Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nghìn Lẻ Một Nàng Dâu

Nghìn lẻ một nàng dâu - Hoàng Minh Tường (tác giả Thời của Thánh Thần) Tôi chuẩn bị làm một luận án Thạc sỹ về phái đẹp. Giáo sư Võ Nhu, người hướng dẫn tôi, khuyên: - Đề tài rất hay. Nhưng rộng quá, e sức cậu không kham nổi. Hãy khoanh hẹp lại. Ví dụ như về các nàng dâu chẳng hạn. - Hay quá - Tôi reo lên - Lâu nay em cũng nghĩ nhiều về vấn đề này. Các Nàng dâu Việt Nam xưa và nay. Một đề tài rất thú vị. - Vậy thì trước hết cậu cần phải tiến hành một cuộc điều tra xã hội học. Ít ra phải hiểu biết được một nghìn nàng dâu. - Ôi, thế thì quả là một công việc khó khăn - Tôi tỏ ý e ngại. - Đừng nản. Phải có chừng ấy tư liệu thì mới mong có một cái luận văn Thạc sỹ tử tế - Thầy tôi động viên - Vả lại cậu có năng khiếu về văn chương. Biết đâu, nhân dịp này cậu lại có một thiên phóng sự hay về một truyện dài kỳ lý thú. Tôi chợt nghĩ đến những câu chuyện bất hủ của xứ sở Một nghìn một đêm lẻ và hăm hở đi kiếm tìm một nghìn lẻ một nàng dâu Đất Việt. Trân trọng giới thiệu... *** Hoa hậu áo dài Nàng dâu đầu tiên mà tôi nghĩ đến là cô giáo Thúy, người đã dạy tôi hồi phổ thông trung học. Cô giáo Thúy dạy văn giỏi có tiếng, đẹp người, đẹp nết, từng là thần tượng của thế học trò chúng tôi những năm đánh Mỹ. Gần hai chục năm, do mải mê kiếm sống, tôi chưa có dịp gặp lại. Nghe tin cô mới chuyển gia đình về Hà Nội, tôi vội đi tìm. Bấm chuông ngôi biệt thự hai tầng nằm tách biệt trong khu cư dân một vùng ngoại vi thành phố, tôi bồi hồi mường tượng lại hình bóng cô giáo thân thương của tôi ngày nào. Cô sẽ từ trong nhà đi theo lối sỏi kia. Cô sẽ sững sờ một giây rồi sung sướng reo lên: “Trời ơi. Hoàng đấy ư em? Hơn hai mươi năm rồi mà em vẫn chẳng thay đổi chút nào…” Nhưng kìa, người đang ra mở cổng cho tôi là một thiếu nữ. Chiếc váy quá ngắn để lộ một cặp giò trắng muốt, đẹp như thần vệ nữ. Chắc là con gái cô giáo Thúy. Tôi chớp mắt kinh ngạc khi thoáng nhìn ra một vẻ đẹp hoàn mĩ mà hầu như trong đời, đây là lần đầu tiên tôi được chiêm ngưỡng. Người tôi run lên, nổi gai lên - một phản xạ mà tôi chưa từng có bao giờ. - Anh hỏi ai? Cần gì? - Cô gái cúi xuống nhòm qua ô cửa. Đôi mắt quá đẹp và quá sắc xía vào tôi những ánh nhìn chẳng có chút gì thiện cảm. Lập tức, người tôi như muốn co rúm lại, hệt như cảm giác của một kẻ ăn cắp bị bắt quả tang. Tôi cụp vội mắt xuống và chợt nhận ra sự bệ rạc, xoàng xĩnh của bộ quần áo không phẳng phiu, của chiếc honda 79 quá tàng… - Dạ, xin lỗi… Tôi muốn gặp cô giáo Thúy… - Không có nhà. Đến trường mà hỏi… Mà lần sau anh đừng có bấm chuông giật giọng thế nhá. Chối không chịu được. Người đẹp nói sẵng và quay phắt, đóng sập luôn tấm chắn ô cửa. Tôi có cảm giác vừa bị hắt một chậu nước lạnh và bẩn vào người. Rã rời đến không còn hơi sức để nổ máy chiếc honda 79 cũ nát, tôi quay xe ì ạch dắt bộ ngược con đường ra chợ. Thì may quá, cô giáo của tôi kia rồi. Hơn hai mươi năm mà cô chẳng thay đổi là bao, vẫn gương mặt phúc hậu ấy, vẫn dáng người đậm đà ấy… Hai cô trò gặp nhau, mừng vui khôn xiết. Cô kéo tôi trở lại nhà. - Ở chơi với cô lâu lâu một chút. Có nhiều chuyện tôi muốn nói với em… Tôi biết cô giáo tôi có nhiều tâm sự, nhất là sau khi chú Tuấn hy sinh ở chiến trường, một mình cô nuôi con, chăm sóc mẹ chồng. - Cô ơi, em gái út chắc là sinh trước năm chú Tuấn hy sinh - Tôi gợi. Cô giáo tôi ngạc nhiên nhìn tôi rồi chợt hiểu ra. - Cô chỉ có hai đứa con trai thôi. Cô bé vừa nãy em gặp là con dâu cô đấy. Vợ thằng Vũ Lâm. Em có còn nhớ nó không? Ngày các em học, nó mới đi mẫu giáo. - Em nhớ ra bé Lâm rồi. Nhanh thật. Bây giờ Lâm cũng gần ba mươi tuổi rồi cô nhỉ? - Ừ, nhanh thật. Mọi chuyện với cánh trẻ bây giờ cứ vùn vụt. Chuyện thằng Lâm nhà cô lấy con Hà My cũng thế. Ngay cái đêm Hà My đăng quang hoa hậu áo dài, thằng Lâm đã say như điếu đổ. Tôi như không tin ở tai mình. - Thưa cô, cô vừa bảo Hà My là hoa hậu áo dài? - Hoa hậu đấy em à. Cô là mẹ chồng của một hoa hậu áo dài. Em thấy có vinh dự không? Để cô kể tiếp cho mà nghe. Sau cái đêm đi xem Hoa hậu đăng quang, thằng Lâm về nói với cô: “Con phải lấy một hoa hậu làm vợ mẹ ạ. Tuyệt lắm. Mẹ có nhớ câu ca: “Một ngày tựa mạn thuyền rồng. Còn hơn chín tháng năm trong thuyền chài”? Cô nói: “Con mơ tưởng điều ấy làm gì? Con nhà giàu có quyền thế mới lấy được hoa hậu con ạ” Nó bảo: “Thế mà con sẽ lấy được hoa hậu. Rồi mẹ xem”. Tưởng chuyện tầm phào ấy rồi cũng qua đi. Ai ngờ thằng Lâm nó cứ ngấm ngầm làm thật. Nó rủ một anh bạn đóng giả phóng viên của một tờ báo để phỏng vấn, chụp ảnh hoa hậu. Đây là bước làm quen đầu tiên. Tiếp đó nó mượn ô tô con của ông cậu làm giám đốc một công ty, đánh xe đến mời người đẹp đi ăn hiệu. Nó khoe đang làm trợ lý cho Giám đốc một công ty của Nhật Bản, một tháng lương năm tờ xanh. Nó mượn máy điện thoại di động đeo xệ một bên sườn, mỗi lần đến thăm người đẹp lại kêu tíu tít rồi để sát tai thì thầm to nhỏ. Trò lừa bịp ấy nào ngờ đã làm người đẹp xiêu lòng. Thế rồi đùng một cái thằng Lâm bảo với cô là nó sẽ cưới hoa hậu. Đó, bây giờ nhà cô đang có một hoa hậu tầm cỡ quốc gia… Câu chuyện của cô giáo Thúy khiến tôi nổi máu tò mò. Và thế là một