Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Candide - Chàng Ngây Thơ

Từ khi ra đời, Candide hay chủ nghĩa lạc quan (Candide ou l’optimisme) đã gắn liền với tên tuổi của Voltaire và trở thành một trong những tác phẩm kinh điển cả về văn chương lẫn triết lý. Candide luôn có mặt trong tất cả các tuyển tập tác phẩm văn xuôi của Voltaire. Bên cạnh Zadig, Memnon, Micromégas, đó là tác phẩm lừng danh nhất của ông, nhiều khi được đánh giá là tác phẩm văn chương giàu tính triết học nhất mà Voltaire từng viết. Tuyển tập tác phẩm gần đây nhất của tủ sách La Pléiade, được tập hợp dưới cái tên “Romans et contes” (tiểu thuyết và truyện) có 26 tác phẩm, thì Candide được xếp thứ 11, nghĩa là ở vào khoảng giữa, và cũng thường được coi là được viết vào giai đoạn Voltaire đạt đến đỉnh cao của tài năng. Tác phẩm được viết để trả lời cho triết thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người phải lạc quan. Ông đưa ra một nhân vật chính, có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật thà đến mức ngây thơ nên người ta phải gọi là “chàng Ngây Thơ”. Chàng trải qua bao nhiêu tai biến, hoạn nạn mà vẫn cứ khờ khạo, tin vào lời của thầy là triết gia Pangloss dạy rằng cứ lạc quan, thế gian sẽ hoàn thiện. Chàng đã gặp bao nhiêu ngang trái, bao nhiêu bất công, nghịch cảnh, bị hoạn nạn, gian nan, chìm nổi song vẫn không tìm được hạnh phúc mà chàng đặt vào một người đẹp, người yêu tha thiết của chàng. Lưu lạc vào một thế giới hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy về được ngọc vàng châu báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người giàu mạnh nhất thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở thành nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiều lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng chỉ có thể mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường. Tuy nhiên, nếu cuộc sống là tồi tệ, thì một ngày nào đó, mọi việc rồi sẽ tốt, đó là hy vọng của chúng ta.” Chống đối một lý thuyết trừu tượng hão huyền, Voltaire đề xuất một hoạt động cho sự vận hành của loài người: “hãy trồng trọt khu vườn của chúng ta,” khu vườn ấy chính là thế giới. Sự khẳng định chủ đề này đảm bảo cho sự thống nhất của những cuộc phiêu lưu khác nhau của Candide, được thuật lại bằng một phong cách sinh động, được tạo nên từ sự chối tai khôi hài và lúc nào cũng thấm đượm sự mỉa mai, trào lộng. *** GIỚI THIỆU TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM VOLTAIRE (1694-1778) Voltaire (tên thật là François-Marie Arouet) sinh tại Paris (1694-1778) là văn hào Pháp đã sống một cuộc sống sôi nổi, có tính ham thích tìm hiểu những gì mới lạ và những trạng thái xã hội đương thời. Ông viết rất nhiều, đủ loại: tiểu thuyết, triết lý, truyện ngắn, kịch bản và thơ. Với một giọng văn châm biếm, ông nói lên những bất bình trước sự kỳ thị tôn giáo, trước sự xâm phạm tự do cá nhân; cuốn Correspondance (Thư tín) của ông gồm đến 18.000 bức thư. Vì thái độ không xu thời, ông đã bị các nhà quyền quý thù oán, muốn làm hại; đã có hồi ông phải trốn tránh ở nhà một phụ nữ có thế lực là bà du Châtelet ở Cirey trong một thời gian. Ông du lịch ngoại quốc khá nhiều, nhất là ở nước Anh, một nước mà ông tin tưởng là có chế độ xã hội hoàn thiện hơn nước Pháp; ông học văn chương Anh, viết sách bằng Anh ngữ để phát biểu tư tưởng. Cuốn Candide - Chàng Ngây Thơ của ông nhằm mục đích trả lời cho triết thuyết của Rousseau về Thượng đế và nhất là để phản đối chủ trương của triết gia Leibniz, theo đó mọi sự trên đời đều sẽ càng ngày càng hoàn thiện hơn, nên con người phải lạc quan.  Ông đưa ra một nhân vật chính, có tính tình chất phác, quá lạc quan, thật thà đến mức ngây thơ nên người ta phải gọi là “chàng Ngây Thơ”. Chàng trải qua bao nhiêu tai biến, hoạn nạn mà vẫn cứ khờ khạo, tin vào lời của thầy mình là triết gia Pangloss dạy rằng cứ lạc quan, thế gian sẽ hoàn thiện. Chàng đã gặp bao nhiêu ngang trái, bao nhiêu bất công, nghịch cảnh, bị hoạn nạn, gian nan, chìm nổi song vẫn không tìm được hạnh phúc mà chàng đặt vào một người đẹp, người yêu tha thiết của chàng. Lưu lạc vào một thế giới hoàng kim (xứ Eldorado, một xứ tưởng tượng) chàng lấy về được ngọc vàng châu báu kim cương, đủ thành một tài sản đưa chàng lên địa vị người giàu mạnh nhất thế giới; vậy mà, đến khi tìm được người đẹp, thì nàng hết nhan sắc, trở thành nô lệ, từng bị bán đi bán lại nhiều lần; cuộc sống sóng gió của nàng đã làm cho nàng hết đẹp, lại còn sinh tính nóng nảy, cục cằn. Lúc này đã hết tiền, chàng chỉ có thể mua một miếng vườn để cùng vợ và các bạn cũ sống đời an phận thủ thường. Cuốn Candide khai thác các thực tại xã hội, chiến tranh chết chóc, động đất, dịch hạch, một thuỷ sư đô đốc bị xử bắn, một nữ tài tử chết không có quan tài, một công nhân bị chủ chặt tay chân. Bao nhiêu bất công trong một chế độ phong kiến tàn ác. Tác giả đưa ra một bài học: sống trên đời, nên bác bỏ các thuyết lý viển vông, quá cao xa, nên sống thực tế và trông vào sự làm việc mới tạo được hạnh phúc. Cần nói thêm rằng cuốn Candide xúc phạm đến nhiều nhà quyền quý, nên tác giả khi xuất bản phải ký một biệt hiệu khác, chứ không ký là Voltaire, vì sợ bị trả thù. Ông lo xa cũng đúng vì cuốn Candide ngày 2 tháng Ba năm 1759 bị hội đồng Genève tố cáo và ra lệnh hỏa thiêu (đem đốt ở nơi công cộng).  *** VIẾT SỰ NGÂY THƠ Cao Việt Dũng Candide rời khỏi thiên đường: đó là motif lặp lại ít nhất hai lần trong Candide. Thiên đường đầu tiên chính là lâu đài của ngài nam tước Thunder-ten-tronckh xứ Westphalie, nơi hội tụ sự vĩ đại đáng kể của trần thế (hóa thân là ngài nam tước), tình yêu nồng nàn (với nàng Cunégonde xinh đẹp) và tri thức toàn vẹn (ở tiến sĩ Pangloss, người thầy của Candide) - “Chàng kết luận rằng sau cái diễm phúc được sinh ra là nam tước Thunder-ten-tronckh, đến cái diễm phúc bậc nhì là được sinh ra là cô Cunégonde; kế đến diễm phúc bậc ba là được nhìn thấy cô suốt ngày và sau chót diễm phúc bậc tư là được nghe những lời thuyết giảng của Pangloss tiên sinh, triết gia giỏi nhất trong tỉnh và do đó là triết gia giỏi nhất hoàn cầu” (tr.30). Thiên đường thứ hai, xứ Eldorado khó đến khó rời bên Nam Mỹ, là biểu tượng của tiền bạc. Vấn đề Candide phải đối mặt là những thiên đường đó không bền vững, lâu đài của ngài nam tước là nơi chàng không thể ở (vì bị đuổi đi), Eldorado là nơi chàng không muốn ở và tự nguyện rời đi. Cho đến cuối truyện, một thiên đường khác khiêm tốn hơn nhiều lần lại xuất hiện, và lần này thì chúng ta không biết Candide ở đó trong bao lâu; nhiều khả năng là vĩnh viễn, như việc kết thúc tác phẩm tại đó gợi ý. Có thể nói rằng Candide phải rời khỏi các thiên đường vì đức tính “ngây thơ” nằm ngay trong cái tên của chàng (“candide” trong tiếng Pháp là tính từ của “candeur”, dùng để chỉ phẩm chất ngây thơ và thuần khiết của một tâm hồn), còn sở dĩ chàng vẫn tiếp tục đến được các thiên đường sau này là nhờ phẩm chất thứ hai đặc trưng của chàng, “lạc quan” (nhan đề đầy đủ của tác phẩm là Candide ou l’optimisme, “Candide hay chủ nghĩa lạc quan”). Điều đáng ngạc nhiên là chủ đề kép mang đầy tính đạo đức này lại được xử lý dưới ngòi bút của một nhà văn như Voltaire, một người không mấy có danh tiếng về cả “ngây thơ” lẫn “lạc quan”. * Sự bi quan mà Voltaire dành cho cuộc đời nói chung bắt nguồn từ những sự kiện mà chính ông vấp phải. Khi còn trẻ, ông đã bị tống ngục Bastille vì viết các tác phẩm châm biếm đả kích quan Nhiếp chính thời đó, và sẽ nhiều lần nữa quay trở lại nơi đây, đến năm 1726 lại vì xích mích với hiệp sĩ de Rohan mà bị nhà quý tộc cho người lấy gậy đánh đập ngay trên phố, sau đó còn phải lưu vong sang Anh. Bi quan với con người và với xã hội vẫn chưa phải là tất cả, Voltaire còn bi quan cả với thiên nhiên. Năm 1759 khi Voltaire cho in Candide (các chuyên gia về Voltaire thống nhất cho rằng tác phẩm được viết một năm trước đó) cũng là khi triết gia mới tậu được cơ ngơi ở Genève và bắt đầu thực sự biết đến cảnh thoải mái về vật chất và thực hiện được “giấc mơ khu vườn” đã có trong đầu từ lâu nay (chúng ta hiểu vì sao “thiên đường thứ ba” trong Candide nhất thiết phải có khu vườn!) Tuy nhiên, trong cảnh điền viên đó, những tiếng vọng bi thảm từ thế giới bên ngoài dội về vẫn rất mạnh mẽ: hai thảm họa diễn ra liền trong hai năm: động đất lớn ở Lisbonne cuối năm 1775 và những viễn cảnh kinh hoàng của cuộc chiến tranh Bảy năm từ Đức lan tới. Cuộc động đất là nguồn gốc cho bài thơ dài thuộc loại nổi tiếng nhất trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Voltaire (ngoài các vở kịch và những tác phẩm văn xuôi giống như Candide, Zadig hay Memnori), và cũng được tái hiện trong Candide, được viết không lâu sau khi xảy ra sự kiện (các chương IV, V, VI của tác phẩm), nơi Candide mất đi nhà từ thiện Jacques và đồng thời tiến sĩ Pangloss bị treo cổ. Giọng văn của Voltaire cũng không bao giờ ngây thơ. Ngay trong Candide, ông cũng dành cả một chương dài (chương XXII) để đả kích cay độc thành phố Paris và như thể nhân tiện, tính sổ với một số đối thủ của mình, tiến sĩ triết học Gauchat (“Có cả trăm cuốn sách viết cẩu thả mà không cuốn nào lại cẩu thả bằng sách của Gauchat, tiến sĩ triết học” - tr.150), một tác giả tên là Truble (“Ông ta đã viết ra tất cả những điều mà ai cũng biết”), và đặc biệt, nhà báo Fréron nhận được cả một loạt những lời phỉ báng thực thụ: “Đó là một kẻ xấu miệng, hắn sống bằng nghề nói xấu tất cả các vở kịch, tất cả các diễn viên. Hắn oán ghét ai thành công, như kẻ hoạn quan ghét kẻ còn biết thụ hưởng; hắn là con rắn độc trong văn chương, sống trong nọc độc và bùn lầy. Hắn là kẻ “bán văn” vô loại. - Thế nào là kẻ “bán văn” vô loại? - Nó là một kẻ viết cho đầy giấy, một con rắn độc, kiểu như tên Fréron” (tr.148). Voltaire từng viết cả một vở kịch để chế nhạo riêng Fréron. Đến đây chúng ta nên nói một chút về nhân vật đặc biệt của lịch sử văn chương và báo chí Pháp này. Fréron (1718-1776), từng dạy học rồi bỏ nghề và bỏ luôn cả dòng tu của mình (dòng Tên), gia nhập hội Tam điểm, làm nghề báo và dành rất nhiều tâm trí và thời gian trong sự nghiệp để phản đối và bài xích Voltaire. Fréron không ít lần vào ngục vì thời đó viết báo chuyên để chỉ trích là một việc rất nguy hiểm (nhất là khi tờ báo quá thành công, có quá nhiều độc giả). Tuy nhiên Fréron cũng gây dựng được hai tờ báo rất lớn, không ngừng công kích các nhà triết học nói chung và Voltaire nói riêng, thậm chí cả công trình Bách khoa toàn thư đồ sộ cũng đã có lúc suýt đổ sập vì những lời phản đối của Fréron, vốn rất có uy thế và nhiều quan hệ thời đó. Ngày nay nhìn lại, cuộc đối đầu giữa Voltaire và Fréron thường được coi là cuộc chiến giữa hai bộ óc tuyệt vời nhất của thế kỷ XVIII, một bên là triết gia lừng danh, bên kia là nhà phê bình lớn nhất của thế kỷ. Một bài thơ nổi tiếng của Voltaire viết đại ý nếu có một con rắn cắn Fréron thì nó sẽ lăn ra chết chứ không phải Fréron; Fréron đáp lại sự khiêu khích đó như sau: “Trong câu chuyện này sẽ không có gì là lạ nếu Voltaire chính là con rắn. Quả thực với tôi ông ta đã lăn ra chết vì tức tối và một phần nhỏ vì nọc độc của tôi.” Candide là thêm một cơ hội nữa để đối thủ lớn của Voltaire bị đưa ra chế nhạo thậm tệ, những lời lẽ rất dễ khiến người phát ngôn phải ra tòa dưới hệ thống luật pháp hiện đại. Về sự “xấu tính” (và do đó, không ngây thơ trong trắng) của Voltaire, người ta còn có thể kể rất nhiều câu chuyện. Chẳng hạn như chỉ vì một cuộc tranh chấp một đống củi giữa hàng xóm tại Ferney mà Voltaire sẵn sàng tố cáo Charles de Brosses thiếu trung thực và trong suốt năm năm tiến hành một chiến dịch chống de Brosses, khiến cho nhà thông thái không thể vào được Viện Hàn lâm. Voltaire nhất định không phải là một Candide. Voltaire, đó là một người theo chủ thuyết bi quan (giống như nhà thông thái Martin trong Candide) đem lạc quan ra để bàn; là một người không chút ngây thơ, ông lại đặt tên cho một trong các nhân vật sẽ được hậu thế nhớ nhất từ ông là “chàng Ngây Thơ”. * Thế nhưng, con người Voltaire phức tạp hơn một số tính từ. Là một người có thể gọi là xấu tính, hay để bụng, nhưng đồng