Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Dải Sam

Một người phụ nữ thuộc tầng lớp bần cùng và bị khinh rẻ nhất trong xã hội Ấn Độ, người phải đi nhặt phân sống của dân làng bằng đôi bàn tay trần. Một cô gái trẻ đang sống bình yên tại một miền biển nước Ý, ngày ngày cần mẫn làm việc trong xưởng sản xuất của gia đình. Và một nữ luật sư danh tiếng tại vùng biển Canada, với hai đời chồng, ba đứa con cùng một sự nghiệp đầy hứa hẹn. Dải Sam là một câu chuyện cảm động về 3 người phụ nữ này, những người phụ nữ không chịu khuất phục trước số phận mà người khác đã định đoạt cho họ. Bạn có thể lướt qua họ hàng ngày trên đường phố. Trước con mắt vô tình của bạn, họ hiện ra như những người hết sức bình thường, nhưng bạn không hề biết về cuộc tranh đấu mà họ đang theo đuổi có khi phải đánh cược bằng cả mạng sống. Cuộc đấu tranh mà bạn không hề biết tới ấy, chúng thật sự phi thường. Smita, Giulia và Sarah sẽ khiến bạn phải tự hỏi: Nếu ở vào hoàn cảnh của họ, liệu bạn có thể có sự can đảm và quyết đoán đến thế không? Và rồi bạn sẽ tìm được câu trả lời cho chính mình, rằng ta buộc phải trở lên mạnh mẽ không ngờ khi ra rơi vào hoàn cảnh không có sự lựa chọn nào khác. *** Ngay trong hai tuần đầu phát hành, tác phẩm “Dải sam” (tên gốc La Tresse) của nữ nhà văn người Pháp Laetitia Colombani đã tạo ra một cơn sốt mới khi cuốn sách này bán được 54.000 bản. Hai tháng sau đó, số ấn phẩm bán ra đã tăng thêm 15.000 bản. Tính đến tháng 3-2018, 340.000 bản của cuốn sách này được độc giả nồng nhiệt đón mua, đây thực sự là niềm ao ước của rất nhiều nhà văn. Không những vậy “Dải sam” còn mang về cho Laetitia Colombani vô số giải thưởng danh giá như Cúp Văn học năm 2017; Quả cầu Pha-lê năm 2018…, một thành tích nổi bật trong chuỗi hoạt động nghệ thuật của cô. “Dải Sam” xoay quanh số phận của ba người phụ nữ ở những quốc gia khác nhau. Thay vì thuật lại đời sống của từng nhân vật, tác giả đã lựa chọn cách kể xen kẽ từng khoảnh khắc cũng như các biến cố trong cuộc đời của những người phụ nữ ấy. Ba người phụ nữ ở ba vùng đất khác nhau và tưởng chừng như chẳng liên quan gì đến nhau nhưng với cách dẫn dắt của tác giả, người đọc đã cảm nhận được sự liên quan đầy thú vị giữa họ và dần tìm ra câu trả lời vì sao tác phẩm lại có tên gọi là “Dải Sam”.  Tác phẩm mở đầu với câu chuyện về Smita, một người phụ nữ Ấn Độ làm nghề dọn nhà xí. “Công việc của Smita đang làm, quả thật, không một từ ngữ nào có thể dùng để miêu tả được nó. Việc của cô là đi nhặt phân của những người khác với đôi tay trần từ sáng đến tối”. Smita vẫn nhớ cái cảm giác lần đầu tiên theo mẹ làm công việc này. “Cô đã nôn thốc, nôn tháo ở vệ đường. Smita đã học cách nín thở. Giá mà cô có thể sống mà không cần thở, nhưng rõ ràng là cô cần phải thở. Hãy nhìn xem cô ho đến mức nào. Cô cũng cần phải ăn nữa chứ. Đã từ lâu Smita mất đi cảm giác ngon miệng khi ăn. Đói ư? Cô đã không còn nhớ được cảm giác đói là như thế nào nữa rồi”. Không những vậy, cô không được phép chạm mặt những người dân làng và lại càng không được phép trò chuyện với