lần nữa, tôi lại được chiêm ngưỡng người đẹp. Lần này thì lâu hơn. Và quả tình, càng ngắm nàng tôi không thể tìm ra một khiếm khuyết nào. Mới hay, ban giám khảo thật có con mắt tinh đời. Tất nhiên khi được cô giáo Thúy giới thiệu tôi là học trò cũ, hoa hậu Hà My đã tỏ ra tươi tắn và lịch thiệp với tôi một chút. Lẽ ra, khách của mẹ đến nhà chơi. nàng dâu phải đon đả pha trà nước. Nhưng tôi nhận ra cô dâu mới này không quan tâm đến chuyện đó. Cô ngồi trên giường, duỗi đôi chân tuyệt đẹp dọc thành giường và điềm nhiên vừa đọc sách vừa tóp tép ăn một cái gì đó. Có tiếng ho rũ trong buồng, tiếng ho của người già. Cô giáo tôi vội nói: - Em ngồi chờ cô một lát. Cô phải vào xem bà cụ thế nào. Hai hôm nay, cụ bị cảm cúm. Tôi hiểu bà cụ mà cô giáo tôi vừa nói là bà mẹ chồng, một bà mẹ liệt sỹ. Chẵn hai mươi năm, kể từ khi chú Tuấn chồng cô hy sinh, cô đã ở vậy để nuôi dưỡng bà mẹ chồng và hai đứa con trai. Tôi hơi ngạc nhiên nhìn hoa hậu Hà My. Tiếng ho và rên của bà cụ già không hề tác động gì đến cô. Cô vẫn thản nhiên đọc và thản nhiên nhai cái gì đó tóp tép. Tiếng chuông điện thoại bỗng reo vang. Tiếng chuông khiến hoa hậu áo dài như bừng tỉnh, vội lao ngay đến bên máy. - Alô! Ai đấy? A cái Vân phải không? Trời ơi, con ranh. Tao mong mày chảy máu mắt… Vào cầu rồi phải không? A, phải khao nhé. Chiều nay tao đến. Thôi mày không phải đến đây nữa. Bà mẹ chồng khốt của tao cổ hủ lắm. Tao cấm. Ứ ừ. Lão béo ấy thì tao phẩy tay. Á à, láo quá…Con ranh… Cứ thế, hoa hậu áo dài tuôn ra một tràng những mớ từ ngữ lộn xộn khiến tôi không thể đoán được câu chuyện của họ. Kỳ lạ nữa là càng nói qua điện thoại, nàng dâu của cô giáo tôi càng… tự nhiên như ruồi. Cô vừa nói như súng liên thanh, vừa nhai tóp tép, vừa gác một chân lên bàn điện thoại, người ngả hẳn ra sau. Tưởng như không cần đếm xỉa đến sự có mặt của tôi. Tưởng như trước mắt cô, trên bộ ghế ba nan là một cục đất chứ không phải là cậu học trò của cô giáo Thúy năm xưa, một cử nhân đầy tài năng đang tiếp tục hoàn thành tiếp luận án thạc sỹ. Cái dáng ngồi của cô thật hớ hênh và thiếu văn hóa đến mức tôi bỗng đỏ bừng mặt. Ôi, cái váy ngắn lật lên. Và… Tự nhiên tôi có một ý nghĩ buồn: Hoa hậu áo dài đang cố tình xúc phạm tôi hay nàng không có đủ kiến thức về ứng xử và giao tiếp. Chao ôi, cái đẹp bên ngoài dễ chinh phục người ta nhưng nó cũng dễ trở thành lố bịch, vô duyên khi thiếu đi những phẩm hạnh và vẻ đẹp bên trong… Một tràng cười ngặt nghẽo của hoa hậu áo dài xả vào ống nghe điện thoại khiến những ý nghĩ của tôi ngừng bặt. Cũng lúc đó, từ trong buồng, cô giáo Thúy hớt hải chạy ra: - Gay quá rồi. Hoàng ơi, giúp cô việc này nhé. Em ra gọi ngay cho cô một chiếc xích lô. Phải đưa gấp bà cụ đi bệnh viện cấp cứu em ạ. - Vâng, em đi ngay đây! Tôi bật lên như chiếc lò xo, nổ máy chiếc honda 79 tàng, lao vút ra cổng. Mời các bạn đón đọc Nghìn Lẻ Một Nàng Dâu của tác giả Hoàng Minh Tường.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Mặt Chó Sói - Mishima Yukio
Yukio Mishima (1925-1970) được đánh giá là một trong những tác giả quan trọng nhất trong nền văn học Nhật Bản thế kỷ 20. Trước tác của ông bao gồm 40 cuốn tiểu thuyết, 20 tuyển tập truyện ngắn và khoảng vài chục vở kịch cùng với một số bài thơ. Ông là nhà văn 3 lần được coi là ứng cử viên sáng giá cho giải Nobel Văn học. Hà Linh -  Những tác phẩm xuất sắc của Mishima có The Temple of the Golden Pavilion (Ngôi đình tạ bằng vàng -1956), bộ bốn tác phẩm The Sea of Fertility (Biển cả muôn màu - 1965-70)... Mishima sinh năm 1925, con trai của một quan chức chính phủ. Tên thật của ông là Kimitaka Hiraoka. Bố ông vốn không muốn con trai mình đi theo nghiệp văn chương chữ nghĩa nên ông phải đổi tên để viết trộm. Hiraoka được nuôi nấng và trưởng thành dưới sự giám sát chặt chẽ của bà nội. Trong thế chiến II, nhà văn được miễn nghĩa vụ quân sự, ông làm việc trong một nhà máy. Đây là điều khiến Mishima day dứt suốt cuộc đời. Nhà văn cho rằng mình đã sống sót một cách đáng xấu hổ trong khi rất nhiều người khác phải đổ máu ngoài chiến trường. Sau chiến tranh thế giới II, Mishima học luật tại Đại học Hoàng gia Tokyo. Trước khi dấn thân vào sự nghiệp văn chương, ông làm việc một năm trong Bộ Tài chính. Năm 1946, ông gặp gỡ Kawabata Yasunari, người sau đó đã giới thiệu những truyện ngắn đầu tay của ông với một vài tạp chí văn học uy tín. Confessions of a Mask (Lời thú nhận của người đeo mặt nạ - 1949) là tác phẩm đầu tiên ghi lại dấu ấn tên tuổi của Mishima trên văn đàn. Cuốn sách chính là một lối thoát giúp nhà văn giải tỏa những cảm xúc của chính mình khi phát hiện bản thân là người đồng tính. Trong truyện, nhân vật người kể chuyện thú nhận, ông đã phải tự trang bị cho mình một chiếc mặt nạ "bình thường" để tránh sự xoi mói của xã hội. Mishima chịu ảnh hưởng lớn của chủ nghĩa yêu nước trung quân truyền thống và tinh thần võ sĩ đạo samurai của Nhật Bản, tuy ông vẫn diện đồ tây và ở nhà tây. Năm 1968, ông thành lập Hiệp hội Shield (Tate no Kai - Hội lá chắn) - một tổ chức bán quân sự tập hợp khoảng 100 thanh niên trai tráng với mục đích chấn hưng tinh thần võ sĩ đạo Bushido, tán dương chủ nghĩa quốc gia và bảo vệ Hoàng đế Nhật. Không biết do đâu, Hội lá chắn cũng được quyền tham gia huấn luyện cùng quân đội Nhật. Ngày 25/11/1970, ông cùng những người bạn bao vây Cục Phòng vệ Nhật Bản ở Tokyo, bắt giam Tướng Kanetoshi Mashita và xúi giục quân sĩ tiến hành chính biến. Lời thỉnh cầu này của ông gặp sự phản ứng dữ dội của quân đội. Thất bại, tuân thủ tinh thần võ sĩ đạo, ngày 25/11/1970, ông đã tự sát bằng cách tự mổ bụng moi gan theo nghi thức seppuku. Trước khi chết nhà văn còn hô to: "Hoàng đế muôn năm".   