Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Hoàng Hậu Margot - Alexandre Dumas

"Hoàng hậu Margot" là thiên tiểu thuyết lịch sử tiêu biểu nhất Alexandre Dumas mà ngay khi ra đời đã gây tiếng vang lớn trong dư luận văn học ở Pháp và châu Âu lúc bấy giờ. Sau đó thiên tiểu thuyết này nhanh chóng được chuyển thành vở kịch lớn cùng tên, thu hút đông đảo người xem. Khi điện ảnh ra đời, tác phẩm đã được dựng thành phim và chiếu rộng rãi nhiều nước trên thế giới. Tác phẩm "Hoàng hậu Margot", thông qua các chuyện tình éo le giữa hoàng hậu Margot với bá tước de Mole, cũng như giữa quận chúa de Nervers và bá tước de Coconnas, đã dựng lại một thời kỳ đẫm máu trong lịch sử nước Pháp vào giữa thế kỷ XVI. Đó là thời kỳ diễn ra cuộc chiến tranh tôn giáo cực kỳ tàn khốc giữa hai giáo phái Giatô và Tin lành. Đó cũng là thời kỳ tranh đoạt vương quyền quyết liệt trong nội bộ triều đình Pháp với đủ các mưu mô, thủ đoạn tàn bạo, nham hiểm... Bạn đọc sẽ được gặp lại các nhân vật lịch sử có thật của thời đại đó: Thái hậu Catherine de Médicis, vua Charles IX, Henri de Navarre, quận công de Guise... mà nổi bật nhất trong số đó là Hoàng hậu Marguerite de Valois (Hoàng hậu Margot). Với tài năng sắc đẹp và trí tuệ phi thường của mình, hoàng hậu Margot đã đóng góp phần xứng đáng loại bỏ vai trò của dòng họ Valois lỗi thời và phản động để xác lập vương quyền cho Henri de Navarre, chồng mình, thuộc dòng họ Bourbon có phần tiến bộ hơn. *** Dumas Davy De La Pailleterie (sau này là Alexandre Dumas) sinh năm 1802 tại Villers Cotterêts trong khu Aisne, ở Picardy, Pháp. Ông có hai chị gái là Marie Alexandrine (sinh năm 1794) và Louise Alexandrine (1796 - 1797). Cha mẹ ông là bà Marie Louise Élisabeth Labouret, con gái của một chủ nhà trọ và ông Thomas Alexandre Dumas. Ông Thomas Alexandre được sinh ra tại thuộc địa Saint Domingue của Pháp (nay là Haiti), là con lai ngoài giá thú của Hầu Tước Alexandre Antoine Davy De La Pailleterie, một quý tộc Pháp, Cao Ủy Trưởng về pháo binh trong khu thuộc địa với Marie Cessette Dumas, nữ nô lệ da đen có nguồn gốc từ Afro Caribbean. Không ai biết rõ bà được sinh ra tại Saint Domingue hay ở Châu Phi (dù thực tế bà đã có một tên họ bằng tiếng Pháp nên có lẽ bà là người thiểu số Creole) và cũng không biết rằng cội nguồn của bà là ở đâu. Được cha đem về Pháp và cậu bé Thomas đã sống tự do một cách hợp pháp tại đây, Thomas Alexandre Dumas Davy theo học một trường quân đội và gia nhập quân ngũ khi còn thiếu niên. Khi trưởng thành, Thomas Alexandre lấy tên của mẹ là Dumas làm họ sau khi cắt đứt quan hệ với cha. Dumas được thăng cấp tướng năm 31 tuổi, người lính đầu tiên có gốc gác Afro Antilles đạt được cấp bậc này trong hàng ngũ quân đội Pháp. Ông đã tham gia trong Chiến Tranh Cách Mạng Pháp. Ông trở thành Tổng Chỉ Huy Trưởng trong Quân Đội Pyrenees, người đàn ông da màu đầu tiên đạt được cấp bậc đó. Dù là một vị tướng dưới trướng của Napoléon Bonaparte trong các chiến dịch ở Ý và Ai Cập nhưng Thomas Dumas không còn được tín nhiệm vào năm 1800 nên đã yêu cầu nghỉ phép để quay