họ. Cô không chỉ là kẻ bần cùng không ai đếm xỉa đến mà cô còn phải vô hình. Chồng cô, Nagarajan làm nghề tìm bắt chuột với hai bàn tay không. Anh cũng không thể quên ngày đầu theo bố làm công việc này. Khi đó, anh mới lên 8 tuổi. Bố Nagarajan đã dạy anh cách nhận biết những lỗ nhỏ xíu, nơi trú ẩn của loài chuột trên mặt đất. Đó là những dấu hiệu vô cùng đặc trưng. Vào ngày hôm đó, khi anh luồn tay vào trong cái lỗ. Một cơn đau nhói chạy dọc làn da, con chuột đã cắn vào phần da mỏng nhất trên tay anh. Nagarajan đã hét lên và bàn tay anh đẫm máu. Những người Dalit như Nagarajan không được nhận thù lao, họ chỉ có quyền giữ lại những gì mình kiếm được và vì thế, chuột là những gì anh được nhận. Buổi tối, gia đình anh ăn những con chuột nướng với cơm. Nghề nhặt phân và nghề bắt chuột đều là những công việc “cha truyền con nối”. Như lời tác giả đã viết, đó là “một vòng tròn mà không ai có thể thoát ra. Một cái nghiệp nặng nề!”. Vào buổi sáng nọ, Smita đã đưa ra một quyết định liều lĩnh, đó là đưa con gái 6 tuổi của cô, Lalita đến trường. Cô cho rằng, đó là cách giúp con gái cô thoát khỏi cái công việc bẩn thỉu và bị xã hội khinh rẻ. Nhưng mọi chuyện đâu dễ dàng như những gì cô nghĩ. Dù lão thầy giáo đã nhận tiền của Smita và nhận con gái cô nhưng ngay trong ngày đến trường đầu tiên, tất cả những gì con bé Lalita nhận được chỉ là những làn roi mây đánh đập khiến làn da đứa trẻ “như bị chẻ nứt làm đôi, những vết máu vẫn còn mới đây. Sắc đỏ son tứa ra như dấu chân bindi trên trán”. Đâu chỉ dừng lại ở đó, đứa trẻ 6 tuổi ấy còn phải hứng chịu những lời phỉ báng: “Mày sẽ chết trong đống phân như mẹ mày và bà mày. Sẽ chẳng có gì ở đây dành cho chúng mày, lũ tiện dân, thứ đồ bỏ đi của nhân loại, không có gì ngoài thứ mùi ô nhục ghê tởm đó, qua hàng thế kỉ, chỉ có phân của những kẻ khác, chất thải của thế giới này là thứ để chúng mày lượm lặt”. Đến giờ ăn trưa, lão thầy giáo còn tịch thu hộp cơm của Lalita và không cho cô bé ăn. Trước những hành động thô bạo, đầy khinh miệt, cô bé không khóc, không gào thét, không hé răng nửa lời, không cầu xin. Cô bé thật mạnh mẽ, đầy phẩm cách!  Smita cảm thấy tự hào cho sự dũng cảm của đứa con gái bé nhỏ nhưng người phụ nữ chưa bao giờ tỏ ra yếu mềm, đầu hàng trước những cay đắng mà cuộc sống đưa lại ấy bỗng chốc trở nên nhỏ bé như chính đứa con của cô và bật khóc cho những hy vọng nhỏ nhoi vừa bị dập tắt của cô. Cô đã khao khát nhưng không thể mang đến một cuộc sống tốt đẹp hơn cho con gái của cô. Tuy vậy, Smita không bỏ cuộc. Cô đã trải qua nhiều đêm không ngủ và khi cô nghe người ta nhắc đến Chennai, vùng đất dành riêng cho những người Dalit, nơi đó có trường phổ thông và đại học. Không những vậy, tới đó, gia đình cô sẽ không phải ăn thịt chuột mỗi bữa, cô chẳng còn phải đi nhặt phân. Cô và chồng sẽ tìm được công việc mới và họ sẽ được mọi người tôn trọng. Một tương lai tươi sáng đang hiện ra trước mắt cô. Và cô đã đưa ra một quyết định táo bạo nhưng cũng vô cùng nguy hiểm: bỏ trốn. Anh Nagarajan, chồng cô tìm mọi lý lẽ để thuyết phục vợ. Anh