Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hẹn Hò Theo Kiểu của Em - Linda Howard

Trong mắt cô nàng, anh là một anh chàng sẽ khiến mọi bản năng, mọi hoóc môn trong cơ thể bạn phải bật dậy chú ý và thì thầm vào tai bạn, “Ôi, Chúa tôi, đây rồi, đây chính là người đàn ông đích thực, hãy tóm lấy anh ta và làm việc đó NGAY ĐI!” Còn trong mắt anh, thì cô là một cô nàng tóc vàng hoe tuy nóng bỏng nhưng õng ẹo phù phiếm, luôn làm quá mọi chuyện lên và không bao giờ cho những người xung quanh một giây phút yên bình. Ấy thế mà, sau hai năm “bỏ chạy” khỏi cô nàng theo đúng nghĩa đen, giờ khi gặp lại, anh lại thấy mê đắm cô hơn bao giờ hết. Anh bị cuốn vào giọng nói tiếng cười, vào những hiểm nguy kịch tính trong cuộc sống của cô, vào cả nét “õng ẹo phù phiếm” đáng yêu kia nữa. Và anh đề nghị hẹn hò lại từ đầu. Nhưng, một lần nữa cô nàng lại làm anh phát điên lên khi đưa ra một kiểu hẹn hò của-riêng-cô: Hẹn hò không sex.Là câu chuyện mở đầu bằng một vụ giết người… Tiếp diễn bằng chuyện hẹn hò có một không hai của cô nàng nhân chứng Blair Mallory nóng bỏng và anh chàng Trung úy Wyatt Bloodsworth điển trai mạnh mẽ… Tiểu thuyết tình cảm Hẹn hò theo kiểu của em sẽ đưa bạn vào một thế giới đầy lôi cuốn, kịch tính nhưng cũng không kém phần hài hước, ngọt ngào của tình yêu và đam mê. *** Đa số mọi người không coi công việc của một cổ động viên là nghiêm túc. Giá mà họ biết... Đó là tôi, như tất cả các cô gái Mĩ khác. Nếu bạn nhìn vào các bức ảnh trong những cuốn niên giám trường cấp ba của tôi, bạn sẽ nhìn thấy một cô gái tóc dài vàng hoe, rám nắng với nụ cười ngoác đến tận mang tai, trông rõ toàn bộ hàm răng trắng bóng của cô, nhờ sự giúp đỡ của hàng nghìn đô la cho việc nẹp và tẩy trắng. Là cho hàm răng, không phải cho tóc hay làn da rám nắng. Tôi có sự tự tin không cần cố gắng của một nàng công chúa tuổi teen tầng lớp trên của dân trung lưu; không điều gì tồi tệ có thể đến với tôi. Rốt cuộc, tôi là một cô nàng của Đội cổ vũ cơ mà. Tôi thú nhận điều đó. Thực tế là tôi tự hào vì điều đó. Rất nhiều người nghĩ những cổ động viên vừa không có đầu óc và vừa học đòi, nhưng đó là những người chưa bao giờ làm cổ động viên. Tôi tha thứ cho sự thờ ơ của họ. Cổ vũ là một công việc khó khăn, đòi hỏi cả kỹ năng, sức khoẻ và nguy hiểm nữa. Mọi người thường xuyên bị thương, thậm chí đôi khi còn mất mạng. Và người bị thương thường là con gái: các anh chàng là người tung lên, còn các cô gái là người bị tung lên. Nói theo từ chuyên ngành thì chúng tôi gọi đó là "flyers", nghe thật ngốc nghếch bởi vì dĩ nhiên là chúng tôi không thể bay rồi. Chúng tôi bị tung lên. Những người bị tung là những người sẽ ngã đập đầu và bị gãy cổ. Ừm, tôi chưa bao giờ bị gãy cổ, nhưng tôi đã bị gẫy tay trái, xương cổ và sái đầu gối phải. Tôi không thể đếm được bao nhiêu lần tôi bị bong gân và thâm tím nữa. Nhưng tôi giữ thăng bằng rất tuyệt, tôi có đôi chân khoẻ khoắn và tôi có thể vừa thực hiện backfip, vừa thực hiện split. Thêm vào đó, tôi đã vào đại học bằng học bổng dành cho Đội cổ vũ. Đây là một đất nước rất cool hay là gì nhỉ? Chà, dù sao, tên tôi là Blair Mallory. Vâng, tôi biết: đó là một cái tên ngớ ngẩn. Nó hợp với công việc cổ vũ và mái tóc vàng hoe. Tôi không thể làm gì được; đó là tên cha mẹ đặt cho tôi. Cha tôi tên là Blair nên tôi đoán tôi chỉ vừa đủ mừng vui vì tôi không phải là một Blair con. Tôi không nghĩ tôi là Nữ hoàng của buổi tựu trường nếu như tên tôi có là Blair Henry Mallory con. Tôi đủ hạnh phúc với cái cái tên Blair Elizabeth, xin cám ơn. Ý tôi là, những người làm trong làng giải trí thường đặt cho con họ những cái tên như kiểu Homer, vì Chúa. Khi những đứa trẻ đó trưởng thành và giết chết cha mẹ chúng, tôi nghĩ tất cả những trường hợp này nên được phán quyết là giết người vì lý do chính đáng. Nói đến đây lại gợi đến vụ án mạng mà tôi từng chứng kiến. Thực sự thì không hẳn vậy, nhưng ít nhất nó cũng như một kiểu logic. Mối liên hệ ấy, ý tôi là thế. Và những điều tồi tệ cũng xảy đến với nàng cổ động viên như tất cả công chúa người Mĩ khác. Tôi đã kết hôn, có phải thế không nhỉ? Nó cũng kiểu như một liên kết với án mạng. Tôi cưới Jason Carson ngay khi vừa tốt nghiệp đại học, vì thế trong vòng bốn năm, tên tôi là Blair Carson. Lẽ ra tôi không nên dại dột cưới một người có tên và họ vần điệu với nhau, nhưng có những thứ bạn chỉ học được từ trải nghiệm. Jason có đủ đặc điểm của một chính trị gia: tham gia hội đồng sinh viên, tham gia vận động cho cha mình trong chiến dịch tranh cử nghị sĩ bang, có chú làm thị trưởng, vân vân và vân vân. Jason quá ưa nhìn, anh ta có thể khiến con gái phải nói lắp, theo đúng nghĩa đen đấy. Thật tồi tệ là anh ta biết điều đó. Anh ta có mái tóc dài màu ánh nắng (đấy là diễn tả thi vị của mái tóc vàng hoe), những đặc điểm của một anh chàng đào hoa, mắt xanh thẳm và có hình thể xuất sắc. Hãy nghĩ đến John Kenedy con. Ý tôi là về cơ thể. Vậy nên chúng tôi ở đó, bức ảnh về một cặp đôi tóc vàng, răng trắng. Và cơ thể tôi cũng khá đẹp, nếu nhưng tôi được tự nói về mình.Chúng tôi còn có thể làm gì ngoài việc kết hôn? Bốn năm sau, chúng tôi không còn kết hôn nữa, giải phóng mối quan hệ lẫn nhau. Rốt cuộc, chúng tôi chẳng có gì chung ngoài vẻ bề ngoài và tôi thực sự không nghĩ rằng đó là nền tảng tốt cho một cuộc hôn nhân, bạn thấy sao? Jason muốn có con để chúng tôi trông giống tất cả các cặp đôi Mĩ khác khi anh ta tham gia chiến dịch tranh cử để trở thành nghị sĩ trẻ nhất bang, chuyện này thực sự, nếu bạn muốn biết, làm tôi cực kỳ cáu tiết, bởi vì trước đó anh ta đã từ chối không chịu có con và giờ đây, tất cả sự thay đổi đột nhiên đó phải chăng chỉ để thêm điểm vào cái chiến dịch tranh cử? Tôi nói với anh ta hôn mông tôi đi. Không phải là anh ta chưa từng làm thế trước đó, nhưng ngữ cảnh khác nhau, bạn biết đấy? Tôi bị xem như kẻ cướp trong việc dàn xếp vụ li dị. Có lẽ tôi nên cảm thấy có lỗi; ý tôi là, đó không phải hoàn toàn là chuyện về quyền bình đẳng để làm như thế. Nên đứng lên bằng chính đôi chân mình, tự mình đạt thành tựu, kiểu vậy kia. Và thực tế là tôi tin tất cả những điều đó; chỉ là tôi muốn khiến Jason phải chịu thiệt. Tôi muốn trừng phạt anh ta. Tại sao ư? Bởi vì tôi bắt gặp anh ta hôn em gái út của tôi, Jennifer, vào ngày tết khi những thành viên khác trong gia đình đang ở trong sào huyệt của mình, ngủ thiếp vì mệt sau trò chơi ném bóng gỗ. Khi đó Jenni mới mười bảy tuổi. Cơn giận dữ không làm tôi kém nhanh trí chút nào. Khi tôi thấy họ trong phòng ăn, tôi nhón chân bỏ đi và tìm một trong những cái camera chúng tôi dùng hôm đó để ghi lại sự kiện cho chiến dịch tranh cử của Jason - gia đình, tổ chức ngày lễ, bu quanh bàn đầy ú các loại bánh kẹo làm nghẽn động mạnh, chè chén say sưa và xem bóng đá. Anh ta thích chụp những cảnh cả gia đình tôi tụ tập cùng nhau vì gia đình tôi trông hơn gia đình anh ta rất nhiều. Jason sử dụng bất cứ cái gì có thể để thêm vào chiến dịch của mình. Dù sao tôi đã chộp được bức ảnh rất tuyệt về Jason và Jenni với đèn flash và toàn cảnh nên anh ta biết tôi đã túm được gáy anh ta. Anh ta sẽ làm gì, đuổi theo tôi và túm tôi lại trước mặt cha tôi, vật tôi xuống để cướp lại cái camera ư? Không có chuyện như vậy. Bởi anh ta sẽ phải giải thích và anh ta không thể hi vọng tôi sẽ đứng về phía anh ta trong câu chuyện bịa đặt đó được. Một điều khác nữa là, cha tôi sẽ đá bay anh ta qua ti vi vì dám động vào một sợi tóc của người cùng tên với ông. Tôi đã nói rằng tôi là đứa con gái yêu thích của cha chưa nhỉ? Vì thế tôi đệ đơn li dị và Jason cho tôi tất cả những gì tôi đòi hỏi, chỉ với một điều kiện là tôi phải đưa cho anh ta bức ảnh anh ta và Jenni cùng với phim âm bản của nó. Ờ, chắc rồi, tại sao không nhỉ? Cứ như thể tôi không có nhiều hơn một bản copy ấy. Có lẽ Jason nghĩ tôi quá ngu ngốc để nghĩ đến chuyện làm điều đó. Sẽ không hề có lợi nếu đánh giá thấp mức độ bẩn thỉu mà bạn sẽ chơi. Vì lý do này mà tôi thực sự không nghĩ Jason sẽ trở thành một chính trị gia giỏi. Tôi cũng nói với mẹ là Jenni đã để cho Jason hôn nó. Bạn không nghĩ là tôi sẽ để đứa em gái nhỏ hư thân mất nết đâm lén sau lưng tôi thoát tội phải không? Không phải tôi không yêu thương Jenni, nhưng nó là đứa trẻ của gia đình và nó vẫn nghĩ là nó sẽ có bất cứ thứ gì mà nó muốn. Đôi khi cũng phải cho nó thấy khác như vậy. Tôi cũng nhận thấy rằng tên nó có vần; Jenni Mallory. Thực tế là Jennifer nhưng nó chưa bao giờ được gọi như thế nên không tính. Tôi không biết có chuyện gì với mấy cái tên có vần nữa nhưng chúng thực sự là tin tồi tệ với tôi. Sự khác biệt là, tôi tha thứ cho Jenni bởi vì nó là máu mủ. Còn Jason thì không đời nào tôi tha thứ. Vì thế mẹ đã lo trông chừng Jenni, đứa đã khóc lóc sướt mướt xin lỗi và hứa sẽ làm đứa con gái tốt hoặc ít nhất cũng phải cho thấy sẽ có khẩu vị khá