Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Tử Tước và Em - Julia Quinn

Chàng - một tử tước cao ngạo ăn chơi trác táng hạng nhất London đang có ý muốn kết hôn trong năm nay. Và người chàng để mắt tới không ai khác ngoài Edwina xinh đẹp, em gái nàng.   Nàng - một cô gái thông minh, bướng bỉnh, đang muốn chọn chồng cho em gái. Và lẽ dĩ nhiên người nàng muốn chọn cho Edwina không thể nào và không bao giờ là chàng. Thế rồi định mệnh đưa đẩy, người nàng muốn em gái mình tránh xa nhất lại là người đưa nàng vào vòng say mê… *** Nhận định   “Tử tước và em có mọi thứ bạn muốn trong một tiểu thuyết lãng mạn lịch sử. Quinn là nhà văn bậc thầy của thể loại này.” - D. Salvagin, Romance Reader    “Julia Quinn thực sự là Jane Austen đương đại.” - Jill Barnett *** Việc ấy xảy đến khi Anthony mười tám tuổi, về nhà trong kỳ nghỉ hè và chuẩn bị cho năm đầu tại đại học Oxford. Anh sẽ gia nhập vào AllSoulsCollege, như cha anh cũng đã tham gia trước anh, và cuộc đời của anh tươi sáng và chói lọi như bất kỳ một người mười tám tuổi nào có quyền được hưởng. Anh đã khám phá ra phụ nữ, và có thể là huy hoàng hơn, họ khám phá ra anh. Cha mẹ anh vẫn còn tái tạo một cách hạnh phúc, đã thêm Eloise, Francesca, và Gregory vào gia đình, và Anthony đã cố gắng hết sức để không đảo tròn mắt khi anh đi ngang qua mẹ trên đại sảnh - mang thai với đứa thứ tám! Nó hơi không thích hợp, trong suy nghĩ của Anthony, có con vào độ tuổi của họ, nhưng anh giữ ý kiến đó cho riêng mình. Anh là ai mà dám nghi ngờ sự thông thái của Edmund chứ? Có thể anh cũng sẽ muốn nhiều con cái hơn ở độ tuổi ba mươi tám. Khi Anthony phát hiện ra, thì đã là chiều muộn. Anh vừa trở về từ một cuộc cưỡi ngựa dài và bầm tím với Benedict và mới chỉ vượt qua cánh cửa trước của Aubrey Hall, căn nhà tổ tiên của dòng họ Bridgerton, khi anh thấy cô em gái mười tuổi đang ngồi trên sàn nhà. Benedict vẫn còn đang ở trong chuồng ngựa, đã thua vài cuộc cá độ ngu ngốc với Anthony, lụât quy định cậu phải ở lại và tắm rửa cho mấy con ngựa. Anthony ngừng lại khi anh thấy Daphne. Nó đã đủ kỳ lạ khi em gái anh lại ngồi giữa sàn của gian đại sảnh. Nó còn kỳ lạ hơn khi cô bé đang khóc. Daphne không bao giờ khóc. “Daff,” anh nói ngập ngừng, quá trẻ để hiểu phải làm thế nào với một người phụ nữ đang khóc lóc, và tự hỏi liệu anh có bao giờ học được không, “chuyện gì -” Nhưng trước khi anh có thể kết thúc câu hỏi của mình, Daphne đã ngước đầu lên, và ánh nhìn tan vỡ trong đôi mắt nâu to tròn cắt vào anh như một lưỡi dao. Anh sượt chân lùi một bước, biết rằng có điều gì đó không ổn, không ổn kinh khủng. “Ông chết rồi.” Daphne thì thầm. “Papa đã chết.” Trong một lúc Anthony chắc chắn rằng anh đã nghe nhầm. Cha anh không thể chết được. Những người khác chết trẻ, như Chú Hugo, nhưng Chú Hugo còn rất trẻ và mỏng manh. Chà, ít nhất thì trẻ hơn và mong manh hơn Edmund. “Em nhầm rồi.” Anh nói với Daphne. “Em nhất định là đã nhầm.” Cô bé lắc đầu. “Eloise nói với em. Ông đã... Nó là...” Anthony biết anh không nên lắc em gái anh khi cô bé đang khóc, nhưng anh không thể ngăn mình được. “Nó là cái gì, Daphne?” “Một con ong.” Cô thì thầm. “Cha bị chích bởi một con ong.” Trong một lúc Anthony chẳng thể làm gì khác ngoài nhìn chằm chằm vào cô. Cuối cùng, trong một giọng khàn khàn và khó có thể nhận ra, anh nói. “Một người đàn ông không chết vì ong đốt, Daphne.” Cô bé không nói gì, chỉ ngồi trên sàn nhà, cổ họng co giật khi cố kiềm chế nước mắt. “Cha đã từng bị đốt trước đây rồi.” Anthony nói thêm, âm lượng trong iọng anh tăng lên. “Anh đã ở cùng với cha. Cả hai cùng bị đốt. Bọn anh đã đi ngang qua một cái tổ ong. Anh bị chích trên vai.” Tự ý, tay anh đưa lên chạm vào vết mà anh đã bị chích từ nhiều năm trước. Trong một lời thì thầm anh nói thêm. “Cha bị đốt trên cánh tay.” Daphne chỉ nhìn chằm chằm vào anh với một vẻ mặt trống rỗng. “Cha ổn thôi.” Anthony ra lệnh. Anh có thể nghe được sự sợ hãi trong giọng của mình và biết anh đang làm cho em gái anh hoảng sợ, nhưng anh lại không có sức mạnh nào để kiềm chế điều đó. “Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt!” Daphne lắc đầu, đôi mắt cô bé bỗng trông như đã hàng trăm năm tuổi. “Đó là một con ong.” Cô nói trong một giọng trống rỗng. “Eloise đã thấy mà. Một phút trước cha chỉ là đang đứng đó, và sau đó cha đã... cha đã...” Anthony cảm thấy điều gì đó rất kỳ lạ đang dâng lên trong anh, như thể là các cơ bắp của anh đang chuẩn bị nhảy ra khỏi da anh vậy. “Sau đó cha đã thế nào, Daphne?” “Ra đi.” Cô bé trông ngạc nhiên bởi từ đó, ngạc nhiên nhiều như anh cảm thấy. Anthony để Daphne ngồi lại trên đại sảnh và đi lên cầu thang ba bậc một tới phòng ngủ của cha mẹ anh. Chắc chắn cha anh không chết. Một người đàn ông không thể chết vì một vết ong đốt. Điều đó là không thể. Hoàn toàn điên rồ. Edmund Bridgerton còn trẻ, ông khoẻ mạnh. Ông cao lớn, đôi vai ông rộng, cơ bắp đầy sức mạnh, và vì Chúa, không có một con ong mật ngớ ngẩn nào có thể đánh bại ông. Nhưng khi Anthony đến sảnh trên lầu, anh có thể nói bởi sự im lặng hoàn toàn và trọn vẹn của hàng tá hoặc hơn nữa số người hầu lảng vảng quanh đó rằng, tình thế nghiêm trọng. Và những khuôn mặt thương hại của họ... cho đến tận cuối đời anh sẽ còn bị ám ảnh bởi những gương mặt thương hại đó. Anh đã nghĩ anh phải chen lấn để vào phòng cha mẹ anh, nhưng những người hầu đã tránh ra như thể họ bị ném vào Biển Đỏ, và khi Anthony đẩy cánh cửa mở, anh đã biết. Mẹ anh đang ngồi trên mép giường, không khóc than, không cả gây ra một tiếng động, chỉ nắm lấy tay cha anh khi bà chầm chậm đung đưa người trước ra sau. Cha đang nằm yên. Yên như... Anthony còn không muốn nghĩ đến cái từ đó nữa. “Mama?” Anh ho. Anh đã không còn gọi mẹ như thế từ nhiều năm rồi, bà đã là “Mẹ” từ khi anh rời Eton. Bà quay lại, chậm chạp, như thể nghe tiếng anh từ xuyên qua một con hầm dài, rất dài. “Chuyện gì đã xảy ra?” anh thì thầm. Bà lắc đầu, đôi mắt bà tuyệt vọng, xa