Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Nàng Lolita

Lolita là tiểu thuyết của Vladimir Nabokov. Tiểu thuyết được viết bằng tiếng Anh và được xuất bản vào năm 1955 ở Paris, sau đó được chính tác giả dịch ra tiếng Nga và được xuất bản vào năm 1967 ở New York. Tiểu thuyết nổi tiếng cả ở phong cách mới lạ lẫn nội dung gây ra các tranh cãi do nhân vật chính của tiểu thuyết tên Humbert Humbert, một người khá nhiều tuổi có sự ám ảnh về tình dục với một cô gái mười hai tuổi tên Dolores Haze. Sau khi được xuất bản, tiểu thuyết trở thành một tác phẩm kinh điển và là một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất và gây ra nhiều tranh cãi nhất trong nền văn chương thế kỷ 20. Cái tên "Lolita" đã đi vào văn hoá phổ thông như là một từ để mô tả cô gái trẻ phát triển sớm về giới tính. *** Chắc một số bạn yêu văn học đã biết đến vụ tranh luận liên quan đến việc dịch giả Dương Tường dịch sai, “đạo” chú thích Lolita trong thời gian vừa qua. Người phản biện trực tiếp các lỗi sai của cụ Dương Tường là chị Haze Dolores (nick facebook). Chị đã viết rất nhiều bài chỉ ra các lỗi sai của cụ Dương Tường và đã dịch lại hoàn toàn tác phẩm khó này, một việc có thể nói là “Ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng” bởi vì bản quyền đã bị Nhã Nam mua đứt. Như các thành viên TVE đều hiểu, dịch và phát tán như thế này thực chất là vi phạm luật bản quyền. Người dịch chỉ làm vì niềm đam mê với tác phẩm chứ không được lợi lộc gì. Dù đây là bản "dịch lậu", nhưng rất nhiều người đọc, trong đó có mình, nghĩ rằng độc giả có quyền tiếp cận với một bản dịch tốt và đúng, nhất là trong hoàn cảnh Nhã Nam chưa tỏ ra có trách nhiệm gì trước việc tác phẩm bị dịch “sai hàng ngàn lỗi” thế này. Một số bạn có thể phản ứng với cụm từ “sai hàng ngàn lỗi”, cho rằng mình nói quá, cũng như nhiều người đã phản ứng với Haze khi chị chê trách dịch giả Dương Tường rất mạnh mẽ, cho rằng Haze không tôn trọng người lớn tuổi. Có lẽ ngôn ngữ của chị có một chút mỉa mai cay độc khiến người ta phải tức khí chăng? Nhưng mình là người đã theo dõi những bài phân tích của Haze qua FB của anh Gaup – cũng là một người rất giỏi ngoại ngữ và biên phiên dịch* - thì mình nghĩ rằng chị Haze không hề nói quá về chất lượng bản dịch của Dương Tường. Chưa kể cụ còn đạo văn cuốn chú thích Lolita và lên báo tự nhận công sức tìm tòi chú thích là của mình. Điều này làm mình rất thất vọng, bởi vì mình từng rất ngưỡng mộ cụ bắt đầu từ khi đọc “Cuốn Theo Chiều Gió” do cụ dịch. Nhưng thời nay, internet ở khắp mọi nơi và nếu dịch giả không cố gắng, không trung thực, sớm muộn gì người đọc cũng nhận ra. Mình post đường link blog của chị Haze ở đây với mong muốn các bạn có thể đọc và cảm nhận sự khác biệt giữa 2 bản dịch. *Note: anh Gaup có một bài viết rất giá trị chừng 10 năm trước là “Học, đọc, viết như thế nào” liên quan đến việc học ngoại ngữ (Gaup bỏ dở phần cuối là “Viết”, nhưng thế cũng đủ). Bạn nào quan tâm có thể tìm lại trên mạng.  Lời giới thiệu của anh Gaupvn trên FB: Một người bạn lâu năm của mình là chị Haze đã bỏ ra hai năm để hoàn thành bản dịch cuốn Lolita mà trước đây cụ Dương Tường đã dịch và Nhã Nam đã xuất bản nhưng như chị Haze đã chỉ ra bản dịch của cụ Dương Tường có hàng nghìn lỗi sai. Chị Haze đã tham khảo bản tiếng Anh, tiếng Nga, và nhờ các bạn bè giúp tham khảo cả các bản tiếng Trung, Pháp. Chị đã bỏ rất nhiều công sức và thời gian để hoàn thành bản dịch này và mình tin rằng đây là bản dịch tiếng Việt tốt nhất trong hàng chục năm tới nếu không nói là sẽ không bao giờ có bản dịch tiếng Việt nào tốt hơn bản dịch này. Người đặc biệt như chị Haze vừa có tài lại vừa có đam mê lại có đủ điều kiện để bỏ 2 năm cuộc đời ra làm việc vác tù và hàng tổng hiếm có lắm, chắc là chỉ có một mình chị. Tuy thế là người khiêm tốn chị không cho rằng bản dịch của chị là không có lỗi và luôn mong người đọc tinh mắt để ý và thông báo cho chị biết về các lỗi nếu họ thấy để giúp cho việc chỉnh sửa về sau. Vấn đề bây giờ là quyền dịch và xuất bản Lolita sang tiếng Việt hình như đã được bán đứt cho Nhã Nam và vì thế con đường xuất bản chính thức của bản dịch tuyệt vời tốt nhất hiện tại này là không thông. Chị Haze đã quyết định sẽ để kệ mình quyết định và mình sẽ xuất bản bản dịch qua đường vui là chính. Mình ủng hộ chị bằng cách đặt mua 100 bản đặc biệt, đóng bằng tay, có chữ ký của chị và mình sẽ tặng 90 bản cho các bạn trong friendlist của mình.  