hơn; và em gái giữa của tôi, Siana, đứa đang học trường luật, đã lo thương thuyết với Jason. Cái tên "Siana" được cho là tên trại đi của "Jane", nhưng theo tôi, cái tên đó có nghĩa thực sự là "con cá mập chén người có lúm đồng tiền". Đó là Siana. Với hành động của nữ giới nhà Mallory, vụ li dị tiến hành xong xuôi trong một thời gian kỷ lục mà bố còn chưa biết được chính xác tại sao tất cả chúng tôi lại nổi điên với Jason. Không phải là vì ông quan tâm; mà là nếu chúng tôi nổi điên thì ông cũng nổi điên thay cho chúng tôi. Ông không ngọt ngào sao? Tôi nhận được khá nhiều tiền từ vụ dàn xếp li dị với Jason, cám ơn. Tôi cũng nhận được chiếc Mercedes mui trần màu đỏ (há há, Linda thích xe màu đỏ thì phải), tất nhiên là thế rồi, nhưng tiền là quan trọng nhất bởi vì những gì tôi đã làm được với nó. Tôi mua một nhà thể dục thể thao. Một trung tâm thể dục thẩm mĩ. Cuối cùng thì bạn đồng hành cùng sức khoẻ của bạn cơ mà, và tôi biết tất cả về việc giữ phom người. Siana gợi ý tôi gọi nó là "Blair's Beautiful Butt" nhưng tôi nghĩ nó sẽ hạn chế nhóm khách hàng và có lẽ khiến người ta sẽ bị ấn tượng là tôi đã đi hút mỡ. Mẹ nghĩ ra cái tên "Great Bods" và tất cả chúng tôi đều thích, vì thế nó trở thành cái tên mới của Halloran's Gym trước đây. Tôi ném một đống tiền vào việc tân trang và trang trí lại, nhưng khi tôi hoàn thành, nơi nàyđáng phải hét lên là nơi "cao cấp". Những tấm gương bóng loáng, thiết bị là loại tốt nhất trên thị trường; những phòng tắm, phòng thay đồ, vòi hoa sen được làm lại hoàn toàn; hai phòng sauna và một bể bơi được xây dựng thêm, cùng với một phòng mát xa riêng. Thành viên của Great Bods có thể lựa chọn các lớp yoga, aerobics, Tea Bo hoặc đám đá. Nếu yoga không làm bạn dễ chịu thì bạn có thể làm việc khác bạn thích mà không cần phải rời khỏi toà nhà này. Tôi cũng quả quyết rằng tất cả nhân viên của tôi đều được đào tạo về CPR (Hô hấp nhân tạo - Cấp cứu hồi sức), bởi vì bạn không bao giờ biết được khi nào thì một ông sếp với một-cơ-thể-đã-mất- dáng với hàm lượng cholesterol cao sẽ đâm đầu vào cái máy tập nhằm làm giảm trọng lượng với nỗ lực lấy lại được dáng vóc thời tuổi teen chỉ trong vòng một đêm để có thể gây ấn tượng với cô thư ký mới của mình, và đây là kết quả: đau tim vì quá sức. Bên cạnh đó, nó cũng là thứ khá ấn tượng trên các bài quảng cáo. Tất cả tiền bạc và khóa đào tạo CPR là rất bõ. Trong vòng một tháng mở cửa, Great Bods đã đạt hiệu quả nhanh chóng. Tôi bán thẻ hội viên theo tháng hoặc theo năm - có khoản giảm giá nếu bạn trả tiền cả năm cho khoá học, một chiến lược khôn ngoan vì nó sẽ lôi kéo bạn và rồi sau đó hầu hết mọi người sẽ tận dụng hết các thiết bị vì họ không muốn phí phạm tiền của mình. Những chiếc ô tô trong bãi đỗ giúp nhận biết thành công, và, chà, bạn biết họ nói gì về nhận thức rồi đấy. Dù sao, thành công cũng sản sinh như chuột vậy (thực ra là như thỏ nhưng người Việt mình thì cho rằng chuột mới đẻ lắm ). Tôi rùng mình từ đầu tới tận vớ phủ chân - một trong số những loại không bị coi là lạc hậu, nhưng chúng thực sự chưa phải là thứ khá nhất làm đôi chân bạn trông tuyệt hơn. Giày cao gót mới đứng đầu danh sách này, còn vớ phủ chân là lựa chọn gần thứ hai thôi. Tôi dùng cả hai. Tất nhiên là không phải đồng thời rồi. Pờ liz. Great Bods mở cửa từ sáu giờ sáng đến chín giờ tối, giúp cho tất cả mọi người có thể dễ dàng sắp xếp lịch của mình. Ban đầu, các lớp yoga của tôi vắng teo, chỉ có vài phụ nữ tham gia, vì thế tôi thuê mấy anh chàng trong đội bóng đại học đẹp giai và được ái mộ tham gia vào lớp yoga một tuần. Vô số các chàng học lớp cử tạ và Tae Bo, đàn ông đến tận răng, đổ xô vào làm bất cứ thứ gì mà những anh chàng trẻ trung đẹp giai của tôi làm để giữ phom người chuẩn và phụ nữ thì hối hả tham gia vào cùng lớp với cùng những anh chàng trẻ trung đó. Vừa hết một tuần, lượng thành viên tham gia vào lớp yoga đã tăng lên gấp bốn lần. Đám đàn ông khám phá ra yoga khó nhằn thế nào và lợi ích của nó thế nào nên hầu hết bọn họ đều ở lại - và vì thế nên phụ nữ cũng vậy. Tôi có cần phải nói là tôi đã tham gia vài lớp học tâm lý hồi đại học không nhỉ? Nên đây là tôi, vài năm sau: ba mươi tuổi và sở hữu một công việc kinh doanh thành công khiến tôi luôn bận rộn và cũng mang lại nhiều lợi nhuận rất hấp dẫn. Tôi bán chiếc mui trần màu đỏ và mua một cái màu trắng vì tôi muốn hạ thấp mình đi một chút. Chẳng khôn ngoan chút nào khi một người phụ nữ sống một mình lại thu hút được quá nhiều chú ý. Ngoài ra, tôi cũng muốn một chiếc xe mới. Tôi yêu mùi vị đó. Vâng, tôi biết tôi có thể mua một chiếc Ford hay đại loại thế, nhưng việc tôi lái xe lượn lờ khắp thị trấn trong chiếc mui trần Mercedes mà Jason không thể nào làm vậy vì nó sẽ ảnh hưởng xấu đến hình ảnh tranh cử của anh ta, chẳng khác nào như cái kim đâm vào mông Jason. Anh ta có thể chết vì ghen tị với tôi. Tôi hi vọng thế. Dẫu sao tôi cũng không đỗ chiếc mui trần ở khu vực bãi đỗ xe công cộng phía trước bởi vì tôi không muốn gây bàn tán om xòm về chiếc xe. Tôi có một khu vực đỗ xe riêng dành cho nhân viên phía sau nhà thể dục, với lối vào tiện lợi hơn nhiều; chỗ đỗ xe dành riêng cho tôi, khá lớn để những chiếc xe của người khác không lại gần được, ở ngay phía trước cửa. Là người sở hữu cũng có mặt mạnh của nó. Tuy nhiên, là một người chủ tốt bụng, tôi cũng cho dựng những tấm kim loại lớn che kín phía sau nhà thể dục để chúng tôi có thể đậu xe dưới mái che và được che chắn khi chui ra, chui vào xe. Khi trời mưa, tất cả mọi người đều tán thưởng cái mái che đó. Tôi là chủ nhưng tôi không tin tưởng vào việc hống hách với nhân viên của mình. Ngoại trừ chỗ đỗ xe, tôi không đòi hỏi bất cứ đặc quyền nào cả. Ừm, tôi nghĩ là việc ký vào phiếu trả lương của họ đã là một mối lợi to lớn rồi, và tôi đã quản lý tất cả tiền nong và đưa ra tất cả các quyết định cuối cùng, nhưng tôi cũng trông chừng cho tất cả bọn họ. Chúng tôi có gói bảo hiểm y tế rất tốt, bao gồm cả nha khoa, tôi trả cho họ tiền công hậu hĩnh - cộng với việc họ được thoải mái nhận dạy lớp học riêng của mình vào ngày nghỉ để có thêm thu nhập - và tôi cho họ rất nhiều kỳ nghỉ. Vì lý do này, tôi không phải thay thế nhân viên nhiều lắm. Một số thay đổi không tránh được bởi vì cuộc sống thay đổi và người ta chuyển đi, những thứ kiểu đó, nhưng hiếm khi nhân viên của tôi bỏ việc để làm một công việc khác trong vùng. Giữ chân nhân viên rất tốt cho việc kinh doanh. Khách hàng thích cảm thấy họ quen biết giáo viên và người huấn luyện. Thời gian đóng cửa là chín giờ tối và tôi thường ở lại khoá cửa để nhân viên của tôi có thể về nhà với gia đình hoặc tham gia cuộc sống xã hội hay bất cứ điều gì khác. Đừng cho rằng điều đó nghĩa là tôi không có cuộc sống xã hội. Thực sự là giờ tôi không còn hẹn hò nhiều như ngày vừa mới li dị, nhưng Great Bods chiếm nhiều thời gian của tôi và nó cũng quan trọng với tôi nên tôi chăm lo cho công việc của mình. Tôi có ý tưởng sáng tạo mới cho việc hò hẹn của mình: chúng tôi sẽ đi ăn trưa, điều đó rất tốt nếu như anh chàng đó hoá ra không tuyệt như tôi hi vọng bởi vì "bữa trưa" thì chỉ có hạn. Bạn gặp gỡ, bạn ăn, bạn rời đi. Nhờ vậy mà nếu tôi không khoái buổi hẹn hò đó, tôi sẽ không phải né tránh anh ta hay nghĩ ra lý do xin thứ lỗi không thoả đáng vì không thể mời anh ta vào nhà. Bữa trưa có vai trò rất tốt, sự sáng suốt trong hẹn hò. Nếu tôi thích anh ta thì sẽ có nhiều tuỳ chọn mở ra sau đó, chẳng hạn như một cuộc hẹn hò thực sự sau giờ làm hoặc vào chủ nhật khi Great Bods đóng cửa. Dù sao, vào một đêm - tôi đã nói rằng tôi từng chứng kiến một vụ giết người, phải không nhỉ? - tôi khoá cửa như mọi khi. Muộn một chút vì tôi đang tiếp tục luyện tập các kỹ xảo; bạn không bao giờ biết được khi nào bạn cần thực hiện cú backflip đâu. Tôi luyện tập đến khi mướt mồ hôi, vì thế tôi tắm và gội đầu trước khi vớ lấy đống đồ của mình và tiến về phía cửa cho nhân viên. Tôi tắt đèn rồi mở cửa và bước ra ngoài mái che. Ồ, chờ đã, tôi đi hơi quá rồi. Tôi chưa nói về Nicole. Nicole Goodwin "gọi tôi là Nikki" là cái gai của tôi. Cô ta gia nhập Great Bods khoảng một năm trước và lập tức khiến tôi phát điên mặc dù mất hai tháng tôi mới nhận thấy. Nicole là một trong những người có giọng nói nhẹ như hơi thở khiến ngay cả những người đàn ông mạnh mẽ cũng phải tan chảy. Điều đó khiến tôi muốn kìm hãm cô ta lại. Có cái quái gì trong giọng nói thì thầm bắt chước MariLyn Monroe lại khiến đàn ông thích thế nhỉ? Một số đàn ông, ít ra là vậy. Nicole cũng quét lên mình sự ngọt ngào giả dối khi cô ta nói chuyện nữa; thật lạ là những người quanh cô ta vẫn chưa bị làm sao bị bệnh tiểu đường đấy. Ít ra cô ta cũng không làm cái trò lấy-tay-xoắn-xoắn-tóc. Nhưng đó là bởi vì tôi không làm thế - trừ phi tôi đang trêu chọc ai đó, vậy đấy. Nhìn chung, tôi chuyên nghiệp