lo sợ, khi bị phát giác, gia đình anh sẽ bị trừng phạt khủng khiếp. Chắc chắn, họ sẽ chết trong mục ruỗng, chết theo cách thảm khốc nhất có thể. Người ra sẽ không bao giờ buông tha cho con gái họ. Và một điều khác, họ hoàn toàn trắng tay vì họ đã trao hết số tiền tích góp còm cõi cho thầy giáo Lalita để con bé được đi học. Smita quyết định lấy lại số tiền thầy giáo Lalita đã nhận của vợ chồng cô. Cô biết vợ lão ta giấu ở đâu và cô sẽ tới để cầm đi đúng số tiền của mình, không hơn một roupie. Smita đã kiên cường mang theo đứa con gái bỏ trốn, kể cả khi chồng cô không đi theo. Vượt qua bao khó khăn, thử thách, nỗi sợ hãi bị phát hiện trên suốt quãng đường trốn chạy, cuối cùng, cô và con gái đã an toàn đặt chân đến ga Tirupati. Smita quyết định không đến Chennai như dự kiến, cô sẽ cùng con gái đi về phía ngọn núi linh thiêng Tirumala để tạ ơn Lord Venkateshwara, vị “Chúa tể của Bảy Ngọn Đồi” – một trong những hoá thân của thần Vishnou. Người ta tin rằng, Ngài sẽ nghe thấy tất cả những lời thỉnh cầu trong đau khổ của người dân và biến những mong muốn đó thành hiện thực. Khi bước chân đến Đền Thờ Vàng, Smita và con gái cũng giống như những người nghèo khổ khác, họ đã dâng lên Lord Venkateshwara thứ tài sản duy nhất của họ, đó là mái tóc. Truyền thống này vẫn được duy trì đến ngày nay dù tuổi đời của nó cũng lên tới cả hàng vạn năm. Người dân dâng lên thần linh mái tóc của họ nhằm thể hiện rằng, họ sẵn sàng hy sinh cái “tôi” của mình, chấp nhận xuất hiện trước Chúa trời trong hình hài khiêm nhường nhất, trần trụi nhất. Smita nhìn thấy dưới chân mình một mớ tóc đen huyền, đó từng là một thời trở một phần của cô nhưng giờ đã trở thành ký ức. Cô cảm nhận tâm hồn và thể xác mình hoàn toàn tinh khiết, như được ban phước lành và đã sẵn sàng cho một tương lai tươi sáng ở phía trước. Tác giả không kể tiếp đoạn sau của cuộc đời Smita và con gái của họ ra sao nhưng bà đã ưu ái dành những lời văn tràn đầy hy vọng để kết thúc câu chuyện của Smita như sau: “Khi rời khỏi Điện Thờ Vàng, tay nắm chặt tay con gái, Smita không cảm thấy buồn bởi cô biết chắc một điều, trước lễ vật của họ, Chúa Trời sẽ biết cách để tỏ lòng đền đáp”. Ai sẽ giúp Giulia cứu lấy xưởng làm tóc bên bờ vực phá sản của gia đình cô? Mái tóc của hai mẹ con Smita đã vượt qua nhiều đại đại dương và bao vùng đất để đến với xưởng làm tóc của gia đình cô gái Giulia (sống ở Sicillia, nước Ý). Chính mái tóc của những người phụ nữ như Smita đã mang đến cuộc sống mới cho xưởng làm tóc lâu đời ngấp nghé bờ vực phá sản của gia đình Giulia cũng như mối tình rạo rực, đầy yêu thương giữa cô và người đàn ông nhập cư, không xu dính túi. Có thể nói, tác giả đã dành những trang văn vô cùng lãng mạn để miêu tả chuyện tình giữa Giulia và người đàn ông khiến cô chưa bao giờ cảm thấy bối rối đến thế, Kamaljit Singh. Lần đầu tiên cô gặp Kamal là khi anh xuất hiện trong một lễ diễu hành trên phố. Và lần đầu tiên họ bắt chuyện với nhau là khi cô vô tình gặp lại anh tại một thư viện. Lần này, cô đã bạo dạn tiến gần đến anh và ngỏ ý giúp anh