Cũng trong ngày cuối cùng của cuộc đời mình, ông giao nốt cho nhà xuất bản những trang viết còn lại của bộ cuốn tiểu thuyết The Sea of Fertility. Cái chết của Mishima được tác giả Christopher Ross miêu tả trong cuốn sách Mishima's Sword (Lưỡi kiếm của Mishima) như sau: "Lưỡi kiếm đã ngập sâu vào khoang bụng cỡ 10 cm, ông ấn lưỡi kiếm chầm chậm từ trái qua phải, từ trên xuống dưới, mở toác từng lớp da. Máu tràn ra lênh láng trên sàn nhà. Một cuộn nội tạng màu hồng hồng xam xám nhờ nhờ thòi ra từ vết thương. Mùi tanh nồng xông lên khắp căn phòng". Không thanh lịch, không tao nhã, nghi thức chết của Mishima cũng không hề khoa trương. Nhà văn từng gợi ý cho một nhà báo là nên quay lại cảnh ông tự sát. Nhưng họ cũng không chuẩn bị gì trước để đón nhận sự kiện này. Khoảng 2 giờ trước khi tiến hành nghi thức tự sát, ông gọi điện cho hai phóng viên và úp mở với họ rằng: "Có chuyện sắp sửa xảy ra". Cái chết của nhà văn lúc bấy giờ đã gây nên một chấn động dữ dội không chỉ với Nhật Bản mà đặc biệt là đối với người phương Tây. Nhiều học giả phương Tây đã đến Nhật Bản để tìm hiểu ý nghĩa cái chết của ông: Liệu đó là một bức thông điệp chính trị của nhà văn hay là một tác phẩm nghệ thuật cuối cùng của ông theo tinh thần võ sĩ đạo. Cho đến nay, hầu như họ không có được câu trả lời như mong đợi. Người dân Nhật hiện đại ngày nay coi cái chết phi thường của nhà văn là vô nghĩa, là "ngớ ngẩn" và "không đáng". Tác giả của cuốn sách Mishima's Sword - Christopher Ross - kể: Trong một lần Ross đang ngồi đọc các tác phẩm của Mishima trong một hàng cà phê sách, một nhân viên cửa hàng bảo ông: "Mishima là quá khứ, không phải là hiện tại và càng không phải là tương lai". Dẫu vậy, Yukio Mishima vẫn là một tên tuổi quan trọng trên văn đàn Nhật thế kỷ 20. *** Rodder lao ra ngoài, tay cầm súng lục. Ambler muốn lên tiếng cảnh báo đồng bọn, nhưng muộn rồi: Justus đập cho gã đàn ông một đòn chí mạng. Rodder ngã văng khỏi lan-can và đập mạnh thân hình xuống nước. Hài lòng, Justus theo những bậc thang trèo lên. - Bây giờ đến lượt các người đi tắm! - cậu nói lớn rồi cười. Nhưng chẳng còn mấy thời gian để mà tận hưởng mùi vị chiến thắng, việc đầu tiên là phải giúp Sandy và Bob trèo lên tàu, sau đó lao xuống cabin giải phóng cho Peter. Rodder bận bịu với việc giữ cho Ambler ngoi được cổ lên trên mặt nước. Khẩu súng lục của gã bây giờ nằm thật chắc chắn dưới đáy biển. - Kéo bọn tao lên tàu ngay lập tức, - Rodder ra lệnh. - Lũ chuột cống nhà chúng mầy! Bob lắc đầu, nhưng cũng ném cho Rodder và Ambler hai chiếc phao cứu hộ. Chầm chậm, con tàu bị gió và những dòng nước cuốn dần ra phía biển. Justus lại bước ra ngoài, đi sát phía sau là Peter. Hãnh diện, Thám tử phó cầm " người đẹp Helena" trong tay. - Cảm ơn các bạn, - Cậu nói rồi giơ bức tượng cho nó lóng lánh trong ánh nắng. - Cha, Rodder, gió lại xoay chiều rất nhanh! Rodder buông ra một câu chửi tục, trong khi Ambler loay hoay với chiếc phao cứu hộ. Thất bình tĩnh, Sandy vởi bộ chân nhái của cô. - Bây giờ mình sẽ gọi điện đàm cho cảnh sát, - cô gái nói. - Mình biết sử dụng loại máy đó. Justus gật đầu với cô. - Bạn bảo họ mang theo một cái lưới đánh cá, - cậu nói. - Bọn ta vừa bắt được cả hai con cá to sù. - Cậu ngồi xuống bên mép tàu, để cho hai chân thõng xuống, đu đưa nhè nhẹ. - Cái phương pháp đánh lạc hướng bằng thư gửi đã được ông phát triển nên từ thời còn ở New York, ông Rodder. Nó cũng có phần nhắm chứng tỏ là mình tài năng hơn cảnh sát, những người đã đuổi việc ông. Và chắc vì vậy mà ông cũng sữ dụng mặt nạ chó sói: ông có cảm giác như mình là một con chó sói bị đuổi ra khỏi đàn. Rodder ném cho cậu một cái nhìn huỷ diệt, nhưng chỉ giúp cho Justus nhận rõ là cậu phỏng đoán đúng. - lẽ ra chúng tôi phải nghĩ đến sớm hơn mới phải, - Peter bổ sung. Cậu ngồi xuống bên cạnh Justus. - Theo tắc thì kể cả hai tội phạm đầu tiên, vụ ăn trộm ở cửa hàng Outdoor World và vụ ăn trộm súng bắn tỉa cũng như những lời trích dẫn tứ bài hát đều chỉ nhằm hướng chúng tôi về phía lý thuyết của một vụ ám sát tổng thống. Đấy là hoàn toàn chưa kể đến cái mặt nạ tổng thống kia. Ambler, kẻ vừa chui được người vào giữa chiếc phao cứu hộ, giờ lên tiếng ngắt lời Peter. - Nhưng để tìm ra được lời của bài hát đó, bọn nhóc các cậu cũng phải cần rất nhiều thời gian! - Nhưng vẫn còn nhanh hơn là cảnh sát, - Bob chen vào. - Nhanh hơn cả các chuyên viên tâm lý. Justus cởi chiếc áo lặn ra. Bài báo mà cậu luôn mang trong người bây giờ ướt sũng, dán sát vào da thịt. Thận trọng, cậu gỡ mảnh giấy ra, nhưng lại ngay lập tức bóp nát nó. - Đáng tiếc, - Justus nói. - Giờ tôi không thể cho hai người xem được nữa. Đây là một bức ảnh rất thú