hơn. Bạn thấy rồi đấy, cô ta là con mèo bắt chước. Và tôi là con mèo mà cô ta bắt chước theo. Đầu tiên là tóc. Tóc tự nhiên của cô ta chỉ hơi vàng thôi nhưng trong vòng hai tuần vào Great Bods, tóc cô ta trở nên vàng óng, uốn thành từng lọn. Giống như của tôi, thực tế là thế. Khi đó tôi không thực sự chú ý bởi vì tóc cô ta không dài như tóc tôi nhưng chỉ một thời gian ngắn sau, khi tất cả những chi tiết nhỏ bắt đầu đâu vào đấy thì tôi nhận ra rằng tóc cô ta có cùng màu với tôi. Rồi cô ta bắt đầu cột tóc đuôi ngựa để khỏi vướng víu khi cô ta tập luyện. Thử đoán xem ai cũng buộc tóc lên khi cô ấy tập luyện nhỉ? Tôi không trang điểm đậm khi làm việc bởi vì nó phí thời gian: nếu một cô gái nóng bừng mặt đến mức độ nào đó thì lớp trang điểm biết mất. Ngoài ra, da tôi khá đẹp với đôi lông mày và lông mi sậm màu nên tôi không lo lắng về khuôn mặt mộc. Tuy nhiên, tôi thích dùng sữa dưỡng có hạt li ti lấp lánh khiến cho da tôi lung linh huyền ảo. Nicole hỏi tôi dùng loại sữa dưỡng nào và như một kẻ đần độn, tôi nói cho cô ta biết. Ngày hôm sau, da Nicole cũng lung linh như vậy. Bộ đồ tập luyện của cô ta bắt đầu trông giống của tôi: áo nịt và vớ phủ chân khi tôi tập luyện, với quần yoga xắn lên khi tôi đi xem xét tổng quan các hoạt động tập luyện. Nicole bắt đầu mặc áo nịt ngực và vớ phủ chân, nếu không thì cô ta nhún nhảy quanh quẩn trong cái quần yoga. Và ý của tôi là nhún nhảy. Tôi còn không tin là cô ta có áo lót. Thật không may, cô ta là một trong những người phụ nữ nên có mấy thứ đấy. Các thành viên nam của tôi (tôi thích nói thế) dường như thích cách ăn mặc lố lăng này, nhưng tất cả những cái đưa đẩy đó khiến tôi hoa cả mắt, nên nếu tôi phải nói chuyện với cô ta, tôi tập trung vào duy trì việc tiếp xúc bằng ánh mắt. Rồi cô ta có một chiếc mui trần màu trắng. Nó không phải là một chiếc Mercedes, nó là chiếc Mustang nhưng nó vẫn - màu trắng và nó là chiếc mui trần. Còn gì rõ ràng hơn nữa mà cô ta có thể tạo ra đây? Có lẽ tôi nên thấy là mình được tâng bốc, nhưng tôi không thấy vậy. Không có vẻ như Nicole thích tôi và sao chép tôi vì ngưỡng mộ. Tôi nghĩ cô ta ghét tôi. Cô ta luôn tạo vẻ ngọt ngào thái quá khi nói chuyện với tôi, bạn biết không? Kiểu-nói-Nicole "Ồ, chị yêu, đó phải là đôi hoa tai tuyệt nhất đấy!" có nghĩa là "Tôi muốn nhổ nó ra khỏi tai bà và để lại cái tai máu chảy ròng ròng, mụ chó cái ạ." Một trong những thành viên của trung tâm - một phụ nữ, tất nhiên - thậm chí một lần còn nhận xét sau khi nhìn Nicole khệnh khạng bỏ đi, các bộ phận cơ thể nảy tưng tưng, như sau: "Ngời phụ nữ đó sẽ xé toạc cổ họng chị, đổ xăng lên người chị, đốt cháy chị và vứt chị vào máng xối rồi quay lại và nhảy nhót trên đống tro tàn của chị khi lửa tắt." Thấy chưa? Không phải tôi đặt điều đâu nhé. Bởi vì tôi mở cửa tự do, tôi phải cho phép bất cứ ai muốn tham gia được tham gia, nhìn chung thì nó cũng chẳng sao, mặc dù có lẽ tôi nên phân loại những thành viên tóc tai trước, nhưng có một điều khoản mà tất cả những người tham gia phải chấp nhận là nếu có ba thành viên khác phàn nàn về hành vi, cách cư xử trong phòng thay đồ hoặc một số lần vi phạm nào đó trong một năm thì người bị phàn nàn sẽ không được tham gia tiếp khi hết hạn làm hội viên. * Search: Là một người chuyên nghiệp, tôi sẽ chẳng đá đít Nicole đi chỉ bởi vì cô ta làm tôi bực mình chết đi được. Nó làm tôi khó chịu nhưng tôi vẫn kiềm chế vì tôi phải là người chuyên nghiệp. Tuy nhiên, là Nicole, cô ta thường xuyên gây khó chịu, lăng mạ, sỉ nhục, hay nói chung là gây bực mình với tất cả những người phụ nữ cô ta giao thiệp trong ngày. Cô ta bày bừa trong khu vực thay dồ và để cho người khác dọn dẹp. Cô ta cạnh khoé người khác khi người ta không có phom người chuẩn và chiếm dụng máy tập mặc dù quy định là chỉ được dùng tối đa là ba mươi phút cho một lần tập. Đa phần người ta chỉ than phiền bằng cách chê bai, nhưng cũng có một số phụ nữ đến nói với tôi với đôi mắt toé lửa và nhất quyết đòi ghi vào phiếu phàn nàn. Tạ ơn chúa, Jesus. Số lời than phiền được ghi lại trong hồ sơ của Nicole đã hơn con số ba khi thẻ hội viên của cô ta hết hạn và tôi có thể nói với cô ta - một cách dịu dàng, tất nhiên là vậy - rằng cô không được gia hạn thẻ hội viên nữa và cô ta nên thu dọn sạch sẽ tủ đựng đồ của mình. Kết quả là một tiếng kêu thét có thể làm cả con bò ở nước bên cạnh sợ hãi. Cô ta chửi tôi là chó cái, đĩ điếm, con đàn bà dâm đãng và đó mới chỉ là khởi đầu. Tiếng chửi bởi the thé của cô ta mỗi lúc một to hơn, chỉ đủ lôi kéo được sự chú ý của tất cả mọi người ở Great Bods và tôi nghĩ cô ta sẽ đánh tôi mất nếu cô ta không biết rằng tôi sung sức hơn cô ta và chắc chắn sẽ đánh trả cô ta, mạnh hơn. Cô ta gạt phăng mọi thứ trên bàn - hai chậu cây, đơn xin gia nhập, hai cái bút bi - xuống sàn nhà và bắn một phát đạn cuối cùng trước khi đi khỏi, nói rằng sẽ cho luật sư của cô ta liên hệ với tôi. Tốt thôi. Bất cứ điều gì. Tôi sẽ điều luật sư của tôi kiện cô ta một ngày nào đó. Siana còn trẻ nhưng nó có thể gây chết người, và nó không ngại chơi bẩn. Chúng tôi thừa hưởng điều đó từ mẹ. Những người phụ nữ túm tụm xung quanh xem cơn thịnh nộ của Nicole vỗ tay tán thưởng khi cánh cửa đóng lại sau cô ta. Đàn ông thì chỉ đơn thuần tỏ ra ngơ ngác. Tôi vãi đái vì Nicole không dọn dẹp tủ đựng đồ của cô ta nên tôi sẽ phải cho cô ta quay lại một lần nữa để cô ta lấy tất cả những gì thuộc về cô ta. Tôi nghĩ về chuyện hỏi Siana về việc tôi có thể đòi Nicole sắp xếp cuộc hẹn để dọn hết những thứ trong tủ để đồ của cô ta và yêu cầu có một cảnh sát làm nhân chứng cô ta đã thu hết đồ và ngăn chặn một cơn thịnh nộ khác hay không. Thời gian còn lại trong ngày trôi qua trong sự rực rỡ huy hoàng. Tôi đã thoát khỏi Nicole! Tôi thậm chí chả buồn quan tâm đến việc dọn dẹp cái đống bừa bộn cô ta gây ra bởi vì cô ta đã đi rồi, đi rồi, đi rồi. OK. Đó là những gì về Nicole. Để tôi quay lại với cái đêm tôi ở cửa vào phía sau, vân vân và vân vân. Ánh đèn đường ở góc chiếu sáng khu vực đỗ xe nhưng bóng tối vẫn sâu thẳm. Mưa phùn rơi đều đều làm tôi lẩm nhẩm chửi thề bởi vì con đường chết giẫm sẽ làm bẩn xe tôi và màn đêm bao phủ sương mù. Mưa và sương mù chẳng phải là một sự kết hợp hoàn hảo gì. Tạ ơn Chúa, tôi không làm tóc xoăn nên tôi chả phải phiền lòng vì những sợi tóc xoăn tít trong những trường hợp kiểu thế này. Nếu bạn đã từng có cơ hội trở thành nhân chứng cho một sự kiện vô cùng đáng giá, ít ra bạn cũng muốn trông mình ở tình trạng tốt nhất. Tôi khoá cửa và quay ngang trước khi tôi nhận ra chiếc xe ở góc sau của khu đỗ xe. Nó là một chiếc Mustang màu trắng. Nicole đang chờ tôi, chết tiệt thật. Dây thần kinh báo động của tôi rung lên ngay lập tức, báo động làm tôi mệt mỏi - thì trước đó cô ta đã trở nên hung dữ mà - tôi lùi lại dí lưng vào tường để cô ta không thể tóm lấy tôi từ đằng sau. Tôi nhìn theo tất cả các hướng, cho rằng cô ta sẽ tiến đến phía tôi từ trong bóng tối nhưng không có gì xảy ra hết và tôi lại nhìn chiếc Mustang, tự hỏi liệu có phải cô ta đang ngồi trong đó và chờ tôi không. Cô ta sẽ làm gì, bám theo tôi ư? Hay cô gắng đuổi bắt tôi trên đường? Tiến đến ngang xe tôi và bắn tôi vài phát đạn? Đối với cô ta, tôi không thể nói trước điều gì. Mưa và sương mù khiến khó có thể nói được có ai ngồi trong chiếc Mustang không, nhưng rồi tôi nhận thấy có bóng người ở phía bên kia chiếc xe, và tôi nhìn thấy một mái tóc vàng hoe. Tôi thò vào túi lấy chiếc điện thoại và bật lên. Nếu cô ta bước đến phía tôi một bước, tôi sẽ gọi 911. Rồi cái hình dáng phía bên kia chiếc Mustang bắt đầu động đậy và di chuyển, một cái bóng to hơn và tối hơn tách ra khỏi Nicole. Trời đất. Ôi, quỷ thật, cô ta đưa người đến để đánh tôi. Tôi bấm số 9 và số 1 đầu tiên. Một tiếng nổ xé toạc màn đêm làm tôi nhảy dựng lên và ý nghĩ đầu tiên của tôi là sẽ có ánh sáng loé lên gần đó. Nhưng đó không phải là loại loé sáng hay làm rung chuyển mặt đất. Rồi tôi nhận ra âm thanh đó có lẽ là tiếng súng và tôi có thể là mục tiêu, tôi thét lên vì hoảng loạn khi tôi ngã cả bốn vó xuống sau chiếc xe. Thực tế là tôi đang cố hét nhưng tất cả những gì phát ra chỉ như tiếng của Minnie Mouse khiến tôi sẽ phải xấu hổ nếu tôi không phải đang trong trạng thái sợ gần chết. Nicole không nhờ đến cơ bắp; cô ta nhờ một kẻ giết mướn. Tôi làm rơi điện thoại và trong bóng tối, tôi không thể nhìn thấy nó. Chẳng ích gì nếu tôi cố gắng nhìn ngó xung quanh khi tôi thực sự không thể mất thời gian tìm điện thoại. Tôi bắt đầu khua tay trên nền để cố gắng định vị nó. Ôi, cứt thật, sẽ ra sao nếu kẻ giết mướn kia đến đây để xem hắn đã bắn trúng tôi ngay phát đầu tiên chưa? Ý tôi là, tôi đã ngã xuống đất nên nghĩ rằng tôi bị bắn trúng là hoàn toàn có lý. Tôi có nên ép bẹp dí mình xuống và giả vờ chết không nhỉ? Trườn dưới chiếc xe? Cố gắng quay lại toà