lựa chọn một cuốn sách cải thiện khả năng viết bằng tiếng Ý. Chàng thanh niên da sẫm màu Kamaljit Singh đã cầm lấy cuốn sách và không quên cảm ơn cô trước khi ra về. Ngày hôm sau, Giulia quay trở lại thư viện và ấp ủ niềm hy vọng thầm kín sẽ được nhìn thấy anh thêm một lần nữa. Và điều mong ước ấy đã hiện ra trước mắt cô. Cô thật sự bất ngờ và trái tim cô như ngừng đập khi nhìn thấy chàng trai kia đang đứng đúng chỗ họ trò chuyện ngày hôm và vô tình ngước mắt về phía cô như thể anh đang chờ cô tới. Thì ra, lý do anh đến đây là bởi, anh muốn mang tặng cô một chai dầu ô liu ở trang trại anh làm việc để cảm ơn cô. Cảm động trước sự chu đáo, dịu dàng và phẩm cách của anh, Giulia ngỏ ý mời anh đi dạo vài bước cùng cô trên con đập chắn sóng. Kể từ sau ngày hôm đó, cả hai gặp nhau mỗi ngày. Họ hẹn nhau ở thư viện, cùng nhau đi ăn trưa và cuối cùng là đi dạo bên bờ biển. Điều khiến cô vừa tò mò vừa thích thú ở người đàn ông này là vì anh không giống như những người đàn ông trong gia đình cô. Nét tính cách phổ biến của họ là gia trưởng, dễ nổi nóng và ngoan cố.  Chuyện tình của họ ngày càng đi xa hơn, cho đến một ngày, Giulia dẫn anh đến một cái hang, không ai biết tới. Cô muốn chỉ cho anh thấy, đó là nơi thỉnh thoảng cô thường tìm đến để đọc sách. Đó thực sự là nơi yên tĩnh, ẩm ướt và tối tăm. Và rồi chuyện đó cũng đã đến! Mời các bạn đón đọc Dải Sam của tác giả Laetitia Colombani.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ai Rồi Cũng Chết! - Atul Gawande
Thông qua tác phẩm, bác sĩ Atul Gawande giúp người đọc nhìn nhận thực tế về sự hữu hạn của bản thân và trách nhiệm sống tốt để không hối tiếc vì hoài phí tuổi xuân. Tác phẩm best-seller Ai rồi cũng chết! được viết bởi Atul Gawande, một bác sĩ phẫu thuật đã dành nhiều năm cuộc đời mình để nghiên cứu và làm sáng tỏ những giới hạn của y học. Kể từ cuốn sách đầu tiên đạt giải thưởng sách quốc gia Phức thể, bác sĩ Gawande nỗ lực dùng ngòi bút của mình để truyền đạt đến với độc giả thông điệp "Dù cho các công nghệ y khoa và chữa bệnh có tân tiến đến đâu, bác sĩ vẫn chỉ là con người và là con người, tất cả đều hữu hạn". Đến tác phẩm Ai rồi cũng chết!, ông đã mạnh dạn động chạm đến chủ đề có sức nặng này. Giữa một thế giới hiện đại tôn thờ tuổi trẻ và vật chất công nghệ, nơi quá nhiều người tin rằng mình còn có thể sống rất lâu, các công nghệ y học sẽ giúp chúng ta trường thọ, không mấy ai sẵn sàng đối diện với sự thật: tuổi xuân sẽ nhanh chóng qua đi, cơ thể rồi sẽ sa sút bệnh tật, sẽ mất đi khả năng làm được những điều mình thích và cuối cùng cái chết sẽ đến.  *** Ai rồi cũng chết! là một tuyệt phẩm đánh động lòng người được viết nên bởi bác sĩ kiêm tác giả best-seller Atul Gawande. Cuốn sách không chỉ có khả năng lay chuyển ngành y học hiện đại, mà nó còn sẽ giúp làm biến đổi hoàn toàn cuộc sống của muôn người - bao gồm chính bạn! Ngành y học thế giới đã có nhiều bước phát triển vượt bậc trong những năm qua: giảm thiểu tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh, nâng cao tỉ lệ sống sót sau chấn thương, chữa