thời ông cũng lại chấp nhận đón một nữ hậu duệ nghèo đói của nhà thơ Corneille về Ferney nuôi nấng (cũng chính vì chuyện này mà Voltaire chịu sự chỉ trích của Fréron, người cho rằng triết gia chỉ làm vậy vì mục đích tốt đẹp cho danh tiếng của mình). Ông cũng đứng ra bênh vực Giulio Cesare Vanini, người bị kết tội chết vào năm 1619 vì viết một tác phẩm triết học, và nhất là đã thành công trong việc cứu mạng Jean Calas, một người theo đạo Tin lành ở Toulouse bị kết án giết con trai mình vì anh ta có ý định cải đạo. Vụ việc này kéo dài từ năm 1762 đến năm 1766, và cuối cùng nghị viện Paris đã quyết định gỡ tội cho Calas. Và không ai phủ nhận được vai trò của Voltaire trong công trình Bách khoa toàn thư, biểu tượng của phong trào Ánh sáng tại Pháp, cũng như một thái độ nhất quán chống lại những điều tầm thường, chống thế lực thần quyền cũng như thế quyền đương thời. Giai đoạn Voltaire viết Candide (cuối những năm 1750, như đã nói ở trên) nằm ở khoảng giữa cuộc lưu vong dài đằng đẳng của triết gia (từ 1750 đến 1778 - ông trở về Paris trong vinh quang, giống như một người bị lưu đày vĩ đại sau này, Victor Hugo, và chết ngay sau đó; người ta nói rằng ông chết vì kiệt sức trước vinh quang của chính mình). Cuộc lưu vong của Voltaire còn cay đắng ở chỗ nó là một cuộc lưu vong “đúp”: ngoài việc bị hắt hủi khỏi nước Pháp, ông còn không có chỗ đứng bên cạnh một người từng một thời là bạn thân của mình, vua Frédéric II nước Đức, đành chọn một nơi trung gian là Thụy Sĩ để sống (Lausanne, Genève, Ferney). Một đòn đánh mạnh thêm nữa vào tình cảm của Voltaire là cái chết của người bạn thân, bà du Châtelet (1749). Trong thời gian lưu vong đó, Voltaire còn phải chứng kiến từ xa sự thay đổi của đời sống trí thức Paris: một thế hệ mới đầy tài năng đã xuất hiện, đó là những người như Diderot, d’Holbach, d’Alembert và Rousseau, những người tuy ông có nhiều liên lạc và cộng tác, nhưng mối quan hệ không phải lúc nào cũng tốt đẹp. Các mốt mới lên ngôi: tác phẩm của văn hào Anh Richardson (tác giả Pamela, một trong những người đầu tiên của văn học theo chủ nghĩa lãng mạn, mà cộng hưởng tại châu Âu là Goethe và Rousseau), nhạc Ý và kịch tư sản. Các sáng tác văn học của Voltaire không thể không có phần lỗi thời trong bối cảnh ấy. Voltaire là một người lưu vong chung thân, ngay cả khi đã có cơ ngơi ở Genève thì ông vẫn thấy như thể mình bị cắt đứt khỏi các giá trị phổ quát. Thực sự là không có thiên đường nào dành cho Voltaire cả. * Candide luôn có mặt trong tất cả các tuyển tập tác phẩm văn xuôi của Voltaire. Bênh cạnh Zadig, Memnon, Micromégas, đó là tác phẩm lừng danh nhất của ông, nhiều khi được đánh giá là tác phẩm văn chương giàu tính triết học nhất mà Voltaire từng viết. Tuyển tập tác phẩm gần đây nhất của tủ sách La Pléiade, được tập hợp dưới cái tên “Romans et contes” (tiểu thuyết và truyện) có 26 tác phẩm, thì Candide được xếp thứ 11, nghĩa là ở vào khoảng giữa, và cũng thường được coi là được viết vào giai đoạn Voltaire đạt đến đỉnh cao của tài năng. Có thể coi đó là một “tiểu thuyết”, một “truyện”, hoặc xét về dung lượng, một “truyện vừa” theo như cách gọi của ngày nay. Nhưng thực tế rất khó xếp thể loại cho Candide cũng như rất nhiều tác phẩm văn học khác của Voltaire, được viết ra trước khi các phương thức sắp xếp theo thể loại trở thành quy phạm, khi mà tiểu thuyết cũng chỉ mới ra đời và còn chưa được dành cho một vị trí mặt tiền. Vấn đề này từng làm đau đầu các chuyên gia về Voltaire, và trong lịch sử các tuyển tập Voltaire đã có rất nhiều khác biệt (để chỉ dẫn ra đây một số lần xuất bản quan trọng: bản của anh em nhà Cramer, 1776, cũng là bản toàn tập cuối cùng in khi Voltaire còn sống; bản của Bouillon, 1778; bản quan trọng của Kehl, 1784; và các bản hiện đại của Van Tieghem năm 1930, bản của Groos năm 1932, bản của Bénac năm 1949 và bản của Pomeau các năm 1961 và 1966). Ở đây sẽ không đi sâu vào vấn đề văn bản và các thay đổi về lựa chọn tác phẩm cho tuyển tập, cũng như thứ tự sắp xếp của chúng, nhưng cũng cần nhấn mạnh Voltaire trước hết là một triết gia (tác phẩm nổi tiếng nhất của ông ngày nay có lẽ là Từ điển triết học), ông còn là một nhà viết kịch danh tiếng, một nhà thơ, và, điều này không thể bỏ qua, một nhân vật lớn của thế kỷ XVIII. * Là một triết gia có sáng tác văn học (điều này cũng không khác mấy ở Diderot, tuy rằng ở Rousseau thì rất khác), các tác phẩm của Voltaire theo lẽ tất nhiên có một số đặc điểm liên quan nhiều đến triết học. Trong chúng có rất nhiều thứ, có thể nói là tất cả mọi thứ trong vũ trụ, có rất nhiều lời nói, nhưng luôn luôn thiếu vắng một số cột đỡ then chốt của tác phẩm văn chương: tâm lý nhân vật, sự dẫn dắt cốt truyện, và đặc biệt là các chuyển hóa. Nhân vật của Voltaire như chúng ta thấy trong Candide, xuất hiện và vĩnh viễn giữ nguyên tâm lý đã có, không có biến đổi. Do đó, các nhân vật ấy giống như các hằng số - rất có thể coi những nhân vật này gần với các quy luật phổ quát, cái đích hướng tới và chủ đề suy tư của các triết gia điển hình. Chúng ta có Candide (và đồng thời, thầy của chàng, Pangloss), người lạc quan. Cả hai đều khăng khăng tin rằng “mọi sự kiện đều có một cứu cánh, mọi sự việc đều nhất thiết phải đi đến một cứu cánh hoàn bích hơn” (tr.29). Trước sự tra vấn của nhà hảo tâm Jacques, Pangloss trả lời như sau: “những bất hạnh riêng biệt đã xây thành sự hữu hạnh của toàn thể; như vậy càng có nhiều sự bất hạnh riêng biệt bao nhiêu thì sự hữu hạnh công cộng càng hoàn thiện bấy nhiêu” (tr.49). Có những lúc triết thuyết cứng nhắc đó bị nghiêng ngả, chẳng hạn như khi nàng Cunégonde mà Candide gặp lại sau này nói rằng: “Hay là Pangloss tiên sinh đã lừa tôi một cách tàn ác, khi ông bảo tôi rằng: “Cứ yên tâm, mọi việc rồi sẽ tốt hơn”” (tr.68), hay thậm chí đã có lúc chính Canđide dao động: “Ông Pangloss ơi! Chàng Ngây Thơ la lên, ông đã không đoán được cảnh tượng ghê gớm như thế này… Thôi từ nay tôi không còn tin ở chủ nghĩa lạc quan của ông nữa” (tr.127). Thế nhưng, như một thứ cao su hay lò xo luôn quay trở lại