nhà và khoá cửa lại? Tôi nghe tiếng động cơ khởi động và nhìn lên khi chiếc xe bốn chỗ từ từ đi lên con đường hẹp và khuất khỏi tầm nhìn dọc theo toà nhà. Tôi nghe nó chậm lại và dừng ở chỗ giao với con đường bốn làn, Parker, ở phía trước rồi hoàn toàn hoà dần vào dòng xe cộ. Đó có phải kẻ giết mướn không nhỉ? Nếu có ai đó khác ở khu đỗ xe, chắc hẳn anh ấy hoặc cô ấy đã nghe thấy tiếng súng và không lái xe đi bình thản như thế. Chỉ có kẻ bắn người mới lái xe bình thản như vậy, đúng không? Bất cứ ai khác cũng sẽ chẳng dám đi khỏi đây, như tôi đang liều lĩnh muốn vậy. Chắc là Nicole đã nghĩ ra lý do đáng xấu hổ để thuê tên giết mướn đó; hắn còn chẳng thèm kiểm tra xem chắc chắn tôi đã chết chưa. Nhưng nếu gã giết mướn có bỏ đi chăng nữa thì Nicole đâu? Tôi chờ đợi và nghe ngóng nhưng chẳng có tiếng bước chân hay âm thanh chiếc Mustang khởi động gì cả. Tôi nằm ép bụng xuống và len lén nhìn qua một trong những bánh xe trước của tôi. Chiếc Mustang trắng vẫn đỗ ở bãi đỗ xe nhưng không hề có dấu hiệu gì của Nicole cả. Cũng không có ai đi ngang qua chạy vào kiểm tra tiếng súng hay xem có ai bị thương hay không. Great Bods nằm ở một quận khá tốt với những cửa hiệu nhỏ và nhà hàng gần đó, nhưng không có nhà dân - các cửa hiệu và nhà hàng cung cấp thực phẩm cho hầu hết các công sở quanh đây vì thế tất cả các nhà hàng đều đóng cửa vào sáu giờ, các cửa hiệu cũng không mở cửa sau đó. Nếu có ai đó rời khỏi Great Bods muộn hơn và muốn ăn sandwich thì nơi gần nhất cũng cách khoảng năm toà nhà. Cho đến bây giờ, tôi chưa từng nhận ra khu vực đỗ xe của nhân viên đơn độc thế nào vào giờ đóng cửa. Không ai khác nghe thấy tiếng súng. Chỉ mình tôi. Tôi có hai lựa chọn. Chìa khoá xe tôi ở trong ví. Tôi có hai chùm chìa khoá bởi vì số chìa khoá tôi cần cho nhà thể dục này làm chùm chìa khoá quá cồng kềnh khi tôi đi làm mấy việc lặt vặt hoặc mua sắm. Tôi có thể lấy chìa khoá xe không chậm trễ, mở khoá xe bằng điều khiển từ xa và nhảy vào trước khi Nicole có thể nhìn thấy tôi - trừ vì cô ta đứng ngay ở bên kia xe của tôi. Tôi không biết được cô ta nghĩ gì, nhưng điều gì cũng có thể. Nhưng chiếc xe, đặc biệt là chiếc mui trần, không đủ để giữ khoảng cách với con mèo bắt chước bị thần kinh ấy. Sẽ ra sao nếu cô ta có một khẩu súng? Tấm mui mềm không ngăn được đạn. Lựa chọn khác là moi chùm chìa khoá to của nhà thể dục ra khỏi túi, cảm nhận tìm chiếc chìa khoá cửa, mở khoá rồi chui vào trong. Việc này mất thời gian hơn nhưng tôi sẽ an toàn hơn nhiều đằng sau cánh cửa đã khoá. Ừm, tôi nghĩ tôi còn lựa chọn thứ ba, tôi sẽ tìm kiếm Nicole và cố gắng nhảy bổ vào cô ta, tôi có thể nếu tôi biết chắc chắn cô ta không có súng. Mặc dù vậy, tôi không biết chắc, nên chẳng có cách nào chơi trò anh hùng cả. Tôi có mái tóc vàng hoe nhưng tôi không ngu. Ngoài ra, đánh nhau cũng làm gẫy ít nhất hai cái móng tay của tôi. Nhất định thế. Vì thế tôi khua khoắng túi cho đến khi thấy những chiếc chìa khoá của mình. Chùm chìa khoá có cái gì đó ở giữa giữ mấy cái chìa không bị trượt lung tung để chúng luôn luôn theo đúng thứ tự. Chìa khoá cửa là cái đầu tiên bên trái. Tôi tách nó ra, rồi, ngồi thấp người, bước đi như vịt ngược trở lại cửa. Chuyển động kiểu đó trông thực sự khủng khiếp nhưng đó là cách luyện tập rất tuyệt cho đùi và mông. Không có ai nhảy xổ vào tôi. Không có âm thành nào ngoại trừ âm thanh xe cộ xa xa trên đường Parker, và không hiểu vì sao chuyện này còn đáng sợ hơn cả việc nếu như cô ta gào thét nhảy qua nóc chiếc xe của tôi và lao vào tôi. Không phải là tôi nghĩ Nicole có thể nhảy xa như thế, trừ phi là kỹ năng thể dục của cô ta rất, rất khá, khá hơn cô ta đã thể hiện, và tôi thì biết thừa là không được như thế, cô ta chỉ là mẫu người khoa trương thôi. Cô ta còn chẳng thể thực hiện được một cú split, và nếu cô ta có thử làm một cú backflip thì chắc sức nặng của ngực cô ta sẽ làm cô ta ngã đập mặt. Chúa ơi, tôi ước giá như cô ta thử làm cú backflip một lần. Tay tôi chỉ còn run một chút - ừm, hơn một chút một tẹo thôi - nhưng tôi vẫn có thể mở khoá cửa ngay lần mở đầu tiên. Thực tế là tôi đã bắn qua khe cửa và thực sự, tôi ước giá mà tôi cho mình có thêm một hay hai inch trống nữa vì tôi đã làm tím tay mình khi va vào rầm cửa. Nhưng rồi tôi cũng đã ở bên trong và tôi đóng sầm cửa lại, cài then, rồi lui lại đề phòng cô ta bắn qua cửa. Tôi luôn để hai ngọn đèn công suất thấp sáng vào ban đêm nhưng chúng đều ở phía trước. Công tắc đèn ở hành lang sau ở ngay cạnh cửa, tất nhiên là vậy, và không đời nào tôi đi đến quá gần cửa. Bởi vì tôi không thể nhìn thấy tôi đi đâu nên tôi tiếp tục lần mò dọc theo hành lang - rồi đến phòng nghỉ và cuối cùng đến cánh cửa thứ ba, đó là văn phòng tôi. Tôi cảm thấy như cầu thủ bóng chày chạy về đến đĩa nhà. An toàn! Bây giờ giữa tôi và ả chó cái là những bức tường và cánh cửa đã khoá, tôi đứng dậy và bật đèn trần rồi nhặt điện thoại lên, giận dữ bấm số 911. Nếu cô ta nghĩ rằng tôi không khiến cô ta bị bắt vì điều này, cô ta đã hoàn toàn đánh giá thấp mức độ giận dữ của tôi rồi. ... Mời các bạn đón đọc Hẹn Hò Theo Kiểu của Em của tác giả Linda Howard.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Thế Gian Này, Nếu Chẳng Còn Mèo
Tôi là một kẻ khá thích thú với văn hóa Nhật, cho nên phim ảnh, âm nhạc hay văn học Nhật Bản tôi tìm hiểu khá nhiều, và trong một lần tình cờ ngồi tìm phim của diễn viên Satoh Takeru, tôi đã biết đến bộ phim với tiêu đề "Thế gian này, nếu chẳng còn mèo". Bộ phim đã khiến tôi cảm thấy thực xúc động và có chút đồng cảm với nội dung đầy tính nhân văn pha chút đau buồn và day dứt. Tôi có thói quen nếu gặp một bộ phim nào thấy ưng ý, và nhiều ý nghĩa thì sẽ ngay lập tức tìm kiếm những câu nói, trích dẫn từ bộ phim đó. Và thật bất ngờ bộ phim này được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên. Là một kẻ thích đọc sách, chẳng có lý do gì khiến tôi lại không tìm kiếm và đọc ngay cuốn sách giàu cảm xúc này. "Thế gian này nếu chẳng còn mèo" kể về một anh bưu tá đột nhiên nhận được tin mình bị ung thư và chỉ còn vài ngày để sống. Rồi đột nhiên từ đâu đó xuất hiện một kẻ tự nhận mình là một con quỷ, mang lại cho anh cơ hội để tiếp tục sống. Cứ mỗi ngày, con quỷ yêu cầu anh xóa đi một thứ để đổi lại một ngày sống. Điện thoại, phim ảnh, đồng hồ lần lượt được con quỷ xóa mất khỏi thế giới hiện tại giúp anh chàng có thêm những ngày sống, tận hưởng và tìm ra những điều đẹp đẽ của cuộc sống. Nhưng rồi, khi tới lượt lựa chọn việc cho loài mèo bị biến mất hoặc chính bản thân biến mất anh đã nhận ra rằng cái chết đôi khi không quá đáng sợ, không phải là bất hạnh. Cái chết mang màu sắc ra sao tùy thuộc vào cách ta sống thế nào. Trong chúng ta luôn có những con quỷ khiến chúng ta lựa chọn sai lầm, hành động thiếu suy nghĩ gây ra những hậu quả đáng tiếc. Tuy nhiên chúng ta nên trân trọng những sai lầm mà ta mắc phải, học hỏi bài học từ chúng như cách nhân vật chính đã làm. Anh xóa bỏ điện thoại để nhận ra rằng tình yêu mà anh đã có vốn dĩ chẳng cần tới thứ phương tiện nhỏ bé nằm gọn trong lòng bàn tay. Anh xóa bỏ phim ảnh để hiểu rằng người bạn anh nên trân trọng lúc cuối cùng là ai. Anh xóa bỏ đồng hồ để cuối cùng biết rằng gia đình là nơi bình yên nhất anh có được. Và cuối cùng, thay vì xóa bỏ loài mèo để có thêm một ngày sống, anh quyết định xóa bỏ bản thân để giữ lại những điều quan trọng vốn dĩ được xây dựng bằng tình cảm, cảm xúc. "Chỉ sống thôi thì có ý nghĩa gì? Ý nghĩa nằm ở chỗ mình sống thế nào chứ, đúng không?" Cuộc sống là một chuỗi những biến cố mà chúng ta không thể nào đoán trước được. Hôm nay chúng ta vui, ngày mai chúng ta buồn. Hôm nay chúng ta nghèo đói, ngày mai chúng ta lại trở lên giàu có. Hôm nay chúng ta sống vui vẻ nhưng ngài mai, biết đâu chúng ta ra đi mãi mãi. Nhưng nếu chúng ta sống có ý nghĩa, thì chúng ta sẽ mãi không hối tiếc. *** Chỉ sống thôi thì có ý nghĩa gì? Ý nghĩa nằm ở chỗ mình sống thế nào chứ, đúng không? Chuyện là, đang sống một cuộc đời đều đều ổn định, anh bưu tá nọ phát hiện mình đã ung thư giai đoạn cuối. Ngày mai phải chết. Anh ta liền rơi vào trầm cảm, suy sụp, loạn trí, tự hành hạ...? Không đâu! Lúc biết tin, anh ta hết sức điềm tĩnh. Chỉ ngất đi thôi. Tỉnh dậy thì ác quỷ đã ngồi sẵn bên cạnh, nhưng thay vì tiễn anh ta xuống địa ngục luôn, nó đề nghị một giao dịch: Nếu bằng lòng hi sinh một thứ trên đời, anh ta sẽ thêm được một ngày sống. Cứ thế, điện thoại, phim ảnh, đồng hồ... nối đuôi nhau tan vào hư không, đổi lại số ngày sống tương ứng cho anh bưu tá. Rồi một ngày nọ, đến lượt loài mèo được đưa vào danh sách biến mất, bao gồm cả con mèo yêu dấu của anh ta... Và đây là lúc phải lựa chọn. Trên đời, có quá nhiều thứ lặng lẽ tồn tại xung quanh, nhưng dường như ta không hề để tâm đến hoặc nghĩ rằng có cũng được, không cũng chẳng sao. Để rồi lúc mất đi mới nhận ra được tầm quan trọng của chúng đối với đời mình. Khi đồng ý xóa bỏ những thứ mà ác quỷ đã lựa chọn, mối liên hệ giữa anh bưu tá với gia đình, người yêu, bạn bè, đồng nghiệp… cũng biến mất. Thế chỗ chúng, những kỉ niệm quý giá, hồi ức về hạnh phúc và mất mát, những hiểu lầm, những lỡ làng lũ lượt quay về thức tỉnh trong anh. Sống ngắn ngủi mà đầy ắp yêu thương và chấp nhận cả đớn đau, đầy ắp thành công mà chịu đựng cả thất bại… hay là sống vĩnh hằng, không hề vấp ngã nhưng quá khứ trắng tinh, hiện tại trơ lì và tương lai trống rỗng? Đây đúng là lúc thực sự phải lựa chọn. *** Nếu thế gian này bỗng chẳng còn mèo, thì nó sẽ đổi thay thế nào, cuộc đời tôi thay đổi ra sao? Nếu thế gian này bỗng chẳng còn tôi, thì nó vẫn bất biến, vẫn đón ngày mai như mọi hôm?   