Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Thành Phố Và Lũ Chó

Lũ chó trong Thành phố và lũ chó là danh xưng mà học viên các lớp trên của Trường Quân sự Leoncio Prado “tặng” cho các học viên lớp mới vừa chân ướt chân ráo bước vào trường năm đầu. Và đám lính tò te ấy, lũ “chó con”, ngơ ngác, sợ sệt, “chửa biết gì”, rất nhanh chóng được nếm mùi vị thật của Trường Quân sự, mùi bạo hành, thứ bạo hành mà khi chúng lớn hơn, bản thân trở thành học viên lớp lớn, chính chúng sẽ đem áp dụng với đám “chó con” nhỏ tuổi hơn. Những năm niêu thiếu quan trọng nhất của “lũ chó” đã trôi qua trong môi trường nghiệt ngã của ngôi trường quân sự, một nhà tù để chúng trưởng thành về mọi mặt, cả mặt sáng và mặt tối. Tình yêu, tình dục, tình bằng hữu, ý thức về trung thực, trách nhiệm và phẩm giá, tất cả rồi sẽ nảy nở và hình thành trong cái lò lửa đó, theo cách giống như tất cả chúng ta song cũng theo một cách riêng, rất riêng của lũ “chó con” trường quân sự dưới ngòi bút duyên dáng, sinh động, sục sôi khí lực của một trong những nhà văn hàng đầu Mỹ latinh.   Khi Thành phố và lũ chó được ấn hành lần đầu tiên ở Peru vào năm 1962, tác phẩm đã  gây xì căng đan đến độ có một ngàn bản sách đã bị đốt trong một buổi lễ chính thức diễn ra tại Trường quân sự Leoncio Prado. Cũng năm đó, cuốn sách được trao giải Biblioteca Breve, một giải thưởng tặng cho tác phẩm hư cấu hay nhất bằng tiếng Tây Ban Nha.     ***********     Nhận định   “Cuốn tiểu thuyết đầy bạo lực nhất của Mario Vargas Llosa” - Lời bình của ấn bản tiếng Tây Ban Nha, NXB Alfaguara *** LỜI GIỚI THIỆU Năm 1962, khi còn là bản thảo, Thành phố và lũ chó[1] đã được nhận Giải thưởng Thư viện Ngắn gọn của Nhà xuất bản Seix Barral, cho đến hiện nay vẫn là một trong những nhà xuất bản danh tiếng nhất Tây Ban Nha và Mỹ Latinh. Ngay khi vừa được xuất bản, năm 1963, cuốn tiểu thuyết đã được trao giải thưởng của Giới phê bình Tây Ban Nha và gây nên chấn động chưa từng thấy trong dư luận xã hội và trong giới học giả, nhanh chóng được dịch ra ba mươi thứ tiếng và ngày nay được đánh giá là tác phẩm kinh điển trong nền văn học không chỉ của đất nước Perú mà còn của Mỹ Latinh nói chung. Trong nền văn học bằng tiếng Tây Ban Nha ở Mỹ Latinh, nhà văn nổi tiếng người Guatemala, Miguel Angel Asturias, giải thưởng Nobel Văn chương năm 1967, và nhà văn người Cuba, Alejo Carpentier, được coi là những người khởi đầu và đặt nền móng lý luận cho chủ nghĩa hiện thực huyền ảo (realismo mágico hoặc realismo maravilloso), một khám phá độc đáo của văn học Mỹ Latinh hiện đại[2]. Còn nhà văn Perú Mario Vargas Llosa lại là một trong những người đi tiên phong, đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách tân thi pháp tiểu thuyết, mà vấn đề cốt lõi là sử dụng thời gian đa tuyến, một kỹ thuật hết sức mới mẻ thời bấy giờ, đồng thời cũng sáng tạo ra những kỹ thuật kể chuyện có hiệu quả để nắm bắt và phản ánh hiện thực như mê cung của đất nước ông. Trong Thành phố và lũ chó, thời gian đa tuyến được tác giả sử dụng thông qua kỹ thuật tự sự đa chủ thể: thời gian “trong cốt truyện” thông qua chuyện kể của ngôi thứ ba (người kể chuyện) theo diễn biến từ đầu đến cuối - từ khi học viên Cava bị Nhóm bạn giao cho việc ăn cắp đề kiểm tra môn hóa, vô tình làm vỡ cửa kính, nhà trường phạt các học viên gác đêm hôm đó không được đi chơi ngoài trường vào thứ Bảy và Chủ nhật; quá bức xúc, học viên Arana (Nô Lệ) liền tố giác khiến Cava bị đuổi học, rồi bản thân Nô Lệ sau đó bị bắn chết trong cuộc diễn tập quân sự… Bên cạnh đó là thời gian “ngoài cốt truyện”, diễn ra qua lời kể của các nhân vật chính: Trăn, Alberto (tức Nhà Thơ), Báo Đen gồm những hồi ức về gia đình, bản thân (ngược chiều với thời gian cốt truyện, kể về những sự việc đã qua, một thứ flashback), thời gian tâm lý gồm tình yêu chớm nở, tình cảm với con chó cái… Toàn bộ cuốn tiểu thuyết được chia làm hai phần và phần vĩ thanh, mỗi phần có tám chương, mỗi chương thường có bốn hoặc năm phân đoạn, hai chương có đến mười phân đoạn. Một phần ba cuốn tiểu thuyết (ba mươi sáu trong số tám mươi mốt phân đoạn) được kể ở ngôi thứ nhất dưới dạng độc thoại nội tâm của ba nhân vật chính với thời gian và không gian bị đảo lộn, xáo trộn, khiến cốt truyện dù đơn giản cũng trở nên ly kỳ, hấp dẫn. Các đoạn độc thoại này không được nói rõ của nhân vật nào, độc