về Pháp. Trên đường về, tàu của ông phải dừng lại ở Taranto thuộc Vương quốc Napoli, tại đây ông và những người khác bị giữ làm tù binh. Trong hai năm bị giam giữ, sức khỏe ông đã bị yếu đi. Tại thời điểm Alexandre Dumas được sinh ra, cha ông bị suy kiệt nặng nề. Ông Thomas qua đời vì ung thu năm 1806 khi Alexandre lên 4. Người mẹ góa phụ Marie Louise không đủ sức lo cho việc học hành của con trai nhưng Dumas tập đọc mọi thứ trong khả năng và còn tự học tiếng Tây Ban Nha. Những câu truyện kể của mẹ về lòng dũng cảm của người cha trong các trận đánh đã truyền cảm hứng cho trí tưởng tượng sinh động của cậu bé. Mặc dù trở nên nghèo túng, gia đình vẫn có danh tiếng lỗi lạc của người cha để lại và thứ hạng quý tộc để trợ giúp con cái thăng quan tiến chức. Năm 1822, sau khi triều Bourbon phục hưng, Alexandre Dumas 20 tuổi chuyển đến Paris. Ông đã có được một vị trí trong văn phòng thuộc Cung Điện Hoàng Gia của Công Tước Orléans - Louis Philippe. Ông lớn lên với sự chăm sóc và giáo dục của mẹ Dumas học hành chểnh mảng, khi học xong ông làm thư ký cho một phòng công chứng, và bắt đầu viết những vở kịch đầu tiên cùng với một người bạn, Tử Tước Adolphe Ribbing De Leuven. Nhưng những tác phẩm đầu tay đó thất bại. Năm 1823, nhờ viết chữ đẹp, ông được tới làm việc cho Công Tước Orléans với công việc giao gửi hàng ở Paris. Dumas tiếp tục viết kịch và cuối cùng cũng tìm được thành công với vở diễn Henri III và triều đình tại nhà hát Comédie Française, công diễn lần đầu ngày 10 tháng 2 năm 1829. Sự nghiệp văn chương của ông tiếp tục thành công, đặc biệt trong hai thể loại ông ưa thích: Kịch và tiểu thuyết lịch sử. Alexandre Dumas là một nhà văn có sức sáng tác mạnh mẽ. Ông để lại khoảng 250 tác phẩm, gồm 100 là tiểu thuyết, số còn lại là 91 vở kịch, rồi bút ký, phóng sự, hồi ký. Dumas có cả một đội ngũ cộng sự, đặc biệt là Auguste Maquet, người góp phần vào nhiều thành công của Dumas. Trong những tiểu thuyết của ông, nổi tiếng hơn cả là Ba Người Lính Ngự Lâm, còn được dịch Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ (Trois Mousquetaires) và Bá Tước Monte Cristo (Le Comte de Monte Cristo) năm 1844. Đương thời, Dumas bị chê trách là người ham ăn, ham chơi. Ông thường xuyên thết đãi thịnh soạn bạn bè, người thân, công chúng hâm mộ, với những bữa tiệc sang trọng khiến ngay cả Paris cũng loá mắt, trầm trồ. Ông còn để lại một công trình đặc biệt: Cuốn Đại Từ Điển Ăn Uống, mà ông muốn được hậu thế coi là đỉnh cao sự nghiệp văn chương của mình. Trong đời mình Dumas kiếm được 18 triệu franc vàng, song ông luôn luôn nợ nần, nhiều lần trốn nợ, thậm chí ra nước ngoài, những năm cuối đời, phải đến tá túc ở nhà con. Ông mất năm 1870 ở Puys, vùng Dieppe. Thi hài của ông được chuyển về Điện Panthéon năm 2002, bất chấp ý nguyện cuối đời của ông: “Trở về bóng đêm của tương lai cùng nơi tôi ra đời” (rentrer dans la nuit de l'avenir au même endroit que je suis sorti De La vie du passé), “nơi một nghĩa địa đẹp (Villers Cotterêts) trong mùi hoa của rào quanh...” (dans ce charmant cimetière qui a bien