Có thể bạn nghĩ, tưởng tượng vớ vẩn, nhưng tôi vẫn muốn bạn tin. Bởi vì những điều tôi sắp viết, chính là trải nghiệm của tôi suốt bảy ngày qua. Bảy ngày kỳ lạ.   Chẳng bao lâu nữa, tôi sẽ rời bỏ cõi trần.   Tại sao lại nói như vậy? Tôi sắp trình bày lý do ngay đây. Chắc hẳn sẽ là một lá thư dài, nhưng mong bạn đọc cho đến hết.   Đây là lá thư đầu tiên, cũng là cuối cùng, tôi gửi tới bạn. Đây là di thư của tôi.   *** Thứ Hai Ác quỷ đến   Danh sách những việc muốn làm trước khi chết của tôi không tới mười mục. Trong một bộ phim tôi xem ngày xưa, nữ chính đã lập ra danh sách mười điều muốn làm trước khi chết. Nghe rõ xàm xí! Thật ra dùng từ “xàm xí” không chính xác mấy, nhưng chí ít những điều liệt kê trong danh sách ấy cũng chẳng phải việc ghê gớm gì. Hả, tại sao tôi lại nghĩ vậy ư? Phải nói thế nào nhỉ? Kể cũng hơi xấu hổ, nhưng tôi muốn thử lập danh sách mười điều ấy một lần.   Chuyện xảy ra bảy ngày trước. Tôi ốm suốt một thời gian dài nhưng hằng ngày vẫn cần mẫn với công việc của một bưu tá. Cơn sốt chẳng hề dứt, nửa đầu bên phải cứ ong ong. Thuốc bán ngoài hiệu như lừa đảo. Các bạn biết đấy, tôi cực ghét bác sĩ. Nhưng sau hai tuần bệnh tình không thuyên giảm, tôi quyết định tới bệnh viện. Đến rồi mới biết ấy chẳng phải cảm cúm thông thường.   Não tôi có một khối u giai đoạn bốn. Đó là kết quả chẩn đoán mà bác sĩ thông báo cho tôi. Thời gian còn lại hên thì nửa năm, xui thì một tuần. Họ đưa ra rất nhiều phương án như xạ trị, sử dụng thuốc chống ung thư, chăm sóc giảm nhẹ, nhưng không một điều nào lọt tai tôi. Hồi nhỏ, mùa hè tôi thường tới bể bơi. Làn nước vừa xanh vừa lạnh, tôi nhảy tùm xuống. Bong bóng ùng ục nổi. Thân thể tôi chìm dần. “Phải khởi động trước khi xuống nước chứ con!” Tiếng nhắc nhở của mẹ vang lên. Qua làn nước, nó trở nên xa xôi khiến tôi không sao nghe rõ. Vậy mà giờ đây, âm thanh đã lãng quên trong ký ức ấy lại vọng về. Cuộc khám bệnh lâu lắc kết thúc. Bác sĩ vừa dứt lời, tôi đã vứt bịch cặp xách xuống sàn, lảo đảo rời phòng khám. Không buồn nghe tiếng gọi giật lại của bác sĩ, tôi gào lên thật to rồi lao ra khỏi bệnh viện. Tôi va vào người đi đường, ngã bổ chừng xong lại chồm dậy, tay chân quýnh quíu bỏ chạy. Tôi cứ chạy, chạy mãi đến chân cầu thì không chạy nổi nữa, phủ phục xuống đất khóc rống lên… Bốc phét đấy! Những lúc thế này, con người ta lại bình tĩnh đến lạ lùng.   Lúc ấy, đầu óc tôi nhớ ngay tới cái thẻ tích điểm của tiệm mát xa gần nhà, chỉ còn một dấu nữa thôi là sẽ được tặng một coupon miễn phí, nhớ cả chuyện mình vừa mua một lố giấy vệ sinh và bột giặt. Đấy, toàn những chuyện vớ vẩn như thế thôi.   Nhưng rồi nỗi buồn từ từ lan tỏa trong tôi. Tôi mới 30 tuổi, ừ thì đúng là sống lâu hơn Jimi Hendrix và Basquiat thật, nhưng tôi vẫn có cảm giác còn nhiều việc tôi chưa làm, những cống hiến cho thế gian mà chỉ mình tôi đảm đương được. Nhất định có những việc như thế. Nhưng rốt cuộc tôi chẳng nghĩ ra là việc gì, chỉ lững thững bước đi, đến nhà ga thì bắt gặp hai thanh niên đang ôm ghi ta thùng gân cổ hát. Rồi một ngày kia đời người chăm dứt, Trước khi thời khắc ấy đến, Hãy làm những việc mình muốn, làm đi, làm cho kỳ hết Rồi chào đón ngày mai. Lũ ngốc! Trí tưởng tượng nghèo nàn đến thế là cùng. Cứ bám lấy cửa ga mà hát hò cả đời đi. Tôi bỗng tức tối không biết làm sao cho thỏa, thành ra đứng đấy khá lâu mới chậm rãi mò về nhà. Tôi leo lên bậc cầu thang cũ kĩ kêu cót két. Lúc mở cánh cửa ọp ẹp, nhìn thấy căn hộ chật hẹp, cuối cùng tôi cũng bị nhấn chìm trong cơn tuyệt vọng. Đúng theo nghĩa đen của cụm từ “trước mắt tối sầm”, tôi ngất lịm đi.   Cứ thế chẳng biết lâu hay chóng, tôi tỉnh dậy ở tiền sảnh. Một cục tròn vo đan xen ba màu trắng, đen, xám xuất hiện trước mắt tôi. Cục tròn ấy kêu “meo” một tiếng, ra là con mèo. Con mèo yêu của tôi đấy. Chúng tôi sống cùng nhau đã bốn năm rồi. Con mèo lại gần tôi. Nó “meo” một tiếng đây lo lắng. Tạm thời mình chưa chết. Tôi cử động thân thể. Cơn sốt vẫn chưa tan, đầu đau như búa bổ. Cái chết cứ như hiển hiện trước mắt. “Xin chào!” Giọng nói tươi vui thái quá từ trong nhà vọng ra. Tôi thử ngó vào, liền thấy mình ở đó. Không, tôi đang đứng đây kia mà! Nói đúng ra là một người khác có nhân dạng giống tôi ở đó. Tôi nghĩ ngay đến “doppelganger1”. Từ ấy được viết trong một cuốn sách tôi đọc dạo trước. Một bản ngã khác xuất hiện lúc mình sắp chết. Rốt cuộc đầu tôi đang bị ảo giác hay người ta đến đón tôi đi thật? Dù sắp ngất đến nơi nhưng bằng cách nào đó tôi vẫn trụ lại. Và giờ đây tôi quyết định thẳng thắn đối mặt với tình huống này. Mời các bạn đón đọc Thế Gian Này, Nếu Chẳng Còn Mèo của tác giả Genki Kawamura.
Bánh Mì Cô Đơn
Cuốn tiểu thuyết Bánh Mì Cô Đơn của tác giả Judith Ryan Hendricks viết về những thân phận phụ nữ hết sức đời thương. Là Wyn Morrison, biết rất nhiều nhưng không rõ mình muốn gì? Là Christine Mayle, yêu sàn diễn đến cháy bỏng, nhưng không dễ gì tìm được người đàn ông của đời mình. Là người mẹ hoàn hảo của Wyn, sau nhiều năm trời im lặng đã mở ra những tâm sự chân thành cùng con gái. Là những phụ nữ vừa bình dị vừa độc đáo ở hiệu bánh Quen Srteet. Tất cả ít nhiều đã giúp Wyn nhìn lại chính mình sau khi mải sống cuộc đời nhung lụa của một cô vợ được cưới về chỉ cốt để làm sang cho chồng. Và rồi Wyn nhận ra rằng thứ công việc cầm cự mưu sinh ở tiệm bánh mì đã an ủi lòng cô một cách kỳ diệu và bất ngờ giúp cô một lần nữa hiểu được rằng chẳng có gì giống như trước nữa... Bánh mì nở ra, những nỗi đau dịu lại, trái tim được hàn gắn, và cánh cửa tương lai hé mở. *** Có thứ nữ tính ngọt ngào như mật ong sánh lăn trên lát bánh mì phết bơ, có thứ nữ tính nồng nàn như cà phê ấm sực một góc mùa đông, lại có thứ nữ tính vụng về đáng mến trong những tâm sự khù khờ, và cũng có thứ nữ tính ram rám mà cảm động đến thắt lòng. “Bánh mì cô đơn” là bản dịch đã theo tôi trong hai năm, qua năm thành phố, ba đất nước, hai châu lục, với rất nhiều khắc khoải của cuộc sống và nỗi cô đơn của chính tôi. Với bản thân, tôi coi đây là cuốn sách cho tuổi tam thập nhi lập, và cho phần cứng rắn quyết liệt gàn dở bên trong đội lốt ẻo lả nhõng nhẽo mau nước mắt bên ngoài của mình. Là người dịch, phần nào có nghĩa là phải bắt được thần thái của nhân vật và khiến nhân vật hiện lên sống động và sắc nét bằng từ ngữ. (Trừ trường hợp các nhân vật vốn nhạt nhòa ngay từ trong nguyên tác). Dù chủ ý nhận dịch tác phẩm ở những thể loại khác nhau, tôi vẫn coi mình là một kẻ học việc, tìm cách mở rộng “vùng dễ chịu” của mình để đến với những tác phẩm, những nhân vật lạ lùng hơn, gai góc hơn, khác với bản thân tôi hơn. “Bánh mì cô đơn” là một ca từa tựa như vậy, với dàn nhân vật nữ mỗi người một vẻ, từ mơ màng đa đoan, cá tính quyết liệt, trầm tư giản dị, đến nanh nọc cục súc, và nhẫn nại một cách đầy ích kỷ. Có thứ nữ tính ngọt ngào như mật ong sánh lăn trên lát bánh mì phết bơ, có thứ nữ tính nồng nàn như cà phê ấm sực một góc mùa đông, lại có thứ nữ tính vụng về đáng mến trong những tâm sự khù khờ, và cũng có thứ nữ tính ram rám mà cảm động đến thắt lòng. Nguyên tác là của tác giả, nhưng tôi tìm thấy những mặt khác nhau của mình trong từng nhân vật, và bản dịch có một phần của tôi trong đó… *** TIẾNG THIẾT BỊ BÁO CHÁY bíp bíp đánh thức tôi dậy. Gượm đã. Thiết bị báo cháy bình thường rít lên chứ có bíp bíp thế này đâu. Tôi ngồi dậy, thấy căn phòng đang chao đảo, mọi thứ méo đi như hình ảnh trong gương nhà cười. Tiếng đồng hồ báo thức chăng? Tôi quay đầu quá nhanh. Đau buốt như một kiểu tra tấn cổ xưa của người da đỏ bộ tộc Apache vậy. Những dải da mới lột còn ướt, được bó chặt lại, kệ cho khô. Tôi thả chân xuống qua mép giường, chớp hai mí mắt sưng húp. Khoang miệng khô nghẹt như tấm lưới chắn bụi vải trong máy sấy quần áo. Tôi vẫn đang mặc chân váy lót và áo sơ-mi lụa màu ngà từ tối hôm qua. Đồng hồ đeo tay trượt đi, lằn một rãnh sâu lên cánh tay tôi: 6:45 phút sáng. Một chai Puligny-Montrachet rỗng không trên bàn. Hình như chỉ có rượu rẻ tiền mới làm người uống