giả phải tự luận ra, hơn nữa chúng lại kết hợp rất khéo léo, khi thì trực tiếp khi thì gián tiếp với ngôi thứ ba, kỹ thuật kể chuyện này được M. Vargas Llosa tự gọi là “phương pháp bình thông nhau”, ví dụ trong đoạn độc thoại sau đây của Alberto: “Mình có thể sẽ đi mà nói với bố, bố ơi cho con hơi mươi đồng sol đi và ngay bây giờ mình đã thấy rõ, hai mắt bố sẽ đẫm lệ và bố sẽ cho mình bốn mươi hoặc năm mươi đồng, nhưng việc đó sẽ chẳng khác gì nói với bố, con tha thứ cho những việc bố đã làm với mẹ và bố vẫn có thể cứ làm ba cái trò đĩ thoã của mình đi với điều kiện là phải tiếp tục cho con tiền thưởng hậu hậu vào.” Dưới chiếc khăn quàng bằng len của mẹ cho từ mấy tháng trước, đôi môi của Alberto cử động liên tục mà không hề phát ra âm thanh nào… Cấu trúc phức tạp này đòi hỏi nhà văn phải vững tay nghề và, cùng với một cốt truyện ly kỳ, cấu trúc này đã giữ được mạch hồi hộp thích thú cho độc giả và buộc họ phải tham gia tích cực vào diễn biến của câu chuyện, phải chăm chú theo dõi, tự sắp xếp lại không gian và thời gian của các lời kể thì mới có thể nắm chắc được nội dung. Yếu tố kỹ thuật kể chuyện này hoàn toàn mới lạ trong nền tiểu thuyết Mỹ Latinh thời kỳ đó, và trở thành yếu tố kỹ thuật cơ bản của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Và chính Mario Vargas Llosa là một trong những người đầu tiên vận dụng nhuần nhuyễn ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình. Ngoài ra, khả năng sử dụng ngôn ngữ đời thường, kể cả những từ lóng, thậm chí thô tục của lứa tuổi mới lớn; nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật; sự kết hợp hài hòa giữa những trang miêu tả các sự kiện đầy bạo lực với những trang hết sức trữ tình về tình yêu của những thanh niên mới lớn, tình yêu thuở học trò, những trang miêu tả sương mù bảng lảng đầy chất thơ và chất u ám tăm tối ở khu vực La Perla nơi trường quân sự được xây dựng và ẩn hiện thường xuyên chất hài hước chế giễu sâu cay; tất cả làm nên giá trị nghệ thuật độc đáo và hết sức mới mẻ của tác phẩm này. Nét mới mẻ và độc đáo còn ở ngay nội dung tác phẩm. Thành phố và lũ chó là bản cáo trạng lên án nền giáo dục quân phiệt, quan điểm phân biệt chủng tộc, đẳng cấp xã hội, triết lý kẻ mạnh áp chế kẻ yếu còn ngự trị trong xã hội và trong trường quân sự. Là di sản của chế độ thực dân-phong kiến của Tây Ban Nha, chế độ gia trưởng, vai trò các trưởng lão, các thủ lĩnh (Caudillo) còn tồn tại lâu dài trước sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản. Các thế lực quân sự, nhằm đào tạo ra một thế hệ quân nhân mù quáng tôn thờ chế độ gia trưởng, chế độ độc tài quân sự, đã lập ra hệ thống trường quân sự nơi nền giáo dục dựa trên chính bạo lực và dối trá, nơi triết lý kẻ mạnh ngự trị trên hết. Bằng chính trải nghiệm của bản thân, Vargas Llosa đã đề cập đến một đề tài hết sức mới mẻ: nền giáo dục quân phiệt đầy bạo lực. Và Trường Quân sự Leoncio Prado cũng chính là xã hội Perú thu nhỏ với mọi tệ nạn xã hội, đầy rẫy tệ phân biệt chủng tộc, phân biệt đẳng cấp xã hội, nguồn gốc văn hóa. Lên án nền giáo dục bạo lực đối với thế hệ thanh niên mới lớn trong trường quân sự, Thành phố và lũ chó cũng mang tính dự báo và kết án chế độ độc tài quân sự đã hình thành ở một số nước và sau đó, suốt thập niên 60 và 70 của thế kỷ trước, đã thống trị một cách tàn bạo ở hầu hết các nước Mỹ Latinh. Đây cũng là một đề tài được nhiều nhà văn nổi tiếng, từ M Angel Asturias, Alejo Carpentier, Augusto Roa Bastos, Ernesto Sabato… đến G. García Márquez đều đã viết và đạt thành tựu quan trọng. Nhưng nếu các nhà văn khác viết về các nhà độc tài, các trưởng lão, thì Vargas Llosa khai thác đề tài nền giáo dục, đào tạo ra bọn độc tài. Thành phố và lũ chó còn hấp dẫn bởi vì lần đầu tiên văn chương đề cập đến đời sống tinh thần và vật chất của lứa tuổi mới lớn trong trường quân sự, tình bạn, tình yêu. Họ là nạn nhân của một xã hội thối nát, của lối giáo dục tàn bạo, nên sống buông thả, bài bạc, đĩ điếm, ăn trộm, vô kỷ luật, tàn nhẫn với nhau, theo đuổi lối sống tình dục bản năng của tuổi chưa trưởng thành (tình dục đồng giới, tình dục với thú vật như gà mái, chó cái), thậm chí còn gây tội ác. Vargas Llosa mạnh dạn bóc trần những tệ nạn đó, lên án và chế giễu chua cay những kẻ đại diện cho chế độ xã hội dựa trên bạo lực và giả dối. Lập trường chống chế độ quân