plus l'air d'un enclos de fleurs où faire jouer les enfants que d'un champ funèbre à faire coucher les cadavres) • Các Tác Phẩm Những Tội Ác Trứ Danh (1839 -1841); Ba Người Lính Ngự Lâm (1844); Hai Mươi Năm Sau (1845); Những Quận Chúa Nổi Loạn (1845); Bá Tước Monte Cristo (1845 - 1846); Hoàng Hậu Margot (1845); Kỵ Sĩ Nhà Đỏ (1845 - 1846); Tử Tước De Bragelonne (Cái chết Của Ba Người Lính Ngự Lâm, Mười Năm Sau Nữa - 1848); Hoa Tulip Đen (Bông Uất Kim Hương Đen - 1850) *** Tiếng Latinh của ông de Guise Từ ngày thứ hai, 18 tháng 8 năm 1572, lễ hội tưng bừng diễn ra tại cung điện Louvre. Trong những ngày ấy, tất cả các cửa sổ của toà Hoàng cung cổ kính đều được chiếu sáng rực rỡ thay cho cái vẻ âm u mà người ta vẫn thấy thường ngày. Nếu trước đây các quảng trường và phố xá đều vắng vẻ khi chuông đồng hồ ở Saint-Germain l Auxerrois mới điểm chín giờ tối, thì nay dù đã nửa đêm ở đó vẫn còn tấp nập, nhộn nhịp những đám thị dân. Trong bóng đêm, đó là những đám đông chen chúc, hỗn độn mang một vẻ dữ tợn như mặt biển tối sầm sôi động với những ngọn triều gầm réo. Những đợt triều đó, gồm hàng nghìn con người, tràn lên mặt kè sông, đổ vào các phố Fossés Saint-Germain, rồi dội vào chân tường điện Louvre, vào chân tường dinh thự de Bourbon. Nhưng có lẽ bắt nguồn ngay từ chính lễ hội này, một điều gì đó vừa bí ẩn vừa ghê gớm đang xuất hiện trong đám dân chúng này. Họ cảm thấy sự tưng bừng mà họ đang chứng kiến đây chỉ là màn giáo đầu cho một sự kiện nào đó vào tuần tới mà chính họ sẽ là những kẻ tham gia cuồng nhiệt nhất. Lẻ hội này chính là lễ thành hôn giữa công chúa Marguerite de Valois, con gái vua Henri II và là em vua Charle IX với Henri de Bourbon vua xứ Navarre. Sáng nay, trên một chiếc bục lớn trước cửa nhà thờ Đức Bà, Hồng y giáo chủ de Bourbon đã làm phép cưới cho đôi uyên ương theo đúng lễ nghi được dành riêng cho hôn lễ các công chúa nước Pháp. Đây là cuộc hôn nhân khiến hết thảy mọi người đều ngạc nhiên. Những người sáng suốt nhất cũng phải vắt óc suy đoán. Người ta không tài nào hiểu nổi vì sao phe Tân giáo và Cơ đốc giáo xưa nay vốn thù nghịch nhau giờ lại xích lại gần nhau đến như vậy. Làm sao ông hoàng Condé trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho quận công hoàng đệ d Anjou về việc cha ông bị tên Montesquiou ám sát tại Jarnac? Làm sao quận công de Guise trẻ tuổi lại có thể tha thứ cho đô đốc de Coligny về việc cha mình bị Poltrot de Méré giết hại tại Orléans. Chưa hết! Cách đây chưa đầy hai tháng, hoàng hậu Jeanne de Navarre, người vợ can đảm của Antoine de Bourbon yếu đuối, người mẹ đã dẫn dắt con trai mình tới cuộc hôn nhân vương giả này, đã qua đời. Nhiều tin đồn kỳ lạ được lan đi quanh cái chết đột ngột đó. Khắp nơi dậy lên tiếng xì xầm, thậm chí còn có kẻ dám lớn tiếng cho rằng do bà đã phát giác được điều bí mật gì đó rất khủng khiếp nên Thái hậu Catherine de Médicis sợ bị tiết lộ, đã cho đầu độc bà bằng một đôi găng tay tẩm hương do một gã nào đó tên là René, người xứ Florence, vốn nổi tiếng khéo léo về các công việc loại này, chế tạo. Tiếng đồn ngày