Rất mong các bản sách sẽ về với những người chủ thực sự quan tâm, sẽ đọc, và nâng niu quý mến cuốn sách để xứng công chị Haze dành thời gian làm việc công ích miễn phí cũng như mình đưa sách gửi tặng bạn bè.  Bạn nào quan tâm nhận sách xin để lại tên ở đây. Nếu có nhiều hơn 90 bạn mình sẽ để Excel lựa chọn ngẫu nhiên. Sách sẽ được chuyển đến tận tay các bạn ở Việt Nam. Bạn nào ở nước ngoài khi có sách mình sẽ liên hệ để xem chuyển cách nào đến bạn là nhanh và đỡ tốn kém nhất. Cảm ơn sự ủng hộ của các bạn. *** Vladimir Nabokov (1899-1977), tiểu thuyết gia, nhà phê bình văn học, dịch giả, nhà nghiên cứu về thể loại văn học của nước Mỹ, sinh ra tại nước Nga. Nabokov học thức uyên bác, tài hoa đa diện, cuộc đời sáng tác cực kỳ phong phú đa dạng, bao gồm: Thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện ký, phiên dịch, cờ tướng và các luận văn về côn trùng học, song ông nổi tiếng thế giới vìtiểu thuyết, như: “Lolita”, “Puning”, “Ngọn lửa đìu hiu” (Pale Fire), “Ada”, “Vật thể trong suốt”, v.v… đều là những danh tác được mọi người biết đến. Ngoài tiểu thuyết và thơ, ông còn công bố bình luận về Gogol, phiên dịch và viết chuyên luận về bộ sách 4 quyển của Pushkin “Napalese Onegin”. Thập niên 70 của thế kỷ 20, danh tiếng của ông đạt tới tột đỉnh, được tôn vinh là “vua tiểu thuyết đương đại”. *** Lời nói đầu “Lolita” hay “Lời xưng tội của một gỡ đàn ông da trắng góa vợ”, ấy là hai cái đầu đề của tập bản thảo kì lạ được gửi đến người viết những dòng này làm mào đầu cho nó. “Humbert Humbert”[1], tác giả của nó, đã chết trong tù vì chứng nghẽn động mạch vành vào ngày 16 tháng Mười một năm 1952, ít hôm trước khi bắt đầu phiên tòa xử ông ta. Khi yêu cầu tôi biên tập những trang này, luật sư của ông ta, Ngài Clarence Choate Clark, nay là thành viên của luật sư đoàn Washington D.C, cũng là bạn và bà con của tôi, dựa trên một điều khoản trong di chúc của thân chủ của ông trao toàn quyền cho người anh họ lỗi lạc của tôi tiến hành mọi sự chuẩn bị cần thiết cho việc in ấn cuốn “Lolita”. Quyết định của ông Clark có thể là do người biên tập mà ông chọn vừa được tặng giải thưởng Poling về một tác phẩm khiêm tốn (“Do the Senses Make Sense?”) trong đó có bàn đến một số trạng thái bệnh hoạn và loạn dâm. Nhiệm vụ của tôi hóa ra đơn giản hơn là cả hai chúng tôi đã dự liệu. Ngoại trừ việc sửa những lỗi cú pháp quá hiển nhiên và thận trọng lược bỏ một số chi tiết mà bất chấp những cố gắng của “H. H.” vẫn dai dẳng lưu tồn trong văn bản của ông ta như những tấm biển báo và những tấm bia mộ (chỉ rõ những nơi hoặc những người mà lẽ ra nên giấu đi cho nhã, hoặc nên thương tình bỏ qua), tập hồi ức này được giới thiệu nguyên vẹn. Biệt danh kì dị của tác giả là do chính ông ta đặt; và dĩ nhiên, chiếc mặt nạ này - qua đó, dường như rực lên hai con mắt thôi miên – vẫn được để nguyên không cắt bỏ, theo đúng ý nguyện của người mang nó. Trong khi “Haze” chỉ vần với họ thật của nữ nhân vật chính thôi, thì tên cô[2] lại quyện chặt vào thớ cảm xúc sâu kín của cuốn sách đến độ không cho phép ơi thay đổi nó; vả chăng cũng chẳng có lí do thực tiễn nào (như độc giả sẽ tự thấy) khiến ta thấy cần phải làm thế. Những ai tò mò muốn tìm hiểu kĩ có thể truy cứu các tư liệu liên quan đến tội hình sự của “H. H.” trên các báo hằng ngày trong tháng Chín năm 1952; nguyên nhân và mục đích của tội đó ắt sẽ tiếp tục là một bí mật hoàn toàn nếu số phận không mang tập hồi ức này đến đặt dưới ngọn đèn biên tập của tôi. Để phục vụ các độc giả cựu trào muốn theo dõi số phận của những con người “có thực” bên ngoài câu chuyện “thật”, xin cung cấp một số chi tiết do ông “Windmuller” ở “Ramsdale” chuyển tới, ông này muốn giữ kín nhân thân để “cái bóng dài lê thê của câu chuyện thảm hại và nhớp nhúa này” khỏi chạm tới cái cộng đồng mà ông hãnh diện được là một thành viên. Con gái ông, “Louise”, hiện là sinh viên đại học năm thứ hai. “Mona Dahl” cũng