xăm. “Mẹ không biết.” Bà nói. Đôi môi bà vẫn hé mở một khoảng, như thể bà muốn nói gì đó nữa nhưng đã quên mất. Anthony bước tới trước một bước, cử động của anh ngượng nghịu và giật giật. “Ông ấy đã đi rồi.” Violet cuối cùng cũng thì thầm. “Ông ấy đã ra đi và mẹ... ôi, Chúa ơi, mẹ...” Bà đặt một bàn tay lên bụng căng tròn với em bé. “Mẹ đã nói với cha - ôi, Anthony, mẹ đã nói với cha - ” Bà trông như thể có thể nứt vỡ từ bên trong. Anthony kiềm lại nước mắt đang làm cay mắt anh, chích vào họng anh và đi đến bên cạnh bà. “Sẽ ổn thôi, mama.” Anh nói. Nhưng anh biết nó không hề ổn. “Mẹ đã nói với cha đây phải là đứa cuối của chúng ta.” Bà thở gấp, khóc trên vai anh. “Mẹ đã nói với cha mẹ không thể mang thai đứa nào nữa, và cha mẹ phải cẩn thận, và... ôi, Chúa ơi, Anthony, mẹ sẽ làm bất cứ việc gì để có cha ở đây và trao cho cha một đứa con nữa. Mẹ không hiểu. Mẹ không thể hiểu được...” Anthony ôm mẹ khi bà khóc. Anh chẳng nói gì; nó có vẻ như là vô dụng khi cố gắng thốt ra từ nào thích hợp với sự hủy hoại trong tim anh. Anh cũng không thể hiểu được. o O o Những người bác sĩ tới sau đó vào buổi tối và tuyên bố họ bị bối rối. Họ đã từng nghe về điều này trước đây, nhưng chưa bao giờ ở một người trẻ và khoẻ mạnh như thế. Ông thật đầy sức sống, thật mạnh mẽ; chẳng ai có thể biết được. Sự thật rằng em trai Hugo của vị tử tước đã chết hoàn toàn đột ngột vào năm ngoái, nhưng những việc như thế không hẳn là di truyền trong gia đình, và bên cạnh đó, ngay cả khi Hugo đã chết bên ngoài ngôi nhà, không ai đã từng nhận thấy một nốt ong đốt trên da anh ta. Nhưng một lần nữa, chẳng có ai đã tìm cả. Chẳng ai có thể biết được, những người bác sĩ nói vậy, lặp đi và lặp lại cho đến khi Anthony muốn bóp cổ hết tất cả bọn họ. Cuối cùng, anh đuổi họ ra khỏi ngôi nhà, và anh đưa mẹ vào giường. Họ đã phải chuyển bà đến một phòng ngủ còn trống; bà trở nên khích động với ý nghĩ ngủ trên cái giường mà bà đã chia sẻ với Edmund từ rất nhiều năm. Anthony cũng đã sắp xếp đưa các em vào giường, nói với chúng rằng họ sẽ nói chuyện vào buổi sáng mai, rằng tất cả mọi chuyện sẽ tốt thôi, và anh sẽ chăm sóc cho chúng như cha đã mong muốn. Rồi anh đi vào căn phòng nơi cha anh vẫn còn nằm đó và nhìn ông. Anh nhìn ông và nhìn ông, nhìn chằm chằm trong nhiều tiếng đồng hồ, chỉ hơi chớp mắt. Và khi anh đã rời phòng, anh rời khỏi đó với một phiên bản khác của cuộc đời anh, và một sự hiểu biết mới về ngày tận số của mình. Edmund Bridgerton đã chết ở lứa tuổi ba mươi tám. Và Anthony đơn giản là không thể hình dung được có bao giờ vượt qua cha anh trong bất cứ điều gì, ngay cả về tuổi tác. Chủ đề về những kẻ ăn chơi trác táng, tất nhiên, đã được thảo luận trước đây trên mục báo này, và Tác giả đã đi đến một kết luận là có tồn tại những kẻ ăn chơi trác táng, và có tồn tại những Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Anthony Bridgerton là một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng. Một kẻ ăn chơi trác táng (viết thường) còn trẻ và chưa chín chắn. Anh ta khoe khoang những chiến công của mình, cư xử với cực điểm của chứng ngu ngốc, và nghĩ rằng anh ta nguy hiểm đối với phụ nữ. Một Kẻ Ăn Chơi Trác Táng (viết hoa) biết rằng chàng nguy hiểm đối với phụ nữ. Chàng không phô trương những chiến công của chàng, bởi vì chàng không cần phải làm thế. Chàng biết chàng sẽ được thì thầm khắp nơi bởi những đàn ông cũng như phụ nữ, và trên thực tế, chàng thà rằng họ đứng có thì thầm gì về chàng hết. Chàng biết chàng là ai và chàng đã làm gì; những trò tường thuật chi tiết, đối với chàng, thật là rườm rà. Chàng không cư xử như một kẻ ngu ngốc chỉ bởi vì lý do đơn giản rằng chàng không phải là thằng ngốc (không nhiều hơn những gì được trông chờ ở tất cả thành viên thuộc giới tính nam). Chàng có rất ít kiên nhẫn cho những nhược điểm của xã hội, và thành thật mà nói, hầu hết các lần Tác giả chẳng thể nói rằng nàng đổ lỗi cho chàng được. Và nếu đó không miêu tả Tử Tước Bridgerton - rõ ràng là người độc thân thích hợp nhất của mùa vũ hội này - đến hoàn hảo, Tác giả nên ngừng nghề viết ngay lập tức. Câu hỏi duy nhất là: liệu năm 1814 sẽ là năm chàng cuối cùng cũng đầu hàng niềm hạnh phúc tuyệt vời của hôn nhân? Tác giả nghĩ... không. Tạp chí của Lady Whistledown, ngày 20 tháng 4 năm 1814 “Làm ơn đừng nói với chị,” Kate Sheffield nói với căn phòng rộng lớn, “rằng cô ta lại viết về Tử Tước Bridgerton lần nữa chứ.” Cô em kế của cô, Edwina, nhỏ hơn đến gần bốn tuổi, nhìn lên từ sau tờ báo một trang. “Làm sao mà chị biết?” “Em đang cười khúc khích như một người điên.” Edwina cười khúc khích, làm rung chiếc ghế sofa thêu hoa mà họ đang ngồi. “Thấy chưa?” Kate nói, tặng cho em gái một cú thúc vào cánh tay. “Em lúc nào cũng cười khúc khích khi cô ta viết về mấy gã ma cà bông đáng quở trách.” Nhưng Kate lại cười toét miệng. Có rất ít thứ mà cô thích hơn là chọc em gái. Với ý tốt, tất nhiên. Mary Sheffield, mẹ của Edwina, và mẹ kế của Kate đã gần tám năm nay, liếc lên từ đồ thêu của bà và đẩy cặp kính lên cao hơn trên sống mũi. “Hai đứa cười cái gì đấy?” “Chị Kate đang nổi điên lên vì Lady Whistledown lại viết về ngài tử tước phóng đãng đó nữa.” Edwina giải thích. “Chị không nổi điên. nói, ngay cả khi không có ai lắng nghe. “Bridgerton?” Mary hỏi lơ đãng. Edwina gật đầu. “Vâng.” “Cô ấy lúc nào cũng viết về anh ta.” “Con nghĩ cô ấy chỉ thích viết về những kẻ ăn chơi trác táng.” Edwina bình luận. “Tất nhiên là cô ấy thích viết về mấy kẻ trác táng.” Kate vặn lại. “Nếu cô ấy mà viết về những người chán ngắt, thì chả ai sẽ mua tạp chí của cô ấy.” “Điều đó không đúng.” Edwina trả lời. “Chỉ mới tuần trước cô ấy đã viết về chúng ta đó thôi, và ông trời mới biết chúng ta không phải là những người đáng quan tâm nhất ở Luân Đôn.” Kate mỉm cười với sự ngây thơ của em gái. Kate và Mary có thể không phải là người đáng quan tâm nhất Luân Đôn, nhưng Edwina, với mái tóc màu vàng ngọt ngào như bơ và đôi mắt