trị và kiểm soát được nhiều loại bệnh tật - kể cả nhiều căn bệnh từng được xem là không có thuốc chữa trong quá khứ. Nhưng dù có bành trướng hùng mạnh đến đâu, y học vẫn muôn đời bất lực trước quy luật sinh-lão-bệnh-tử bất biến của con người: Mỗi khi con người phải đối diện với Tuổi Già và Cái Chết, những công cụ y học vốn dĩ quyền năng bỗng chốc phản bội lại chính lý tưởng cứu nhân độ thế mà chúng đang phục vụ. Bằng những công trình nghiên cứu khoa học giá trị và những câu chuyện sống động từ các bệnh nhân và người thân của chính mình, bác sĩ Gawande bóc trần cho chúng ta thấy những hệ lụy và nỗi đau mà con người phải gánh chịu bởi nghịch lý trên. Viện dưỡng lão vốn dĩ được lập ra với mục đích ban đầu tốt đẹp là giúp cho người cao tuổi có một cuộc sống hạnh phúc và viên mãn bất chấp tuổi già, nhưng nhiều nhà dưỡng lão ngày nay bị biến tướng thành những tòa nhà khép kín không khác gì nhà tù, nơi mà người già không được phép ăn những món ăn họ thích và không được phép làm những gì mình muốn. Nhiều bác sĩ được đào tạo xuất sắc về mặt chuyên môn, nhưng lại không biết cách làm thế nào để nói cho bệnh nhân biết sự thật về bệnh tình của họ; thay vào đó, bác sĩ lại vin vào những hy vọng hão huyền về khả năng cứu sống người bệnh của y học và đề xuất cho bệnh nhân hàng loạt biện pháp chữa trị để nuôi những hy vọng hão đó. Rốt cuộc, hành động này chỉ khiến cho người bệnh và cả thân nhân của họ thêm hao mòn khổ sở chứ không hề mang lại ích lợi gì cho họ cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. *** Atul Gawande là tác giả của các cuốn sách: Ai rồi cũng chết,  Better (Tốt hơn nữa) và Complications (Các biến chứng). Năm 2006 ông đã từng đoạt giải thưởng MacArthur Fellowship, một trong những giải thưởng cao quý nhất trong các ngành khoa học, xã hội, nhân văn, nghệ thuật. Ông là bác sĩ phẫu thuật nội tiết và tổng quát ở Boston. Atul Gawande còn là cộng tác viên của tờ báo The New Yorker và là giảng viên Trường Y thuộc Đại học Harvard. Ngoài ra, ông còn điều hành chương trình Phẫu thuật An toàn của Tổ chức Y tế Thế giới. Hiện nay, ông cùng vợ và ba con sống tại Newton, Massachusetts, Mỹ. Mời các bạn đón đọc Ai Rồi Cũng Chết! của tác giả Atul Gawande.
Mang Xuống Tuyền Đài - John Grisham
Nguyên tác: The Chamber Tác giả: John Grisham Dịch giả: Hoàng Hải Thủy Làng Văn, Canada, xuất bản 1998 Truyện The Chamber – Mang Xuống Tuyền Ðài – làm tôi cảm động. Truyện tả tình gia đình, tình ông cháu, tình cô cháu. Truyện xẩy ra trong một tỉnh miền Nam Hoa Kỳ, nơi trước năm 1960 có nạn kỳ thị Ðen Trắng rất nặng. Ông già Cayhall bị giam trong tù, bị xử án tử hình vì tội đặt bom làm chết người, án tử sắp được thi hành. Adam, một luật sư trẻ tuổi vừa ra trường, cháu nội của ông già Cayhall, về tỉnh này để cứu ông nội khỏi bị người ta giết. Ông bố của Adam tự tử chết, bà mẹ của Adam đi lấy chồng khác, Adam có bà cô ruột là cô Lee ở thành phố có nhà tù giam ông già Cayhall. Cô Lee Cayhall sống ly thân với ông chồng chủ ngân hàng, vợ chồng cô có anh con trai nhưng anh này là dân Gay, tiếng