là sinh viên ở Paris. “Rita” vừa mới kết hôn với một chủ khách sạn ở FIorida. Bà “Richard F. Schiller”[3] chết cả hai mẹ con trên bàn đẻ vào đúng hôm Giáng sinh năm 1952 ở Gray Star[4], một khu định cư ở miền Tây Bắc cực kì hẻo lánh, cái thai chết là một bé gái. “Vivian Darkbloom” vừa viết xong một cuốn tiểu sử nhan đề “My Cue”[5] sẽ xuất bản nay mai, và những nhà phê bình đã đọc bản thảo đều cho đó là cuốn sách hay nhất của bà ấy. Những người trông coi các nghĩa trang có liên quan tới câu chuyện cho biết không thấy bóng ma nào hiện về. Xét đơn thuần như là một tiểu thuyết, “Lolita” đề cập đến những tình huống và những cảm xúc mà nếu thể hiện nhờ nhạt bàng các thủ pháp né tránh vô vị thì trước sau chỉ khiến người đọc thấy mơ hồ đến phát cáu. Đúng là người ta không tìm thấy một từ tục tĩu nào trong toàn bộ tác phẩm; quả thật, kẻ phàm tục kiên cường được những ước lệ hiện đại luyện cho quen thói chấp nhận không chút đắn đo hàng loạt chữ tục trắng trợn tràn ngập trong những cuốn tiểu thuyết tầm thường, ắt sẽ phẫn nộ khi không thấy chúng ở đây. Nhưng nếu để chiều theo cái kẻ làm ra vẻ tiết hạnh một cách ngược đời ấy, một biên tập viên tìm cách pha loãng hoặc tước bỏ những cảnh mà một loại đầu óc nào đó có thể gọi là “kích dục” (về phương diện này, xin xem phán quyết trọng đại do Ngài John Woolsey tuyên đọc ngày 6 tháng Chạp năm 1933 đối với một cuốn sách khác còn thẳng thừng hơn nhiều[6]), thì tất phải từ bỏ hoàn toàn việc xuất bản “Lolita” vì chính những cảnh mà người ta có thể kết tội quàng xiên rằng tự thân chúng chứa một hiện sinh nhục cảm, lại đích thị là những cảnh có tác dụng triệt để nhất trong diễn biến của một câu chuyện bi thảm luôn kiên định hướng tới tôn vinh đạo đức. Kẻ khuyển nho có thể nói rằng loại văn chương “con heo” thương mại cũng lập luận tương tự, nhà học giả có thể phản bác bằng cách khẳng định rằng lời thú tội tâm huyết của “H. H.” chỉ là cơn bão trong ống nghiệm; ràng ít nhất 12%[7]  đàn ông trưởng thành ở Mĩ - một ước tính “dè dặt” theo tiến sĩ Blanche Schwarzmann[8](thông báo miệng) - năm nào cũng thưởng thức theo cách này hay cách khác các trải nghiệm đặc biệt mà “H. H.” mô tả một cách tuyệt vọng đến thế; rằng nếu vào cái mùa hè định mệnh năm 1947 ấy, người viết hồi ức điên khùng của chúng ta tìm đến một bác sĩ bệnh lí - tâm thần giỏi, thì chắc đã chẳng xảy ra tai họa; nhưng nếu vậy thì cũng chẳng có cuốn sách này. Kẻ viết những dòng bình luận này xin mạn phép được nhắc lại một điều hắn thường nhấn mạnh trong các cuốn sách và bài giảng của mình, cụ thể rằng “gây sốc” nhiều khi chỉ là một từ đồng nghĩa với “khác thường”; và một tác phẩm nghệ thuật lớn, dĩ nhiên, bao giờ cũng độc đáo, và như vậy, bởi chính bản chất của nó, ắt tạo nên một bất ngờ ít nhiều gây sốc. Tôi không hề có ý định ca ngợi “H. H.”. Rõ ràng, ông ta thật gớm ghiếc, ông ta thật bỉ ổi, ông ta là một thí dụ nổi bật về chứng phong hủi đạo đức, một hỗn hợp của tàn bạo và đùa cợt mà ẩn sau đó, có lẽ là một nỗi khốn khổ cùng cực song chẳng khiến ai đồng cảm. Tính khí ông ta vừa thất thường vừa tẻ ngắt, ông ta phát biểu văng mạng nhiều ý kiến nhố nhăng về con người và phong cảnh đất nước này. Một mạch thành thật tuyệt vọng đập chộn rộn suốt dòng tâm sự ăn năn, song nó không thể xá được cho ông ta khỏi những tội lỗi xảo trá quỉ quyệt, ông ta bất bình thường, ông ta không phải là người hào hoa phong nhã. Nhưng cây vĩ cầm réo rắt của ông ta có cái ma lực gợi nên một niềm trìu mến và thương cảm đối với Lolita, khiến ta mê mẩn với cuốn sách, đồng thời kinh tởm tác giả của nó! Với tư cách là một hồ sơ bệnh án[9], “Lolita” chắc sẽ trở thành một tư liệu kinh điển trong giới y học tâm thần. Với tư cách là một tác phẩm nghệ thuật, nó siêu vượt trên khía cạnh chuộc tội của nó; và đối với chúng tôi, điều còn quan trọng hơn cả ý nghĩa khoa học và giá trị văn học, là tác động đạo lí mà cuốn sách sẽ tạo nên đối với độc giả nghiêm túc; vì trong nghiên cứu cá nhân xót xa này, ẩn chứa một bài học phổ quát; đứa trẻ ngang ngạnh, người mẹ ích kỉ, gã quỉ ám hổn hển, không phải chỉ là những nhân vật sống động trong một câu chuyện duy nhất; họ cảnh báo ta về các khuynh hướng nguy hiểm; họ chỉ ra những cái xấu đầy cường lực. “Lolita” khiến tất cả chúng ta - những người làm cha mẹ, những nhà hoạt động xã hội, những nhà giáo dục - phải dốc sức, với tinh thần cảnh giác cao hơn nữa và sáng suốt hơn nữa, vào nhiệm vụ nuôi dạy một thế hệ tốt hơn trong một thế giới an toàn hơn. Widworth, Mas. Tiến sĩ John Ray, Jr[10]   5 tháng Tám năm 1955 Mời các bạn đón đọc Nàng Lolita (Tiếng Việt) của tác giả Vladimir Nabokov & Dương Tường (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh - Suzanne Enoch
Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh là tập thứ hai của bộ sách Lessons in Love. Kẻ phóng đãng thần thánh là câu chuyện giữa một tiểu thư đoan trang và một gã vô lại bậc nhất London. Hai nhân vật tưởng như hoàn toàn đối lập nhưng họ lại bị chính tính cách của đối phương cuốn hút. Với những đoạn đối đáp hết sức thú vị và những tình tiết vô cùng hấp dẫn, câu chuyện Kẻ phóng đáng thần thánh hứa hẹn sẽ mang đến cho độc giả những giờ phút giải trí thú vị. *** Suzanne Enoch sinh ra tại miền Nam California. Hiện bà đang sống ở Placentia, California với hàng trăm loại cá nước ngọt và cá nhiệt đới, cùng những chú chim sẻ vô cùng đáng yêu. Ngoài ra, bà còn sở hữu một bộ sưu tập các bức tượng và mẫu vật trong các bộ phim Chiến tranh giữa các vì sao, Chúa tể những chiếc nhẫn, X-men và Cướp biển vùng Caribbean. Đó chính là những điều khơi nguồn cảm hứng cho các tác phẩm của bà.   Trong khi nhiều người mơ ước được làm một phi hành gia hay nghệ sĩ nổi tiếng. Suzanne lại luôn mong muốn trở thành nhà văn từ khi còn rất nhỏ. Bà đã viết rất nhiều những câu chuyện của riêng mình trong suốt thời gian niên thiếu. Ngoài niềm say mê văn học, bà còn yêu phiêu lưu và khám phá mọi miền trên thế giới. Những trải nghiệm về hành trình đầy hiểm nguy song cũng không kém phần thú vị ấy đã giúp bà viết nên các trang sách đầy ấn tượng.   Suzanne Enoch bắt đầu sự nghiệp văn học với dòng lãng mạn kỳ bí trong hai năm đầu sau khi tốt nghiệp Đại học California Irvine, sau đó chuyển nguồn cảm hứng sang dòng lãng mạn thời nhiếp chính Anh (regency romance) và lãng mạn đương đại pha trinh thám (contemporary romance suspence).   Năm 1995, bà cho ra đời cuốn tiểu thuyết đầu tay, The Black Duke’s Prize. Đến năm 1998, tác phẩm thứ hai của bà, Angel’s Devil, đã giành giải cuốn sách thuộc thể loại regency romance ăn khách nhất do độc giả của Romantic Times bình chọn.   Ngoài ra, bà còn viết hai mươi chín cuốn tiểu thuyết khác, gồm hai tuyển tập (One True Love và The Best of Both Worlds) cùng một series đương đại năm phần, và nhận được đánh giá rất cao của độc giả Publishers Weekly.   Năm 2007, tác phẩm Twice the Temptation đã lọt vào danh sách năm cuốn sách lãng mạn ăn khách nhất.   Năm 2010, Suzanne tiếp tục cho ra đời các cuốn tiểu thuyết lịch sử lãng mạn khi làm việc cho tòa soạn St.Martin’s. Tháng 3 năm 2012, bà xuất bản cuốn sách thứ ba mươi mốt, Kẻ phóng đãng bất trị (series Scandalous brides). Hai tác phẩm thuộc series này, A Beginner’s Guide to Rakes và Rules to Catch a Devilish Duke, cũng sẽ được Bách Việt giới thiệu tới độc giả trong thời gian tới.   Các nhân vật hài hước, những người đàn ông vô lại nhưng đầy hấp dẫn, những cuộc đối thoại dí dỏm song lại vô cùng thông minh, sắc sảo là điển hình cho phong cách viết của Suzanne. Bà hiện là một trong các tác giả lãng mạn ăn khách nhất của New York Times, USA Today và Publishers Weekly.   Bachviet Books *** “Một quý ông nên hiểu rằng một quý cô cũng có đầu óc như ai, vì Chúa.” Evelyn Ruddich đặt tách trà xuống cạch một cái, ngạc nhiên khi cuộc trò chuyện về cách cư xử của cánh đàn ông giữa cô và các bạn lại trở nên… sôi nổi đến vậy. Cô tưởng mình đã chấp nhận tất cả đàn ông đều quá quắt, nhưng từ trong sâu thẳm trái tim nổi loạn của mình, rõ ràng là cô không vui vì chuyện đó. Những lời chỉ trích dí dỏm của Lucinda Barret và Lady Georgiana Halley lúc nào cũng đúng, và thật chết tiệt, cô cũng ngán bị những thành viên đeo cà vạt của loài người áp đảo lắm rồi. Phải có cách cư xử đúng mực cho đám đàn ông. Nghe thật nghịch lý, nhưng rõ ràng cần có người làm gì đó với cái tính ngạo mạn và bảo thủ của họ. Lucinda