phiệt, chống giai cấp tư sản, chống tư tưởng ỷ thế kẻ mạnh, chống bạo lực tàn bạo của Vargas Llosa trong tác phẩm này đã làm cháy lên tinh thần phản kháng và thức tỉnh ý thức phải đổi mới trong xã hội Perú, như García Márquez từng nói:”… đảo ngược hẳn lại thực tế.” Mới mẻ, đặc sắc từ đề tài, quan điểm tiếp cận thực tế đến phong cách, nghệ thuật kể chuyện cùng những yếu tố kỹ thuật mới, Thành phố và lũ chó được liệt vào một trong những tác phẩm văn học mở đầu cho cuộc bùng nổ của tiểu thuyết Mỹ Latinh. Cùng với Gabriel García Márquez, Julio Cortázar, Carlos Puentes, Mario Vargas Llosas được coi là những nhà văn xuất sắc nhất của Mỹ Latinh từ nửa cuối thế kỷ XX cho đến hiện nay. M. Vargas Llosa sinh ở Arequipa, Perú, năm 1936, cho đến năm lên mười mới biết mặt bố vì trước đó bố mẹ ông đã ly thân. Từ chỗ được mẹ yêu chiều, khi về sống với bố và mẹ lúc này đã tái hợp, ông phải đối mặt với thái độ hà khắc của bố, từ đó nảy sinh xung đột bố- con, và nỗi khát khao được sống tự do. Ông bị đưa vào học Trường Quân sự Leoncio Prado. Chính trong môi trường bạo lực này, tố chất và năng khiếu văn chương của ông đã được nảy nở: ông viết thư hộ cho bạn, viết truyện tình bán cho bạn học. Ngay khi ra trường, ông tham gia viết báo và nhận ra sự nghiệp đời mình chỉ có thể gắn với chữ nghĩa. Năm 1953 ông vào học ở khoa Văn và Luật trường Đại học San Marcos và bắt đầu viết truyện ngắn; năm 1959 các truyện này được tập hợp trong tập Các vị chỉ huy, giành giải thưởng Leopoldo Alas. Sau đó, ông yêu và kết hôn cùng Julia Urquidi, người dì dâu của chính ông. Năm 1955, cùng với vợ, ông sang châu Âu học tập theo học bổng Javier Prado và lấy bằng Tiến sĩ Triết học và Văn chương; đồng thời tìm thấy môi trường thích hợp cho hoạt động văn học. Những chi tiết trong tiểu sử này đã được ông đưa vào một số tiểu thuyết nổi tiếng như Lầu xanh (La casa verde, 1966), Đối thoại trong quán La Catedral (Conversacion en La Catedral, 1969) và Dì Julia và nhà văn quèn (La tía Julia y el escribidor, 1977, hai cuốn sau đã được dịch ra tiếng Việt). Ngoại trừ một giai đoạn có tham gia hoạt động chính trị, thậm chí là ứng viên tổng thống năm 1990, phần lớn cuộc đời cho đến hiện nay ông dành cho văn học và báo chí. Ông có sức sáng tạo mạnh mẽ: hàng chục tiểu thuyết nổi tiếng như Pantaléon và các nữ du khách (Pantaleón y las visitadoras, 1973); Cuộc chiến tranh nơi tận cùng thế giới (La guerra del fin delmundo, 1981), Câu chuyện của Mayta (Historia de Mayta, 1984), Ai đỡ giết Palomino Molero? (iQuién mató a Palomino Molero?, tiểu thuyết hình sự, 1986), Người nói chuyện (El hablador, 1987), Ca ngợi người mẹ kế (Elogio de la madrastra, 1988), Người Lituma ở dây Andes (Lituma en los Andes, 1993), Những quyển vở của ông Rigoberto (Los cuadernos de don Rigoberto, 1997), Lễ hội của dê (La fiesta del chivo, 2000), Thiên đường nơi góc phố (El paraíso en la otra esquina, 2003), và ở tuổi 70, năm 2006, lần đầu tiên ông viết cuốn tiểu thuyết tình yêu Trò nghịch của gái hư (Travesuras de la nina mala). Ngoài ra ông còn một số lượng rất lớn sách tiểu luận về văn học, triết học, chính trị và nhiều tác phẩm sân khấu. Năm 2010 vừa qua, Mario Vargas Llosa được trao giải thưởng Nobel Văn chương. Bên cạnh đó, ông từng đoạt tất cả các giải thưởng quan trọng nhất ở đất nước Perú và các nước nói tiếng Tây Ban Nha: giải thưởng Cervantes, giải thưởng Hoàng tử Asturias về văn chương - hai giải thưởng danh giá nhất trong các nước nói tiếng Tây Ban Nha - giải thưởng của các nhà xuất bản quan trọng nhất Barral và Planeta, giải thưởng của các nước khác của Mỹ La tinh, của Ý, Pháp, Mỹ, Anh, Đức… Và, như ông tự nói: giải thưởng lớn nhất trong đời chính là niềm đam mê và lòng quyết tâm theo đuổi nghề văn. Lê Xuân Quỳnh   *** "Thành phố và lũ chó" là tác phẩm đầu tay của nhà văn người Tây Ban Nha gốc Peru Mario Vargas Llosa - người đoạt giải Nobel Văn học 2010. Bối cảnh của câu chuyện là trường quân sự có thật mang tên Leoncio Prado ở Lima, Peru. Tại đây, những đứa trẻ 14-15 tuổi đã phải nhập học và trải qua cuộc sống lính khắc nghiệt. Những năm tháng quan trọng nhất trong thời niên thiếu của lũ trẻ sống dưới dưới sự tàn khốc của chế độ quân phiệt Peru. Những học viên mới của trường bị gọi là “chó con”. Chúng phải trải qua thử thách là những trò hành hạ mà lũ “chó con” năm trước áp