xanh trong đến sững sờ, đã được vinh danh là Người Không Thể So Sánh của năm 1814. Kate, mặt khác, với mái tóc và đôi mắt một màu nâu giản dị, thường được nhắc đến như là “Chị gái lớn của Người Không Thể So Sánh”. Kate vờ như còn có cách nói tệ hơn. Ít nhất thì chưa có ai bắt đầu gọi cô là “Chị gái già của Người Không Thể So Sánh.” Điều đó rất nhiều phần gần với sự thật hơn là bất cứ người nhà Sheffield nào chịu thừa nhận. Ở tuổi hai mươi (gần như là hai mươi mốt, nếu người ta thành thật về điều đó), Kate hơi dài răng để có thể tận hưởng mùa vũ hội đầu tiên ở Luân Đôn. Nhưng đã chẳng có lựa chọn nào khác. Nhà Sheffield đã không từng giàu có ngay cả khi cha Kate vẫn còn sống, và từ khi ông qua đời vào năm năm trước, họ đã buộc phải tiết kiệm nhiều hơn nữa. Họ chắc chắn là chưa đến mức vào nhà tế bần, nhưng phải lo lắng cho từng đồng và xem xét từng bảng. Với tài chính bị thu hẹp, nhà Sheffield chỉ có thể sắp xếp một khoản tiền cho một chuyến đi đến Luân Đôn. Thuê mướn một ngôi nhà - và một cỗ xe - và thuê một ít người hầu vừa đủ cho mùa vũ hội tốn một khoản tiền. Nhiều tiền hơn là họ có thể xoay sở để có thể trang trải qua cả hai lần. Như thế, họ phải chuẩn bị trong năm năm khó khăn để có thể chu cấp cho chuyến đi này đến Luân Đôn. Và nếu các cô gái không thành công ở Hội Chợ Hôn Nhân... À thì, chả có ai sẽ đẩy họ vào nhà tù nợ nần, nhưng họ sẽ phải trông đến một cuộc sống yên bình của nghèo khó thanh đạm ở một mái nhà tranh đáng yêu nhỏ nhắn nơi vùng Somerset. Và vì vậy hai cô gái đành phải khởi đầu mùa vũ hội đầu tiên trong cùng một năm. Đó là một quyết định rằng thời gian logic nhất là khi Edwina mười bảy và Kate sắp hai mươi mốt. Mary sẽ muốn chờ cho đến khi Edwins đã mười tám, và chín chắn hơn một chút, nhưng điều đó sẽ làm cho Kate gần hai mươi hai, và trời ơi, nhưng ai sẽ cưới cô lúc đó chứ? Kate cười nhăn nhó. Cô còn không muốn một mùa vũ hội. Cô đã biết rằng cô không thuộc dạng sẽ thu hút sự chú ý của mọi người. Cô không đủ xinh xắn để che lấp sự thiếu hụt của hồi môn, và cô chưa bao giờ học cách cười điệu và nói chuyện dịu dàng và đi đứng duyên dáng, và làm tất cả những việc mà các cô gái khác dường như biết cách làm từ trong nôi. Ngay cả Edwina, người chẳng có một cái xương ranh mãnh nào trong người, bằng cách nào đó cũng biết cách đi và đứng và thở dài sao cho đàn ông chạy vù tới, chỉ để có cái vinh dự được đưa nàng sang đường. Kate, mặt khác, luôn luôn đứng với đôi vai thẳng và cao, không thể ngồi yên nếu cuộc sống của cô phụ thuộc vào điều đó, và đi như cô đang ở trong một cuộc đua - và tại sao lại không? Cô luôn tự hỏi. Nếu một người đang đi đến đâu đó, có lý gì khi không đến đó nhanh chóng? Còn đối với mùa dạ hội của cô ở Luân Đôn, cô còn không thích thành phố nhiều nữa. Ôi, cô có một khoảng thời gian vui vẻ, và cô đã gặp nhiều người tử tế, nhưng một mùa vũ hội Luân Đôn dường như là một sự phung phí tiền bạc khủng khiếp đối với một cô gái sẽ hoàn toàn hài lòng được ở lại nông thôn và tìm một anh chàng hiểu biết lý lẽ để mà cưới. Nhưng Mary không chấp nhận điều gì như thế. “Khi ta cưới cha con,” bà nói, “ta đã thề sẽ yêu thương con và đem đến cho con mọi sự chăm sóc và tình thương ta sẽ dành cho con ruột của ta.” Kate đã thu xếp để vừa thốt ra được một từ “nhưng - ” trước khi Mary tiếp tục với, “ta có trách nhiệm đối với người mẹ tội nghiệp của con, cầu Chúa cho bà yên nghỉ, và một phần của trách nhiệm đó là thấy con được cưới xin hạnh phúc và định.” “Con có thể hạnh phúc và được bảo đảm ở thôn quê mà.” Kate đã trả lời. Mary đã đối lại, “Có nhiều người đàn ông để lựa chọn hơn ở Luân Đôn.” Sau đó Edwina cũng đã tham gia, khăng khăng nói rằng cô sẽ hoàn toàn khốn khổ nếu không có Kate, và bởi vì Kate không bao giờ có thể chịu được khi nhìn thấy em gái không hạnh phúc, số phận cô được quyết. Và thế là cô ở đây - ngồi trong một căn phòng khách hơi sờn cũ, trong một căn nhà thuê ở phần rìa Luân Đôn mà gần như hợp thời, và... Cô nhìn quanh một cách tinh nghịch... và cô sắp sửa giật tờ tạp chí từ tay em gái. “Chị Kate!” Edwina kêu ré lên, mắt cô trợn vào mảnh báo nhỏ hình tam giác còn lại giữa ngón tay cái và ngón trỏ. “Em chưa xong mà!” “Em cữ đọc nó mãi.” Kate trả lời với nụ cười ngoác miệng táo tợn. “Bên cạnh đó, chị muốn coi cô ta viết gì về tử tước Bridgerton hôm nay.” Đôi mắt của Edwina, thường xuyên được ví như mặt hồ Scot tĩnh lặng, ánh lên quỷ quái. “Chị quan tâm khủng khiếp đến ngài tử tước đấy, Kate. Có điều gì chị không nói với mẹ và em đúng không?” “Đừng có ngu ngốc thế. Chị còn không biết anh ta. Mà nếu chị có biết, có thể là chị sẽ chạy về hướng ngược lại. Anh ta cụ thể là loại đàn ông mà hai chúng ta nên tránh xa bằng mọi giá. Anh ta rất có thể quyến rũ một tảng bẳng ấy chứ.” “Kate!” Mary bật ra. Kate nhăn nhó. Cô đã quên mất rằng mẹ cô đang lắng nghe. “Chà, đó là sự thật.” Cô thêm. “Con đã nghe rằng anh ta có nhiều người tình hơn là sinh nhật của con nữa.” Mary nhìn cô trong vài giây, như thể cố quyết định bà có muốn trả lời hay không, và cuối cùng bà nói, “Không phải đó là một chủ đề thích hợp cho tai con đâu, nhưng nhiều người đàn ông “Ôi.” Kate đỏ mặt. Có rất ít thứ kém hấp dẫn hơn là bị phản đối khi một người đang cố gắng đưa ra một lập luận quan trọng. “Chà, thế thì, anh ta có gấp đôi con số nhiều. Cho dù trường hợp nào đi nữa, anh ta quá bữa bãi hơn hầu hết những người đàn ông khác, và không phải loại Edwina nên cho phép tán tỉnh nó.” “Con cũng đang tận hưởng một mùa vũ hội đấy.” Mary nhắc nhở cô. Kate chiếu vào Mary một cái nhìn khó chịu nhất. Họ đều biết là nếu ngài tử tước chọn tán tỉnh một người nhà Sheffield, đó sẽ không là Kate. ... Mời các bạn đón đọc Tử Tước và Em của tác giả Julia Quinn.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ánh Sao Chiều - Danielle Steel