đứng dậy, đi tới chiếc bàn bên kia phòng. “Nên viết những điều này ra,” cô nói, rút một xấp giấy từ ngăn kéo rồi mang chúng trở lại. “Bọn mình có rất nhiều ảnh hưởng, nhất là với những kẻ gắn mác quý ông mà các quy tắc này sẽ áp dụng.” “Và chúng ta lại còn giúp được những quý cô khác nữa,” Georgiana lên tiếng, nét mặt trở nên đăm chiêu khi nỗi chán chường dành cho cánh đàn ông đã dịu đi. “Nhưng một bản danh sách thì giúp được gì cho ai ngoài chúng ta chứ?” Dù còn hoài nghi về tác dụng của một việc như thế, song Evelyn vẵn cầm cây bút chì Lucinda đưa cho. “Ồ có chứ - khi ta đưa các quy tắc vào thực tiễn,” Georgiana bác lại. “Mình đề nghị mỗi người hãy chọn lấy một quý ông và dạy anh ta cách thức để tạo ấn tượng sâu sắc với một quý cô.” “Đúng thế, vì Chúa lòng lành!” Lucinda đấm tay xuống mặt bàn. Evelyn nhìn qua nhìn lại hai cô bạn. Anh trai cô rất có thể sẽ quở trách cô vì đi lãng phí thời gian vào những chuyện vô bổ, nhưng anh ấy không cần phải biết. Có lẽ anh ấy sẽ ở Ấn Độ mãi mãi, và họ sẽ bớt đi một kẻ vô lại cần cải tạo. Cô mỉm cười trước ý nghĩ ấy và kéo tờ giấy trắng trơn của mình lại gần. Thành thực mà nói, cảm giác này sảng khoái như thể cô đang làm việc gì đó hữu ích, bất luận là tác dụng của danh sách đó có nhỏ bé cỡ nào. Georgiana vừa khúc khích cười vừa bắt đầu viết. “Chúng ta có thể cho xuất bản những quy tắc này ấy nhỉ! Những bài học tình yêu. Tác giả: Ba Quý Cô Xuất Chúng.” Danh sách của Evelyn. 1. Không bao giờ ngắt lời một quý cô khi cô ấy đang nói chuyện với bạn, như thể điều bạn cần nói quan trọng hơn. 2. Khi bạn hỏi xin ý kiến, hãy nghiêm túc chờ đợi, chớ cười cợt. 3. Cử chỉ lịch thiệp không đơn giản là mở cửa cho các quý cô: để tạo dấu ấn với họ, bạn phải quan tâm đến những mong muốn của cô ấy, chí ít cũng nhiều như quan tâm đến mong muốn của bạn. 4. Khi một quý cô đảm nhận một công việc hay một mục tiêu nào đó, đừng cho rằng họ làm chỉ vì “sở thích”. Evelyn ngồi xuống nhìn lại những gì mình vừa viết, rồi thổi đi những vụn chì vương vãi. Đó, đã xong. Giờ tất cả những gì cô cần là một nạn nhân – hay đúng hơn, một học viên. Cô toét miệng cười. “Sẽ rất vui đây.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phóng Đãng Thần Thánh của tác giả Suzanne Enoch.
Kẻ Phóng Đãng Bất Trị - Suzanne Enoch
Tác phẩm thuộc series tiểu thuyết ăn khách của Suzanne Enoch, Scandalous bride, tác giả nổi tiếng dòng văn học lãng mạn Mỹ, mới phát hành tại Việt Nam. Một năm trước, quý cô Camille Pryce bỏ rơi vị hôn phu cao ngạo - Hầu tước Felton - ngay nơi bệ thờ bởi những lý do chính đáng. Cô từ bỏ cả địa vị danh giá để tới làm việc ở sòng bạc dành cho các quý ông.   Trong nỗ lực muốn ngăn chặn những lời bàn tán và cười nhạo sau lưng, Felton đã đề nghị người em họ - Keating Blackwood - thuyết phục Camille quay về kết hôn với mình để đổi lại món tiền thưởng lớn.   Phóng đãng, điển trai và từng trải, Keating Blackwood là người đàn ông hoàn hảo để tán tỉnh Camille. Nhưng ngay giây phút gặp cô, anh đã muốn giành lấy cô cho riêng mình. Và Camille đã khiến tay cờ bạc vô độ này phải từ bỏ mọi cá cược với Fenton để quyết tâm trở thành người chồng thực sự của cô vào đúng ngày cô quay về kết hôn với Felton lần thứ hai.​ *** Bộ sách Scandalous bride, gồm có: #0.5 – The Wicked One # 1 – A Beginer’s Guide to Rakes - Đánh Cược Với Tình Yêu # 2 – Taming an Imposible Rogue - Kẻ Phóng Đãng Bất Trị # 3 – Rules to Catch a Devilish Duke # 4 – The Handbook to Handling His Lordship *** Keating Blackwood bừng tỉnh bởi tiếng súng ác liệt. Có người đang ở trong phòng anh. Một kẻ không mời. Vẫn nhắm mắt, anh động đậy để có thể trượt tay xuống dưới gối và túm lấy con dao nằm ở đó.   “Cậu biết bây giờ là giữa ngày rồi chứ, phải không?”   Duỗi thẳng ngón tay, Keating mở mắt và ngồi dậy. Căn phòng gần như chìm trong bóng tối, anh chỉ có thể nhìn thấy một dáng người tối tăm bước đến tấm rèm dày, tối màu gần nhất. “Đợi đã. Đừng…”   Ánh sáng chói lòa ùa vào phòng. Mặt trời gần như chiếu thẳng vào đầu anh và yên vị ở đó với những tia sáng rung rinh.   “Chết tiệt, Fenton,” anh gầm lên, nhắm chặt mắt lại. “Anh làm cái quái gì ở đây thế?”   “Tìm cậu. Ta cần sự giúp đỡ của cậu.”   “Thế thì khép cái rèm chết tiệt kia lại và ngồi trong phòng khách chờ tôi đến gặp anh đi.”   “Được thôi. Nhân tiện, cậu có con mắt đen đáng yêu thật đấy.”   “Anh phải nhìn thấy anh bạn còn lại.” Tiếng vải kêu sột soạt và căn phòng bên kia mi mắt anh lại chìm vào bóng tối. Khi anh mở mắt ra, những chấm đỏ chói lóa vẫn bay lơ lửng trong tầm nhìn, nhưng ít nhất lúc này, anh không cảm thấy muốn nôn mửa nữa. “Và bảo Barnes mang cho anh một bình trà thật lớn,” Keating nói thêm, day tay vào thái dương.   “Ta không muốn uống trà.”   “Tôi muốn. Đi đi.”   Khi còn lại một mình trong phòng, Keating moi một cái áo sơ mi cùng chiếc quần ra khỏi tủ quần áo và mặc vào. Giày của anh để ở gần cửa, nhưng anh phớt lờ chúng, cũng như chiếc áo khoác và gi lê Pidgeon đã đặt sẵn ở đó cho anh, vào lúc nào đó trong ngày hôm qua. Liếc ra cửa đầy ngờ vực, anh nhặt chiếc cà vạt mới là lên và buộc chặt nó quanh đầu. Nếu may mắn, nó sẽ giữ được bộ não anh nằm nguyên trong hộp sọ. Chúa tôi, anh cần phải thôi uống vodka Nga, hoặc bất kể thứ gì anh đã nốc ừng ực đêm qua.   “Cậu định làm cướp biển đấy à?” Fenton hỏi khi Keating mò đến phòng khách nhờ sự giúp đỡ hào phóng của bức tường hai bên hành lang. “Ít nhất cậu cũng đi dép trong nhà vào chứ.”   “Tôi chẳng có cái nào.” Keating vật vờ bước lại gần cửa sổ và kéo rèm lại, rồi đến ngồi đối diện với anh họ mình. “Nghe có vẻ nực cười, tại sao anh lại cần tôi giúp? Và nói nhanh lên được không? Tôi có thể bất tỉnh bất cứ lúc nào.”   “Tại sao ta lại cần sự giúp đỡ của cậu?”  Stephen Pollard, hầu tước của Fenton nhắc lại, nhìn anh trừng trừng. “Ta biết cậu đang lẩn tránh Luân Đôn, nhưng chắc chắn cậu đã đọc báo chứ.”   “Tôi đang trốn Luân Đôn. Vì cái quái gì mà tôi lại muốn đọc về nó chứ?” Khay trà được mang đến và không cần phải bảo, Barnes rót một tách, thả vào năm viên đường, rồi đưa nó cho anh. “Cảm ơn,” anh nói với người quản gia, rồi từ từ uống một ngụm thật lớn.   “Sao lại phải phiền phức với trà thế?” Fenton hỏi, ngồi xuống rót cho mình một tách và ra bộ rõ ràng rằng mình chỉ cho thêm một chút đường.   Phớt lờ câu hỏi, Keating cẩn thận nhấp từng ngụm từ tách trà quá nóng và quá ngọt của mình. “Tôi tưởng anh không muốn uống trà.”   Anh họ anh nhìn xuống tách trà trong tay, rồi nhăn nhó bỏ nó xuống. “Ta không muốn. Ta đang cố gắng làm rõ một điều, chắc là vậy. Về đường.”   “Phải, tôi thấy rồi. Tôi chắc chắn bị tổn thương bởi cú đánh đó đấy.”   “Sau khi đã say quắc cần câu, ta nghĩ rằng trà ngọt có tác dụng với cậu vào buổi sáng… hãy giữa ngày.” ... Mời các bạn đón đọc Kẻ Phóng Đãng Bất Trị của tác giả Suzanne Enoch.
Thế giới của Sophie - Jostein Gaarder
Jostein Gaarder tốt nghiệp Đại học Oslo chuyên ngành ngôn ngữ, thần học và lịch sử tư tưởng, ông từng dạy triết học ở trường phổ thông nhiều năm. Trong sự nghiệp viết lách của mình, Jostein Gaarder cho ra đời gần 20 cuốn sách, tất cả đều đậm tính kỳ ảo, triết luận và Thế giới của Sophie cũng không ngoại lệ. Thế giới của Sophie vừa là một tiểu thuyết vừa là một hướng dẫn căn bản về triết học phương Tây. Cuốn sách chứa đựng những thông tin về lịch sử văn hóa và lịch sử triết học thông qua các câu chuyện của 2 nhân vật Sophie và Hilde. Nhưng phần lớn nội dung tác phẩm là những đoạn đối thoại giữa nhân vật chính Sophie và một người đàn ông bí ẩn có tên Alberto Knox. Cầm trên tay cuốn sách Thế giới của Sophie, chắc chắn các phụ huynh cũng phải hoa mắt khi lướt qua mục lục: Socrates, Platon, Descartes, Kant, Chủ nghĩa lãng mạn, Thế kỷ khai sáng, Vụ nổ lớn, thời Trung cổ… đều có chung suy nghĩ liệu trẻ có thể tiếp thu được một lượng kiến thức khổng lồ, khô khan như vậy? ***  Sophie Amundsen từ trường về. Cô đi cùng đường với Joanna. Họ trò chuyện về người máy. Theo Joanna, bộ óc của con người giống như một cái máy tính cao cấp. Sophie không rõ có đồng ý được không. Chắc chắn một con người phải hơn là một cái máy chứ?    Khi đến siêu thị, mỗi người rẽ về phía nhà của mình. Sophie sống ở cuối một khu nhà ngoại ô, đường đến trường xa gấp đôi Joanna. Nhà cô như ở tận cùng của thế giới, vì sau khu vườn đã là cửa rừng.    