trạng thái ban đầu sau khi chịu một số tác động của ngoại cảnh, Candide vẫn giữ một niềm tin chắc chắn vào cái tốt đẹp; không một cơn bão biển, không một trận động đất hay sự độc ác-hiển nhiên nào của con người khiến được chàng quên đi những gì đã được học (một sự “kiên định triết học”, với đầy đủ ý nghĩa hài hước của cụm từ này). Trong Candide, những câu chuyện (đúng hơn là các đối thoại) quan trọng hơn những gì xảy ra thực sự: vụ bắn nhau giữa hai con tàu trên biển ngay trước mặt chỉ phục vụ cho các lập luận trao đổi giữa Candide và Martin: với Martin người ủng hộ quan điểm cho rằng mọi thứ trên đời là xấu, và thế giới được dẫn dắt bởi cái ác, thì cuộc bắn giết đó càng cho thấy quan điểm đó không sai, còn với Candide, khi con cừu từ trên một con tàu kia dạt vào đúng con tàu chàng đang ở trên thì “lý thuyết lạc quan Pangđoss” bị lung lay nhiều khi lại được dịp sống dậy. Đó là một thế giới không chấp nhận thay đổi. Candide trở thành người bị đuổi khỏi thiên đường với tâm thức nhẹ nhõm nhất trong lịch sử văn học. Một “hằng số” khác là nhà thông thái Martin, người bi quan toàn phần. Martin biện luận như sau: “nhìn qua Trái đất này, hay nói đúng hơn là cái hạt bụi này, tôi phải tin là Thượng đế đã bỏ quên Trái đất cho một thứ ác quỷ nào đó. […] Tôi chả thấy thành phố nào mà lại không muốn tàn phá thành phố bên cạnh, chưa bao giờ nhìn thấy một gia đình nào mà lại không muốn tiêu diệt gia đình khác” (tr.136). Trong khi đó, nhà thông thái mà Candide gặp ở Paris lại là người nhìn mọi thứ qua lăng kính của sự mâu thuẫn: “Với tôi thì mọi việc trên đời đều mâu thuẫn hết: không ai biết được mình thuộc cấp bậc nào, nhiệm vụ của mình là gì, mình làm gì và phải làm gì? Ngoại trừ bữa ăn này khá vui vẻ và đoàn kết còn thì chỉ thấy những xung đột khả ố: giáo phái này chống giáo phái kia, quốc hội chống giáo hội, văn nhân chống văn nhân, nịnh thần chống nịnh thần, tài phiệt chống dân chúng, vợ chống chồng, bà con chống bà con” (tr.152). Liên quan trực tiếp hơn cả đến cuộc đời của Candide, ngài nam tước anh trai Cunégonde thì đóng đinh vào sự phân biệt tầng lớp xã hội và vin vào đó để nhất định không cho Candide lấy em gái mình. Các nhân vật chính phụ của Candide không bao giờ thay đổi ý kiến. Các thái độ khác nhau cũng có khi được đặt liền kề nhau, giống như một “thủ pháp” của Voltaire, chẳng hạn như ở đoạn sau: “Tên thủy thủ miệng vừa huýt gió vừa chửi thề: - Ở đây tất phải có gì làm lợi lộc cho mình. Ông Pangloss lẩm bẩm trong miệng: - Nguyên nhân của tai nạn này là do đâu? - Đây là ngày tận thế rồi, chàng Ngây Thơ la lớn.” (tr.52) Xét về diễn ngôn mà tác phẩm sử dụng, Candidenằm ở giữa đối thoại triết học thuần túy và kịch hài (mà điển hình và khuôn mẫu là kịch của Marivaux). Một đặc điểm về hình thức quan trọng của hài kịch là sự tập hợp đông đảo các nhân vật chính và phụ ở kết thúc, mà ở đây là đoạn ở khu vườn Propontide. Kịch hài cũng thường không để nhân vật chết, và thường sử dụng cái chết như là một yếu tố đầy tính nhẹ nhõm: nhân vật liên tục bị tưởng là đã chết nhưng sau này sẽ gặp lại trong một hoàn cảnh khác. Cái chết ở đây giống như một cuộc di trú, nó đưa nhân vật di chuyển một cách vô hình trong không gian, sự nặng nề của cái chết được giảm trừ hoàn toàn tính chất bi thảm. Thêm một đặc điểm nữa là yếu tố ngẫu nhiên được tận dụng tối đa, điều này giúp tác giả tạo được nhiều tình tiết hơn, nhưng mặt trái của nó là khiến cho câu chuyện luôn bị đẩy ra xa khỏi “sự tự nhiên”. Tuy nhiên, cũng có thể nghĩ rằng Voltaire đã đề xuất ở cuối truyện cũng như rải rác trong Candide một “giải pháp” nhất định cho tính chất ngồn ngộn ngôn từ của các tác phẩm văn học theo hơi hướng triết học, đó là từ bỏ triết lý: “Hãy làm việc mà đừng lý sự, Martin nói, đó là phương tiện duy nhất để có được cuộc sống tàm tạm. Cả cái xã hội thu nhỏ bước vào dự định đáng khen ấy; mỗi người làm việc theo khả năng của mình. Mảnh đất nhỏ bé mang đến nhiều điều” (tr.211). Thế nhưng, với triết học từ bỏ triết lý cũng là từ bỏ thiên đường, và không có gì chắc chắn sự từ bỏ đó sẽ được thực hiện với một tâm thức nhẹ nhõm…   Mời các bạn đón đọc Candide - Chàng Ngây Thơ của tác giả Voltaire & Tế Xuyên (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nhật Thực
Trọn bộ tiểu thuyết Chạng vạng (Twilight) gồm bốn tập của nhà văn Mỹ Stephenie Meyer, xoay quanh cuộc sống của Isabella "Bella" Swan, một thiếu nữ vừa chuyển tới Forks, Washington, và rẽ ngoặt cuộc đời khi sa vào tình yêu với Edward Cullen- một ma cà rồng. Bộ truyện Chạng vạng-Twilight được kể theo ngôi thứ nhất, điểm nhìn của Bella ngoại trừ trong Eclipse có một phần kể theo lời Jacob Black Chạng vạng-Twilight là bộ tiểu thuyết thịnh hành trong giới trẻ, đã bán hơn 40 triệu bản trên toàn thế giới được dịch ra hơn 37 ngôn ngữ toàn cầu. Bốn cuốn Chạng vạng là những sách bán chạy nhất năm 2008 trong danh sách Best-seller của USA Today. Chạng vạng-Twilight gồm 4 tập: Tập 1: Chạng Vạng-Twilight Tập 2: Trăng Non-New Moon Tập 3: Nhật Thực-Eclipse Tập 4: Hừng Đông-Breaking Dawn *** Nhật Thực-Eclipse bắt đầu với các tin tức trên báo chí rằng Seattle đang xuất hiện một loạt các vụ giết người bí ẩn, mà Edward nghi ngờ nguyên nhân do một tên ma cà rồng không điều khiển được cơn khát máu gây ra. Edward và Bella điền các đơn xin vào trường đại học, trong khi Bella giải thích cho Edward mong muốn của cô muốn đi gặp Jacob Black, cậu bạn người sói của cô. Mặc dù Edward lo cho sự an toàn của cô, Bella vẫn nhất quyết rằng Jacob và nhóm bạn người sói của cậu sẽ không bao giờ làm hại cô, và cô bắt đầu ghé thăm cậu trở lại sau một thời gian lánh mặt. Trong khi đó, Alice Cullen tiên thị rằng Victoria, một nữ ma cà rồng đang săn tìm Bella để trả thù, đang quay lại thị trấn. Vài ngày sau, Edward ngỏ lời cầu hôn Bella, và mặc dù có ác cảm với chuyện cưới xin, cô vẫn đồng ý. Bella và gia đình Cullen nhận ra rằng những vụ giết người ở Seattle là do một "đội quân" ma cà rồng mới sinh gây ra, dưới sự điều khiển của Victoria để trả thù. Gia đình Cullen kết giao