Một thế giới mới với những khởi đầu, mọi việc đã dần dần tự nó giải quyết đúng theo ý muốn của họ. Tất cả như được định mệnh sắp đặt. Ông ôm hôn bà một lần nữa trước khi Valerie lặng lẽ đi vào nhà và suy nghĩ về Coop. Ông không đúng là người mà bà mong đợi, nhưng cũng cảm thấy hài lòng có một người như Coop trong quãng đời còn lại của mình. Bà không hề có cảm tưởng mình là cô bé Cinderelle đối với Coop, mà thấy mình là một phụ nữ đang yêu một người bạn tốt. Đó cũng là cảm nghĩ của Coop khi ông rảo bước về nhà. Điều mà ông đang mong đợi là những ngày sắp đến của ông ở Cape Cod *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Ánh nắng lấp lánh trên mái ngói của toà biệt thự The Cottage, khi Abe Braunstein cho xe chạy quanh của con đường dài tưởng như vô hạn, dẫn đến khu dinh thự oai nghiêm cất theo kiểu Pháp này. Với một người nào khác Abe, cái quang cảnh nguy nga của khu dinh thự này chắc đã làm cho ông ta phải nín thở. Nhưng Abe thì đã từng đến khu nhà tráng lệ này cả chục lần rồi. Cottage là một trong những toà nhà rất nổi tiếng ở Hollywood, nhắc ta nhớ đến những dinh thự của các dòng họ Vanderbilts và Aston ở New Port, Rhode Island vào khoảng đầu thế kỷ. Nó được một trong những ngôi sao lớn của nền điện ảnh thời phim câm, Vera Harper cho xây cất năm 1918 theo kiểu một lâu đài Pháp của thế kỷ XVIII, mang vẻ giàu có, xinh đẹp, duyên dáng, thanh lịch trong mọi đường nét cấu trúc. Vera Harper là một trong số ít những ngôi sao màn ảnh của thủa ban sơ ấy, đã giữ được của cải làm nên, đã có những cuộc hôn nhân tốt đẹp, và đã sống ở đây cho đến khi qua đời vì tuổi tác già nua vào năm 1959. Bà ta không con cái, không người thừa kế và đã để lại mọi thứ cho giáo hội thiên chúa giáo. Cooper Winslow đã mua lại khu dinh thự này một năm sau đó với một số tiền rất lớn ngay cả vào thời đó, vì thuở ấy ông đã thành công rực rỡ trong ngành điện ảnh. Khi mua lại nó, Cooper Winslow đã làm dư luận xôn xao hẳn lên, vì đó là một toà nhà, một tài sản phi thường đối với một anh thanh niên mới 28 tổi, cho dù là một ngôi sao điện ảnh lớn. Nhưng Coop không hề thấu lúng túng sống trong một dinh thự lớn như thế, mà còn thấy thoải mái vì nó xứng đáng với con người ông ta. Bao quanh tòa nhà là một khu đất 14 mẫu, gồm một phần đất rộng có rào và những khu vườn được chăm sóc thật kỹ lượng ngay trung tâm của Bel Air, một sân quần vợt, một hồ tắm lớn khảm đá xanh và màu vàng kim, và nhiều hồ nước phun đặt rải rác nhiều nơi trong khu vườn. Lối sắp xếp trang trí của khu đất và vườn tược được cho là rập theo mẫu của điện Versailles bên trong biệt thự các trần nhà cao, phần lớn các vật trang trí được các nghệ sĩ mang từ Pháp qua. Tường của phòng ăn và phòng khách ốp gỗ, loại gỗ ốp tường và lát nền của phòng khách cũng được mang từ một lâu đài ở Pháp sang. Toàn thể khu dinh thự đã tạo cho Vera Harper một khung cảnh tuyệt vời và một toà nhà tuyệt đẹp cho Cooper Winslow kể từ khi mua nó. Có một điều làm Abe Braunstein an tâm, là Cooper đã mua dứt nó hoàn toàn vào năm 1960, dù đã hai lầm đem nó cầm thế. Chuyện này dù vậy cũng không làm giảm giá trị của nó. Đến bây giờ, ở Bel Air nó vẫn là một bất động sản quan trọng nhất, không xxác định được thời giá. Trong vùng Bel Air hay bất cứ nơi nào khác, chắc chắn không có toà biệt thự nào so sánh với nó được, ngoại trừ ở New Port, nhưng giá trị của khu bất động sản ày lại lớn hơn nhiều nếu nó ở bất cứ nơi nào khác, cho dù nó đang trong tình trang không được tu bổ. Bước ra khỏi xe, Abe đã nhìn thấy hai người làm vườn đang nhổ cỏ quanh bồn phun nước chính, và hai người khác đang chăm sóc một luống hoa cạnh đấy. Ông nhẩm tính tối thiểu cũng sửa cắt bớt phân nửa nhóm nhân viên làm vườn. Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy toàn là những con số, những món tiền vung vít qua của sổ. ông biết rõ đến từng cắc bạc số tièn của Winslow phải chi tiêu cho khu dinh thự này. Đó là một số tiền lớn quá sức kỳ cục đối với bất kỳ tiêu chuẩn sống nào, và chắc chắn là với tiêu chuẩn của Abe. Ông từng làm kế toán cho ít nhất cũng đến phân nửa các minh tinh điện anh ở Hollywood, và từ lâu không hề kinh ngạc đến độ phải nhăn mặt khó chịu hay tỏ một cử chỉ bất bình khi nghe nói đến những khoản tiêu mà các ngôi sao này đã đổ vào những chiếc xe hơi, những ngôi nhà, những tấm khăn choàng lông thú và những chuỗi hạt kim cương cho các bạn gái của họ. Nhưng so với Cooper Winslow, những xa hoa phung phí này chẳng thấm vào đâu. Abe tin là Cooper Winslow tiêu xài còn hơn cả ông hoàng Farouk. Ông ta tiêu tiền như nước trong gần 50 năm trời, trong khi hơn 20 năm nay ông ta chẳng đóng một vai quan trọng nào trong một cuốn phim lớn. trong 10 năm gần đây, vai diễn của ông ta đã bị giảm xuống chủ yếu những vai phụ, những lần xuất hiện ngắn ngủi trong vài đoạn phim ngắn, và tất nhiên chẳng kiếm được bao nhiêu tiền. Cho dù trong bộ y phục nào, Cooper dường như bao giờ cũng làm cho mình thành một anh chàng Casanova duyên dáng, rất đẹp trai, và gần đây nhất là ông già chịu chơi đầy quyến rũ. Nhưng dù trên màn ảnh ông ta vẫn còn quyến rũ bao nhiêu càng ngày càng có ít vai diễn dành cho ông. Trong khi bâm chuông và chờ người ra mở cửa, Abe thấy là trong hai năm nay ông ta chẳng còn thủ một vai nào cả, vậy mà vẫn cứ bảo mình đã gặp các nhà đạo điễn, các nhà sản xuất phim, hàng ngày thảo luận về những cuốn phim mới của họ. Abe đến đây để nói thẳng cho ông ta biết điều đó, khuyên ông ta cắt giảm nhiều các chi tiêu trong những ngày sắp tới, cho ông ta biết là trong suốt năm năm nay ông ta đã sống trên đống nợ nần và trên những lời hứa. Abe không cần thiết liệu ông ta có làm quảng cáo cho người bán thịt láng giềng không, nhưng Coop sẽ phải ra làm công việc đó, và làm ngay. Ông ta sẽ phải thực hiện nhiều thay đổi, phải cắt giảm chi tiêu rất nhiều, giảm số nhân viên giúp việc, bán bớt một số xe, thôi không mua sắm áo quần nữa và không ngụ tại những khách sạn đắt tiền trên thế giới nữa. ông ta hoặc phải làm vậy hoặc phải bán biệt thự. ... Mời các bạn đón đọc Ánh Sao Chiều của tác giả Danielle Steel.