Cô rẽ vào đường Cỏ Ba Lá. Cuối đường có một chỗ ngoặt gấp - “khúc ngoặt của Thuyền trưởng”. Hầu như chẳng có ai đến đây trừ thứ bảy và chủ nhật.    Bấy giờ là đầu tháng Năm. Trong các khu vườn, hoa thuỷ tiên mọc xen với cây ăn quả. Những cây phong đã được phủ một màu lá xanh dịu.    Thật kỳ diệu khi mọi vật bừng nở vào thời kỳ này trong năm! Cái gì đã làm cho cỏ cây xanh tốt ùa ra từ lòng đất chết, ngay khi trời vừa ấm lên và tuyết tan hết?    Khi Sophie mở cánh cửa vườn, cô ngó vào hộp thư. Ở đó thường có cả đống quảng cáo và một vài phong bì khổ lớn gửi cho mẹ cô. Thỉnh thoảng cũng có một vài lá thư từ ngân hàng gửi cho bố cô, nhưng phải nói ngay rằng, ông không như các ông bố bình thường khác. Bố Sophie là thuyền trưởng của một tàu chở dầu lớn và ông vắng nhà gần như quanh năm. Khi có được vài tuần ở nhà, ông sẽ đi lại loẹt xoẹt quanh nhà và làm mọi thứ trở nên xinh đẹp và ấm cúng. Nhưng khi ở ngoài biển, ông lại có vẻ rất xa cách    Chỉ có mỗi một bức thư trong hộp thư, và nó được gửi cho Sophie. Chiếc phong bì trắng ghi “Sophie Amundsen, số 3 đường Cò Ba Lá”. Chỉ có vậy, không có tên người gửi, cũng chẳng có cả tem.    Sophie vội vàng khép cổng và mở phong bì. Bên trong chỉ có một mảnh giấy nhỏ với dòng chữ: Bạn là ai?    Không có gì khác, chỉ có ba chữ viết tay với một dấu chấm hỏi to tướng.    Cô nhìn lại chiếc phong bì. Rõ ràng bức thư được gửi cho cô. Ai đã thả nó vào hộp thư?    Sophie chạy nhanh vào ngôi nhà màu đỏ. Như thường lệ, chú mèo Sherekan đã kịp chui ra khỏi bụi cây, nhảy lên bậc thềm và lách vào nhà trước khi cô đóng cửa.    Mỗi lần bực bội, mẹ Sophie thường gọi ngôi nhà họ đang ở là một cái chuồng thú. Sophie khá hạnh phúc về bộ sưu tập động vật của mình. Đầu tiên, cô có ba con cá vàng Lưng Vàng, Mũ Đỏ, và Cờ Đen. Tiếp theo là hai con vẹt Smitt và Smule, rùa Govinda, và cuối cùng là con mèo vàng Sherekan. Chúng đều được tặng cho cô để bù đắp cho chuyện mẹ cô luôn đi làm về muộn còn bố cô thì luôn vắng nhà, lái tàu khắp thế giới.    Sophie liệng cặp xuống sàn và cho mèo ăn. Sau đó, cô ngồi xuống chiếc ghế nhà bếp với lá thư bí ẩn trên tay.    Bạn là ai?    Làm sao biết được? Tất nhiên, cô là Sophie Amundsen, nhưng đấy là ai? Cô chưa nghĩ ra.    Nếu thực ra cô được đặt một cái tên khác, Anne Knutsen chẳng hạn, liệu cô có thành người khác không? ... Mời các bạn đón đọc Thế giới của Sophie của tác giả Jostein Gaarder.
Như Không Hề Có - Bret Easton Ellis
Trở về Los Angeles để nghỉ lễ Giáng Sinh, Clay một lần nữa bước vào một thế giới nơi ai ai cũng lái xe hạng sang, ăn ở nhà hàng thượng hạng, đắm chìm trong tình dục và ma túy, nơi tiền như chiếm hết chỗ của hy vọng và yêu thương. Cậu cố nối lại tình cảm với bạn gái, Blair, và với Julian, người bạn thân từ trung học. Nhưng rồi những nỗ lực đầy tính người ấy đều như bị nuốt chửng trong nỗi tuyệt vọng thăm thẳm lớn hơn hết thảy, ngay giữa vòng xoáy của những bữa tiệc vô mục đích triền miên, những quán rượu tồi tàn, câu lạc bộ rock ngầm và phía bên kia nhớp nhúa của bóng tối thành Los Angeles. Không nhiều tình tiết thắt nút, mở nút, Như không hề có là cuốn sách về một trải nghiệm nhiều hơn là một chuyện kể ly kỳ. Đừng đọc nó nếu bạn định kiếm tìm sự dễ chịu hay ngọt ngào. Đừng đọc nó nếu bạn đang cần chút gì nhẹ nhàng và hài hước. Hãy đọc nó khi bạn đang ở giữa tuổi thiếu niên đầy bất ổn, hay bỗng hoài nhớ về những ngày tháng hoang mang đã qua. Hoặc là, đơn giản hơn, khi muốn kiếm tìm một Bắt trẻ đồng xanh ở gần hơn với thời hiện tại. *** Bret Easton Ellis sinh ngày 7 tháng Ba năm 1964 ở Los Angeles, bang California, Hoa Kỳ. Với sáu tiểu thuyết và một tập truyện ngắn, Ellis đã trở thành một trong những cái tên ăn khách nhất, có sức hút nhất của văn học đương đại. Năm 1985 ông xuất bản tác phẩm đầu tay Như không hề có (Less than zero). Năm 1987, xuất bản tiếp cuốn tiểu thuyết thứ hai - The rules of attraction… Các tác phẩm: Như không hề có (Less than zero), American psycho, The rules of attraction, Glamorama, The informers và Lunar park của Bret Easton Ellis đều đã được chuyển thể thành phim và gặt hái được nhiều thành công lớn. *** Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles. Đó là điều đầu tiên tôi được nghe khi trở về thành