với nhóm người sói nhằm ngăn chặn sự đe dọa này. Khi mọi người khác đang chuẩn bị cho trận đánh, Edward và Jacob đưa Bella đi ẩn náu bằng cách cắm trại trên núi, cùng với cả Seth Clearwater, một thành viên mới của nhóm người sói. Vào buổi sáng, Jacob nghe lỏm được Edward và Bella bàn về chuyện đính hôn của họ và cảm thấy rất thất vọng. Cậu đe dọa tham gia vào trận chiến và sẽ sống mái đến cùng. Để ngăn cậu, Bella đã hôn Jacob và nhận ra rằng cô cũng cảm thấy yêu cậu nhưng tình yêu của cô dành cho Edward lớn hơn nhiều, nhưng nếu cô nói thì Jacob sẽ chết nên cô quyết định khi trận chiến kết thúc,cô sẽ nói thật với cậu. Victoria dò tìm mùi của Edward và tìm được nơi Bella ẩn nấp, Edward và Jacob bị buộc phải chiến đấu. Sau khi Victoria và đội quân của ả bị tiêu diệt, Bella giải thích cho Jacob hiểu rằng tuy cô có yêu cậu, tình yêu của cô dành cho Edward còn lớn hơn nhiều. Sau khi nhận được thiệp cưới từ Edward, Jacob chạy đi trong lốt sói để tránh né nỗi đau trong lòng cậu, rất giận dữ vì Bella đã quyết định sẽ biến đổi thành ma cà rồng. *** Tất cả chúng ta đều có thể đồng ý rằng Meyer không phải là nhà văn giỏi nhất, nhưng cô ấy cũng không hề tệ. Tôi chỉ ước rằng cuốn sách có nhiều hơn những tình tiết liên quan đến hành động và bớt đi sự thiếu quyết đoán của Bella về việc cô ấy có yêu Jacob hay không. Mối tình tay ba này làm tôi cảm thấy rất khó chịu. Tôi không không thật sự thích Jacob, không phải chỉ vì anh ta đang cố gắng đánh cắp Bella khỏi Edward. Lý do tôi không thích anh ấy nhiều hơn là vì anh ấy khá non nớt. Tôi thậm chí nghĩ rằng có lẽ, chỉ là có thể nếu anh ấy để Bella tự mình quyết định, có lẽ cô ấy thậm chí còn có khả năng sẽ chọn anh ấy. Tôi thực sự tin rằng nếu Meyer sẽ bớt mê mẩn khi mô tả tất cả những cách mà Bella yêu Edward hay cách cô ấy yêu hai người cùng một lúc, và thay vào đó tạo ra một số cảnh hành động, thì đó sẽ là một cuốn sách thực sự hay và sẽ trở nên xuất sắc về mặt tổng thể. Nếu tôi là cô ấy, có lẽ tôi đã viết cuốn sách theo nhiều cách (dĩ nhiên là có thêm Bella và Edward, nhưng tại sao không phải là một bầy sói hay Cullens khác?) Và theo cách đó chúng ta sẽ thấy nhiều hơn nữa nhiều thứ. Tôi đã thích cả hai phần trước của bộ truyện này và cũng đã xem phim, nhưng đối với tôi thì tôi thích sách hơn, vì nó đầy đủ và cô đọng hơn. Tôi thích bộ truyện nhưng tôi muốn một số hành động và sự đa dạng hơn nữa.   Mời các bạn đón đọc Nhật Thực của tác giả Stephenie Meyer.
Trăng Non
Trọn bộ tiểu thuyết Chạng vạng (Twilight) gồm bốn tập của nhà văn Mỹ Stephenie Meyer, xoay quanh cuộc sống của Isabella "Bella" Swan, một thiếu nữ vừa chuyển tới Forks, Washington, và rẽ ngoặt cuộc đời khi sa vào tình yêu với Edward Cullen- một ma cà rồng. Bộ truyện Chạng vạng-Twilight được kể theo ngôi thứ nhất, điểm nhìn của Bella ngoại trừ trong Eclipse có một phần kể theo lời Jacob Black Chạng vạng-Twilight là bộ tiểu thuyết thịnh hành trong giới trẻ, đã bán hơn 40 triệu bản trên toàn thế giới được dịch ra hơn 37 ngôn ngữ toàn cầu. Bốn cuốn Chạng vạng là những sách bán chạy nhất năm 2008 trong danh sách Best-seller của USA Today. Chạng vạng-Twilight gồm 4 tập: Tập 1: Chạng Vạng-Twilight Tập 2: Trăng Non-New Moon Tập 3: Nhật Thực-Eclipse Tập 4: Hừng Đông-Breaking Dawn *** Trăng Non-New Moon là tập 2 của bộ truyện trạng vạng do nhà văn Stephenie Meyer viết, đây là bộ truyện nổi tiếng thế giới với tình tiết lãng mạn, và cả nguy hiểm, tiếp nối truyện chạng vạng hãy cùng tìm hiểu cuộc đời của Bella và Edward Trong Trăng Non-New Moon tập thứ hai trong series Chạng Vạng-Twilight thành công ngoài mong đợi và là hội chứng văn hóa toàn cầu của Stephenie Meyer, mối tình lãng mạn giữa người và ma cà rồng được nâng lên một tầm cao mới khi Bella Swan  thử thách định mệnh của mình chỉ để chớp lấy một khoảnh khắc ngắn ngủi được nhìn thấy người yêu Edward Cullen Khi cô tiến thẳng đến tận cùng bí mật của thế giới siêu nhiên mà cô hằng mong ước sẽ được trở thành một phần của nó, cô khám phá ra hai bí mật cổ đại có khả năng đe dọa cuộc sống của mình lớn nhất từ trước đến nay.   Với nhiều đam mê, hành động và tính hồi hộp thêm vào so với những yếu tố đã làm nên thành công vang dội cho Chạng Vạng-Twilight, The Twilight Saga: Trăng non thực sự là một sự quyến rũ đầy mê hoặc nối tiếp hội chứng Twilight trước đó. *** Chắc hẳn nếu bạn là fan của loại tiểu thuyết về ma cà rồng thì không thể chưa nghe đến '' Chạng vạng '' của nữ nhà văn người MỹStephenie Meyer. ''Trăng non '' là cuốn tiểu thuyết thứ 2 trong series trên. Isabella "Bella" Swan, sau khi Eward vì muốn bảo vệ cô mà ra đi, luôn luôn trông ngóng bóng hình Eward. Luôn bị những tổn thương nặng nề cứa sâu trong lồng ngực, cô tìm đến sự an ủi của người bạnJacob Black. Bella nhận thấy rằng cô có thể '' nghe '' thấy giọng nói ngọt ngào của Eward khi cô làm những điều nguy hiểm, và cô đã đi xe máy, nhảy xuống biển,... Khi nhảy xuống biển, cô phát hiện ra rằng Victoria - ma cà rồng luôn muốn xé xác cô, đang theo dấu cô, may mắn cô được Jacob cứu thoát. Tình yêu giữa Bella và Eward là một tình yêu sâu đậm. Eward khi tưởng Bella chết, đã tìm đến gia tộc Volterra để kết thúc sự sống không có Bella, bởi vì đối với anh, một thế giới không có Bella thì không có ý nghĩa gì. Anh đã sẵn sàng đứng chắn trước Bella khi một tên ma cà rồng ở nhà Volterra áp dụng năng lực tra tấn lên ngươi cô, khi họ muốn thử nghiệm năng lực đặc biệt của Bella. Còn Bella cũng bất chấp hiểm nguy đối với con người, đến Italia tìm anh. Nhà văn Stephenie Meyer đã khéo léo miêu tả tình yêu của Bella và Eward dành cho nhau. Và chi tiết tôi đặc biệt ấn tượng nhất trong truyện là lúc nhân vật chính ở Italia. Hình ảnh những người trong nhà Volterra bắt người dân về, uống máu họ, thậm chí có nhiều người bị bắt còn không hiểu tại sao và điều gì sẽ đến với họ. Hình ảnh ấy có sức ám ảnh kinh khủng. Cũng giống như tập 1, có nhiều đoạn văn miêu tả về nỗi nhớ của Bella dành cho Eward lặp đi lặp lại nhiều quá. Mời các bạn đón đọc Trăng Non của tác giả Stephenie Meyer.