Zaches Tí Hon Mệnh Danh Zinnober - E. T. A. Hoffmann
Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober là một trong những truyện trào lộng hay nhất của văn học lãng mạn Đức, một tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần suốt hai trăm năm qua ở châu Âu và nhiều quốc gia trên thế giới. Chắc chắn bạn sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc... *** E.T.A. Hoffmann (Ernst Theodor Amadeus Hoffmann, 1766 - 1822) là nhà văn lãng mạn - huyễn tưởng Đức có ảnh hưởng sâu rộng nhất đối với các trào lưu văn học lãng mạn ở châu Âu trong thế kỷ XIX. Với tác phẩm Tiểu thư Scuderi, ông được nhìn nhận là cây bút khởi xướng cho dòng văn học trinh thám và hình sự. Với những truyện cổ tích huyễn tưởng như Zaches Tí Hon mệnh danh Zinnober, Chiếc âu vàng, Công chúa Brambila, Thống lĩnh Bọ Chét..., E.T.A. Hoffmann được đánh giá là vị tiền bối của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo, thậm chí ông còn được tôn vinh là nhà văn tiêu biểu cho chủ nghĩa siêu thực. Trong thế kỷ XIX, hiếm có nhà văn Đức nào lại có nhiều tác phẩm bán chạy nhất và được công chúng chờ đón như E. T. A. Hoffmann, bởi lẽ, văn chương của ông rất lạ, vừa thực vừa ảo, vừa ly kỳ rùng rợn lại vừa rất hiện thực, xuất phát từ đời sống xã hội thời ông sống, và hơn thế, các câu chuyện mang sắc màu cổ tích lãng mạn được ông viết ra trong những lúc tỉnh tỉnh say say lại vô cùng hấp dẫn không những với thiếu nhi mà còn cuốn hút đông đảo các độc giả lớn tuổi. Các nhà văn Pháp nổi tiếng rất thích đọc Hoffmann, chẳng hạn như T. Gautier, A. Dumas, Musset, G. Nerval, thậm chí đại văn hào H. Balzac còn tôn vinh Hoffmann là “Nhà ảo thuật của phương Đông”. Và ở nước Nga, Puskin, Gogol và nhất là Doxtoevxki luôn tìm đọc Hoffmann. Cũng ở nước Nga, nhạc sĩ thiên tài Traikopxki đã vô cùng thích thú khi đọc truyện Vua chuột và Chàng cắn hồ đào của Hoffmann và sau đó, dựa trên tác phẩm này, Tchaikovsky đã sáng tác một vở nhạc vũ kịch nổi tiếng thế giới, công diễn lần đầu tại Xanh Petecbua ngày 6 tháng 12 năm 1892. Còn nhạc sĩ Pháp J. Offenbach, một người rất yêu mến Hoffmann, đã đưa các nhân vật kỳ dị của ông lên sân khấu âm nhạc, sáng tác ra vở nhạc kịch nổi tiếng khắp trong và ngoài nước. Cho đến nay, Những câu chuyện Hoffmann (sáng tác năm 1811) của Offenbach vẫn luôn được trình diễn trên nhiều nhà hát kịch thế giới... Và giờ đây, bạn đọc yêu quý, bạn đương cầm trên tay mình cuốn truyện kỳ thú Zaches Tí Hon... của Hoffmann, một trong những truyện trào lộng hay nhất của văn học lãng mạn Đức, một tác phẩm đã được in đi in lại nhiều lần suốt hai trăm năm qua ở châu Âu và nhiều quốc gia trên thế giới. Chắc chắn bạn sẽ phải tủm tỉm cười trước những áng văn hài hước, châm biếm vô cùng hóm hỉnh của tác giả và hồi hộp theo dõi cuộc đời kỳ dị của Zaches Tí Hon, một con quỷ lùn xấu xí như rễ cây, nhưng đã trở thành quan thượng thư và là niềm vinh quang của cả một vương quốc. Xin chúc bạn đọc có nhiều niềm vui với Zaches Tí Hon và nhiều hạnh phúc trong cuộc đời. *** Bạn đọc thân mến, bây giờ đến lúc người ghi chép lại những trang sách này cho bạn phải chia tay mất rồi, anh ta bỗng thấy buồn và băn khoăn e ngại, bởi lẽ, anh còn biết rất nhiều chuyện lạ lùng về Zinnober và thực sự có hứng thú muốn được kể hết cho bạn nghe, như anh đã viết lại câu chuyện này bởi một sự thôi thúc nội tâm không thể nào cưỡng lại được. Nhưng mà thôi! Nhìn lại tất cả các sự kiện diễn ra trong chín chương vừa qua, anh cảm thấy trong đó có quá nhiều điều kỳ dị, huyễn hoặc ngược lại với lý trí thông thường, đến nỗi nếu anh cứ tích tụ thêm những chuyện tương tự như thế nữa, chắc sẽ có nguy cơ làm mất lòng bạn đọc và lạm dụng sự độ lượng của bạn. Vì vậy, khi phải viết dòng chữ “Chương cuối cùng” như thế này, lòng anh bỗng nhiên thấy buồn bã và bâng khuâng, ngần ngại muốn được thỉnh cầu bạn đôi lời: xin bạn hãy để cho mình đọc truyện này với một tâm trạng thật thoải mái và vô tư để nhận xét các nhân vật kỳ dị đến với bạn, vâng, thậm chí hãy làm bạn với chúng, bởi các nhân vật ấy đến với nhà văn nhờ anh ta linh cảm được sự hiện hình dị thường của chúng, còn gọi là trí tưởng tượng, và có lẽ anh ta cũng để mình bị cái bản tính dị thường và thất thường của chúng cuốn hút theo. Xin bạn đọc đừng vì thế mà giận dỗi nhà văn và cái bản tính thất thường kia! Bạn đọc thân yêu, nếu trong lúc đọc truyện thỉnh thoảng bạn lại tủm tỉm cười thầm về điều này điều nọ, thì đó chính là bạn đã ở trong tâm trạng mà người viết những trang sách này hằng ước mong, và anh ta tin