càng lan rộng và càng được khẳng định, vì sau khi bà hoàng vĩ đại này tạ thế, theo yêu cầu của con trai bà, hai thầy thuốc, trong đó có ông Ambroise de Paré nổi tiếng đã được phép mổ và nghiên cứu tử thi, trừ bộ não. Song thật oái oăm, vì Jeanne de Navarre đã bị đầu độc bằng đường khứu giác, nên chỉ có bộ não có thể để lại dấu vết của tội ác đó thì lại không được phép khám nghiệm. Người ta còn được biết vua Charle đã có một sự kiên trì đáng kinh ngạc đối với cuộc hôn nhân này đến mức được coi như một kẻ ương ngạch. Bởi vì xét cho cùng, ngoài việc đem lại hoà bình trong vương quốc, nó còn mở cửa để thu hút về Paris những thủ lĩnh Tân giáo chủ chốt, điều mà những người theo đạo Cơ đốc vẫn e ngại. Vì cặp tân hôn này, vợ thì theo đạo Cơ đốc, chồng thì theo Tân giáo, nên người ta buộc phải đề đạt tới Grégoire, là đấng tối cao tại Rome, xin được miễn trừ. Khi thấy lệnh miễn trừ đến chậm, Jeanne de Navarre tỏ ra rất lo ngại. Một hôm bà đã bày tỏ với Charle IX nỗi e ngại rằng lệnh miễn trừ có thể không đến thì được nhà vua trả lời: - Xin đừng quá e ngại, cô thân mến ạ! Cháu còn tôn trọng cô hơn cả đức giáo hoàng và yêu quý em gái cháu hơn là cháu lướng. Tuy cháu không phải là người Tân giáo nhưng cháu cũng không phải là thằng ngốc và nếu cái ông giáo hoàng ấy quá đần thì đích thân cháu sẽ cầm tay Margot đến cưới con trai cô giữa những lời giảng kinh Tân giáo. Lời đó lập tức được truyền từ cung Louvre tới khắp thành phố, làm hả lòng hả dạ những người Tân giáo đồng thời khiến những người Giatô phải hậm hực, suy nghĩ. Những người này đang tự hỏi xem liệu có phải nhà vua đã thực sự phản lại họ không hay ông ta chỉ đóng một tấn tuồng mà một sớm một chiều nó sẽ được kết thúc một cách hết sức bất ngờ. Đối với Charle IX, nhiều điều thật không giải thích nổi, nhất là thái độ của ông đối với đô đốc de Coligny, người đã điên cuồng chống lại nhà vua trong suốt năm, sáu năm nay. Và cũng trong thời gian đó, Charle IX đã từng treo giá cái đầu ông này một trăm năm mươi ê quy vàng. Ấy thế mà nay nhà vua chỉ tin dùng có mỗi mình ông ta, lại còn gọi ông ta là cha và cao giọng tuyên bố rằng từ nay trở đi chỉ có ông ta là người xứng đáng được quyền điều khiển chiến cuộc. Đến nỗi Thái hậu Catherine de Médicis, người điều khiển chính các hành động, ý đồ, thậm chí cả nguyện vọng của nhà vua trẻ tuổi này, cũng phải tỏ ra lo ngại thực sự. Điều lo ngại này không phải là vô căn cứ, vì trong một lúc thổ lộ tâm tình, Charle IX đã bày tỏ với đô đốc về cuộc chiến ở Flandres như sau: - Thưa cha, có một điều phải lưu ý: đó là Thái hậu. Như cha đã biết, bà ta cứ muốn dúng mũi vào mọi việc. Hiện nay bà ta còn chưa biết tí gì về việc này. Chúng ta phải giữ kín để bà ta mù tịt, vì con biết lúc nào bà ta cũng cứ sôi sục lên, bà ta sẽ làm hỏng việc mất. Dù lõi đời và khôn ngoan đến mấy, Coligny cũng khó mà nghi ngờ một sự tin cậy hoàn toàn đến như vậy. Trước đó, ông đến Paris lòng đầy nghi kỵ và trước khi ông rời Châtillon, một bà già nông dân đã quỳ sụp xuống chân ông kêu khóc: "Ôi, thưa ngài, ông chủ tốt bụng của chúng