đặt. Trong môi trường khép kín và đầy thiết quân luật, trường học trở thành nơi lũ trẻ đe nẹt, hành hạ lẫn nhau. Ngoài ra, đây cũng trở thành nơi chúng hút hít và vụng trộm giải tỏa những nhu cầu sinh lý của những cậu trai đang lớn. Nội dung chính của tác phẩm tập trung vào một hội nhóm bí mật của đám học viên năm thứ tư. Chúng thường tổ chức các vụ trộm cắp, trao đổi những phi vụ bí mật trong trường. Một lần, Cava, một trong ba thành viên của nhóm, nhận nhiệm vụ đánh cắp đề thi môn Hóa. Vụ việc vỡ lở, toàn bộ học viên của khóa bị cấm trại cho đến khi tìm được thủ phạm. Cava bị một học viên khác trong trường tố giác và sau đó là những kế hoạch trả thù của nhóm hội bí mật với người bạn học này. Tác phẩm từng gây chấn động lớn trong xã hội ngay khi ra đời năm 1963 vì lên án chế độ quân sự của Peru. Đã có cả nghìn bản sách bị chính các sĩ quan của ngôi trường này đốt bỏ. Tuy nhiên, cuốn sách cũng được đánh giá cao về giá trị văn chương và đã đoạt giải Biblioteca dành cho tác phẩm hư cấu hay nhất của giới phê bình Tây Ban Nha. Nhà văn Mario Vargas Llosa khi ấy mới 23 tuổi. Song Ngư *** Đã từng lướt qua không biết bao nhiêu lần và cũng đã từng muốn mua không biết bao nhiêu lần nhưng lần nào cũng đang trong lúc cạn ngân sách nên đành bấm bụng quay đi. Sau một hồi quên lãng thì lại đọc ké hết cả quyển trong quán Cà phê. Và cảm xúc sau khi đọc xong là Cực kì muốn đọc lại. Đau đớn thay là khi ấy Quyển này đã hết hàng, còn đau đớn hơn nữa khi biết là không hề có bản Ebook. Và vì không có Ebook, cũng không có Sách trong tay, thế nên bài Review này cũng không có bất cứ dẫn chứng nào. Mà cũng đừng ai hỏi bạn chẻ có quyển này hay không, hay hỏi mượn, hay đại loại là hỏi mua ở đâu, đơn giản là vì bạn chẻ cũng đang kiếm chỗ mua đây. FULL: AZW3 EPUB MOBI PDF

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Tình Ca Cho Huế Đổ Nát - Nhã Ca
M i Ki thân mến, Tôi phải nói với Ki về thành phố đó. Chúng ta đã sinh ra, đã sống ở đó, ít nhất là một phần của tuổi thơ ấu. Tuổi thơ ấu của Ki đã cho tôi thật đầy đủ. Những ngày ở bãi biển Thuận An, đi lang thang ngoài biển, bắt cào cào, đào trộm khoai, chơi cút bắt, hay thơ thẩn một mình ngoài đồng rộng chạy đuổi theo những bông cỏ lăn theo gió. Tắm ở phá Tam Giang, giữa trưa nắng, cát nóng bỏng như lửa. Ki đã chạy nhảy, chân giẫm từ đám cỏ khô này qua đám cỏ khô khác để tới rừng dương, nhìn một cái hồ nhỏ đầy cá mặt trăng. Cá mặt trăng, những mặt trăng nhỏ, trắng muốt của tuổi thơ chúng ta tung tăng trên mặt hồ, bên những cành dương rủ bóng, kênh kiệu một cách đáng yêu với bờ đê, với bãi biển kêu gọi, rủ rê suốt ngày tháng. Rời bỏ Thuận An, Ki bé nhỏ, quê mùa của tôi bước chân lên thành phố. Bỡ ngỡ và rụt rè, bị bắt nạt, nước mắt, đó là đặc điểm của Ki thời đó. Bị bắt nạt là đáng lắm, bởi Ki chỉ biết có bãi cát trắng phau, với những đợt sóng liếm vào bờ suốt ngày không biết chán. Ki chỉ biết có những con đường làng cát bẩn rụng đầy hột keo khô, lẫn với vỏ nghêu, vò sò vỡ. Bị ném vào một thành phố đầy trẻ con tinh ranh, Ki làm sao chống đỡ nổi. Tội nghiệp Ki của tôi hồi tám chín tuổi với một phố Huế xa lạ, giục giã sự tò mò. Ki vẫn giữ khuôn mặt đen dịu, đôi mắt vàng chói nắng biển, mái tóc cắt ngắn kiểu con trai, mặc quần sọt với áo sơ mi bởi vì ba chúng ta muốn có một đứa con gái ngộ nghĩnh hơn là xinh đẹp. Ki bắt đầu đi học, Ki có bạn mới, Ki quên bãi biển Thuận An, quên làng quê buồn hiu nhưng thơ mộng đến nỗi có những đêm mơ thấy bầy cá mặt trăng bơi lội tung tăng trên mặt hồ đớp ánh sáng xanh mát, hoặc những cành dương dài như những cánh tay khẳng khiu vẫy vẫy, Ki đã khóc trong giấc ngủ. Hoặc đôi khi đang ngồi trong lớp học, Ki bỗng nghe thấy một âm thanh gì rì rào quen thuộc, Ki nôn nao cả người và chợt nhớ ra âm thanh đó giống tiếng sóng biển mà Ki đã nghe hoài huỷ hồi ở quê mẹ. Chúng ta thực tức cười phải không Ki, hồi đó chúng ta cứ tưởng Huế với Thuận An là hai miền xa cách như bây giờ Sài Gòn với Hà Nội vậy. Vừa biết Huế, gia đình ta ở An Cựu, cạnh nghẹo đường xay. Chúng ta có thể chạy lông bông, nhưng không còn được thong thả như hồi ở nhà quê nữa vì chúng ta phải canh chừng những chiếc xe nhà binh với những ông Tây to lớn, mặt luôn luôn đỏ kè như say rượu. Chúng ta thấy phía này có ruộng, phía kia có bờ sông, có cầu đúc nối sang bên chợ. Ki có còn nhớ cây bông búp cao mọc ở cạnh chân cầu đó chớ. Cây búp mà chúng ta thường ao ước nhặt những búp khô rụng, thổi phồng lên như đã từng thổi chiếc bong bóng lợn của dượng Tin cho hồi còn ở Thuận An. Thêm một hai tuổi gì đó, chúng ta rời An Cựu, được gửi học nơi nhà một ông giáo nhà ở tít dưới Mù U, Ki đã trốn học, đã khóc và bị ăn roi đến quắn đít vì bướng. Ki đi học đàng hoàng. Mùa nắng Ki mặc áo hoa, đi guốc. Mùa mưa, Ki còn nhớ không, chúng ta mang cái tơi bằng lá, tròng từ đầu xuống cổ, có sợi dây thừng nhỏ rút trước cổ, buộc chặt cho gió khỏi bay. Ngôi trường tiểu học ở thật xa tít giữa bãi hoang có nhiều đất sét. Xung quanh lại có nhiều mồ mả nữa. Những đứa trẻ tinh quái thường doạ có nhiều mả Tàu Ô lắm, rồi chúng ta được nghe nhiều chuyện kinh hoàng về giặc Tàu Ô. Nhà chúng ta ở nơi một con đường rất dốc. Dốc cao đến nỗi người lớn nói đứng trên đầu dốc có thể nhìn thấy cột cờ Phú Văn Lâu. Nhưng Ki nghểnh cổ, nhón chân, cũng chỉ nhìn thấy những đọt phượng mùa hè đầy bóng đỏ rực, mùa đông lủng lẳng những quả dài sắc cong như lưỡi mác. Phía trên đầu dốc kia là Đàn Nam Giao, nghe nói đường đi xa lắm, chân của Ki thì quá ngắn. Cho tới khi tôi đi được chiếc xe đạp, ngang qua con đường đất vòng quanh Đàn Nam Giao, tôi cười mãi về sự tưởng tượng của Ki hồi còn nhỏ, và nhớ Ki như một phần hồn, phần thơ ngây của mình đã mất vĩnh viễn. *** Nhã Ca, tên thật là Trần Thị Thu Vân (sinh 1939), là một nữ văn sĩ người Việt với nhiều tác phẩm viết thời Việt Nam Cộng hoà, hiện định cư ở Hoa Kỳ. Nhã Ca sinh trưởng tại Huế đến năm 1960 thì vào Sài Gòn nơi bà bắt đầu viết văn. Trong thời gian 1960 - 1975, 36 tác phẩm của bà được xuất bản gồm nhiều thể loại như thơ, bút ký và tiểu thuyết. Một số tác phẩm của bà lấy xứ Huế làm trọng điểm. Theo lời kể của ông Nguyễn Đắc Xuân (nhà văn) thì bà vốn là một nữ sinh Huế (cùng thế hệ với Nguyễn Đắc Xuân), bỏ học Trung học vào Sài Gòn đi theo Trần Dạ Từ - một người Bắc di cư. Trần Dạ Từ viết báo chống các Phong trào tranh đấu chống Mỹ, hai vợ chồng Trần Dạ Từ và Nhã Ca là hai cây viết tâm lý chiến của Đài Tự do của Mỹ (Đài có nhiệm vụ tuyên truyền chiêu hồi và viết bài tấn công về tư tưởng đối với binh lính đối phương) Cũng vì nội dung trong những tác phẩm của bà, sau năm 1975, Nhã Ca bị chính quyền giam hai năm vì tội "biệt kích văn hóa" (có cuốn sách mang tên là ‘Biệt Kích Văn Hoá’ do các học giả, nhà văn ủng hộ Mặt trận giải phóng như Trần Văn Giàu, Lữ Phương, Vũ Hạnh... viết về 10 tác giả miền Nam. Trong sách này, ngoài bà có Hồ Hữu Tường, Nguyễn Mạnh Côn, Nhất Hạnh, Doãn Quốc Sỹ, Võ Phiến...). Trong tù, bà bị biệt giam và chính quyền tiến hành chính sách "khoan hồng, nhân đạo của Đảng" nhằm hạ gục uy tín của bà. Chính cuốn Giải khăn sô cho Huế bị liệt vào hạng tối kỵ, trưng bày trong "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy" là chứng tích kết tội bà. Chồng bà, nhà văn Trần Dạ Từ, thì bị giam 12 năm. Do sự can thiệp của hội Văn Bút Quốc tế phối hợp với hội Ân xá Quốc tế và thủ tướng Thuỵ Điển Ingvar Carlsson, bà được sang Thuỵ Điển tỵ nạn. Năm 1992 bà cùng gia đình sang California định cư và lập hệ thống Việt Báo Daily News tại Quận Cam. Theo nhà văn Nguyễn Đắc Xuân thì cặp vợ chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca còn từng phụ trách nguyên cả một chương trình của đài Á Châu Tự do (RFA) của Mỹ. Tác phẩm: Nhã Ca mới (1965) Đêm nghe tiếng đại bác (1966) Bóng tối thời con gái (1967) Khi bước xưống (1967) Người tình ngoài mặt trận (1967) Sống một ngày (1967) Xuân thì (1967) Những giọt nắng vàng (1968) Đoàn nữ binh mùa thu (1969) Giải khăn sô cho Huế (1969) đoạt Giải Văn chương Quốc gia Việt Nam Cộng hòa năm 1970[4] (tái bản ở Hoa Kỳ năm 2008) Một mai khi hòa bình (1969) Mưa trên cây sầu đông (1969) Phượng hoàng (1969) Tình ca cho Huế đổ nát (1969) Dạ khúc bên kia phố (1970) Tình ca trong lửa đỏ (1970) Đời ca hát (1971) Lặn về phía mặt trời (1971) Trưa áo trắng (1972) Tòa bin-đing bỏ không (1973) Bước khẽ tới người thương (1974) v.v... Phim Đất khổ do Hà Thúc Cần sản xuất và hoàn tất năm 1973, đã một phần dựa theo cuốn Giải khăn sô cho Huế và Đêm nghe tiếng đại bác, do Nhã Ca viết đối thoại. Tại hải ngoại, bà tiếp tục sáng tác, như: Hồi ký một người mất ngày tháng Đường Tự Do Sài Gòn (2006). Mời các bạn đón đọc Tình Ca Cho Huế Đổ Nát của tác giả Nhã Ca.