rằng, bạn đã coi nhà văn có những điều tốt đẹp! Thực ra câu chuyện này có thể kết thúc bằng cái chết bi thảm của thượng thư Zinnober nhỏ bé. Nhưng thay cho một đám tang buồn bã lại là một đám cưới tươi vui trong đoạn kết có phải còn thú vị hơn không? Vì vậy xin bạn đọc dành ít phút nghĩ tới chàng Balthasar và nàng Candida kiều diễm. Giáo sư Mosch Terpin vốn là người từng trải việc đời và đã được khai sáng, ông hành động theo một câu châm ngôn rất thông thái là: “Không có gì làm ta phải ngạc nhiên” và quả vậy, từ rất nhiều năm nay ông không hề ngạc nhiên trước bất kỳ chuyện gì xảy ra trên thế gian. Nhưng bây giờ khác rồi, ông đành phải chối bỏ sự uyên bác của mình và liên tục phải ngạc nhiên hết chuyện này đến chuyện khác, đến nỗi sau cùng ông ca thán về việc mình không còn biết gì nữa, không biết ông có đúng là giáo sư Mosch Terpin hay không, có đúng là ông từng điều hành việc nghiên cứu các vấn đề thiên nhiên của quốc gia hay không, có đúng là ông đang thực sự ngẩng đầu nhìn trời cao và đang dạo bước trên đôi chân của chính mình không? Trước hết giáo sư Mosch Terpin ngạc nhiên khi thấy Balthasar giới thiệu với ông rằng tiến sĩ Prosper Alpanus là ông chú của chàng, và ông chú này lại chìa cho ông xem các giấy tờ trao tặng toàn bộ tài sản cho Balthasar, biến chàng thành chủ nhân của một trang ấp cách thành Kerepes chừng một giờ với đầy đủ cả nhà cửa, ruộng vườn và rừng cây; rồi ông lại ngạc nhiên không tin vào mắt mình khi xem bản liệt kê tài sản với vô số những đồ đạc quý giá cùng rất nhiều, rất nhiều những thỏi vàng thỏi bạc mà giá trị của nó vượt xa cả kho báu của quốc vương! Ông càng ngạc nhiên hơn khi cầm chiếc kính một mắt và một gọng của Balthasar soi vào chiếc quan tài lộng lẫy mà Zinnober đang nằm và chợt nhận ra rằng: trên đời này chưa từng có một quan thượng thư Zinnober nào cả, chỉ có một gã nhóc thô lỗ, ương ngạnh mà người đời đã ngộ nhận là ngài thượng thư Zinnober uyên bác và thông minh. Sự ngạc nhiên của giáo sư Mosch Terpin đã đạt tới đỉnh điểm khi Prosper Alpanus dẫn ông đi tham quan ngôi nhà, chỉ cho ông thấy thư viện của mình và nhiều vật dụng khác, thậm chí còn biểu diễn cho ông xem một vài thí nghiệm cực kỳ lý thú với những động vật và thực vật lạ lùng. Giáo sư chợt nảy ra ý nghĩ là mọi công việc nghiên cứu của ông chẳng là gì hết cả, và hiện ông đương ở trong một thế giới huyền ảo rực sắc màu như đang ở trong một quả trứng vàng vậy. Ý nghĩ này làm ông thấy tủi thân, đến nỗi ông kêu than và sau cùng oà lên khóc như một đứa bé con. Ngay tức khắc Balthasar dẫn giáo sư vào một hầm rượu rộng thênh thang, nơi ông nhìn thấy vô số các thùng rượu lấp lánh và các chai rượu vang óng ánh. Chàng nói rằng ở đây ông có thể làm thí nghiệm tốt hơn nhiều so với hầm rượu của quốc vương, và ở khuôn viên tươi đẹp ngoài kia ông tha hồ được nghiên cứu thiên nhiên. Thế là giáo sư đã tĩnh tâm trở lại. Đám cưới Balthasar được tổ chức trong tòa biệt thự của trang ấp. Balthasar, các bạn của chàng, Fabian và Pulcher, tất cả đều kinh ngạc trước vẻ đẹp lộng lẫy của Candida, trước sức hấp dẫn kỳ diệu về tư chất cũng như về trang phục của nàng. Quả thực có một phép màu vây quanh nàng, vì tiên nữ Rosabelverde đã quên đi mọi chuyện bực mình và tới dự lễ cưới với tư cách tiểu thư Hoa Hồng Đẹp trong tu viện. Tiên nữ đã đích thân mặc quần áo cho Candida, trang điểm cho nàng bằng những bông hồng kỳ lạ, đẹp mắt nhất. Hiển nhiên quần áo Candida mặc rất vừa một khi có đôi bàn tay tiên điều khiển nó. Rosabelverde còn tặng cho cô dâu một chiếc vòng đeo cổ lấp lánh rất đẹp, chiếc vòng này có phép màu đặc biệt: ai đeo nó bên mình thì người đó sẽ không bao giờ bực dọc hay khó chịu về những chuyện vặt vãnh, chẳng hạn về một dải ruy băng bị thắt nút, một đồ trang sức trên tóc bị xô lệch hay một vết bẩn trên áo quần và đại loại như vậy. Chính phép màu này làm gương mặt Candida có một vẻ diễm kiều và tươi tỉnh đặc biệt đáng yêu. Chú rể và cô dâu đắm mình trong hạnh phúc ngất ngây, nhưng họ vẫn không quên dành ánh mắt và ngôn từ cho bạn bè thân tới dự lễ. Prosper Alpanus và Rosabelverde cũng góp sức để có những chuyện thần kỳ nhất làm tươi vui cho ngày cưới. Khắp nơi, từ cây cối đến bờ bụi, chỗ nào cũng thấy ngân nga những âm điệu yêu thương ngọt ngào, trong khi đó thì các bàn tiệc óng ánh bày đầy các món ăn ngon lành nhất cùng với các chai bằng pha lê chứa rượu vang thượng hảo hạng rót lửa nồng sự sống vào huyết mạch của các khách đến mừng. ... Mời các bạn đón đọc Zaches Tí Hon Mệnh Danh Zinnober của tác giả E. T. A. Hoffmann.