nhức đầu thôi chứ. Tôi đã làm cái quái gì với chiếc ly nhỉ? Tôi đứng dậy, chân bước loạng choạng. Đi xuống nhà. Từ từ nào. Bám vào tay vịn cầu thang. Vào bếp. Máy làm bánh mì. Sao cái máy bé tí mà kêu to thế? Tiếng bíp bíp phát ra cùng nhịp điệu với mạch đập của tôi. Tôi ấn nút. Cái máy ngừng kêu và nắp bật mở, tỏa ra một đám mây mùi bánh. Tôi quay vội đi và nôn vào bồn rửa. Tôi vặn nước súc miệng, đứng thở và bám vào thành đá lạnh ngắt của mặt bàn bếp. Rồi tôi nhớ ra. David. Tôi nhấc ổ bánh còn ấm ra, đặt trên mặt tấm thớt nặng bằng gỗ phong, một ổ bánh nâu hoàn hảo. • • • Công ty giới thiệu việc làm là một văn phòng bận rộn trong một tòa nhà bằng kính và thép gần sân bay Los Angeles. Các cửa sổ nhìn ra quang cảnh ngoạn mục trên đường cao tốc liên bang 405, mười giờ rưỡi sáng mà xe cộ vẫn nối nhau san sát. Các ứng viên đông kín khu vực chờ - đa phần là phụ nữ trông trẻ hơn tôi chừng chục tuổi, hình như cô nào cũng tên là Heather, Fawn hoặc Tiffany. Nơi này có chút khí thế hừng hực như những căn phòng bàn chiến sự trong các bộ phim về Thế chiến II. Thiếu mỗi ông Winston Churchill là đủ bộ. Chẳng có ai thủng thẳng chuyện gẫu bên đài phun nước. Ai ai cũng lăm lăm điện thoại, bấm bấm bàn phím, hoặc đi phăm phăm ở hành lang, ánh mắt găm thẳng, tránh mọi sự phân tán mất tập trung. Giống hệt như tôi. Ngoại lệ duy nhất là một phụ nữ trẻ ngồi ở bàn phía trước. Khi đã chuốt xong cái móng tay ương bướng bị xước, cô ấy nhìn lên và mỉm cười. - Tôi giúp được gì không? Tôi cố gắng vui vẻ tách mình khỏi guồng quay này. - Tôi có hẹn với chị Lauren lúc mười một giờ. Tôi biết mình đến sớm, nhưng... - Không sao. - Cô ấy đưa tôi một bảng cứng kẹp mấy mẫu giấy tờ. - Chị điền vào cái này, rồi chúng tôi sẽ tiếp tục với phần phỏng vấn và kiểm tra chị. Cô ấy đưa tôi cái bút chì; chỉ dãy ghế bằng sắt và da bọc kê dọc một mảng tường. Còn kiểm tra gì nữa? Nhiêu khê quá. Tôi ngồi xuống ghế; đầu vẫn còn lùng bùng bất kể đã uống hai viên aspirin và một tách đúp cà phê espresso. Giải quyết từng thứ một nào. Tên: “Justine Wynter Franklin”. Có lẽ không nên dùng tên sau khi đã kết hôn. Tôi cố gắng xóa chữ “Franklin” đi, nhưng cục tẩy vừa cũ vừa bở, càng tẩy càng lem nhem. Tôi gạch đi, viết chữ “Morrison” đè lên. Bây giờ trông có vẻ như tôi không chắc chắn. Địa chỉ. Số điện thoại. Tôi điền được dễ dàng. Ngày sinh. Số an sinh xã hội. Loại công việc mong muốn. Có lẽ viết “Không biết” thì không hay lắm. Tôi điền “Việc văn phòng”. Chung chung quá ư? Kỹ năng. Tôi nhìn chằm chằm vào khoảng trống trên giấy. Nó như đang doãng ra, thách tôi có dám điền vào hay không. Thực ra tôi vẫn có thể ngâm Ballade des pendus, khúc ba-lát cho những kẻ treo cổ của François Villon. Hoặc bàn về ảnh hưởng của Cách mạng Công nghiệp đối với tiểu thuyết Anh. Để xem nào... Tôi nấu được thứ cơm hoàn hảo, không có chút nước đọng nào ở đáy nồi, từng hạt cơm tơi bông nở đều. Tôi biết cách làm hồ tiêu và hạt bách xù để lâu ngày trong tủ bếp dậy mùi trở lại như mới, hoặc đánh mượt sốt crème anglaise bị vón. Nếu cần làm mềm thịt bằng nút bấc chai rượu, hoặc tách sáp nến khỏi khăn trải bàn, cứ việc tìm đến tôi. Từ khoảng cách năm mươi bước chân, tôi có thể phân biệt được khăn quàng chính hãng Hermès với hàng Hàn Quốc nhái. Tôi có cú ve trái cắt mặt sân quần vợt rất mạnh mẽ. Cách đây lâu lẩu lầu lâu rồi, tôi biết đánh máy chữ, nhưng với một tốc độ chẳng có gì đáng khoe cả. Ai đó từng nói rằng giọng tôi trả lời điện thoại nghe rất êm tai. “Trả lời điện thoại chăng?” - Cô Justine Franklin? Giật mình, tôi nhìn lên. - Chào cô, tôi là Lauren Randall. Người phụ nữ đứng trước mặt tôi mỉm cười phô ra hàm răng hoàn hảo. Trông chị ấy có vẻ tự nhiên thoải mái như đang ở nhà mình. Tầm bốn mươi tuổi, đẹp một cách thanh lịch hơn là xinh đẹp, vẫn trên người bộ váy lụa đũi màu be. Mái tóc vàng của chị ấy vẫn gọn phía sau, chặt đến mức trông như cặp lông mày nhướn lên một vẻ ngạc nhiên. Khi tôi đứng lên để bắt bàn tay Lauren đã chìa ra, tấm bảng cứng kẹp giấy tờ trượt rơi xuống sàn. Mặt nóng bừng, tôi vội nhặt nó lên, phớt lờ mọi ánh nhìn, đi theo Lauren dọc hành lang trong khi chị ấy bắt đầu gợi chuyện một cách hết sức bài bản. - Tôi rất mừng được gặp người mặc áo vest. Chắc cô không hình dung nổi đủ loại trang phục tôi từng thấy đâu. Các bạn nữ trẻ trung đến đây mà cứ như đi biển chứ chẳng có vẻ gì là đi tìm việc làm. Thế là tôi đã nằm ngoài diện “các bạn nữ trẻ trung”... Lauren nhận bảng kẹp giấy tờ từ phía tôi, đưa tôi vào phòng làm việc của chị, một phòng nhỏ xíu với hai chiếc ghế và một bàn nhỏ chất đầy tài liệu. - Xem chúng ta có gì nào. Cô đang tìm loại công việc gì? - Việc văn phòng nói chung chị ạ. Sắp xếp giấy tờ, trả lời điện thoại... Có khoảng năm chục bộ phim thuộc thể loại mẹ tôi thích, trong đó cô Doris Day, một kiểu bạn nữ trẻ trẻ xinh xinh, rời nhà đi chinh phục chốn phồn hoa đô hội và kiếm được một chân thư ký - nói như vậy là đủ thấy tôi chẳng trẻ trung gì nữa rồi. ngày đầu tiên làm việc ở một công ty quảng cáo danh tiếng, cô ấy - nhã nhặn trong váy liền màu hồng với cổ cánh sen trắng - đánh đổ cà phê lên khắp người anh chàng bảnh trai ở phòng thư tín. Nàng xấu hổ không để đâu cho hết, còn chàng quá say đắm vẻ thẹn thùng ấy, và đã phải lòng nàng ngay tắp lự. Sau rất nhiều thắt mở ngớ ngẩn, đôi trẻ làm đám cưới, nàng thôi việc để làm một quý cô nhàn nhã, đại thể giống như vị trí mà tôi đang từ bồ đây. Tôi những muốn hỏi Lauren xem ở đây có áp dụng kiểu kịch bản như vậy không. Cô lễ tân với sự nghiệp trở thành một người phụ nữ được chồng nuôi và chỉ việc hưởng thụ. - Cô từng làm lễ tân phải không? - À... - Cô có thể xử lý được bao nhiêu đường dây điện thoại? Cô đã dùng hệ thống Rolm bao giờ chưa? Hoặc là Honeywell? - Lauren không để ý gì đến sự im lặng của tôi. - Xin lỗi nhé, chắc tôi đã gọi phỏng vấn khi cô chưa kịp điền hết vào đơn. Tôi sẽ ghi chú vào đây, khi chúng ta xong thì cô có thể làm bài kiểm tra kỹ năng đánh máy. - Không cần làm bài kiểm tra ấy đâu chị ạ, tôi không đánh máy gì từ năm năm nay rồi. - Không sao. - Chị ấy khẽ phất tay. - Giống như đi xe đạp ấy mà. Phản xạ sẽ quay trở lại khi cô bắt tay vào làm. - Lauren nhìn khoảng trống ở mục “Kinh nghiệm”. - Hiện giờ cô có đang làm việc không? Tôi từng đọc nhiều bài báo viết chắc như đinh đóng cột rằng nội trợ và công tác tình nguyện cũng có giá trị tương xứng với bất cứ công việc được trả thù lao nào. Dám cá là Lauren không hề đọc những bài báo ấy. - Justine này... - Wynter ạ, tôi thường dùng tên đệm. - Xin lỗi nhé. Wynter này, cô cho tôi biết kinh nghiệm làm việc của cô được không? Thở sâu, tôi nói: - Ba năm dạy tại trường trung học. Một năm kinh doanh bất động sản... Lauren nhìn tôi với vẻ trông đợi, chờ đến đoạn tôi nói vào công việc chính. - Và tôi đã làm việc cho các ủy ban. Bệnh viện Cedars-Sinai, dàn nhạc giao hưởng... - Tôi lục tung trí nhớ ngắn hạn của mình, cố tìm cho ra điều gì đó ấn tượng hơn. - Thế sao cô lại muốn làm việc văn phòng tạp vụ? Chỉ cần cô gia hạn chứng chỉ sư phạm hoặc kinh doanh bất động sản trở lại thì sẽ thu nhập được khá hơn đấy. - Tôi không quay lại bất động sản được vì tôi làm dở tệ, chưa từng bán được thứ gì. - Vậy dạy học thì sao? Gia hạn chứng chỉ sư phạm không khó... - Tôi ghét dạy học lắm. - Tôi nắm chặt tay ghế bằng những ngón tay dinh dính mồ hôi. Lauren ngả người ra sau, khoanh tay lại, nhìn tôi chừng như đang suy xét điều gì. Tôi có thể đọc được suy nghĩ trong mắt chị ấy: lại một nàng bảo ngọc ở khu Hancock Park hết được nuôi ăn đây mà. Trong bụng chị ấy chắc đang cười như điên mất. Lauren bắt chéo đôi chân thon, để một bên quai giầy cao gót trật khỏi gót chân. Rồi chị ấy nói, một cách lặng lẽ: - Tôi không muốn làm cô sợ đâu, Wynter ạ, nhưng tôi ghét công việc này. Đôi khi ta phải làm những việc mà ta ghét cay ghét đắng. Tôi đã đứng dậy, chẳng hiểu sao tôi đứng như vậy từ bao giờ rồi. - Cảm ơn lời khuyên của chị. Tôi ra khỏi văn phòng bé xíu ấy, đi qua bàn lễ tân, rời khỏi công ty. Nếu đi nhanh, trông tôi sẽ như đang vội đến một cuộc hẹn phỏng vấn. Tôi ngồi ở bãi đỗ xe, trong chiếc Mazda RX-7 vốn là quà tặng sinh nhật tôi cách đây ba năm. Khốn thật. Mi thì biết cái gì chứ? Tại sao tôi phải bận tâm tìm việc làm? Tối nay thôi, David và tôi sẽ ngồi lại với nhau và giải quyết sự việc đâu vào đó. Anh mệt và căng thẳng cực điểm. Chắc anh sẽ về nhà với hoa hồng trên tay hay gì đó tương tự, nói rằng anh xin lỗi... Chúng tôi sẽ đi xa vài ngày. Tới Mexico. Uống rượu margaritas, yêu nhau và ngủ. Mọi chuyện sẽ ổn cả. Tôi xoay chìa khóa khởi động xe. Tôi không cần việc làm. Đặc biệt là thứ việc văn phòng phục dịch thời vụ vớ vẩn và vặt vãnh. Xe của tôi có mùi rất dễ chịu. Không rõ thợ rửa xe đã làm gì với lớp da bọc trên ghế mà xe vẫn còn mùi như mới thế này. Một món