phố. Blair đón tôi tại LAX 1 và thì thầm câu này khi lái xe chạy lên đoạn dốc nhập vào đường chính. Cô bảo: "Thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ ở Los Angeles." Dù câu nói vốn chẳng đáng bận tâm, nó vẫn đeo đẳng tâm trí tôi suốt một thời gian dài đến khó chịu. Dường như không điều gì khác còn đáng kể nữa. Từ chuyện tôi mười tám và giờ đã là tháng Mười hai, chuyến bay lại khá xóc và đôi tình nhân đến từ Santa Barbara ngơi đối diện tôi trên khoang hạng nhất thì đã ngà ngà say. Từ mảng bùn bắn lên ống quần jeans của tôi hồi sớm tại một phi trường ở New Hampshire, khiến tôi thấy vừa lạnh vừa lùng nhùng sao đó. Từ vết ố trên tay áo sơ mi ẩm ướt và nhàu nhĩ tôi đang mặc, chiếc áo mới sáng nay còn mới tinh, sạch sẽ. Từ chỗ rách trên cổ chiếc áo khoác ca rô xám của tôi, chiếc áo có chút gì đậm hơi hướng miền Đông hơn trước, đặc biệt là bên chiếc quần jeans bó và cái áo phông xanh nhạt của Blair. Tất thảy như vô nghĩa bên cạnh mỗi một câu nói ấy. Dường như vụ dân tình sợ nhập làn xa lộ nghe lọt tai hơn chuyện "Em dám chắc Muriel bị biếng ăn tâm lý" hay tiếng cô ca sĩ trên đài gào thét về sóng điện từ. Dường như với tôi, chẳng còn gì đáng kể ngoài mười hai từ ấy. Từ những cơn gió ấm như đang đẩy chiếc xe trôi xuống con đường nhựa vắng tanh cho đến mùi cần sa đã nhạt vẫn phảng phất trong xe Blair. Tất cả những gì đọng lại đó là cái thằng tôi trở về nhà trong một tháng, gặp một người tôi không thấy mặt đã bốn tháng và thiên hạ sợ phải nhập làn trên xa lộ. Blair lái xe rời xa lộ và gặp đèn đỏ. Một cơn gió dữ dội làm chiếc xe rung lên trong thoáng chốc, rồi Blair mỉm cười nói gì đó về chuyện có lẽ phải nâng mui xe cao hơn và chuyển sang kênh phát thanh khác. Trên đường về, Blair phải dừng xe vì có năm công nhân đang khênh những xác cọ bị gió giật đổ, nhét lá cây cùng những mẩu vỏ cây chết lên một xe tải lớn màu đỏ, Blair lại mỉm cười. Cô dừng xe trước nhà tôi, cổng nhà để ngỏ, rồi tôi ra khỏi xe, ngạc nhiên khi nhận thấy tiết trời khô nóng đến độ nào. Tôi đứng đó một lúc khá lâu, Blair cười toe toét hỏi, "Sao thế?" sau khi đã phụ tôi nhấc các va li ra khỏi khoang hành lý, tôi liền nói, "Không" và Blair bảo, "Trông anh nhợt nhạt quá," thế là tôi nhún vai, rồi chúng tôi chào tạm biệt và cô lên xe lái đi. Không có ai ở nhà. Điều hòa đang chạy và căn nhà tỏa ra mùi gỗ thông. Trên bàn bếp có mẩu giấy nhắn cho biết mẹ và các em gái đang đi sắm sửa cho Giáng sinh. Từ chỗ đứng, tôi trông thấy con chó đang nằm ngủ cạnh bể bơi, thở phì phì, bộ lông gợn sóng trước gió. Tôi bước lên lầu, đi ngang qua cô phục vụ mới, cô này mỉm cười và có vẻ như đã biết tôi là ai, rồi tôi đi qua phòng các em, hai phòng trông vẫn giống hệt nhau, chỉ những mẫu báo cắt ra từ GQ 2 dán trên tường là khác, rồi tôi vào phòng mình, nhận thấy không có gì thay đổi. Tường vẫn màu trắng, các đĩa hát vẫn nằm đúng vị trí, ti vi chưa hề bị dịch chuyển, cửa chớp vẫn để mở đúng như khi tôi rời đi. Có vẻ như mẹ và ả phục vụ mới, hoặc ả phục vụ cũ, đã dọn sạch tủ tường khi tôi vắng nhà. Trên chồng truyện tranh chất ở bàn có mẩu giấy nhắn, "Vẫn cần đống truyện này hả con?" ngoài ra còn có tin nhắn cho biết Julian đã gọi và một tấm thiệp với dòng chữ "Mẹ kiếp Giáng sinh." Tôi mở thiệp ra, trong đó viết "Nào ta cùng đú với Giáng sinh," lời mời dự tiệc Giáng sinh của Blair. Tôi bỏ thiệp xuống, nhận thấy không khí trong phòng đã bắt đầu lạnh thực sự. Tôi tháo giày, lên giường nằm, sờ trán xem mình có sốt không. Tôi nghĩ là có. Rồi vẫn đặt tay trên trán, tôi ngước lên săm soi tấm áp phích lồng kính treo trên bức tường phía đầu giường, nhưng cả nó cũng vẫn y như cũ. Đó là áp phích quảng cáo cho một đĩa hát cũ của Elvis Costello. Elvis nhìn qua tôi, nhếch môi cười mỉa mai, mắt đăm đăm hướng ra ngoài cửa sổ. Từ "Trust" 3 lơ lửng trên đầu ông, cặp kính râm bên xanh bên đỏ của ông bị kéo xệch xuống dưới sống mũi để ta có thể thấy đôi mắt ông, chúng hơi lệch tâm. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn tôi. Chúng chỉ nhìn bất cứ ai đứng bên cửa sổ, mà tôi thì chẳng còn hơi sức đâu mà nhổm dậy đứng bên cửa sổ. ... Mời các bạn đón đọc Như Không Hề Có của tác giả Bret Easton Ellis.