Ngôi Sao Lầm Lỗi - Danielle Steel
Đây là một câu chuyện tình cảm động và cao thượng. Spencer và Crystal đã gặp và yêu nhau ngay lần gặp mặt đầu tiên, lúc nàng mới chỉ là một thiếu nữ 14 tuổi. Cuộc sống với những biến đổi thăng trầm đã khiến họ bặt tin nhau. Tưởng rằng mọi thứ đã vĩnh viễn vùi chôn vì chàng chuẩn bị có một cuộc sống mới với một phụ nữ quyền quý… Lần gặp mặt sau mấy năm trời xa cách đã giúp họ nhận ra rằng tình yêu của họ dành cho nhau vẫn mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Song, phải đến tận 15 năm sau họ mới được tận hưởng niềm hạnh phúc trọn vẹn, thiêng liêng sau khi đã đấu tranh vượt qua tất cả - những giờ phút sinh tử, những thử thách đắng cay và khắc nghiệt của đời sống… *** Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** Đã sáu năm trôi qua. Sáu năm dài đằng đẵng, nặng trĩu u buồn hoặc tràn ngập những giây phút diệu huyền như trại chăn nuôi, các bộ phim, con trai của anh. - Chào anh Spencer. Em biết thế nào cũng gặp anh ở đây. Chúc mừng anh! Crystal nói, giọng bình tĩnh giữa bao tiếng ồn ào nổi lên trong căn phòng. Spencer thấy chưa lúc nào Crystal xinh đẹp như tối nay, mình mặc chiếc áo dài bó trông tựa tấm van phủ trên thân hình tuyệt mỹ anh chẳng giây phút nào quên. - Cảm ơn em. Em cũng tiến khá xa. Spencer mỉm cười và suy nghĩ về những lời anh vừa nói. Năm tháng đã góp công vun đắp chị trở thành một ngôi sao lớn mà chị hằng mơ ước, bây giờ, chị sung sướng đã đạt được giấc mơ của mình, nhưng tâm trạng Crystal lại khác. Thấy Spencer, trong lòng chị lại trỗi dậy biết bao kỷ niệm, bao niềm vui, nỗi buồn, quãng đời đã qua khắc khoải trong sự chờ mong người đàn ông chị vẫn yêu. - Em ở lại Washington lâu không? – Spencer hỏi để gỡ thế bối rối. - Vài ngày thôi, - Crystal đáp vẻ lơ đễnh, thực ra chị cầu trời Spencer không nghe rõ tiếng con tim chị đang đập rộn. – Em phải quay về California. Crystal tự hỏi không biết vợ chồng Spencer còn sống với nhau nữa không. Còn ở đầu phòng đằng kia, Elizabeth vênh vang trước niềm quang vinh của mình. Chồng chị là một trợ lý của tổng thống Kennedy. Mới 31 tuổi, Elizabeth đã thành đạt như vậy. Người phụ nữ duy nhất mà chị thấy khát khao là phu nhân tổng thống, nhưng có trời biết được một ngày nào đó chị sẽ đường đường là phu nhân một vị tổng thống. Không gì Elizabeth chẳng làm được. Spencer là một nhân vật quan trọng, ngay cả trước con mắt của gia đình nhà Barclay. - Em nghỉ ở đâu? Crystal ngập ngừng, nhưng dẫu sao điều này chẳng quan trọng lắm. Chị đã có cuộc đời chị. Chị có Brian - Ở Statler. Đúng lúc đó, Brian quay lại, tay ôm chiếc áo khoác bằng lông cáo bạch của Crystal. Nhà sản xuất phim biết tên tuổi của Spencer, nhưng họ chưa lần nào gặp nhau. Ông tự hỏi do đâu anh lại quen biết Crystal và ông đã nhận rõ ánh mắt anh đang nhìn Crystal. Sau đó chị chào Spencer rồi họ rời khỏi phòng. Trên chiếc xe limousine, Brian nhận thấy Crystal trầm lặng một cách kỳ lạ, chị đưa mắt ngó ra ngoài xe nhìn tuyết rơi trên đường phố. Hai người im lặng suốt đường về. Lúc đã ở trong phòng họ, Brian không ghìm được liền cất tiếng hỏi: - Do đâu em đã quen biết Spencer Hill? Theo ông, Crystal chưa bao giờ đặt chân tới Washington. Năm ngoái, vừa thấy Spencer với Kennedy, ông đã đánh giá cao anh ngay lập tức. Theo ông rồi đây Spencer rất có triển vọng. Đúng như ông đã nghĩ, nhà sản xuất phim biết rằng Spencer hữu ích biết bao đối với vị tổng thống trẻ. Crystal cởi áo dài và mỉm cười với Brian vẻ dửng dưng, nhưng ánh mắt chị sầm tối. Brian nhận thấy trong ánh mắt Crystal để lộ một điều mà từ trước tới nay ông chưa từng thấy, trông thật buồn bã ngoài sức chịu đựng. - Em gặp anh ấy từ lâu lắm rồi, hôm cưới chị em. Anh ấy đã phục vụ ở Thái Bình Dương cùng anh rể em. Sau đó, Crystal quay lưng lại: - Chính anh ấy đã bảo vệ em trong vụ án. Thế là Brian đã vỡ lẽ. Ông chưa bao giờ nghĩ tới điều này. Ông từ từ tiến đến bên Crystal, đưa cặp mắt mất hết mọi vẻ vui tươi nhìn chị. - Đấy là bố cháu bé đúng không? Crystal im lặng không đáp một lúc, rồi chậm rãi gật đầu trước khi xoay người lại. - Anh ấy có biết điều đó không? - Không. Và chẳng bao giờ anh ấy được biết điều đó. Đây là một câu chuyện dài, nhưng bây giờ anh ấy có cuộc sống của mình và một tương lai rực rỡ. Sống với em, anh ấy vĩnh viễn tự huỷ hoại đời mình. Crystal đã trao tặng tự do của anh và chị yên tâm công nhận thấy Spencer đã không uổng phí nó. Ngược lại anh đã có ý thức sử dụng nó. - Anh ấy vẫn yêu em. Brian nặng nề buông mình xuống chiếc ghế bành. Ông biết rõ trước sau rồi chuyện này cũng sẽ đến, nhưng ông không thể không nuối tiếc. Ông đã nhìn rõ ánh mắt của Crystal và của Spencer. - Đừng nói dớ dẩn thế. Đã sáu năm nay anh ấy và em chưa hề gặp nhau. Sáng hôm sau lúc Brian ra ngoài ăn sáng với mấy người bạn quen cũ. Spencer gọi điện cho Crystal. Tim chị đập rộn khi nghe anh xưng tên và chị đã tự rủa mình là một mụ ngốc. Spencer muốn được gặp Crystal trước khi chị ra về, nhưng chị khẳng định rằng mình không thể gặp anh. - Crystal, anh van em… em nên nghĩ tới những lúc chúng ta bên nhau. Những lúc hai người bên nhau và do đó có một đứa con… - Theo em ta chẳng nên gặp nhau làm gì. Mấy ông nhà báo bắt gặp thì sao? Vô ích thôi, anh Spencer. - Để anh lo thu xếp chuyện này. Anh van em… Spencer van nài chị, còn chị cũng như anh rất tha thiết được gặp anh. Nhưng để làm gì? Và dù cho có đúng như Brian nói, anh vẫn còn yêu chị, thì gặp lại nhau chỉ gây thêm chuyện phiền luỵ đến Spencer. Chị định từ chối nữa, nhưng chị đã cưỡng lại được. - Thôi được rồi, - cuối cùng Crystal đáp. - Ở đâu? Crystal lo lắng, chị vừa sợ báo chí đồng thời sợ thay cả Spencer lẫn Brian. Chưa bao giờ Brian tỏ ra quyền thế với chị, nhưng chị không muốn làm ông bị đau. Nhất là lúc này, một khi ông đã biết rõ chuyện. Chị đã nhận rõ ánh mắt u buồn của ông vào đêm qua và chị muốn thuyết phục ông rằng chẳng đáng để ông bận tâm. Spencer Hill đã không can dự gì vào cuộc đời chị. Và sẽ chẳng bao giờ nữa. Spencer cho Crystal địa chỉ của một quán nhỏ anh quen biết, chị hẹn tới đấy lúc bốn giờ chiều. Brian vẫn chưa về. Crystal định bụng dùng xe tắc xi chứ không đi chiếc limousine do Brian đã để chị toàn quyền sử dụng. Crystal đội một chiếc mũ không vành và khoác măng tô bằng lông thú, mắt đeo kính đen. Vừa bước vào quán chị đã thấy Spencer ngồi đợi mình. Mái tóc anh bạc trắng nhiều. Lần cuối cùng hai người gặp nhau ở trại chăn nuôi, Crystal thấy tóc Spencer đã chớm bạc. Nhìn anh lòng chị không thể không bồi hồi nhớ lại buổi gặp thuở ban đầu. Dạo đó anh mặc quần trắng, áo vét màu xanh nước biển, cravat đỏ, mái tóc đen nhánh dưới ánh nắng. Ngoài ra, ngược hẳn với Crystal, anh chẳng thay đổi mấy. Cô bé mười bốn tuổi ở chị hồi đó bây giờ hoàn toàn biến mất hút. - Cảm ơn em đã tới, - Spencer nói lúc cầm tay Crystal đỡ chị ngồi xuống ghế. – Anh nhất thiết phải gặp lại em, Crystal. Crystal mỉm cười khi nhận thấy con trai Spencer giống anh như đúc, đứa con trai anh chưa từng hay biết và sẽ chẳng bao giờ biết, đứa con trai đã đem lại mọi ý nghĩa cho cuộc đời Crystal, vun đắp cho cuộc đời chị đầy ắp niềm hạnh phúc. ... Mời các bạn đón đọc Ngôi Sao Lầm Lỗi của tác giả Danielle Steel.