Sài Gòn xưa gọi là Pê Ðê, anh sang Hà-lan làm bồi nhà hàng và sống như vợ chồng với một gã đàn ông. John Grisham không tả rõ, tôi đọc và dịch The Chamber, tôi thấy và tôi cảm động vì mối tình của Cô Cháu Lee- Adam. Cô Lee muốn có anh con đàng hoàng như Luật sư Adam, Adam cô đơn ao ước có bà mẹ đẹp, hiền như cô Lee. Mời quí vị đọc đoạn truyện tả khi Adam còn nhỏ, ông bố Adam tự tử, cô Lee đến dự tang lễ và thăm chị dâu và hai cháu: Adam cháu trai, Carmen cháu gái. *** Sau hai mươi ba năm, Adam Hall trở lại nơi ra đời. Chàng không thấy xúc động mà cũng chẳng cảm thấy được hân hoan chào đón hay bị xua đuổi. Tuy không có gì để ngán sợ nhưng Adam vẫn lái xe với tốc độ hết sức khiêm tốn, để cho tất cả những xe chạy sau qua mặt. Con đường chàng đi dài như vô tận giữa những cánh đồng mênh mông của vùng đồng bằng sông Mississippi. Trên một quãng đường dài 5 cây số, xe chàng chạy cùng chiều với một con dê lướt mình trên đồng cỏ mượt, qua ấp Walls, thị trấn thứ nhất đáng gọi là thị trấn trên xa lộ 61. Qua nghiên cứu, chàng biết con đường này là một trong những trục lộ chính mà hàng trăm ngàn người da đen nghèo khổ đã đi từ miền Nam lên miền Bắc, đến những thành phố Memphis, St. Louis, Chicago, Detroit…, những nơi họ có thể tìm được việc làm và nơi cư ngụ. Chính ở những dãy nhà tồi tàn, lụp xụp, những tiệm rượu đầy màu sắc dọc theo xa lộ này mà nhạc Blues đã ra đời và phát triển lên miền Bắc. Tại đây nó hoà đồng với nhạc Thánh ca và nhạc Đồng quê để rồi cả ba kết hợp và sản sinh ra nhạc Rock and Roll. Vừa lái xe, Adam vừa nghe băng nhạc của ban nhạc Muddy Waters khi xe chàng chạy ngang quận Tunica, một quận lị có tiếng nghèo nhất nước. Âm nhạc không làm chàng dễ chịu hơn được bao nhiêu. Sáng nay ở nhà cô Lee, chàng không ăn sáng, nói rằng không đói nhưng thực ra gan ruột chàng như thắt lại, không thể ăn được. Càng đến gần nhà tù Parchman, gan ruột chàng càng thắt chặt hơn. Rồi cuối cùng Adam cũng đến nơi phải đến. Trông bên ngoài không có vẻ gì là nhà tù. Không thấy có những bức tường cao, những hàng rào thép gai, vọng gác, lính canh, không có những đám tù nhân hung ác hộc lên, hú lên khi có người lạ đi ngoài hàng rào. Chỉ có hàng chữ xi-măng đắp trên vòm cổng: “Khám đường bang Mississippi”. ... Mời các bạn đón đọc Mang Xuống Tuyền Đài của tác giả John Grisham.
Không Chồng Tôi Vẫn Sống - Kaui Hart Hemmings
Cuốn sách này là một tác phẩm hư cấu. Bất kỳ những sự kiện lịch sử, những người thật hoặc những địa danh có thật nào được nhắc tới đều được sử dụng với tư cách là tình tiết hư cấu. Các danh tính, nhân vật, địa danh, và sự kiện khác đều là sản phẩm của trí tưởng tượng của tác giả, và bất kỳ sự trùng hợp nào với những sự kiện hoặc địa danh hoặc con người, còn sống hay đã khuất, đều hoàn toàn là ngẫu nhiên. Mele Bart, một cô nàng San Francisco trẻ trung và xinh đẹp, đã đồng ý trở thành phù dâu trong đám cưới anh bạn trai cũ tệ bạc. Anh ta đã từng kiên quyết chia tay dù biết Mele đã có thai. Vấn đề ở đây là, Mele có nên đưa cô con gái Ellie 2 tuổi rưỡi tới tham dự đám cưới của