quà rất David. Anh định sắm cho tôi một chiếc Mercedes, nhưng tôi luôn thấy dòng xe ấy có vẻ ù lì kém thời trang. Tôi muốn thứ gì đó khiến tôi vui và hào hứng, thứ gì đó có cần số. Một chiếc Porsche chẳng hạn. Biết tôi ham tốc độ, anh đã dứt khoát không thể là Porsche được. Chúng tôi không nói đến chuyện đó nữa. Rồi, sáng hôm sinh nhật, tôi vừa xuống nhà đã thấy một hộp nhỏ đặt cạnh cốc nước cam. Tôi cứ ngỡ đó là món trang sức nào đó. Cơ mà nằm giữa những nếp xa-tanh trắng là một chiếc chìa khóa đen. Chiếc RX-7 của tôi đang đậu bên ngoài, ngay sát mặt đường, dù trời trông như muốn mưa. Chúng tôi chạy xe vài dặm qua những ngọn đồi, cho đến khi mây trên đầu vỡ ra và rải mưa xuống. • • • Đã quá trưa mà tôi vẫn chưa ăn gì. Tôi tấp xe vào quán burger In-n-Out đầu tiên bắt gặp, gọi món qua cửa sổ xe ô-tô, hầu như không thấy rõ đó là thứ gì. Trở lại đường cao tốc, hướng bắc theo đường 405, hướng tây theo đường 10, rồi đường PCH thẳng ra bờ biển. Lần đầu tiên tôi để ý hôm nay là một ngày đẹp trời biết chừng nào. Bên trái tôi là Thái Bình Dương xanh thẳm, lấm tấm những đỉnh sóng bọt tung trắng xóa, hắt màu trời biếc điểm xuyết những cụm mây trắng. Khung cảnh mà có bị lật ngược thì ta cũng chẳng thể phát hiện ra được, như những bức tranh trong truyện thiếu nhi vậy. Bên phải tôi, những sườn dốc nâu bao lấy bãi biển Malibu chốc chốc lại rực lên những mảng màu - những giàn hoa giấy đỏ thắm, từng vạt sen cạn màu vàng tươi và da cam, hoa xuyến chi tím ngát xen lẫn với ngọc giá trắng và cây bụi khô. Một khung hình muôn thuở như kéo dài ra mãi, trừ khi ta biết đôi chỗ trên đường có những đống đá chực lở ra và trượt xuống. Vừa lái xe vừa nhét khoai tây rán vào miệng, tôi kín đáo quan sát những người đang chạy xe khác. Sao trông ai cũng như biết rõ mình đang đi đâu và sẽ làm gì khi đến nơi thế nhỉ? Ký ức về những ngày hè thong dong hạnh phúc thôi thúc tôi rẽ vào đường ra bãi biển Zuma. Vừa tấp xe vào bãi đỗ gần như trống, tôi thấy một chiếc Mercedes đen và hơi thở lập tức như nghẹt lại. David ư? Dòng xe khác, biển số khác. Mà liệu anh có thể làm gì ở đây cơ chứ? Chiếc xe từ từ chạy qua tôi, một phụ nữ tóc đỏ cầm lái. Tôi nhìn đăm đăm những con sóng bạc đầu cuộn vỗ vào bờ trong khi ban nhạc The Supremes tự hỏi “Tình yêu của chúng ta đã ra đi về đâu?”, còn tôi tự hỏi: ra đi khi nào. Được rồi. Đúng là gần đây không có nhiều những khoảnh khắc ngọt lịm như quảng cáo trên ti-vi, những tiếng cười và thậm chí những mục tiêu chung. Nhưng phải chăng như thế có nghĩa là tất cả đã hết? Miếng bánh burger phô mai đầu tiên rơi xuống dạ dày tôi như hòn đá rơi xuống một bể bơi cạn nước. Tôi dúi phần còn lại vào túi cùng với khoai rán đã nguội ngắt. Tôi ra khỏi xe, tháo bỏ giầy và tất da chân. Đi qua mặt đường nhựa ấm lên dưới nắng, tới bờ cát ẩm ướt mát lạnh, choàng áo khoác quanh mình. Những trạm cứu hộ không người, ảm đạm co ro vào nhau là dấu hiệu rõ rệt nhất cho hay mùa thu đã đến miền nam bang California. Đôi khi đó là dấu hiệu duy nhất. Dọc theo bờ biển, một chú chó Lab lông vàng nhảy nhót cùng bọt sóng trong khi người chủ thuần thục quăng những cây gậy đi. Lác đác có vài người lướt sóng mặc bộ đồ bó đen, thoăn thoắt đứng lên nhún xuống trên ván, chờ con sl óng lớn. Một người đàn ông và một phụ nữ tóc đã muối tiêu nắm tay nhau nhịp nhàng tập các động tác khởi động. Còn lại, chỉ có tôi. Một lưỡi sóng lạnh buốt liếm qua chân, tôi cứ đứng im, nước ngập đến mắt cá. Nếu không đi tiếp, tôi sẽ mất thăng bằng mất. Gió biển mằn mặn đánh rối tóc tôi, phả vào làm hai mắt chảy nước. Tôi đi về phía bắc, bước qua những dải rong biển, những vỏ sò vỡ, nửa con cua bị ruồi bâu kín. Tôi từng đọc thấy người ta nói rằng khi bắt đầu nhận thức được cái chết không thể trì hoãn nổi của bản thân, phản ứng đầu tiên của ta thường là, Mình không thể chết được. Mình còn vé đi nghe opera tuần sau cơ mà. Tại sao lại như vậy? Khi phải đối mặt với những gì ta không muốn chấp nhận, tại sao ta lại cố gắng bảo vệ bản thân bằng những thứ nhỏ nhặt vặt vãnh ấy? Khi mẹ đến trường đón tôi ra khỏi lớp và nói bố tôi đã mất, suy nghĩ đầu tiên của tôi trước khi rơi vào trạng thái bị xúc động mạnh là, Vậy mùa hè này nhà mình không đi Tahoe được nữa sao? Giờ khi các ngón chân đã ngấm lạnh đến nhăn lại, tê cứng, cố gắng bám vào bờ cát, tất cả những gì tôi có thể nghĩ được là mẹ tôi sẽ thất vọng biết chừng nào. Bà luôn yêu quý David. Trong câu chuyện theo phiên bản của mẹ tôi, anh là Hoàng tử Hào hoa. Chính anh đã giải cứu tôi khỏi - không phải khỏi rồng đâu nhé, mà là điều còn tệ hơn thế - khỏi mảnh đời nhàm chán của một cô giáo trung học chẳng mấy khi hẹn hò, các kỳ nghỉ thường đi chơi cùng những chị em độc thân khác. Anh đã lắp tôi vào một tòa nhà ở khu Hancock Park, cho tôi chiếc xe thể thao đỏ, quần áo đẹp, những món trang sức đắt tiền. Tất cả những gì tôi phải làm là ăn mặc vừa mắt, tổ chức những bữa tiệc tinh tươm, kết bạn đúng người, sẵn sàng đáp ứng khi anh muốn tôi, và không làm gì để anh bị bẽ mặt. Chẳng có gì phải thắc mắc nhiều. Được rồi, đúng là tôi ghét dạy học. Khó có thể thổi bùng lên ngọn lửa say mê văn chương với những đứa trẻ có kỹ năng đọc hiểu dậm chân tại chỗ ở trình độ lớp năm. Đa phần trong số chúng chỉ giết thời gian ở lớp của tôi trong khi chờ sóng lên để đi lướt ván, hoặc chờ đến giờ học môn khác, hoặc đến 3:10 phút, chuông báo tan học và thế là chúng có thể vù ra tiệm Bob’s Big Boy. Cũng đúng là đời sống xã hội của tôi phần lớn xoay quanh mấy cô bạn gái - CM, Sandy và Liz. Nếm rượu vang, ăn tại nhà hàng độc đáo, xem phim Pháp, dự triển lãm nghệ thuật, tất cả những trò vui tiêu khiển rất đặc trưng của phụ nữ độc thân. Như vậy không có nghĩa là tôi không hẹn hò. Chắc chắn rằng không phải cái gì mẹ tôi cũng biết. Theo kinh nghiệm rộng một cách đúng mực của tôi, những phẩm chất của đàn ông - như ấm áp, chân thành, rộng lượng - thường tỉ lệ nghịch với độ hấp dẫn của vẻ bề ngoài. Điều này dẫn tôi đến kết luận rằng các chàng càng đẹp trai thì càng chẳng ra gì, vì tất cả những người nữ mà họ biết, bắt đầu từ mẹ đẻ, đã làm hư họ mất rồi. Bất chấp thực tế này, hoặc có thể tại vì thế, tôi bị cuốn hút bởi những người đàn ông cao ráo, tóc vàng và bảnh trai, - như thiêu thân lao mình vào lửa. Điều này, như CM, cô bạn thân nhất của tôi, nhanh chóng chỉ ra, có thể là do bố tôi, người tôi hết sức ngưỡng mộ và đã qua đời khi tôi mười bảy, là người cao ráo nhất, tóc vàng đẹp nhất, và điển trai nhất trong số tất cả nam giới. Nhưng bố cũng là cuối cùng trong những đàn ông tử tế. Đã gần mười lăm năm kể từ ngày bố mất, nhưng tôi vẫn có thể đi vào căn phòng làm việc nhỏ trong nhà mẹ mà hình dung ra bố đang ngồi trên ghế da, tờ báo đặt trong lòng, một ly Manhattan mát lạnh trên bàn bên cạnh. Bố thích thứ rượu không ngọt với một chút cốt chanh ấy. Mẹ đã cáu khi bố dạy tôi cách pha chế. Bố dạy tôi mọi thứ. Biết yêu sách vở. Biết cưỡi ngựa kiểu Anh trong khi các bạn tôi cưỡi kiểu miền tây. Bố mua cho tôi một chiếc ô-tô với cần số trong khi các bạn tôi lái xe số tự động. Bố dạy tôi biết ngắm nhìn vòm trời Tahoe vào những đêm tháng Tám trời trong, dõi theo sao băng để nguyện cầu điều gì đó. Buộc nút thủy thủ thế nào, đánh bóng ve trái ra sao. Quẹt diêm bằng một tay. Thở trong khi bơi. Bố dạy tôi cách không sợ hãi khi mở to mắt dưới nước. Và cả trên mặt nước. Đa phần đàn ông mà tôi biết đều không thể sánh được với bố. Ừm, có vài người có thể tôi không chắc lắm. Như Mark, anh họ của ai đó từ Del Mar, gặp tại một tiệc cưới. Andy, anh phi công có vợ ở Dallas. Một nhiếp ảnh gia với cái tên độc đáo Rocky Rivers. Dù sao tôi luôn cho rằng anh ấy quan tâm đến CM nhiều hơn. Chẳng ai trong số họ làm thế giới của tôi rung chuyển được cả. Cho tới đêm tiệc sinh nhật lần thứ hai mươi ba của Paula bạn tôi. Tôi vẫn nhớ mình vừa đến đã bị cô ấy túm ngay lấy. - Có người này cậu phải gặp. Tôi móc áo khoác lên giá treo mũ cạnh phòng kho ở hành lang. - Tại sao chứ? - Anh ấy cao. Cao hơn cậu. - Thế thì là Frankenstein rồi. Tôi bắt đầu đi dọc hành lang đến nhà vệ sinh, nhưng Paula đã kéo tôi lại. - Không phải Frankenstein mà. Nào, rồi cậu sẽ cảm ơn tớ cho coi. Cô ấy lôi tôi đến trước một quầy bar dựng từ bàn chơi bài trong phòng khách, nơi một anh chàng không thể cao hơn, tóc vàng hoe và đẹp trai đang mở một chai bia. - Wyn ơi, đây là anh Dave. Anh Dave, đây là Wyn. Thế nhé. Paula biến luôn vào bếp. Tôi chỉ muốn chui ngay xuống dưới thảm, nhưng Dave mỉm cười và bắt tay tôi, xin lỗi vì tay anh đang lạnh. Đôi mắt anh xanh mênh mang, màu của đại dương tháng Bảy. Rồi anh nói: - Mà anh là David chứ không phải Dave. Em là Lynn phải không? - Wyn ạ, như trong Wynter*. Đồng âm với từ “winter”, trong tiếng Anh nghĩa là “mùa đông”. Mời các bạn đón đọc Bánh Mì Cô Đơn của tác giả Judith Ryan Hendricks.
Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) tiểu thuyết  Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris của tác giả Nina George & Chi Ân (dịch) "Nếu bạn đang muốn bị mê hoặc đến quên cả đời trong vòng vài giờ đồng hồ, hãy ngồi xuống và đ5oc cuốn tiểu thuyết thông mình và hấp dẫn này."  - OPRAH.COM Cuốn sách là câu chuyện về Monsieur Perdu, chủ tiệm sách bên bờ sông Seine, người tự gọi mình là dược sĩ văn chương. Nhờ giác quan đặc biệt của mình, ông có thể kê đơn cho độc giả chính xác những cuốn sách giúp họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Chữa lành vết thương, hàn gắn trái tim người khác, song Monsieur Perdu lại không thể chữa cho chính mình, và trái tim ông vẫn luôn rỉ máu từ khi người yêu ông bỏ ra đi để lại một bức thư mà ông chưa từng mở ra. Rồi đến một ngày, ông đọc lá thư và quyết định khám phá kết cục của câu chuyện đời mình. Cùng với một tác giả sách bán chạy nhưng bị cấm xuất bản, và một đầu bếp người Ý thất tình, Perdu du hành dọc theo những dòng sông nước Pháp, cho chúng ta thấy rằng thế giới văn chương có thể đưa tâm hồn con người lên một cuộc du hành hàn gắn và chữa lành như thế nào.   Hiệu sách nhỏ ở Paris là một lá thư tình gửi đến sách, đến tất cả những người tin rằng sức mạnh của những câu chuyện có thể định hình cuộc sống của chúng ta. New York Times Bestseller A Barnes and Noble Best of 2015 Selection A Library Reads Favorite of the Favorites Selection *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết "Hiệu sách nhỏ ở Paris" của tác giả Nina George kể về câu chuyện của Monsieur Perdu, chủ tiệm sách bên bờ sông Seine, tự gọi mình là "dược sĩ văn chương". Nhờ giác quan đặc biệt của mình, ông có thể kê đơn cho độc giả chính xác những cuốn sách giúp họ vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Chữa lành vết thương, hàn gắn trái tim người khác, nhưng Monsieur Perdu lại không thể chữa cho chính mình. Trái tim ông vẫn luôn rỉ máu từ khi người yêu ông bỏ ra đi để lại một bức thư mà ông chưa từng mở ra. Rồi đến một ngày, ông quyết định đọc lá thư và khám phá kết cục của câu chuyện đời mình. Cùng với một tác giả sách bán chạy nhưng bị cấm xuất bản, và một đầu bếp người Ý thất tình, Perdu du hành dọc theo những dòng sông nước Pháp, cho chúng ta thấy rằng thế giới văn chương có thể đưa tâm hồn con người lên một cuộc du hành hàn gắn và chữa lành như thế nào. Review "Hiệu sách nhỏ ở Paris" là một câu chuyện nhẹ nhàng, sâu lắng về sức mạnh của văn chương. Cuốn sách đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ các nhà phê bình và độc giả trên toàn thế giới, được bình chọn là một trong những cuốn sách bán chạy nhất của năm 2015. Nina George đã khéo léo lồng ghép những câu chuyện văn học kinh điển vào tác phẩm của mình, tạo nên những chi tiết đầy cảm xúc và ý nghĩa. Cuốn sách cũng đề cập đến những vấn đề sâu sắc trong cuộc sống, như tình yêu, sự mất mát, và quá trình chữa lành. "Hiệu sách nhỏ ở Paris" là một cuốn sách đáng đọc cho tất cả những ai yêu thích văn học và muốn tìm kiếm một câu chuyện nhẹ nhàng, ấm áp về tình yêu, cuộc sống và những khả năng kỳ diệu của văn chương. Đánh giá Tình tiết: Cuốn sách có cốt truyện đơn giản, dễ hiểu nhưng không kém phần hấp dẫn. Các nhân vật được xây dựng chân thực, gần gũi với người đọc. Cốt truyện: Cuốn sách đề cập đến những vấn đề sâu sắc trong cuộc sống, nhưng được xử lý một cách nhẹ nhàng, tinh tế. Nội dung: Cuốn sách mang đến cho người đọc những suy ngẫm sâu sắc về tình yêu, sự mất mát, và quá trình chữa lành. Ngôn ngữ: Ngôn ngữ trong cuốn sách mượt mà, cuốn hút, dễ dàng đi vào lòng người. Kết luận "Hiệu sách nhỏ ở Paris" là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc cho tất cả những ai yêu thích văn học và muốn tìm kiếm một câu chuyện nhẹ nhàng, ấm áp về tình yêu, cuộc sống và những khả năng kỳ diệu của văn chương. Mời các bạn đón đọc sách Hiệu Sách Nhỏ Ở Paris của tác giả Nina George & Chi Ân (dịch)
Thân Phận Con Người
Năm 1933 quyển La Condition humaine (“Thân phận con người”) ra đời. Quyển tiểu thuyết thứ ba của Malraux lấy lại bối cảnh là cuộc đấu tranh cách mạng tại Trung quốc, vào thời kỳ xảy ra cuộc tranh chấp giữa quân đội Quốc Dân đảng của Tưởng Giới Thạch và những lực lượng cộng sản trong thời kỳ manh nha. Quyển tiểu thuyết chấm dứt vào thời điểm xảy ra cuộc tàn sát các đảng viên cộng sản do quân đội Tưởng Giới Thạch tiến hành, trước khi Mao Trạch Đông quyết định cuộc trường chinh về phía Bắc để bảo toàn lực lượng. Một lần nữa, tiểu thuyết của Malraux không phải là một tài liệu lịch sử, kể lại cuộc xung đột giữa các lực lượng Quốc Dân đảng và cộng sản năm 1927. “Thân phận con người”, sau quyển “Những kẻ chinh phục”, lại dùng bối cảnh lịch sử để trình bày quan điểm của tác giả về con người và ý nghĩa cuộc sống. Thay vì có một, hai nhân vật chính chi phối toàn bộ tác phẩm, quyển “Thân phận con người” dựng lên hàng chục nhân vật có tầm quan trọng ngang nhau: những chiến sĩ cách mạng, vài tên khủng bố quá khích, một nhà hiền triết Nhật, một nhân vật lập dị sống trong ảo tưởng và thêu dệt những câu chuyện hoang đường, một nhà tư bản Âu châu v.v. Một số nhân vật này vẫn bị dằn vặt bởi những lo âu siêu hình: niềm đơn độc lẻ loi, nhận thức về sự phi lý của cuộc đời… và mỗi người tìm một phương cách giải thoát riêng cho mình. Nhưng điều mới là sự xuất hiện của những nhân vật anh hùng cách mạng. Những nhân vật này không còn bị ám ảnh vì những thắc mắc siêu hình, mà họ tìm thấy lẽ sống trong việc đấu tranh để đem lại hạnh phúc, danh dự và phẩm giá cho đồng loại của mình. Hành động có một mục đích lịch sử, trở thành một phương tiện để thay đổi trật tự xã hội, hoàn trả lại danh dự làm người, không phải cho một anh hùng đơn độc, mà cho toàn thể những người sống trong một cộng đồng. Với quyển “Thân phận con người”, trong tác phẩm của Malraux xuất hiện một triết lý nhân bản cách mạng. Từ tình trạng suy đồi do thương tích, bệnh tật, gây ra khiến cho con người phải chịu khuất phục trước định mệnh, đến một tình trạng suy đồi do cực khổ khốn cùng, khiến con người mất hết nhân cách. Trật tự xã hội của người giàu khiến cho nhân phẩm bị chà đạp. Danh dự của người hùng cách mạng của Malraux là đứng lên chống lại một trật tự xã hội chối bỏ nhân phẩm và tìm thấy ý nghĩa cuộc sống trong cuộc chiến đấu này. Quyển “Thân phận con người” được giải thưởng Goncourt cuối năm 1933, và sau này được công nhận là một trong những tác phẩm lớn nhất của nền văn học thế giới thế kỷ 20. Nhà văn 32 tuổi bỗng nhiên nổi danh, với một hào quang là kẻ trở về từ châu Á sôi sục, xa xôi và bí hiểm. Đối với xã hội Pháp vào những thập niên 1920-30, châu Á còn là một một lục địa xa vời, huyền bí, chìm trong màn sương mù của huyền thoại, tượng trưng cho phiêu lưu mạo hiểm… Những người có óc phiêu lưu đều bị thu hút, mê hoặc bởi vùng đất còn bí hiểm này. Nhiều huyền thoại được thêu dệt quanh tác giả quyển “Thân phận con người” (người đã tham gia vào hoạt động cách mạng tại Trung Quốc, là ủy viên chính trị cạnh Borodine trong cuộc cách mạng Trung quốc…). Tác giả im lặng không đính chính, và huyền thoại kéo dài trong mấy thập niên, cho đến khi một học giả Hoa Kỳ, Walter Langlois, nghiên cứu tường tận về thời gian Malraux ở Đông Dương và quyển tiểu sử André Malraux do Jean Lacouture viết, xuất bản năm 1973, cho biết sự thật về thời gian nhà văn ở châu Á trong các năm 1924-1925. Cho đến năm Malraux viết quyển “Thân phận con người”, ông chỉ biết có Việt Nam, và thời gian ông đặt chân lên đất Trung Quốc là chỉ vỏn vẹn mấy ngày vào mùa thu 1925 khi ông đến Hương Cảng mua bộ chữ in để có thể tiếp tục in tờ báo đối lập Indochine. Kinh nghiệm kể lại trong “Thân phận con người” về những người dân đen sống trong cảnh bần cùng, bị áp bức và chà đạp, là những kinh nghiệm sống tại Việt Nam, khi André Malraux chứng kiến những bất công và cách đối xử đàn áp mà chính quyền thực dân dành cho người dân bị trị. Quyển “Thân phận con người” chấm dứt một bộ ba tác phẩm được gọi là thuộc “thời kỳ châu Á” trong văn nghiệp của Malraux. Một năm hoạt động báo chí tại Sài Gòn chưa đủ để cho André Malraux một danh hiệu là chiến sĩ cách mạng, nhưng đã chuyển hướng ý nghĩ và hành động của ông khiến cho từ nay, André Malraux sẽ dành phần lớn cuộc đời và tác phẩm của mình cho cuộc chiến đấu cho công bằng xã hội, chống lại sự áp bức, chà đạp phẩm giá con người… V.Đ Review *** André Malraux ( 3 tháng 11, 1901 tại Paris - 23 tháng 11, 1976 tại Créteil, Val-de-Marne) là một nhà văn (từng đoạt Giải Goncourt), nhà phiêu lưu Pháp, và chính trị gia (từng làm Bộ trưởng Pháp 1959-1969). Gia đình ông không đầm ấm, ông nội và cha đều tự tử vì phá sản và chán đời. Thuở nhỏ ông thích đọc sách, thăm viếng các viện bảo tàng. Nội chiến Tây Ban Nha bùng nổ, Malraux chạy sang giúp phe Cộng hòa, thuyết phục chính phủ Pháp giao cho ông một đội phi cơ để chống lại phe Francisco Franco, nhưng chỉ mấy tháng sau phi đội ấy tan rã. Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Malraux gia nhập vào đội kỵ binh ở Provins. Nước Pháp thua trận, đầu hàng. Malraux bị giam ở Sens, rồi vượt ngục và trốn xuống vùng tự do tại Roquebrune. Tháng 4 năm 1944, Malraux tự xưng là đại tá Berger và cố gắng tập hợp kháng chiến quân trong vùng Tây Nam. Bị thương hồi tháng 7, bị giam ở Toulouse, ông được lực lượng kháng chiến FFI giải thoát. Do các hệ thống kháng chiến vùng Tây Nam đã có người đảm trách nên Malraux đề nghị cầm đầu quân du kích vùng Alsace-Lorraine, nằm dưới quyền của tướng De Lattre. Ông trở thành Tổng trưởng Thông tin, rồi Tổng trưởng Văn hoá trong các chính phủ của Tổng thống Charles de Gaulle. Tác phẩm văn học Lunes en papier, 1921 La Tentation de l'Occident, 1926 Les Conquérants, 1928 Royaume-Farfelu, 1928 La Voie royale, 1930; đoạt giải thưởng Interallié 1930 La Condition humaine / Thân phận con người, 1933, đoạt giải thưởng Goncourt. Le Temps du mépris, 1935 L'Espoir, 1937 Sierra de Teruel, phim, 1939, (1945 tái bản với tựa L'Espoir), đoạt Giải thưởng Điện ảnh Louis Delluc 1945 La Lutte avec l'ange, 1943 tại Thụy Sĩ, 1948 với tựa đề Les Noyers de l'Altenbourg tại Pháp Le Démon de l'Absolu, 1946 Esquisse d'une psychologie du cinéma, 1946 Psychologie de l'Art: Le Musée imaginaire - La Création artistique - La Monnaie de l'absolu, 1947-1948-1950 Les Voix du silence, 1951 Le Musée Imaginaire de la sculpture mondiale: La Statuaire - Des Bas-reliefs aux grottes sacrées - Le Monde Chrétien"", 1952-1954 La Métamorphose des dieux, 1957, sau đó với tựa đề Le Surnaturel Antimémoires, 1967 (phần đầu của Miroir des Limbes) Les Chênes qu'on abat..., 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Oraisons funèbres, 1971 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Tête d'obsidienne, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Lazare, 1974 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) Hôtes de passage, 1975 (tái bản với tựa đề La Corde et les souris) La Corde et les souris, 1976 (phần 2 của Miroir des Limbes) Le Miroir des Limbes, 1976 (I. Antimémoires + II. La Corde et les souris và Oraisons funèbres) Le Surnaturel, (1977, hiệu đính và bổ sung cuốn La Métamorphose des Dieux L'Irréel, La Métamorphose des Dieux. II, 1975 L'Intemporel, La Métamorphose des Dieux. III, 1976 L'Homme précaire et la littérature, 1977 Mời các bạn đón đọc Thân Phận Con Người của tác giả André Malraux.