Một Thời Say Đắm - Danielle Steel
Danielle Steel, tác giả "Bây giờ và mãi mãi" là tiểu thuyết gia của hơn 500 triệu bản sách được tiêu thụ trên toàn thế giới, đem lại cho bà gia tài trị giá hàng trăm triệu USD. Nhưng khi còn nhỏ, Danielle chỉ mong trở thành người dốc lòng phụng sự Chúa. Kế hoạch triển khai một cuộc sống thanh đạm và khổ hạnh của Danielle Steel sụp đổ hoàn toàn khi bà kết hôn vào năm 17 tuổi và bắt đầu viết lách sau đó hai năm. Đến nay, ở tuổi, ở tuổi 60, nhà văn sắp sửa xuất bản cuốn tiểu thuyết thứ 72 có tiêu đề Honor Thyself. Danielle Steel sinh năm 1947 tại New York. Bà là nhà văn có bút lực dồi dào và đặc biệt thành công về mặt thương mại. Tác phẩm của bà thường xuyên xuất hiện trên danh sách best-seller của The New York Times. Những tiểu thuyết của Steel đã được xuất bản và dịch tại Việt Nam, gồm có: Now And Forever (Bây giờ và mãi mãi), The Ring (Chiếc nhẫn tình yêu), Second Chance (Cơ hội thứ hai), Five Days In Paris (5 ngày ở Paris) Ánh Sao Chiều Bóng Hình Hẹn Yêu Lối Về Một Thời Say Đắm Ngôi Sao Lầm Lỗi Annabelle Người Phụ Nữ Tuyệt Vời Những Trái Tim Vàng Ba Chàng Độc Thân Tình Khúc Mùa Thu Tiền Chuộc Mạng Sự Huyền Diệu của Tình Yêu Bẫy Tình Muôn Nẻo Đường Tình Thỏa Niềm Nguyện Ước Sóng Tình Phương Nam Bến Cũ Chị Em Gái Tình Yêu Cuối Cùng Hơn Cả Ước Mơ Người Vợ Người Tình Đến Rồi Bến Đợi Một Chặng Đường Dài Bến Bờ Tình Yêu Tiếng Nói Của Con Tim Nối Lại Tình Xưa Những Cánh Hoa Lạc Loài Nỗi Buồn Số Phận Âm Vang Ngày Cũ Cánh Đại Bàng Đơn Độc Quỷ Ám Tình Hè Rực Lửa Căn Nhà Trên Phố Hi Vọng Người Đàn Ông Tuyệt Vời ... *** - Nào! Bây giờ con hãy nhắm mắt lại. Tygue ngồi im bên cạnh nàng trong xe, mắt nhắm lại. Nàng nhận ra xe sắp đến khúc quanh cuối cùng trước khi tiến vào thành phố. Nàng tự hỏi không biết nó nghĩ gì khi nhìn thấy cảnh vật trong thành phố lớn lần đầu tiên. Những tòa nhà cao vút bắt đầu hiện ra trước mắt. - Được rồi. Bây giờ con hãy mở mắt ra nào! Nó mở mắt ra nhìn mọi vật nhưng vẫn còn im lặng không nói gì. Kate ngạc nhiên. - Con nghĩ gì? - Về điều gì? - Về San Francisco. Kia là những tòa nhà lớn nhất thành phố. Tygue chưa bao giờ thấy nhà cao hơn bốn tầng. - Con nghĩ nó có quá nhiều dốc. Giọng nó có vẻ thất vọng. Nàng không biết nói gì nới nó, khi nó ngồi nhìn thẳng trước mặt. Nó muốn về nhà nhưng nàng lại muốn nó ưa thích San Francisco. Nàng và Felicia đã hoạch định nhiều điều. Nàng sẽ ở đây cả tuần. - Con có muốn xem những con đường ngoằn ngèo nhất trên thế giới không? - Chắc chắn có. Nó ôm chặt chú gấu Willie trong tay. - Con có đói không? Nhưng nó lắc đầu. Nàng hỏi tiếp. - Ăn kem nhé! Nó mỉm cười gật đầu. Nàng tìm chỗ đậu xe và đưa Tygue vào một quán kem. Nó ăn kem một cách thích thú đến nỗi kem dính cả lên mũi và cằm. Khi họ rời quán kem, nó bắt đầu vui vẻ và nàng khó mà bắt nó lên xe được. - Chúng ta sẽ đi dạo sau. Trong suốt một tuần ở San Francisco, nàng và Felicia đã đưa Tygue đi chơi mọi nơi. Đó là tuần lễ của Tygue và cả hai người đàn bà đều mệt nhoài. - Dì Licia, lớn lên cháu sẽ làm nhân viên trên xe điện. Felicia cười: - Ý kiến thật vĩ đại. Bỗng Felicia như chợt nhớ ra. - Còn quyển tiểu thuyết của em thì sao, Kate? Nàng đang cố gắng để quên đi. Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày xuất bản sách. - Đó là vấn đề của họ. Em đã viết nó. Bây giờ họ có thể bán nó. - Nghe có vẻ đơn giản quá nhỉ! Felicia nhướng mày nhìn Kate. - Em viết truyện. Em có nghĩ rằng họ sẽ cần em giúp họ để bán truyện không? - Làm sao em biết họ cần gì? Vả lại bán sách được hay không cũng không thành vấn đề với em. - Ồ! Thật à? Thế thì cái gì mới thành vấn đề. - Em không muốn làm điều gì mà em không cảm thấy thoải mái. - Đừng dại dột như thế Kate. Hãy nghe chị. Em tậht điên rồ nếu không làm gì để giúp cuốn tiểu thuyết của em được nổi tiếng. Đây là cơ hội tốt nhất cho em. nếu em chịu khó lần này, quyển truyện tới đây sẽ nổi tiếng hơn nữa. Em mãi mãi thành công trong lĩnh vực văn chương. Em sẽ không bao giờ có cơ hội nữa. - Làm sao chị biết họ cần em? Những độc giả đâu cần đến tác giả. Em không thích đưa mặt mình lên truyền hình để bị ném bánh hay một mũi dao xuyên qua tim. Em sẽ không nhận cơ hội này đâu, Licia. - Em thật sự là người đàn bà cứng đầu. Có lẽ Stu Weinberg sẽ làm em thay đổi ý kiến. Kate và Tygue rời San Francisco vào trưa chủ nậht. Felicia đã nghỉ cả tuần để đi với họ, ngày mai nàng mới bắt đầu đi làm lại. Còn Tom thật tội nghiệp, nàng đã không thăm anh trong hai tuần nay. Tuần trước khi đi San Francisco nàng bận nên đã không ghé anh. Sáng hôm sau, việc đầu tiên là nàng sẽ ghé thăm anh. Nàng không thể đưa Tygue đi cùng với nàng đến chỗ Tom. ... Mời các bạn đón đọc Một Thời Say Đắm của tác giả Danielle Steel.