vị, anh Ambler. Nó cho thấy anh đã quen ông Rodder từ thời còn ở New York, chắc là thời anh học đại học. Anh đã mê mẩn gã tội phạm kia. kể từ vụ nầy anh muốn kết hợp hai mục đích với nhau. Thứ nhất là vụ ăn trộm bức tượng và thứ hai… tại sao anh không ngửi được chị Harding, Ambler? - Cô ta cuỗm mất chỗ của tôi, - Ambler kêu lên và đạp chân, muốn lại gần con tàu thêm một chút. - Lẽ ra tôi là người nhận được công việc tại Los Angeles. Nhưng rồi đột ngột xuất hiện cái con bé hỉ mũi chưa sạch đó, mới từ trường đại học ra, và ngồi ngay xuống trước mặt tôi. Còn cái tay Cotta nhà các cậu lại chính là kẻ viết thư giới thiệu nó! - Tôi cũng đã đoán như vậy. - Justus gật đầu. - Và anh biết là chị Harding đã làm bài tốt nghiệp về vụ ám sát tổng thống Kennedy. Vì thế mà anh viết những bức thư theo hướng nầy. Nữ chuyên viên tâm lý từ đó không còn nghĩ được đến một thứ gì khác ngoài một vụ ám sát tổng thống. Bản thân chuyên viên tâm lý Harding trong vụ nầy cũng bị đẩy vào một góc tranh tối tranh sáng. Đối với anh, Ambler, dĩ nhiên là một thắng lợi bổ sung. Tôi cũng phải công nhận rằng đến cả bản thân tôi cũng đã có ý nghi ngờ chị Harding. - Có thế chứ, - Ambler nói. - Ta đã khoái trá khôn tả khi nhìn hai con gà trống choai chọi với nhau. Một trận chiến cạnh tranh thật sự! - Nhưng mà chúng tôi có ba người, - Peter lên tiếng sau một cái liếc xéo về phía Justus. - Anh Ambler, làm thế nào mà anh ăn cắp được khẩu súng của cảnh sát? Trò leo tường bình thường ra vốn là đặc sản của Rodder? - Cái đó các cậu phải tìm ra thôi, các cậu thông minh lắm kia mà, - Ambler kêu lên. - Không thành vấn đề! - Justus thẳng lưng dậy. - Anh đâu có vào phòng qua đường cửa sổ. Chỉ giả bộ thế thôi. Anh muốn tô đắp thêm cho cái huyền thoại Mặt Chó Sói. Mãi sau nầy tôi mới hiểu ra. Những miếng kính cửa sổ nằm không đúng chỗ! Anh Ambler, anh đã mở cửa sổ từ phía trong phòng rồi sau đó mới đập vỡ kính. Những miếng kính vỡ đó nằm sát chân tường! - Đúng, đúng, phải! - Ambler mỗi lúc một bực bội hơn. - Bây giờ cho tôi lên. Tôi không ở dưới nầy lâu hơn được nữa! - Thế bằng cách nào mà anh vào được phòng đựng vũ khí? - Peter hỏi, không thèm để ý đến lời đề nghị của đối phương. - Chỉ là cái trò ăn cắp cỏn con thôi, - Ambler uể oải nói. - Tôi đã rút chiếc chìa khoá của tay hạ sĩ trực rồi lại kịp thời đút lại chỗ cũ. Đoạn dây đã được tôi buộc từ trên nóc nhà thõng xuống dưới từ trước. Bob nhận thấy cả đám mỗi lúc một bị cuốn ra xa bờ hơn. - Để mình ném mỏ neo xuống, - cậu nói. Justus gật đầu. Bob giơ cao mỏ neo và ném nó qua thành tàu. Vài giây đồng hồ sau, con tàu rùng mình nhẹ. Bây giờ nó nằm yên. - Ra là bọn mày biết tất cả, - Rodder kêu lên. - Thế bây giờ tao có thể hỏi chút được không? Nầy cái thằng béo lắm lời kia, tại sao mà mày lại chui vào cửa hàng của ông Laurent? Toàn bộ chuyện chó chết nầy khởi đầu từ đó! - Chút nữa đã, Rodder, tôi còn chưa hỏi hết! - Peter, Bob và Sandy nhìn Justus đầy khấp khởi. Cậu nói tiếp. - Tôi nghĩ là tiện thể ở đây, ta có thể giải thích luôn cả một câu chuyện khác nữa, Rodder. Đi cùng với " người đẹp Helena" là bức tượng của hoàng tử Paris, bức tượng đã biến mất cách đây vài năm. Cho tới nay chưa có ai nghi ngờ là ông có liên quan tới vụ ăn trộm đó! Nhưng thủ phạm cũng chính là ông, Rodder! Qua ánh mắt ngạc nhiên của Mặt Chó Sói, Justus thấy rõ: cậu vừa bắn trúng hồng tâm. - Đúng thế, cú điện thoại ban nãy của ông đã khiến tôi nghĩ đến khả năng nầy. Ông đã xoáy Paris trước đây vài năm. Và bây giờ ông muốn bán thêm cho nhà sưu tầm tư nhân giàu có của mình cả bức tượng quý báu thứ hai, người đẹp Helena. Cho một giá tiền đặt trước không nhỏ, ông lại một lần nữa lao vào trò ăn cắp! - Làm sao mà mày biết đó là một nhà sưu tầm tư nhân? - Rodder kêu lên, tiếng kêu đồng thời cũng là lời công nhận. - Chắc chắn phải là một người tư nhân, Mặt Chó Sói, - Justus trả lời. - Mà là một người có rất nhiều tiền. Người ta không thể bán những bức tượng đó ở thị trường tự do. Chuyên gia nào cũng biết chúng. Rodder đầu hàng. - Bọn mày thông minh thật đấy, mấy thằng nhóc! Đó là một người đàn ông giàu có trong ngành làm phim, nhưng tao thậm chí chưa biết tên ông ấy. Thế, bây giờ cho bọn tao lên tàu đi! Sandy trỏ về phía bờ biển, nơi có một con tàu cảnh sát đang lại gần. - Cha, - Justus chuyển sang lời kết luận. - Cái chuyến du lịch dễ chịu của hai người vậy là không thành rồi. Chắc là cú ăn trộm nầy sẽ mang lại đủ tiền để cả hai người sống thoải mái cho đến cuối đời? Hơn nữa vụ ăn trộm bức tượng Paris chắc chắn cũng còn để lại một vài dollar. - Đúng thế!, - Rodder gầm lên. - Và chuyện thối nhất là để cho lũ nhóc con bọn mầy chen vào giữa. Tất cả là lỗi của Scott! - gã nhìn Ambler, kẻ vẫn đang tiếp tục vùng vẫy bên cái phao cứu hộ. - Bây giờ mày vẫn còn tin đám nhóc con nầy là một luồng gió mát chứ? Ambler phun ra một ngụm nước biển, không nói nửa lời. Gã ta quá mệt, không còn sức đâu mà cãi cọ. Justus lại lật cho đoạn thang chĩa xuống nước. Con tàu cảnh sát bây giờ đã đến rất gần. Cậu thấy rõ thanh tra Cotta đứng trên boong. Chị Hannah Harding đứng cạnh ông và vẫy tay về phía họ. ... Mời các bạn đón đọc Mặt Chó Sói của tác giả Mishima Yukio.