con, xin người đừng đi Paris. Nếu người tới đó, người sẽ chết cùng với tất cả những ai đi theo người". Nhưng rồi nỗi nghi ngại trong ông cũng dần dần tan biến. Nó cũng tan biến đối với Téligny, con rể ông, người được nhà vua ban cho những ân sủng đặc biệt, được nhà vua gọi là người anh em và xưng hô cậu cậu tớ tớ như ông thường cư xử với những người bạn thân nhất của mình. Vì vậy trừ một vài kẻ còn định kiến và đa nghi, hết thảy những người Tân giáo đều cảm thấy yên lòng. Cái chết của cố hoàng hậu Jeanne de Navarre được coi là hậu quả của bệnh sưng màng phổi. Trong những gian phòng rộng lớn ở Louvre tràn ngập những người Tin lành với lòng tin tưởng rằng, nhờ cuộc hôn nhân của thủ lĩnh Henri trẻ tuổi, họ sẽ được quay lại cái thời giàu sang phú quý. Đô đốc de Coligny, La Rochefoucault, ông hoàng Condé, Téligny, tóm lại là tất cả những nhân vật đầy thế lực của giáo phái này, những người mà ba tháng trước đây vua Charle và Thái hậu Catherine đã nhăm nhăm muốn treo cổ, đều hoan hỉ thấy mình được nghênh tiếp trọng thể và bỗng chốc trở nên đầy thế lực ở Paris. Chỉ còn Thống chế Monmorency là người duy nhất không tài nào tin được sự hoà hợp lạ lùng này. Không một lời hứa hẹn nào có thể làm xiêu lòng ông, không một sự giả dối nào có thể che được mắt ông, cho nên ông vẫn một mực ẩn dật trong lâu đài của mình ở Isle - Adam, viện cớ rằng vẫn còn đau buồn về cái chết của thân phụ mình là nguyên soái Andre Monmorency bị Robert Stuart giết bằng một phát súng lục tại trận Saint-Denis. Nhưng cứ xét sự kiện này xảy ra đã trên ba năm nay và tính đa cảm là một thứ đạo đức không mấy hợp thời thượng, nên chẳng mấy ai tin tưởng vào cái chuyện chịu tang quá đỗi lâu ngày như vậy. Vả chăng, cứ trông vào mọi sự đang diễn ra cũng khiến cho cử chỉ đó của thống chế Monmorency thành sai trái: Nhà vua, thái hậu, quận công d Anjou và quận công d Alençon hết lòng thù tạc tiếp khách khứa trong ngày hội của Hoàng gia. Quận công d Anjou nhận được từ chính những người Tân giáo những lời khen ngợi xững đáng về hai trận đánh ở Jarnac và Moncontour mà ở đó ông đã giành được thắng lợi trước khi tròn tuổi mười tám, về mặt này ông còn trẻ hơn cả Cédar và Alecxandre. Quận công d Alençon nhìn tất cả những điều trên với con mắt vờ vĩnh đầy ve vuốt của mình. Thái hậu Catherine vui mừng rạng rỡ và tràn trề vẻ ân cần. Bà hết lời khen ngợi ông hoàng Henri de Condé về cuộc hôn nhân mới đây của ông ta với Marie de Clevơ. Cuối cùng là chính ông de Guise lại mỉm cười với những kẻ kình địch dữ dội của tộc họ và quận công de Maten thao thao bàn với ông de Tavan và đô đốc về cuộc chiến tranh, hơn lúc nào hết, đang cần phải được tuyên bố chống Philip II. Ở giữa những nhóm người nói trên nổi bật lên một người. Người đó đang đi đi lại lại, đầu hơi nghiêng nghiêng và với đôi tai tinh tường đã thâu tóm được tất cả mọi chuyện. Đó là một chàng trai khoảng mười chín tuổi, cặp mắt sắc sảo, tóc đen cắt ngắn, lông mày rậm, mũi khoằm như mỏ chim ưng, có nụ cười tinh quái, mặc dù râu cằm và ria mép mới chớm mọc. Chàng mới nổi bật nhờ trận đánh d