Chạng Vạng
Trọn bộ tiểu thuyết Chạng vạng (Twilight) gồm bốn tập của nhà văn Mỹ Stephenie Meyer, xoay quanh cuộc sống của Isabella "Bella" Swan, một thiếu nữ vừa chuyển tới Forks, Washington, và rẽ ngoặt cuộc đời khi sa vào tình yêu với Edward Cullen- một ma cà rồng. Bộ truyện Chạng vạng-Twilight được kể theo ngôi thứ nhất, điểm nhìn của Bella ngoại trừ trong Eclipse có một phần kể theo lời Jacob Black Chạng vạng-Twilight là bộ tiểu thuyết thịnh hành trong giới trẻ, đã bán hơn 40 triệu bản trên toàn thế giới được dịch ra hơn 37 ngôn ngữ toàn cầu. Bốn cuốn Chạng vạng là những sách bán chạy nhất năm 2008 trong danh sách Best-seller của USA Today. Chạng vạng-Twilight gồm 4 tập: Tập 1: Chạng Vạng-Twilight Tập 2: Trăng Non-New Moon Tập 3: Nhật Thực-Eclipse Tập 4: Hừng Đông-Breaking Dawn *** Chắc hẳn nếu ai đã là fan của thể loại tiểu thuyết như Harry Potter thì chắc đã đọc Chạng vạng, bởi vì nó là tác phẩm đã đoạt lấy vị trí đầu tiên của Harry Potter 7 trên bảng xếp hạng best – seller của New York Times trong suốt 28 tuần. Theo tôi nghĩ, cuốn sách này hay nhất trong bộ Twilight. Ở tác phẩm, tác giả đã sử dụng ý tưởng mới lạ để viết nên một bộ tiểu thuyết lãng mạng: tình cảm giữa người thường: Isabella Marie Swan- một cô gái đặc biệt sống nội tâm, khép kín và Edward Cullen -một ma cà rồng đẹp trai và có năng lực hiếm có. Vì thế, cùng với những chi tiết nghẹt thở bất ngờ, cuốn sách cho bạn đọc những giây phút hồi hộp, phấn khích, khiến chúng ta khó có thể rời mắt. Đồng thời, nó mở ra cho chúng ta một thế giới huyền bí và đầy lãng mạn. Tuy nhiên, theo tôi nghĩ, cuốn sách này không tốt ở cách dùng từ và biểu đạt. Dường như tác giả cố gắng viết thật dài, ngôn từ thật phức tạp hay sao ấy mà từ ngữ lặp đi lặp lại rất nhiều. Ví dụ như đoạn miêu tả về khuôn mặt của Edward. Có rất ít đoạn miêu tả về ngoại hình Bella, khiến ta không thể hình dung cô ấy như thế nào nếu không xem thông qua phim. Khi đọc đoạn viết về tình cảm của 2 người, ta thấy nó khá .... nhàm!!! Có lẽ là cuốn sách đã được PR quá mạnh chứ thực ra cuốn sách không thật sự hấp dẫn đến vậy. Cuốn sách chỉ tốt ở mặt nội dung, còn về mặt trình bày, ngôn từ chưa thực sự hợp lý. Nguyễn Hùng *** Có 3 điều mà tôi hoàn toàn quả quyết. Thứ nhất, "Twillight" ít nhất không dừng lại ở 3 cuốn! Thứ hai, có một phần ở trong tôi - và tôi không hiểu tại sao phần đó lại mạnh mẽ đến thế - đang thèm khát tập II "New Moon" cuồng nhiệt. Và thứ ba, tôi đã... lỡ mê "Twillight" mất rồi! Một câu chuyện tình có thể diễn ra lôi cuốn và hồi hộp đến thế sao? Nàng là ai - một cô gái 17 tuổi tầm thường và vụng về, chẳng có gì nổi bật hơn việc vừa chuyển đến từ Phoenix và sở hữu một mùi hương thảo mộc "chết người"! Còn chàng - một supermodel chính hiệu với vẻ ngoài đẹp như thiên sứ, sở hữu tất cả những gì mà mọi chàng trai cùng lứa đều mong muốn: tiền bạc, tốc độ, sức mạnh, tri thức và một gia đình gồm toàn những con người cũng hoàn hảo như chàng. Tuy nhiên, có một bí mật mà chàng chẳng muốn chia sẻ với ai ngoại trừ cô bé ngốc nghếch Bella, một bí mật mà chàng ước sao có thể đánh đổi tất cả để chôn vùi nó đi và có được tình yêu của nàng: chàng là ma-cà-rồng! Còn điều gì đau khổ hơn việc yêu một người mà chẳng thể ở bên cạnh người ấy, phải nén lòng mình lại để thảy cho người ấy những thái độ lạnh lùng cùng một ánh nhìn xa lạ... Edward đấy! Chàng trai có tình yêu mãnh liệt nhưng cũng rất cao thượng ấy đấy! Yêu ngay từ ánh mắt đầu tiên mà hai người nhìn nhau, Edward đau khổ khi phát hiện ra rằng, mùi hương trên người Bella quả thật rất hấp dẫn. Hấp dẫn đến mức chàng nghi ngờ rằng khả năng tự kiềm chế mà chàng luôn tự hào chín mươi năm nay có khả năng bị lung lay! Và chàng đã làm mọi cách để lánh xa nàng. Nhưng, giữa những cung bậc tình cảm trái chiều luôn đấu tranh giằng xé nội tâm, chàng bỗng phát hiện ra rằng cuộc đời chàng chẳng thể thiếu được Bella! Và chàng chẳng ngờ tình yêu của mình dành cho Bella cũng được nàng đáp lại hơn cả nồng nhiệt đến thế! Có lúc chàng đã không dừng được và bật thốt lên rằng: "Anh không đủ mạnh mẽ để rời xa em, vì vậy, anh mong em hãy rời xa anh... dù điều đó có khiến cho em đau lòng thế nào." và nàng đã khẳng khái đáp lại: "Anh chính là cuộc đời em. Anh chính là điều duy nhất khiến tim em tan nát nếu để mất..." Một cô gái bất chấp tất cả, kể cả việc đặt sinh mạng mình và những người thân bên cạnh vào vòng nguy hiểm, chỉ để chứng mình một điều: "Em yêu anh hơn tất cả mọi thứ trên thế giới này gộp lại..." liệu có đủ để so sánh với một chàng trai đêm đêm đến canh giấc cho người mình yêu, hát ru nàng ngủ và đưa nàng đi từ hết những bất ngờ này đến thú vị khác? Chàng nồng nàn, lãng mạn - nàng mang chút thơ ngây, thánh thiện của mối tình đầu, và Stephenie Meyer với ngòi bút "trêu ngươi" của mình đã tạo nên một sự kết hợp tuyệt vời dành cho cặp đôi đầy trái ngang