bố nó? Trước khi đám cưới diễn ra, để tránh nghĩ nhiều, Mele đã tham gia một cuộc thi viết sách nấu ăn. Cảm hứng của Mele được chắt góp từ những trải nghiệm thú vị nhưng cũng đầy cam go mà cô có được khi là một bà mẹ đơn thân. Và Mele rút ra được một châm ngôn sống cho chính mình: “Khi đắm chìm trong thức ăn và những câu chuyện của người khác, nỗi buồn của bạn sẽ tan biến”. Nhưng dù sao, việc tự làm mình phân tâm đâu ngăn cản thời gian? Mele sẽ làm gì khi ngày cưới của bố Ellie ngày càng đến gần, và những cảm xúc của cô đang hỗn loạn hơn bao giờ hết? “Không chồng tôi vẫn sống” sẽ cho bạn đáp án theo một cách thật bất ngờ, nhiều xung đột, đầy ắp cảm xúc và không kém phần hóm hỉnh. Tác phẩm là câu chuyện về sự trưởng thành, tình mẹ, về việc học cách chữa lành những thương tổn và tiếp tục cuộc sống; về những khó khăn của người phụ nữ khi nuôi dạy con cái, và điều đó đáng trân trọng như thế nào *** B uổi chiều chứa đựng lời hứa hẹn rằng nó sẽ sớm trôi qua. Một tia nắng vàng đồng rơi xuống qua những đám mây, không khí trở nên lạnh sắc hơn, và những chiếc đèn pha halogen từ những chiếc xe hơi trên phố Fell and Oak khiến khu vui chơi nhỏ sáng lên như sân khấu. Mele Bart đang nhai hạt điều đựng trong chiếc cốc in hình nhân vật hoạt hình Dora và quan sát con gái cô chơi trên chiếc cầu trượt màu hồng. Ellie, một sai lầm tuyệt vời, đã được hai tuổi rưỡi. Thật kỳ diệu. Mele còn nhớ lúc đưa cô bé về nhà từ bệnh viện, cái đầu bé nhỏ của bé còn chưa vừa với tấm đệm hỗ trợ của ghế ngồi xe hơi. Mele liên tục nhìn lại phía sau trong sự cảnh giác. Hai ngày trước cô rời khỏi căn hộ một mình và giờ thì cô đang quay lại cùng với một đứa bé. Trong những tuần đầu tiên, có những lúc Ellie khóc và khóc, cô bé luôn lắc đầu quầy quậy, khi đó Mele chỉ muốn ném cô bé ra ngoài cửa sổ. Cô khóc theo con, tự hỏi cuộc đời của một bà mẹ đơn thân sẽ trở nên như thế nào, khi mà tình yêu của cuộc đời cô đã đá cô để quay lại với tình yêu của cuộc đời anh ta. Nhưng giờ đây, khi cô nhìn con gái mình, cô tự hỏi trước khi có con bé thì cuộc đời thậm chí có gì là tốt đẹp. Cô đã có những gì? Cô đã làm gì trong suốt thời gian đó? Xem phim, ăn sáng muộn, viết truyện ngắn, nấu ăn cho những người phụ nữ, tổ chức tiệc tối cho những người phụ nữ mà họ dường như cũng chẳng đáng quý mến là mấy. Tuy nhiên, điều đó không giảm bớt sự phẫn nộ của cô đối với gã người yêu cũ nói dối như cuội của mình. Ellie đang tự nói chuyện với mình trên xích đu bằng lốp xe – cô bé có vẻ khá là hống hách trong thế giới tưởng tượng của riêng mình. Trong cuộc sống trước kia của Mele, cô chưa từng làm việc này: ngồi trong khu vui chơi và điền bảng câu hỏi cho Cuộc thi viết Sách Nấu ăn của Câu lạc bộ Làm Mẹ San Francisco. Cô thậm chí chưa từng lường trước việc cô sẽ gia nhập một câu lạc bộ làm mẹ, nhưng chỉ sau một vài tháng suốt ngày ở bên con gái, cô biết rằng cô cần tìm kiếm một cuộc sống khác đằng sau những bức tường căn hộ của họ, vì lợi ích của cô và đứa trẻ. ... Mời các bạn đón đọc Không Chồng Tôi Vẫn Sống của tác giả Kaui Hart Hemmings.