Gương Thầy Trò - Hoàng Xuân Việt
Tác phẩm về đạo lý làm người được in lại như lời tri ân cố học giả nổi tiếng. Gương thầy trò là tác phẩm ra đời từ thập niên 1970 ở thế kỷ trước của học giả Hoàng Xuân Việt. Vì vậy, sách có lối hành văn, từ ngữ được xem khá lạ so với gu đọc của nhiều bạn trẻ ngày nay. Trong sách, cố học giả Hoàng Xuân Việt dẫn ra 7 điều làm nên nền tảng căn bản của tình thầy trò, bao gồm các yếu tố như trí tuệ, ý chí, lương tâm, tình cảm, đối nhân xử thế... Trên từng trang viết, tác giả lần lượt điểm lại cuộc đời, tình sư đệ của các danh nhân với môn đồ của họ. Học giả Hoàng Xuân Việt (1928 - 2014) tốt nghiệp cao học tại trường Đại chủng viện Saint Joseph và Saint Sulpice. Ông còn theo học và nghiên cứu nhiều môn như triết học, thần học, xã hội học, thiên văn học... Ông sử dụng thành thạo bảy ngôn ngữ gồm Anh, Pháp, Đức, Hán - Nôm, Bồ Đào Nha, Hy Lạp và cổ ngữ Latin. Cố học giả sở hữu hơn 200 đầu sách, nhất là những tác phẩm trong tủ sách Học làm người. Ông thường được gọi là "quái kiệt" trong làng sách. Hiện những tác phẩm của ông được luật sư Hoàng Cao Sang - một trong những học trò của ông - làm đại điện pháp lý về tác quyền, thay mặt gia đình cố học giả lưu giữ. *** Ôi tình thầy trò quan trọng quá mà cũng cao cả, thâm trầm quá. Nó là thứ tình tổng hợp tinh hoa của các loại tình người. Khi Socrate tắt hơi cuối cùng, Platon nói tôi khóc không phải cho Socrate mà khóc cho tôi vì từ đây tôi không còn trên dương trần một người cha, một người anh, một người thầy, một người bạn. Lời nầy đúng cho Platon mà cũng đúng cho bất cứ ai trên đời có được minh sư. Có phước lắm, trò mới gặp được một tôn sư với trọn vẹn ý nghĩa của tiếng ấy. Có phước lắm thầy mới gặp được một hai trò để mình đầu thai trong đại chí và đại nghiệp. Thiếu gì người cả đời không gặp được thầy, được trò như ý nguyện. Từ Bossuet đến Fénélon, ông bỏ 10 năm, ông bỏ 6 năm dạy dỗ chí tử công phu, đầu tư bao nhiêu hy vọng, lại trúng thứ trò gì đâu nên kẻ kể như thất bại, người tạm tạm thành công. Hai đệ tử đầu tiên của Đức Phật, phải bỏ hai thầy cũ để theo Đức Phật rồi mới được toại nguyện. Thì ra có khi mình muốn cầu sư, cầu đệ mà đâu phải thầy nào, trò nào cũng là đối tượng như ý. Người cầu học, cầu tiến mà gặp được chân sư còn hơn trúng số. Họ tha hồ khai thác kiến văn, đạo hạnh, kinh nghiệm, mưu cơ. Trên đường đời họ được cố vấn đường khôn nẻo dại, họ được nguồn an ủi, ủy lạo tinh thần nhất là những khi đời họ qua truông, xuống dốc. Người đại chí, bất lực mà gặp ninh đồ trung đệ thì con bầy cũng không bằng vì họ có kẻ làm cho kiến thức, hoài bão của họ đâm chồi kết quả về thiên thu. ... Mời các bạn đón đọc Gương Thầy Trò của tác giả Hoàng Xuân Việt.
Đội Gạo Lên Chùa - Nguyễn Xuân Khánh
Sách Nói Đội Gạo Lên Chùa   Sau một trận càn dữ dội của giặc Pháp, cha mẹ đều chết, hai chị em Nguyệt và An phải rời bỏ quê hương, trốn chạy sự truy lùng và tàn sát gắt gao của giặc. Họ trôi dạt đến một ngôi chùa và được sư cụ trụ trì dang tay cứu vớt. Từ đây, số phận An và Nguyệt gắn bó với chùa Sọ và làng Sọ - quê hương thứ hai của mình. Làng Sọ, một làng quê bé nhỏ vốn êm đềm và hiền hòa như bao làng quê Việt khác, trong vòng nửa thế kỷ đã trải qua hai cuộc chiến tranh tàn khốc và những biến động lớn lao. Số phận của ngôi chùa làng và những con người gắn bó với nó rồi sẽ ra sao? Đội Gạo Lên Chùa được viết theo lối cổ điển, mang tính luận đề về ảnh hưởng và vai trò quan trọng của đạo Phật trong đời sống tâm linh người Việt. Tiểu thuyết khắc họa sâu sắc nét đẹp của văn hóa Phật giáo trong mạch nguồn văn hóa dân tộc và được xem như một sự gợi mở về lối sống Phật giáo trong xã hội hiện đại hôm nay. *** Nguyễn Xuân Khánh vẫn viết theo lối cổ điển, mạch chuyện chủ yếu theo trình tự thời gian: sau cải cách là sửa sai, rồi hợp tác hóa, tòng quân vào Nam, rồi thống nhất đất nước... Làng xóm, họ tộc, gia đình tan rồi hợp với không ít tình tiết có thể gọi là ly kỳ... Những năm vừa qua, không ít tiểu thuyết đã viết về đề tài tương tự, nhưng khác với các nhà văn khác, Nguyễn Xuân Khánh đặt ngôi chùa và những nhà sư trong bối cảnh đó, lấy Phật giáo làm điểm nhìn để soi rọi, suy ngẫm về các sự kiện đó, các nhân vật không chỉ đối đầu theo kiểu "địch-ta" mà mỗi người còn có cuộc đấu tranh gay go với lẽ sống, đạo lý của mình, nhờ đó, Đội Gạo Lên Chùa có ý nghĩa sâu rộng hơn, chạm đến những vấn đề muôn thuở của kiếp người. Trong Đội Gạo Lên Chùa, tác giả còn dành nhiều tâm huyết để miêu tả vẻ đẹp của người phụ nữ (đẹp cả khi phải chết - như trường hợp cô Rêu đã chọn "giếng thơm" bên ngôi chùa để tự tử) và vẻ đẹp của trí tuệ, của con người có văn hóa, cho dù họ là kẻ ở bên kia chiến tuyến. Sự huyền ảo của tâm linh, những giấc mơ, hồn ma náu mình nơi đàn đom đóm... tái diễn nhiều lần trong Đội Gạo Lên Chùa... Những điều này đã giúp cho những trang văn và nhân vật trong Đội Gạo Lên Chùa mềm mại, sinh động và hấp dẫn hơn. Rất khó để so sánh Đội Gạo Lên Chùa với hai tiểu thuyết Hồ Quý Ly và Mẫu Thượng ngàn đã được khẳng định giá trị