ấy! Đọc "Chạng Vạng" còn khiến chúng ta liên tưởng đến "Darren Shan", về một thế giới ma-cà-rồng đầy khiếp sợ và mê hoặc. Tuy nhiên, cảm giác khi đọc 2 bộ truyện này không giống nhau chút nào. Không thể so sánh xem bộ truyện nào trội hơn mà ở đây mình chỉ có thể nêu ý kiến chủ quan như sau: nếu như "Darren Shan" cuốn chúng ta vào một thế giới ma-cà-rồng đầy bất trắc với những bí mật động trời, những pha hành động liên tục toát mồ hôi hột thì với "Chạng Vạng" , độc giả dễ bị hút hồn vào một thế giới u tối, nơi chỉ có sự lãng mạn và nguy hiểm trộn lẫn...Nhịp truyện của Chạng Vạng chậm hơn một chút so với Darren, nhưng ở những thời điểm mấu chốt, cao trào của cả hai không hề thua kém nhau. Tất nhiên đây cũng là điều dễ hiểu khi đem so sánh một cuốn truyện dày hơn 600 trang với một cuốn truyện chỉ khoảng 200 trang! Đó là sự dàn trải giữa tình tiết và nội dung một cách hợp lý để dễ dàng dẫn dắt người đọc vào các tập truyện tiếp theo, đem lại cảm giác tò mò và thích thú cho độc giả khi tự tay họ vén lên bức màn bí mật đằng sau thế giới bóng đêm. Cả Meyer và Darren đều đã làm rất tốt công việc này và với hai phong cách hoàn toàn khác biệt, họ phần nào đã mang đến cho độc giả những góc nhìn giống và khác nhau về ma-cà-rồng. Khi câu chuyện đi dần đến hồi kết, ắt hẳn không ít người trong chúng ta cảm thấy hơi nuối tiếc. Tiếc cho một cuộc tình đẹp vẫn còn bỏ ngỏ, tiếc cho số phận của những con người đang khao khát tìm về bản ngã của chính mình. Gia đình Cullen - còn điều gì bí ẩn đằng sau số phận của mỗi con người ấy? Hay Jacob, một người bạn của Bella, sẽ làm những gì khi cậu ta chắc chắn là một tuyến nhân vật quan trọng? Rất nhiều câu hỏi được đặt ra trong đầu mình ngay khi trang sách khép lại. Edward và Bella sẽ viết tiếp câu chuyện tình yêu kỳ diệu của họ như thế nào? Chẳng ai là không muốn biết, nhất là khi đã "lỡ" đọc phần I rồi. Hãy cùng dõi theo con đường đầy chông gai của đôi bạn trẻ để cùng hy vọng vào một tình yêu bất diệt các bạn nhé! Nhật Quang Mời các bạn đón đọc Chạng Vạng của tác giả Stephenie Meyer.
Khao
Khao được coi là tiểu thuyết trào phúng, xuất bản lần đầu năm 1946. Bìa này của NXB Văn học năm 1988. Bản ebook dưới đây lấy nguồn từ Tổng tập văn học Việt Nam tập 33. *** Thơ của Xuân Sách về Bùi Huy Phồn trong "Chân dung nhà văn" Phất rồi ông mới ăn khao Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời Ông đồ phấn ông đồ vôi Bao giờ xé xác để tôi ăn mừng (in nghiêng: tên tác phẩm của ông) Một giai thoại về Bùi Huy Phồn Bùi Huy Phồn phải bỏ làng... Chuyện vào làng văn phải bỏ... làng là có thật. Người ấy chính là nhà văn Bùi Huy Phồn, quê ở Vân Đình, huyện Ứng Hoà (Hà Tây cũ). Nhà văn Bùi Huy Phồn từng dạy học, viết văn, làm báo, sáng tác thơ và qua các công tác: Uỷ viên Ban Vận động nghiệp đoàn những người viết báo Bắc Kỳ (trước cách mạng) ở Hà Nội, Uỷ viên Ban Chấp hành Đoàn Kháng chiến Bắc Bộ, Chủ bút báo Tây Việt Bắc (khu X), Giám đốc Nhà xuất bản Văn học 1962-1972... Năm 20 tuổi, ông cho xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay dã sử “Lá huyết thư”, rồi sau này liên tiếp xuất bản hơn 20 tập tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch cùng với 4 tập thơ trào phúng. Bùi Huy Phồn là một trong những nhà thơ trào phúng nổi tiếng với bút danh Đồ Phồn. Để bước được vào làng văn và có được một bề dày văn phẩm, thi phẩm như kể trên, thì những ngày đầu “chập chững” vào làng văn, Bùi Huy Phồn phải bỏ làng ra đi... Năm ấy, khi Bùi Huy Phồn mới 15, 16 tuổi, nhân dịp Tết Nguyên đán, thấy mẹ dặn chị gái đi chợ nhớ mua mấy tờ giấy hồng điều cánh sen mang sang nhà cụ đồ Hai trong làng nhờ viết cho dăm câu đối bằng chữ nho để dán ở trong nhà, ngoài cửa, ngoài ngõ mấy ngày Tết. Thấy có giấy hồng điều, Bùi Huy Phồn tự nghĩ ra đôi câu đối rồi viết bằng chữ quốc ngữ, đem dán vào hai cột cổng ngoài nhà thờ họ vào trước lúc giao thừa. Sáng mồng một Tết, Bùi Huy Phồn dậy thật sớm ra trước cổng nhà thờ họ để ngắm và thưởng thức tác phẩm trào phúng đầu tay của mình. Nhưng thật lạ, không rõ kẻ nào đã bóc đi? Trên cột chỉ còn lại những vết bóc nham nhở. Bùi Huy Phồn ức quá, cảm thấy mình như một người đi săn lần đầu vớ phải một viên đạn thối. Song nghĩ lại, ông thấy có khi thế lại may, bởi vì chỉ lát nữa thôi cụ tuần anh, tuần em, cụ thượng cùng “Tinh thê đẳng” (những người chức sắc trong làng, xã thời đó) mũ mãng cân đai đi đến nhà thờ đại tôn họ Bùi lễ tổ mà bắt gặp đôi câu đối “bạo thiên, nghịch địa” của ông, thì mẹ ông phải đi tạ tội “phạm thượng”. Con dại cái mang mà! Những vị chức sắc làng xã kia không nổi giận sao được khi đọc những câu đối mà Bùi Huy Phồn viết thế này: “Mồng một Tết người đội mũ cánh chuồn khoe mẽ Ba ngày xuân tớ trùm nơm mẹ đĩ ngâm thơ” Mặc dù chưa có vợ nhưng Bùi Huy Phồn vẫn “mượn tạm” cái nơm mẹ đĩ để đối với mũ cánh chuồn. Thật là hả hê quá, mũ cánh