay đổi hình thức trình bày của nó, mà chủ yếu là “việc xâm nhập các thể loại trong tác phẩm” của ông, Trong tiểu thuyết của ông có cả thơ, có tiểu luận, có sử thi, huyền thoại cả cổ tích. ... Mời các bạn đón đọc Người Chưa Bao Giờ Thấy Biển của tác giả Jean-Marie Gustave Le Clézio.
Người Thầy Thuốc - Thanh Châu
Thanh Châu (1912-2007), tên thật là Ngô Hoan, là nhà văn Việt Nam thời tiền chiến. Ông là tác giả truyện ngắn "Hoa ti gôn" (1937), là truyện đã làm "khơi dậy men thơ cho T.T.Kh sáng tác bài thơ nổi tiếng: Hai sắc hoa ti gôn". Người thầy thuốc là tập truyện ngắn của ông được đăng trên Phổ thông bán nguỵệt san xuất bản năm 1938. Mời các bạn đón đọc Người Thầy Thuốc của tác giả Thanh Châu.
Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu - Tử Ngưng Yêu
AudioBook Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu   Bản giới thiệu vắn tắt của Thiên Lôi Lôi thần: “Làm đại tỷ có sảng khoái lắm không?” Sói ta: “Sảng khoái” Lôi thần: “Trêu chọc trai đẹp có thích không?” Sói ta: “Thích ~” Lôi thần: “Trêu chọc con ta có thích không?” Sói ta: “Đương nhiên thích ~~” Lôi thần: “……… Ta đánh chết ngươi!!!!!!!!” Sói ta hấp hối: “Ngươi… Cho dù ngươi có đánh ta thành ngốc, lão nương cũng sẽ không buông tha con của ngươi!” Lôi thần cười gằn: “Ta đây sẽ thỏa nguyện cho ngươi!” Đoạn này giải thích nguyên nhân vì sao nhân vật nữ bất hạnh biến thành kẻ ngốc nên mới phải chịu áp bức. Sau khi chết đi sống lại, cô khôi phục trí nhớ, cảm thấy vô cùng xấu hổ và đau đớn. Đấm ngực dậm chân – – Làm một nữ nhân xuyên không – – lại bị biến thành như vậy – – cũng quá dọa người!!! Do đó cô bắt đầu hăng hái tiến lên phía trước, tuyệt địa phản công trả thù! *** Bản giới thiệu vắn tắt của Động vật: Lúc trước, ta là một con sói uy phong lẫm lẫm! Có một ngày, bất hạnh … mất trí nhớ! Sau đó, có người nói cho ta biết …. Ngươi chỉ là một con cún con # Vì thế, ta cũng rất happy trải qua cuộc sống của một con chó nhỏ = = Mãi cho đến một ngày kia! Ta đột nhiên nhớ lại tất cả mọi chuyện!!!!!!! Ta vô cùng phẫn nộ, nhiệt huyết cứ tuôn trào trong thân thể, chạy rần rần đến mức không thể ức chế nổi. Ta ngửa đầu rống giận: “Ta là sói!!! Sói!!! Sói!!!” Lại phát hiện…. Mẹ ơi ~~~~~ Chung quanh vì sao lại xuất hiện áp khí của dã thú mạnh mẽ cỡ đó a. Được rồi, ta là cún, ta là cún, ta là cún……. T=T Mời các bạn đón đọc Cuộc Sống Trêu Chó Chọc Mèo Của Nhị Nữu của tác giả Tử Ngưng Yêu.
Tuyển Tập Erich Maria Remarque
Erich Maria Remarque (22 tháng 6, 1898 – 25 tháng 9, 1970), tên khai sinh Erich Paul Remark, là nhà văn người Đức, được biết đến nhiều nhất với tác phẩm Phía Tây không có gì lạ. Ông sinh ra trong một gia đình thuộc giai cấp lao động ở thành phố Osnabrück, Đức. Cha của ông là Peter Franz Remark, còn mẹ là Anna Maria Một số tác phẩm của ông đã được dịch tại Việt Nam: Phía Tây Không Có Gì Lạ Bia Mộ Đen và Bầy Diều Hâu Gãy Cánh Ba Người Bạn Khải Hoàn Môn Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Trong ebook này gồm có: Chiến Hữu Bản Du Ca Cuối Cùng Lửa Yêu Thương Lửa Ngục Tù Một Thời Để Yêu Và Một Thời Để Chết Phía Tây Không Có Gì Lạ Mời các bạn đón đọc Tuyển Tập Erich Maria Remarque.