của Nguyễn Xuân Khánh. Có điều dễ thấy là Đội Gạo Lên Chùa, do đề tài và hiện thực miêu tả gần gũi hơn với bạn đọc hôm nay, nên nhà văn khó đưa trí tưởng tượng bay bổng như hai tác phẩm trước, nhưng mặt khác, Đội Gạo Lên Chùa lại gợi nhiều vấn đề để suy ngẫm hơn và có nhiều trang độc giả sẽ muốn mở ra đọc lại *** Đêm nay sư cụ khó ngủ. Trằn trọc mãi, hết trở mình sang trái rồi lại sang phải mà hai mắt vẫn cứ chong ra. Đồn tây trên núi Thằn Lằn, bỗng bắn rộ một tràng súng máy. Tiếng súng xa xé rách đêm vắng làm sư cụ giật mình. Rồi tất cả lại rơi vào im lặng. Hình như ở ngoài vườn có tiếng chân người. Cụ lắng nghe song lại chẳng thấy gì. Cụ lẩm bẩm nói với mình: “Không có lẽ… đã lâu rồi… hay là họ lại về…”. Lúc này, chỉ còn nghe thấy tiếng dế, tiếng ếch nhái ngoài cánh đồng quanh chùa rỉ rả cất lên đều đều, buồn buồn. Bỗng con chó vàng nằm ở thềm nhà tổ cất tiếng sủa. Con vàng sủa trăng ư? Làm gì có trăng mà sủa. Đêm cuối tháng ba lạnh đến xương tủy. Trời tối như mực. Mưa lất phất kéo cái lạnh cuối mùa. Những cơn gió đông cuối cùng làm dựng xù những chiếc lông, bắt con vàng phải rên gừ gừ. Ô kìa! Sao con chó lại sủa rộ. Nó đã bước xuống hè, đi ra phía cổng chùa. Không phải nó sủa bâng quơ. Chắc có người ngoài ngõ. Con vàng, lúc này, sủa liên tục, sủa ra rả làm sốt cả ruột, đánh thức mọi người trong chùa dậy. Sư thầy Khoan Độ cầm đèn ra cổng. Sư cụ cũng dậy ra ngồi ở tràng kỷ. Thầy Độ, một lúc sau, cùng mấy người lố nhố bước bào và bẩm: - Bạch hòa thượng, có hai chị em thí chủ này đứng dưới tam quan mà khóc. Con hỏi chuyện gì? Họ cứ một mực nài xin được gặp sư cụ. Hòa thượng Vô Úy lúc này mới chú ý nhìn rõ cô con gái đang sụt sùi, thỉnh thoảng lại nâng hầu bao lên chấm nước mắt. Cô gái trạc mười bảy mười tám. Chiếc khăn mỏ quạ màu đen đã tụt xuống vai, để lộ một gương mặt thanh tú, rầu rĩ. Cô gái bận cái áo nâu vá, cái quần đen bạc màu, vấn khăn nâu. Bên cạnh cô là một thằng bé chừng mười tuổi. Cái áo nâu rách toạc vai. Cái quần nâu thủng đầu gối. Rách rưới nhưng không gì giấu được khuôn mặt sáng ngời. Thấy sư cụ chỉ ngắm nhìn mà chẳng nói gì, cô chị bỗng òa khóc to, rồi quỳ xuống rạp đầu sát đất: - Con cắn cỏ lạy cụ, xin cụ rủ lòng từ bi, rón tay làm phúc, cứu lấy chị em con. Hòa thượng đứng dậy bước tới đỡ cô gái dậy, rồi ôn tồn bảo: - Con cứ bình tĩnh kể lể sự tình, xem ta có thể giúp gì con. - Dạ… Tây nó đi càn. Nó bắn chết bố mẹ con…. - Rõ khổ… Quê con ở đâu? - Làng con gần chân núi Thằn Lằn. Tây bốt Thằn Lằn bắn bố mẹ con đấy ạ. ... Mời các bạn đón đọc Đội Gạo Lên Chùa của tác giả Nguyễn Xuân Khánh.
Venise Và Những Cuộc Tình Gondola - Dương Thụy
Với tinh thần truyền cho những bạn trẻ niềm đam mê học hỏi, tính xốc vác, thú chu du qua những “ghi chép ngoài truyện”, Venise và những cuộc tình Gondola sẽ mang đến cho độc giả câu chuyện rất thật và cũng rất lý thú của chính tác giả. Từ những hiểu biết về Paris qua những trang sách báo đến khao khát cháy bỏng được một lần đặt chân đến Paris… đến những nỗ lực phấn đấu không ngừng để trở thành “dân Paris”, những cảm xúc vui buồn về cuộc sống ở kinh thành ánh sáng… Tất cả đều được Dương Thụy kể lại qua những dòng ký sự mượt mà sâu lắng và tràn đầy nhiệt huyết của một người trẻ dấn thân ở xứ người. *** Đọc Dương Thụy từ những ngày còn đi học, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy thích thú khi đọc một tác phẩm mới của chị. Tôi thích cách chị kể chuyện - không cầu kỳ mà tự nhiên như câu chuyện nó vốn là như thế. Tôi mê cả những tấm phông nền rất đẹp - những miền đất lạ mà trên đó chị sắp đặt các nhân vật của mình. Tôi gọi các tác phẩm chị đã xuất bản là những-câu-chuyện-chị-mới-kể-một-nửa, và cuốn sách này chính là nửa còn lại. Tôi đọc để bớt tò mò về việc chị lấy chất liệu từ đâu để sắp đặt một thế giới tươi sáng như thế. Và tôi cũng đọc để tìm sự đồng điệu giữa những người trẻ với khát khao được đi nhiều hơn - đi xa hơn để cảm nhận, nhìn thấy và nhìn thấy rõ hơn nhiều điều... Nguyễn Hương Mai (Corporate Affairs Manager, Công ty Thời Trang Việt, cựu du học sinh ở Anh). Truyện và ký của Dương Thụy thường dí dỏm như con người của tác giả. Dù văn phong giản dị, không trau chuốt cầu kỳ, rất "bình dân" nhưng ánh lên những điều đẹp đẽ thật đáng yêu. Tôi thường cười tủm tỉm khi đọc sách của cô. Sự nghịch ngợm và cái tì quan sát những điều "bất thường" giữa các nền văn hóa đã tạo một nét duyên trong phong cách viết đặc trưng Dương Thụy. Là một người sống và làm việc ở châu Âu, từng đi qua những nơi tác giả cũng rong ruổi đến, tôi thấy ký sự của Dương Thụy đầy lí thú và tràn đầy nhiệt huyết. Tất cả những gì tác giả viết là những gì chúng ta có thể bắt gặp nếu có cơ hội du học hoặc làm việc ở phương Tây. Hãy đọc bài "Thành phố nhẹ nhất thế giới" để cùng tác giả cảm nhận về Liège của chúng tôi. Lý Đông Phương Lâm (Tiến sĩ - Giảng viên Đại học Liège, Vương quốc Bỉ) Lợi thế là một nhà văn nữ có góc nhìn nhạy cảm và quan sát tinh tế đã được Dương Thụy bộc lộ qua tập ký sự này. Đọc "những ghi chép ngoài truyện" thú vị của Dương