chuồn đối với cái váy đàn bà. Tưởng chuyện bị mất câu đối chìm trong im lặng. Nào ngờ, chắc để hết Tết, qua rằm tháng giêng? Đúng ngày 16 tháng giêng năm ấy, nhân ngày giỗ tổ họ Bùi, những người “tai to mặt lớn” trong làng, xã có mặt. Giờ là dịp để họ “sờ gáy’ tác giả câu đối kia. Cụ tuần anh nói với mẹ Bùi Huy Phồn: - Phải đưa thằng Phồn ra nhà thờ họ ngay. Phồn vừa bước đến cửa, cụ tuần anh quát: - Thằng kia, vào đây! Rồi cụ tuần anh quay sang nói với mọi người trong họ: - Hôm nọ, mồng một Tết, anh và các chú vận phẩm phục triều đình đi hành ngơi trong thôn, xóm, cho dân làng được ra bái yết lấy may. Thế mà thằng này (chỉ Phồn) nó dám làm câu đối nói láo! Bùi Huy Phồn lắp bắp định cãi thì cụ tuần anh đập tay xuống tráp, thét lớn: - Câm! Tao lại sai nó nọc cổ mày xuống trước từ đường, đánh cho tan xác bây giờ. Mày muốn làm bình dân thì mày ra Hà Nội. Mày muốn làm cộng sản thì mày sang Nga-la-tư. Chứ còn ở cái làng này thì phải có tôn ti trật tự! Thôi cút! (câu nói này, cũng như những nhân vật Tuần anh, Tuần em... đã được đưa vào trong tác phẩm Khao) Có ai ngờ câu quở mắng của cụ tuần anh kia đã trở thành những lời “tiên tri” ứng nghiệm với cuộc đời Bùi Huy Phồn. Quả thật, sau “vụ câu đối Tết”, Bùi Huy Phồn đã phải bỏ làng ra Hà Nội làm một người bình dân viết văn kiếm sống và sau này, ông được sang Liên Xô thật trong đoàn nhà văn Việt Nam và trở thành một người cộng sản viết văn. *** Lão buông dùi, buông đục. Lão híp cặp mắt. Lão nhe đôi hàm lợi trơ. Rồi xoa hai tay vào nhau, lão thở phào qua đôi hàm lợi ấy. Lão đã khớp xong đôi cá ở ván địa. Cả đôi cá ở ván thiên. Lão đã khớp gần xong tám cặp cá ở cỗ quan tài. Một cỗ quan tài cho lão. Lão khoái! Và nghĩ ngợi. Tất cả mọi người khi đến cái tuổi “gần đất xa trời”, thấy mình sắp được nằm dài thanh thản trong cỗ quan tài, ai mà không nghĩ ngợi? Lão nghĩ rằng: năm nay, lão vừa bẩy mươi hai. Lại có chín con, một miếng đất ở, ba gian nhà. Tổng cộng là bẩy mươi hai tuổi, chín con, một miếng đất, ba gian nhà. Ta có nên tính cả một mụ vợ gù và một con chó ghẻ? Chín con, nhưng theo thói thường, những đứa hiếu đạo đều là đứa yểu số, hoặc nghèo xác, nghèo xơ. Còn những đứa tổ độ mát mặt mát mày lại là đứa cư xử với lão chả ra gì ráo. Một miếng đất ở đã đem cầm lấy tiền nộp ma khô cho vợ cả lão đâu từ năm trước. Ba gian nhà chỉ chờ được tiếp một cơn gió mạnh, là nằm kềnh ra ngửa mặt lên cười với giời. Rút lại, ở lão, chỉ còn có chút tuổi bẩy mươi khả dĩ cho lão tự hào được với trong xóm ngoài làng. Thiên tước kia mà! Lão đã chẳng có phú quý - một con chó ghẻ, ba gian nhà -, nhưng ở đời này, ai không làm được nên phú quý? Lão cũng chẳng có công danh - phó mộc từ năm mười bốn, lão vẫn còn phó mộc đến lúc bẩy mươi, - nhưng ai không làm được nên công danh? Còn như nói đến thiên tước, nói đến sự sống nổi cái tuổi mà lão sống đến ngày hôm nay, dễ ai mà sống được? Đó là một triết lý lão lấy làm sung sướng mới khám phá ra, để hằng ngày hiểu thị cho cái đám thê nhi, sau tiếng rít điếu cày, hoặc cạn một cút con rượu lậu. Đó cũng là một thứ khí giới lão tính sẽ dùng đến để tự vệ ở chỗ đình chung điếm sở, chống với mấy ông Nhang, ông Cán, ngõ hầu hạ giá họ, mỗi khi họ cậy là Nhang, là Cán, hạ giá lão là một thằng… bạch đinh! Bạch đinh! Lão hết cười. Và buồn. Lão đứng lên - như mỗi khi buồn - lẻn vào gậm ban thờ, moi ra một cút rượu lậu, nhấp nháp xuông vài tợp làm vui. Được kích thích trong não cân, đột nhiên, lão tìm ra, lần này cũng như tất cả mọi lần, câu trả lời cho cái điều sỉ nhục trên kia: - A! Bạch đinh, âu nó cũng là cái… số. Phải; chính nó là cái “số”! Lão lại được dịp nhe lợi ra cười phào, sung sướng về sự khám phá mới mẻ này, như lúc vừa đây đã khám phá ra cái “thiên tước”. Chính nó là cái số. Cái số đã cho thiên hạ làm ông Nhang, ông Cán, cái số đã bắt lão mòn đời làm thằng dân trắng, lưng đen khố cao. Rồi lão nghèo, đói, rách, rét. Đó cũng là cái số cả mà thôi. Rồi Chánh Vận sai người đánh đập lão để đòi nợ, hay Lý Bá trói giải lão để ốp thuế năm xưa, chung quy cũng chỉ là cái số lão phải cam như thế. Ấy thế là lão đã vơi được hẳn những oán hận trong lòng! Như mỗi khi vui, lão lại tợp luôn vài tợp rượu cho nó thêm vui. Lão khà một cái khà thống khoái. Chỉ bực một nỗi mụ vợ gù của lão mãi chưa về chợ, thế nào chẳng mua cho lão đôi bìa đậu phụ với vài đồng mắm tôm! Sực nghĩ đến mụ vợ gù, lão không chỉ cười phào. Lão quệt tay lau miệng, liếm môi một cái, cười hẳn ra mấy tiếng “hức hức” liền. Đó mới cũng là cái “số” của giời xui! Nếu không, thì tự dưng sao mụ, chẳng rõ quê quán nơi đâu, lại thành ra con mụ ăn mày. Đã thế rồi, tự dưng sao mụ lại đến xin ngủ nhờ trong túp nhà của lão một đêm! Hai đêm! Rồi lại thêm nữa một đêm! Cho đến khi mụ thấy rằng mụ chẳng cần đi, và lão thấy rằng để mụ ở cũng chẳng thiệt gì cho lão. Mời các bạn đón đọc Khao của tác giả Đồ Phồn.