Sonechka - Lyudmila Ulitskaya
“Sonechka” là câu chuyện có âm hưởng của một bài thơ buồn kể về cuộc đời nhân vật chính: nàng Sonechka. Trải qua một tuổi thơ trầm lặng gắn liền với  những cuốn sách, Sonechka  bước vào cuộc sống mới, sát cánh bên chồng là Robert Victorovich-một hoạ sỹ tài danh nhưng không được chế độ công nhận, để cùng xây dựng gia đình nhỏ giữa những tháng ngày gian khó. Thế nhưng đến cuối đời hạnh phúc sụp đổ trước mắt Sonechka, Tania- đứa con gái duy nhất bỏ đi cùng người tình nghiện ngập, Robert Victorovich không thể cưỡng lại sức quyến rũ của cô nhân tình trẻ tuổi. Tất cả đều quay lưng lại với bà nhưng đều được bà tha thứ.  Với một văn phong  trang nhã, giàu chất thơ, cách kể chuyện thông minh, hóm hỉnh, bút  pháp miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật tinh tế, sắc sảo, Ludmila Ulitskaya  đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật Sonechka. Đồng thời tác phẩm là sự trở lại ấn tượng và xúc động của văn học Nga với mỗi độc giả Việt Nam.    **** Nhận định   Trong vô số cuốn sách, có những tác phẩm văn chương đã tìm ra con đường chân thực để soi rọi cho sự tồn tại của chúng ta. "Sonecka" là một cuốn sách như vậy. Phảng phất chiều sâu của chững chiêm nghiệm cuộc đời, đó không chỉ là chuyện về tấm lòng nhân hậu và thanh khiết của Sonechka, hay về cuộc sống đời thường đã trầm lặng trôi đi trong những năm Xô Viết cũ, mà rộng lớn và sâu sa hơn, là cảm giác về sự đơn giản tuyệt vời của số phận, về sự lặng lẽ của nội tâm vượt qua trắc trở, về một dòng đời miên man trôi chảy, bao bọc lấy tình thương và những cố gắng sáng tạo của mọi người. Với "Sonechka", tiểu thuyết Nga đương đại dường như đã tìm lại được những giá trị phổ quát của một nền tiểu thuyết vĩ đại trong quá khứ. - Nhã Nam “Ở Mỹ, chúng ta có bốn kiểu tình yêu: tình yêu với bạn bè, với gia đình, với người tình và cha mẹ. Ở Nga, người ta có thực sự có hơn thế? Ludmila Ulitskaya dường như đã làm được điều đó. Trong cuốn "Sonechka", Ulitskaya đã kể cho ta câu chuyện về những tình yêu khác nữa bằng một thứ văn xuôi đậm chất thơ cùng những nhân vật kỳ lạ, quến rũ.”  - Amazone.com “...Và trong cuốn tiểu thuyết đáng kinh ngạc "Sonechka", nữ nhân vật chính, một cô mọt sách trở thành nàng thơ, rồi trở thành người mẹ, đã bộc lộ một tình yêu và lòng chung thuỷ đáng sửng sốt bởi sự quảng đại cũng như vẻ lạ lẫm trong sự cảm động của nó” - Amazone.com “Trong câu chuyện này, tình yêu và cuộc sống diễn ra dưới sự kiềm toả của áp chế, trong những thiếu thốn vật chất, trong sự phục tùng hay chấp nhận như một lẽ đương nhiên đối với những gò bó tràn lan của chế độ...Nếu như sống tốt là cách trả thù hay nhất thì các nhân vật của Ludmila Ulitskaya, trong khi gìn giữ những ân sủng duy nhất mà cuộc đời đã mang lại cho họ, là những người hùng của đời thường, khi câu chuyện ngộ nghĩnh và dịu dàng về họ được kể ra một cách thông minh” - Amazone.com “Sonechka thể hiện một sức mạnh tiềm tàng và sự thấu suốt đến không ngờ của tính nữ” - inpressbooks.co.uk Mời các bạn đón đọc Sonechka của tác giả Lyudmila Ulitskaya.