Thụy, những hoài niệm phiêu bạt trên dặm đường châu Âu được gợi nhớ trong lòng tôi. Các thành phố châu Âu cổ kính, yên bình và tuyệt đẹp đang tái hiện qua mắt tôi. Những trang viết dịu dàng và sâu lắng của Dương Thụy lại thúc giục tôi lên đường hơn bao giờ hết. Vì như Dương Thụy đã kể, sau những chuyến phiêu lưu cô luôn ấm lòng nhận ra thế giới này người tốt luôn nhiều hơn kẻ xấu. Đọc và bạn sẽ thấy. Trung Nghĩa (Biên tập viên báo Tuổi trẻ) *** Càng trẻ, người ta càng có nhu cầu được học hỏi, được đi xa, được tiếp cận với những nền văn hóa phong phú và nhất là được giao du với bạn bè không cùng ngôn ngữ lẫn màu da. Sau mỗi chuyến đi, có người đem về những bức hình tuyệt đẹp, những món quà lưu niệm và những mối quan hệ lý thú. Riêng tôi, được viết truyện lấy bối cảnh ở nước ngoài với những nhân vật ngộ nghĩnh và những mối tình nhẹ nhàng, là một "cơn nghiện". Các cuốn sách Bồ câu chung mái vòm, Hành trình của những người trẻ, Oxford thương yêu, Cáo già, gái già và tiểu thuyết diễm tình là những gì tôi "thu hoạch" được. Tuy nhiên có những điều tôi không thể chia sẻ với mọi người chỉ thông qua những nhân vật tưởng tượng và những cuộc tình "tiểu thuyết". Những con người tuyệt vời tôi đã gặp, những danh lam thắng cảnh tôi đã qua, giây phút xúc động "xa quê hương ngộ cố tri"..., tất cả sẽ được tôi đưa vào tập sách này. Đó là những chi tiết thật, là cuộc đời thật, là những gì độc giả không thể lắc đầu chê tôi khéo tưởng tượng. Thông qua cuốn sách, tôi mong được truyền cho các bạn trẻ niềm đam mê học hỏi, tính xốc vác, thú chu du. Đây không phải là "cẩm nang du lịch", càng không phải là sách du khảo-du ký. Bạn chỉ có thể gọi đó là "những ghi chép ngoại truyện" của tôi. Bạn cũng có thể sẽ hiểu vì sao tôi viết Đổ thừa Venise, Tú cầu vùng Bretagne, Con gà nói tiếng Đức, Diên vĩ đồng Provence và nhất là Oxford thương yêu. Và nếu sau khi đọc tập sách này, bạn được thôi thúc để tìm đến "Paris với những vườn văn thơ", "Brest sấm sét", "Bruxelles hóm hỉnh", "Lisbon hiền hòa", "Sững sờ Florence", "Eau de Cologne"... hãy cho tôi cùng chia sẻ những giờ phút tuyệt vời nhất: được dấn thân! Ba lần thi để được xuất ngoại Cuốn sách cũng là để kỷ niệm 10 năm tôi được xuất ngoại. Tôi xin được chia sẻ những nỗ lực để có được chuyến đi đầu tiên này. Học tiếng Pháp từ nhỏ, ước mơ được một lần đặt chân đến kinh thành ánh sáng luôn thôi thúc tôi. Cuộc thi "Concours IDECAF" tìm hiểu về nước Pháp (do lãnh sự quán Pháp tổ chức kết hợp với Viện trao đổi văn hóa Pháp-IDECAF) với phần thưởng dành cho người đứng nhất là một chuyến du lịch sang Pháp trong vòng một tháng thật hấp dẫn. Đây chính là con đường khả dĩ nhất nếu tôi muốn xuất ngoại. Tôi đã cố gắng tìm gặp những người khách du lịch để thực tập tiếng. Ở đâu có người nói tiếng Pháp là có tôi lân la. Tôi kết bạn với rất nhiều cặp vợ chồng sang Việt Nam xin con nuôi. Tôi xông xáo chở họ đi đây đó, làm "hướng dẫn viên" giúp họ thăm thú thành phố, cùng đến các cô nhi viện tìm trẻ bị bỏ rơi và mời họ về nhà dùng cơm thân mật. Và tôi trở thành mẹ đỡ đầu cho một em bé Việt Nam được một gia đình Pháp nhận nuôi. Do tiếp xúc nhiều, tôi tiến bộ rõ rệt trong cách phát âm, có nhiều từ lóng, tốc độ nói nhanh hơn. Những người bạn nước ngoài khi đã về nước luôn gởi sách báo giúp tôi trao đổi thêm ngôn ngữ Khi đã là sinh viên năm nhất khoa Pháp trưởng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, tôi mạnh dạn đăng ký dự thi "Concours IDECAF" và....thất bại. Có quá nhiều người giỏi nên tôi phải nỗ lực hơn nữa. Tôi tham gia làm việc bán thời gian, phiên dịch cho những thương gia sang Việt Nam tìm thị trường. Rồi tôi trở thành đại diện cho một công ty nhỏ, lãnh lương cố định hẳn hoi. Tôi đã kinh ngạc hỏi ông giám đốc vì sao lại chọn một sinh viên không chút kinh nghiệm thương trường, chỉ biết có mỗi ngoại ngữ làm đại diện văn phòng. Ông trả lời "Kinh nghiệm rồi sẽ đến theo năm tháng, còn sự nhiệt tình, tính ham học hỏi và lòng trung thực không phải ai cũng có!" Được khích lệ bởi câu nói này, tôi tiếp tục dự thi "Concours IDECAF" và đến lần thứ ba, cuối cùng tôi đã đạt ước nguyện. Chuyến xuất ngoại đầu tiên Vậy là lần đầu xuất ngoại tôi được hai mươi hai tuổi, đang là sinh viên Cao học của CFVG (Trung tâm Pháp-Việt đào tạo MBA). Đó cũng là lần đầu tôi biết thế nào là máy bay. Sau mười mấy tiếng đồng hồ vật vã vì bệnh say xe, tôi...lảo đảo bước xuống phi trường Charles De Gaulles. Mùa hè năm đó, nước Pháp đang sục sôi vì vô địch World Cup France 98, khắp nơi cờ phướn rợp trời. Lóng ngóng còn hơn "Tư Ếch đi Sài Gòn", tôi đã "mò mẫm" đi xe bus của hãng Air France vào Paris. Đến văn phòng cấp học bổng thì lại bị báo phải quay lại phi trường để đi tiếp xuống tỉnh Brest. Bị đẩy ra đường, tôi run lập cập vừa đi vừa hỏi, cuối cùng cũng quay lại được phi trường sau mấy tiếng đồng hồ chu du bằng xe điện ngầm và xe bus. Khi về đến Brest với những cái bao nilon bốc mùi trên tay (vì liên tục bị say xe), tôi...khóc lóc thảm thiết, lòng oán hận bị "đem con bỏ chợ" và thề độc sẽ không bao giờ...