Arnay le Duc, nơi chàng đã tỏ ra gan dạ đến mức liều lĩnh. Chàng nhận được hết lới khen ngợi này đến lời ca tụng khác. Chàng chính là học trò yêu của Coligny và là người hùng trung tâm của lễ hội. Ba tháng trước đây, tức là lúc thân mẫu chàng chưa băng hà, người ta gọi chàng là hoàng tử xứ Bearn, hiện nay người ta gọi chàng là vua xứ Navarre trong khi chờ đợi để rồi sẽ gọi chàng là vua Henri đệ tứ. Tuy vậy, thỉnh thoảng một áng mây u tối lướt nhanh qua vầng trán chàng. Chắc là chàng chưa quên cách đây mới hai tháng thôi, mẹ chàng đã lìa đời, và hơn ai hết, chàng vẫn ngờ rằng mẹ mình bị đầu độc Nhưng áng mây u tối đó chỉ thoáng lướt qua vì những kẻ chuyện trò với chàng, những kẻ tâng bốc chàng, những kẻ đang kề vai sát cánh với chàng chẳng phải ai xa lạ mà chính là những kẻ đã ám hại mẹ chàng: bà Jeanne d Albert(1) dũng cảm. Cách vua xứ Navarre vài bước, quận công de Guise trẻ tuổi, với vẻ tư lự và lo âu đang chuyện gẫu với Téligny trong lúc ông này tỏ ra vui vẻ và cởi mở. So với anh chàng người Bearn, quận công vẫn còn may mắn hơn. Mới hai mươi hai tuổi mà tiếng tăm của ông đã nổi như cồn, gần được như cha ông là Françoise de Guise vĩ đại. Quận công là một lãnh chúa tao nhã, cao lớn, ánh mắt đầy tự hào pha lẫn kiêu ngạo, với cái vẻ đường bệ bẩm sinh khiến người ta có cảm giác rằng bên cạnh ông, những ông hoàng khác nom chỉ như những gã tiện dân. Mặc dù còn trẻ, ông vẫn được những người Gia tô giáo tôn làm thủ lĩnh của họ, cũng giống như những người Tin lành(2) coi Henri de Navarre là thủ lĩnh của mình. Thoạt tiên, quận công mang tước hiệu hoàng từ xứ Goanhvin và tham chiến lần đầu trong cuộc vây hãm Orléans dưới quyền chỉ huy của cha mình. Chính cha ông đã ngã gục trên cánh tay ông, trước khi chết còn kịp chỉ cho ông thấy đô đốc Coligny là kẻ ám hại mình. Cũng như Anibal, quận công đã nghiêm trang thề trước vong linh cha: nhất quyết báo thù đô đốc Coligny cùng cả nhà ông ta, quyết tróc nã, tiêu diệt những kẻ cùng giáo phái với đô đốc đến kẻ cuối cùng mới thôi, vì quận công đã tự phong cho mình làm thiên thần báo oán của Chúa. Vị hoàng thân này đã làm dấy lên một sự ngạc nhiên quá mức khi người ta tận mắt thấy ông, người vốn rất trung thành với lời thề của mình, nay lại chìa tay ra với kẻ thù muôn kiếp, hơn thế lại còn chuyện trò thân mật với con rể của con người mà ông ta sẽ quyết giết như đã hứa với người cha hấp hối. Buổi tối này quả thực đầy những sự việc đáng ngạc nhiên. Thực tế, nếu có biệt tài tiên đoán được mọi sự kiện của tương lai (mà may thay con người lại không có), nếu có khả năng đọc được những điều sâu kín trong lòng người mà chỉ Chúa mới nắm được, thì người quan sát nào được may mắn dự buổi lễ hội này chắc chắn sẽ cực kỳ khoái trá trước cảnh tượng kỳ dị nhất về tấn trò đởi mà sử sách đã từng nói tới. Nhưng cái người quan sát ấy lại không có mặt trong những sảnh phòng bên trong cung Louvre, mà chỉ tiếp tục đứng ngoài phố, nhìn lễ hội với cặp mắt nảy lửa và với giọng gầm gừ đe doạ. Người quan sát ấy chính là quần chúng. Với cái linh cảm được mài sắc ấy một cách kỳ diệu bởi nỗi căm thù, quần chúng theo dõi từ xa bóng của những kẻ thù không đội trời chung của họ và thể hiện các cảm tưởng của mình một cách rõ ràng như một người điếc tò mò đứng xem người ta nhảy múa. Âm nhạc tạo ra nhịp điệu và làm say lòng người nhảy nhưng người điếc thì chỉ thấy đó là những động tác hết sức lố lăng. Cái tiếng nhạc làm say sưa những người Tân giáo cũng chính là âm thanh tự mãn của dòng họ. Những ánh chớp lóe lên trong mắt thị dân Paris giữa đêm tối, đó là những ánh chớp của lòng căm thù, nó sẽ chiếu sáng cả tương lai. Mặc dù vậy trong cung cấm mọi việc vẫn tiếp diễn một cách vui vẻ. Lại thêm một màn khá ngoạn mục khiến hết thảy mọi người đều cảm thấy khá êm ái và huy hoàng: ấy là lúc vị hôn thê kiều diễm trẻ trung, sau khi gỡ chiếc áo choàng lễ phục dài sát đất và chiếc khăn voan, bước vào phòng lễ hội. Cùng sóng đôi với nàng là quận chúa de Nervers xinh đẹp, bạn chí cốt của nàng. Sau đó, anh nàng, vua Charle IX, đưa nàng đi giới thiệu với các đình thần quan trọng nhất trong số khách của ông ta. Vị hôn thê đó là con gái vua Henri II, viên ngọc của ngai vàng nước Pháp, Marguerite de Valois, người mà trong tình thân mật, nhà vua Charle IX chỉ gọi là cô em Margot của tôi. Chắc chắn từ xưa tới nay chưa có một sự tiếp đón nào lại xững đáng hơn sự tiếp đón mà người ta đang giành cho hoàng hậu mới xứ Navarre lúc này. Marguerite chưa đầy hai mươi tuổi mà đã trở thành đối tượng đề ca ngợi của hết thảy những thi sĩ. Người thì so sánh nàng với nữ thần Bình minh, kẻ thì ví nàng với Cythérée(3). Vẻ đẹp của nàng quả là nghiêng nước nghiêng thành trong cái triều đình mà Catherine de Médicis đã thu hút về tất cả những mỹ nhân như những tiên dung làm đắm đuối lòng người. Nàng có mái tóc đen, nước da sáng rỡ, mắt nhìn mê đắm ẩn sau hàng mi dài, đôi môi nhỏ đỏ thắm, cổ cao thanh tú, thân hình thon thả và mềm mại, bàn chân nhỏ nhắn như chân con trẻ của nàng ẩn trong đôi hài sa tanh. Những người Pháp coi nàng như quốc bảo, tự hào được thấy trên đất nước họ nở ra một bông hoa lộng lẫy đến thế. Những người nước ngoài đến nước Pháp không những loá mắt về sắc đẹp của nàng khi được nhìn nàng mà họ còn choáng ngợp về kiến thức của nàng nếu được nói chuyện với nàng. Bởi Marguerite không chỉ là người phụ nữ đẹp nhất thời đại mà nàng còn là người phụ nữ có học thức nhất. Người ta dẫn lại lời một nhà bác học Ý, sau khi được nàng tiếp chuyện trong một giờ bằng tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Latinh và tiếng Hy Lạp, đã bước ra và thốt lên trong niềm xúc động: "Được hội kiến với triều đình mà chưa được gặp Marguerite de Valois nghĩa là chưa nhìn thấy cả nước Pháp và chưa gặp triều đình". Cũng vì thế nên không thiếu những lời đàm tiếu nhằm vào vua Charle IX và hoàng hậu xứ Navarre. Về tài đàm tiếu của những người Tin lành thì khỏi phải bàn, vì vậy đã có nhiều lời ám chỉ quá khứ, nhiều ước đoán cho tương lai được khéo léo xen vào giữa những lời hô hào qui thuận nhà vua. Nhưng đối với tất cả những lời ám chỉ này, Charle chỉ trả lời với một nụ cười xảo quyệt trên đôi môi