Mù Khơi - Thanh Tâm Tuyền
N gười đàn ông ấy đã chết. Tôi lặp lại với mình, lặp lại như thế hồi lâu và nhận ra ngấm ngầm tôi vẫn mong ước cái chết ấy xảy đến. Bây giờ người đàn ông ấy đã chết. Thế là xong. Từ bây giờ (không phải nói từ hơn tuần nay) tôi sẽ không còn bận trí về sự hiện diện của ông ta trên đời này, tôi được giải phóng thoát khỏi lòng thù hận đầu độc tôi trong bao nhiêu năm nay. Nhiều lúc tôi tưởng tôi phải chết. Vậy mà tôi vẫn sống, trong địa ngục, tôi sống nhăn, sống kỳ cục và tôi khinh miệt tôi. Nhưng nay thì chính ông chết, và tôi còn sống. Tôi cho thế mới công bằng, ông ta trả lại tự do cho tôi sau khi đã cướp đoạt mấy mươi năm liền. Tôi đọc lần nữa dòng tin buồn trên báo. Tờ báo cũ hơn tuần rồi. May mắn sao tình cờ tôi lại lẩn thẩn đọc tờ báo cũ này để gặp những dòng ai tín quan trọng đối với tôi. Nếu không, tôi có thể chẳng hề hay biết và có thể bóng dáng của người đàn ông ấy sẽ mãi ám ảnh tôi. Tôi cười bật một tiếng ngắn. Tiếng cười dội vào trong tôi. Tôi không cười thành tiếng nữa như chuỗi cười dứt tung âm trong đầu. Tôi cười một mình âm thầm dữ dội như vẫn cười trong cơn ác mộng. Xung quanh tôi lặng lờ không một tiếng động. Niềm hân hoan mọi rợ khiến tôi co rút người, nôn nao như say, bắp thịt trên má, trên ngực giựt động liên hồi. Tôi mệt dốc tưởng xỉu ngay tại chỗ. Những bông hoa đỏ lóe cắm trong cốc đặt trên bàn chập chờn nhảy. Tôi phải nhắm mắt, cố dằn cơn xúc động huyên náo nhấp nhô như sóng. Rồi những giọt nước mắt tự nhiên ứa ra không sao kìm giữ. Tôi khóc đấy sao? Không đời nào, những dòng nước mắt cứ tuôn trào, cùng chuỗi cười vang vọng đâu xa, làm lắng dịu những thôi thúc trong thân tôi. Sau rốt tôi cũng bình tĩnh được. Nhưng đàn ông ấy đã chết. Người đàn ông ấy. Tôi không biết gọi cách nào khác. Hiểu giản dị, người đàn ông ấy là bố tôi, giản dị thì như thế. Nhưng giữa người đàn ông mà tôi có thể phải gọi bằng bố và tôi, mối quan hệ không bình thường giản dị chút nào. Về mặt pháp lý, chúng tôi không còn chút liên hệ nào với nhau. Ông chết dưới một tên khác, không phải cái tên tôi được biết ngày nhỏ, ông đã thay đổi căn cước cùng với cuộc đời ông. Và chính tôi nữa, trên giấy tờ, tôi cũng không phải là con ông, cái tên một thời ông đã khoác rồi vứt bỏ, tôi cũng vứt bỏ luôn khỏi tờ khai sinh của tôi. Về mặt xã hội, chúng tôi không hề sống chung với nhau dù một ngày dưới một mái nhà. Không một ai hay biết ông là bố tôi hay có một vài người biết thì những người ấy cũng làm lơ như không biết. Chứng tích quan trọng về giây liên hệ giữa hai chúng tôi là người đàn bà sinh ra tôi. Nhưng chứng tích ấy cũng đã biến mất từ lâu. Người đàn bà ấy còn sống, đã có cuộc đời khác, không dòm ngó đến chúng tôi nữa. ... *** Thanh Tâm Tuyền (1936-2006), tên thật là Dzư Văn Tâm, là một nhà thơ, nhà văn người Việt nổi tiếng, được biết đến với những cách tân thơ ca táo bạo. Năm 1956, lúc tròn 20 tuổi, ông đã nổi tiếng với tập thơ Tôi không còn cô độc, và năm 1957, lúc 21 tuổi, với tiểu thuyết Bếp lửa (viết năm 1954) "mô tả khung cảnh Hà Nội trước 1954, với những người ra đi cũng như những người ở lại, cả hai đều bị giằng co bởi những chọn lựa miễn cưỡng, sự chia ly hay cái chết."[1] Thanh Tâm Tuyền có ảnh hưởng lớn trên văn học Việt Nam giai đoạn 1956-1975 và cả những năm về sau này.[1][2] Bút hiệu khác: Đỗ Thạch Liên. Thanh Tâm Tuyền sinh ngày 13 tháng 3 năm 1936 tại Vinh, tên thật là Dzư Văn Tâm. Năm 1952 (16 tuổi), ông dạy học tại trường Minh Tân (Hà Đông) và đăng những truyện ngắn đầu tiên trên tuần báo Thanh Niên (Hà Nội). Năm 1954, ông hoạt động trong Tổng hội Sinh viên Hà Nội, cùng với Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, chủ trương nguyệt san Lửa Việt. Năm 1955, ông vào Sài Gòn, cùng các bạn làm làm tờ Dân Chủ mà Thanh Tâm Tuyền và Trần Thanh Hiệp phụ trách phần văn nghệ. Mai Thảo gửi đến đoản văn "Đêm giã từ Hà Nội". Thanh Tâm Tuyền "kinh ngạc", mời tác giả đến toà soạn. Từ đó, "nhóm"' có thêm Mai Thảo, chủ trương tuần báo Người Việt (tiền thân của tờ Sáng Tạo), với sự cộng tác của Lữ Hồ, Ngọc Dũng, Duy Thanh, Quách Thoại. Tháng 10 năm 1956, Sáng Tạo ra đời. Từ 1956 đến 1960, Mai Thảo làm chủ bút. Năm 1956, hai mươi tuổi, Thanh Tâm Tuyền cho in cuốn sách đầu tay Tôi không còn cô độc (thơ), và năm sau Bếp lửa (văn, 1957), hai tác phẩm đánh dấu sự thay đổi diên mạo văn học miền Nam, đến thời đó vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của lãng mạn tiền chiến. Năm 1962, Thanh Tâm Tuyền nhập ngũ, 1966, giải ngũ, 1969, tái ngũ, ở trong quân đội đến 1975; cấp bực cuối cùng là đại úy trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Sau 1975, bị đi tù cải tạo 7 năm qua nhiều trại giam khắc nghiệt ngoài Việt Bắc. Thanh Tâm Tuyền ra tù 1982. Sang định cư tại Hoa Kỳ từ tháng 4 năm 1990 theo diện HO, sống ở tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ, giữ thái độ gần như ẩn dật. Thanh Tâm Tuyền mất hồi 11 giờ 30 ngày 22 tháng 03 năm 2006, khi mới bước vào tuổi 70.[1][2] Một số thơ của ông đã được Phạm Đình Chương và Cung Tiến phổ thành những nhạc phẩm rất nổi tiếng như: Bài ngợi ca tình yêu, Dạ tâm khúc, Đêm màu hồng, Lệ đá xanh, Nửa hồn thương đau. Mời các bạn đón đọc Mù Khơi của tác giả Thanh Tâm Tuyền.