đi nước ngoài nữa. Nhưng chỉ sang ngày hôm sau, khi đã hồi phục phần nào sức khỏe, tôi hăm hở sục sạo khắp nơi. Tôi làm quen với những ông bà già, trẻ con và những...người thất nghiệp ngoài đường phố. Tôi "sống gấp", di chuyển liên tục từ tỉnh này sang tỉnh khác theo lời mời của những gia đình xin con nuôi và những người khách du lịch ngày trước từng quen biết với mình. Đi đến đâu tôi cũng được mọi người nồng nhiệt đón tiếp như muốn "trả ơn" ngày trước tôi nhiệt tình giúp họ ở Việt Nam. Họ chở tôi đi thăm thú khắp nơi, tôi say sưa chiêm ngưỡng kiến trúc, phong cảnh và ẩm thực Pháp. Trong vòng một tháng ngắn ngủi, tôi đi thăm hầu hết những tỉnh đặc trưng của Pháp. Sau đó tôi sang Thụy Sĩ và ở một tháng với đất nước thần tiên này. Sau chuyến xuất ngoại đầu tiên đó, tôi "dằn túi" những trải nghiệm ngọt ngào và cả những kinh nghiệm "xương máu" về cách mua vé tàu xe, cách vận chuyển từ tỉnh này sang tỉnh khác, những ngày làm phục vụ bàn ở Pháp, hái nho ở Thụy Sĩ, cách tiếp xúc với người địa phương... Những truyện ngắn Tú cầu vùng Bretagne, Đồi nho xanh, Hội người xa xứ... ra đời như nhu cầu được chia sẻ. Những chuyến đi bụi Hai năm sau chuyến xuất ngoại đầu tiên đó, tôi được sang Pháp tu nghiệp về nghề báo và cách quản lý một tòa báo tại Ouest France, tờ nhật báo có số phát hành cao nhất nước Pháp. Ba tháng trôi qua với biết bao kiến thức nhận được nhưng cũng lắm khó khăn làm "nản lòng chiến sĩ". Mỗi sáng tôi vác dù đi bộ dưới làn mưa thu cả nửa tiếng đồng hồ vì muốn... tiết kiệm tiền xe bus. Có những ngày mưa lớn quá, tôi đành bấm bụng mua vé xe, nhưng xui xẻo lại rơi vào lúc liên đoàn xe bus đình công. Đi được vài trạm đã bị đuổi xuống. Những ngày cuối tuần tôi nằm chèo queo trong căn phòng nhỏ xíu như hộp quẹt, không bạn bè, không truyền hình, không sách báo. Phố xá vắng tanh, cửa hàng đóng hết. Truyện Một mùa thu ở Rennes là một kỷ niệm cho những ngày "thu cô đơn" này. Hết thời gian tu nghiệp, tôi vác balo đi bụi khắp các nước châu Âu. Những chuyến đi gần như đơn độc, tôi ngồi xe đò và xe lửa đêm xuyên biên giới. Trên chuyến tàu sang Đức, tôi bị một thằng nhóc mười tám tuổi năn nỉ xin...hôn một cái. Ở Bỉ tôi lạc vào một con phố vắng và bắt gặp một người đàn ông đang... khỏa thân phần dưới, báo hại tôi vắt giò lên cổ chạy trối chết. Ở Hà Lan tôi bị chủ nhà trọ vô tình xếp ngủ cùng phòng với hai sinh viên nam (do tên Việt Nam không phân biệt được là nam hay nữ). Ở Tây Ban Nha tôi suýt bị "làm thịt", may sao vào phút tám chín có quý nhân can thiệp kịp. Ba tháng tôi lang bạt kỳ hồ ở Châu Âu với những phòng trọ rẻ tiền ở cùng người lạ, những chuyến xe giảm năm mươi phần trăm vé vì đi vào những thời điểm không thuận lợi, những bữa ăn vô cùng đạm bạc chỉ gồm bánh mì và nước lọc mua trong siêu thị, thỉnh thoảng mới dám "hùng dũng" chui vào Mc Donald. Những truyện ngắn Con gà nói tiếng Đức, Đổ thừa Venise, Mùa hè ở Barcelone... được độc giả cho là lãng mạn, chỉ có tôi mới biết tình hình thực tế "thê thảm" thế nào. Du học và những chuyến công tác Càng đi, càng tiếp xúc, càng trải nghiệm ở xứ người, tôi càng... say máu xuất ngoại. Tôi lên kế hoạch tìm được học bổng du học. Suốt một năm ròng tôi miệt mài viết thư cho các Đại sứ quán, các tổ chức phi chính phủ, các trường Đại học. Chiến dịch kết thúc với vài lời đề nghị nhưng tôi chọn suất học bổng toàn phần của chính phủ Bỉ. Tôi xúc động nhận ra một điều: nếu biết làm việc một cách chuyên nghiệp và nhiệt tình. Trời sẽ không phụ lòng! Tôi "cụ bị" đồ đạc, hăm hở lên đường sang Bỉ học Cao học Quản trị Kinh doanh tại Đại học Liège, một trường thuộc loại cổ xưa của Châu Âu. Những vui buồn đời du học sinh với những áp lực trong học tập, những ánh mắt kỳ thị của dân bản xứ, tình bạn tha thiết với những cô nàng da đen, những anh chàng mũi lõ, tình thầy trò nồng ấm với giáo sư đỡ đầu... được tôi truyền tải vào các truyện ngắn Bồ câu chung mái vòm, Đồng môn xứ lạ, Đừng giận tình si... Đặc biệt, đời du học sinh trong một năm ngắn ngủi nhưng đầy ắp xúc cảm là chất liệu sống để tôi hoàn thành truyện dài Oxford thương yêu. Tôi có thể ăn uống kham khổ, ngủ bờ ngủ bụi, chi tiêu bủn xỉn vì muốn để dành tiền đi đây đó. Càng "lăn lóc" bao nhiêu tôi càng có nhiều trải nghiệm quý giá bấy nhiêu. Và sau những chuyến phiêu lưu ấy, tôi ấm lòng nhận ra thế giới này người tốt luôn nhiều hơn kẻ xấu. Giờ tuy bận rộn công việc và gia đình, những lúc đi công tác ra nước ngoài tôi đều tranh thủ ở lại để thăm thú thêm nơi mình đến. Lisbon thân thiện đã cho tôi quyết định sẽ xây dựng một nhân vật nam người Bồ Đào Nha thật lý tưởng. Đó chính là Fernando trong Oxford thương yêu. Chuyến tu nghiệp ở Anh một tháng và vài ngày ở Oxford đủ khiến tôi "cả gan" chọn nơi đây làm bối cảnh chính cho truyện dài đầu tiên của mình. Giờ tôi đã chẳng còn bệnh say xe do đã đi quá nhiều. Với tôi, những chuyến đi sẽ không bao giờ ngơi. Hãy cùng tôi đi khắp châu Âu trong suốt mười năm vừa qua nhé!   Mời các bạn đón đọc Venise Và Những Cuộc Tình Gondola của tác giả Dương Thụy.