Bí Kíp Quá Giang Vào Ngân Hà
Chuyện kể rằng, sau những cuốc xe quá giang từ Anh quốc tới tận Thổ Nhĩ Kỳ, tác giả của chúng ta, anh chàng Douglas Adams rỗng túi say khướt nằm dưới trời đêm mộng tưởng về một ngày đi nhờ tàu vũ trụ lang thang giữa các vì tinh tú. Và thế là Bí kíp quá giang vào Ngân Hà ra đời: là tất cả những điều cần biết nếu bạn nghèo kiết xác mà lại khao khát chiêm ngưỡng các kỳ quan của Vũ Trụ, chỉ với chưa đầy ba mươi đô la Ngưu Lang một ngày. Với Bí kíp trong tay, một nhóm người ngoài hành tinh kỳ quặc bên cạnh, và một Trái Đất nổ tung sau lưng, Arthur đột nhiên trở thành kẻ lữ hành lạc trôi trong Vũ Trụ. Không, câu chuyện sẽ không mộng mơ hay nghiêm túc như bạn tưởng, mà quay cuồng giữa những trò khôi hài, ngẫu hứng, điên rồ. Một truyện khoa học viễn tưởng cực kỳ hài hước, bạn có tin không? “Một cổ tích hiện đại, một ngụ ngôn, một hài kịch bậc thầy.” - Television Today *** Tiểu thuyết gia Douglas Adams sinh ngày 11-3-1952 tại Thành phố Cambridge, nước Anh. Là Tiểu thuyết gia sinh thuộc cung Song Ngư, cầm tinh con (giáp) rồng (Nhâm Thìn 1952). Douglas Adams xếp hạng nổi tiếng thứ 20450 trên thế giới và thứ 103 trong danh sách Tiểu thuyết gia nổi tiếng. Tổng dân số trên thế giới năm 1952 vào khoảng 2.635 tỷ người. Tác giả tiếng Anh của bộ phim khoa học viễn tưởng nổi tiếng, của Hitchhiker Guide to the Galaxy, mà nguồn gốc là một bộ phim hài đài phát thanh BBC. tác phẩm khác của ông gồm The Long tối Tea-Time of the Soul (1988), và Ý nghĩa của Liff (1983).  Ông là một người vô thần tự xưng. Ông đã tham dự The Brentwood School, một học viện chuẩn bị có uy tín, và tiếp tục theo học tiếng Anh tại trường Cao đẳng St John, Cambridge. Sau khi tốt nghiệp, ông chuyển đến London để theo đuổi một nghề nghiệp trong truyền hình và đài phát thanh bằng văn bản. Cuộc sống gia đình Douglas Adams Ông và em gái của mình, Susan, là con cái của Christopher và Janet Adams. Ông kết hôn với Jane Belson vào năm 1991, và cặp đôi này chào đón cô con gái của họ, Polly, vào năm 1994, ít hơn so với một thập kỷ trước khi chết không đúng lúc của Adams từ một cơn đau tim. *** Ngôi nhà đứng trên một sườn đồi chếch ngoài rìa làng. Nó đứng đó trơ trọi trông ra trảng rộng đất nông trang khu vực Tây Nam nước Anh. Xét trên phương diện nào cũng đều chẳng phải một ngôi nhà đáng chú ý - chừng ba mươi năm tuổi, lùn bè, vuông chạnh, xây gạch, có bốn cửa sổ chình ình đằng trước ở kích thước lẫn tỷ lệ hầu như chính xác sao cho thật khó coi. Con người duy nhất thấy ngôi nhà ấy có chút nào đặc biệt chính là Arthur Dent, mà ấy chỉ bởi vì đó tình cờ là ngôi nhà anh đang sống. Anh sống trong ngôi nhà ấy được chừng ba năm, kể từ cái hồi anh chuyển đi khỏi London bởi thành phố ấy khiến anh lo âu và cáu bẳn. Bản thân anh cũng khoảng ba mươi, cao, tóc đen và chẳng bao giờ tự thấy thoải mái. Thứ từng khiến anh lo lắng nhất là mọi người luôn miệng hỏi anh trông có vẻ lo lắng thế vì nỗi gì. Anh làm ở đài phát thanh địa phương, anh từng hay bảo các bạn là chỗ đó thú vị hơn họ chắc là tưởng nhiều. Cũng có đúng vậy - phần lớn các bạn anh làm việc bên quảng cáo. Đêm hôm thứ Tư trời mưa rất nặng hạt, đường làng ướt nhép sình lầy, nhưng sáng thứ Năm mặt trời sáng trong veo lúc soi rọi ngôi nhà của Arthur đâu như sẽ là lần cuối. Chuyện hội đồng muốn đánh sập nhà anh và xây thế vào đó một đường vòng thì Arthur vẫn còn lơ mơ. ... Mời các bạn đón đọc Bí Kíp Quá Giang Vào Ngân Hà của tác giả Douglas Adams.