Bí Mật Của Những Nụ Hôn - Julia Quinn
Hugh Prentice chẳng thể kiên nhẫn nổi với mấy cô nàng thích phóng đại, còn tiểu thư Sarah Pleinsworth từ lâu đã không còn liên hệ gì với cái gọi là e thẹn hay kín đáo. Bên cạnh đó, một trận đấu súng bất cẩn đã làm nhà toán học tài ba này bị què một chân, thế nên anh còn chẳng thể tán tỉnh một người phụ nữ như Sarah chứ chưa nói đến việc dám mơ được cưới cô. Sarah không bao giờ tha thứ cho Hugh vì trận đấu súng ấy gần như đã làm tan nát gia đình cô. Nhưng cho dù cô có thể tìm cách tha thứ cho anh thì có sao. Cô không quan tâm nếu đôi chân của anh chẳng được hoàn hảo, chính tính cách của anh mới khiến cô không sao chịu đựng nổi. Nhưng buộc phải dành một tuần kề cận với nhau, họ khám phá ra rằng ấn tượng đầu tiên không phải lúc nào cũng đáng tin cậy. Khi một nụ hôn dẫn tới hai, ba, bốn nụ hôn, khi đến cả một nhà toán học tài ba cũng không thể đếm được nữa, thì lần đầu tiên Sarah nhận ra rằng hóa ra cũng có ngày mình chẳng biết nói gì… *** Những câu chuyện tình yêu lãng mạn chưa bao giờ nhàm chán. Nhất là khi chúng được viết bởi ngòi bút ngọt ngào của Julia Quinn. Mặc dù tốt nghiệp trường Harvard chuyện ngành Lịch sử nghệ thuật và có thời gian học tại trường Y tại Yale nhưng sự nghiệp của Julia Quinn lại gắn liền với nghiệp viết lách. Bà là tiểu thuyết gia có sách bán chạy nhất theo bình chọn của thời báo New York, là một trong 15 tác giả của Hội những nhà văn lãng mạn nổi tiếng nước Mỹ. Nhiều người cho rằng những người phụ nữ thông minh thường không mất thời gian đọc và viết những tiểu thuyết lãng mạn và mơ mộng về tình yêu nhưng Julia Quinn lại là người tiên phong phản đối quan niệm ấy. Bà luôn biết cách thổi vào ngòi bút của mình sự ngọt ngào bằng giọng văn tinh tế và nhẹ nhàng. Những câu chuyện bình dị, không khoa trương, không quá kịch tính những cũng không thiếu dư vị khiến mỗi tác phẩm ra đời đều được độc giả hết sức đón nhận.  *** Julia Quinn (tên thật Julie Pottinger) là nhà văn Mỹ nổi tiếng trên khắp thế giới với các tác phẩm lãng mạn lịch sử. Các tác phẩm của bà đã được dịch ra 24 thứ tiếng, 16 lần được đứng trong danh sách New York Times Bestseller, ba lần đoạt giải RITA và Chuyện xảy ra ở London đã mang lại cho Quinn giải RITA năm 2010. Julia Quinn đã tốt nghiệp trường Harvard chuyên ngành Lịch sử Nghệ thuật và từng học y tại Yale trước khi quyết định dành toàn thời gian cho viết lách. Bà bắt đầu sáng tác khi vừa rời trường trung học, và thành công ngay từ các tác phẩm đầu tay. Năm 2010, bà đã được ghi danh tại Bảo tàng Danh vọng các Nhà văn Lãng mạn Mỹ.   Những tác phẩm của Julia Quinn đã được xuất bản: Như Chốn Thiên Đường - Julia Quinn Tử Tước và Em - Julia Quinn Nhật Ký Bí Mật của Tiểu Thư Miranda - Julia Quinn Công Tước Và Em - Julia Quinn Săn Lùng Quý Cô Thừa Kế - Julia Quinn Rồi Cũng Khép Những Tháng Ngày Đơn Độc - Julia Quinn Chuyện xảy ra ở London - Julia Quinn Rạng rõ hơn Ánh Mặt Trời - Julia Quinn Hẹn Ước dưới Vầng trăng - Julia Quinn Tiểu Thư Tinh Ranh ... Mời các bạn đón đọc Bí Mật Của Những Nụ Hôn của tác giả Julia Quinn.