tái nhợt: - Khi trao cô em Margot của tôi cho Henri de Navarre, tôi đã trao trái tim mình cho tất cả những người Tin lành trong vương quốc. Đó là lời làm yên lòng kẻ này và khiến kẻ khác tủm tỉm cười, vì nó thực sự có hai nghĩa: một là theo nghĩa nhân ái, vì hắn Charle cũng không có ẩn ý gì trong câu nói thực lòng đó; hai - nó mang theo một nghĩa khác: nó nhằm lăng mạ cô dâu, chú rể và nhằm cả vào kẻ thốt ra câu nói đó. Thực ra câu nói này có thể gợi lại những điều tai tiếng âm ỉ do những kẻ sính tin đồn muốn tìm cách làm vấy lên tấm áo tân hôn của Marguerite de Valois. Trong lúc đó, de Guise vẫn đang chuyện trò với Téligny, nhưng ông không chú tâm lắm vào chuyện trò mà thỉnh thoảng lại ngoái đầu nhìn về nhóm các bà, các cô trong đó hoàng hậu xứ Navarre nổi bật lên rực rỡ. Mỗi khi ánh mắt của nàng bắt gặp cái nhìn của chàng quận công trẻ tuổi thì một áng mây mở lại lướt qua vầng trán duyên dáng được kết những ngôi sao bằng kim cương tạo nên một vầng hào quang lung linh của nàng và khi ấy một ý định mơ hồ nào đó được để lộ ra qua thái độ sốt ruột và xao xuyến của nàng. ... Mời các bạn đón đọc Hoàng Hậu Margot của tác giả Alexandre Dumas.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Nàng Nadja
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Nàng Nadja (Tiếng Việt) của tác giả André Breton. Nadja là cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn người Pháp André Breton. Tác phẩm được sáng tác vào năm 1928. Cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời của một có gái tên là Nadja (tên thật của cô là Léona Camile Ghislaine Delacourt). Đây là cuốn tiểu thuyết thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton. *** André Breton (1896-1966) là nhà văn và nhà thơ người Pháp. Ông là người khai sinh ra nghệ thuật siêu thực, chủ nghĩa nghệ thuật làm nên nền văn học Pháp trong giai đoạn từ năm 1922 đến Chiến tranh thế giới thứ hai. Một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông đó là Nadja. *** Tóm tắt Cuốn tiểu thuyết Nadja kể về cuộc gặp gỡ giữa nhà văn André Breton và một cô gái trẻ tên là Nadja. Breton gặp Nadja trong một buổi dạo chơi ở Paris. Cô gái trẻ này gây ấn tượng với Breton bởi vẻ ngoài kỳ lạ và tính cách lập dị. Breton và Nadja bắt đầu gặp gỡ và trò chuyện, họ nhanh chóng có cảm tình với nhau. Breton và Nadja cùng khám phá Paris, họ đi dạo trên những con đường, ghé thăm những quán cà phê, và tham dự những buổi biểu diễn nghệ thuật. Trong những cuộc gặp gỡ này, Breton dần dần nhận ra rằng Nadja là một người có khả năng nhìn thấy những điều bí ẩn. Cô gái trẻ này có thể thấy những linh hồn, những con vật kỳ lạ, và những hiện tượng siêu nhiên. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa Breton và Nadja không thể kéo dài. Nadja bị bắt vào bệnh viện tâm thần, và Breton buộc phải rời xa cô gái trẻ. Cuốn tiểu thuyết kết thúc với việc Breton trở về Paris một mình, mang theo những hồi ức về Nadja. Review Nadja là một cuốn tiểu thuyết đặc biệt, nó không có một cốt truyện rõ ràng, mà chỉ là những dòng hồi ức của Breton về cuộc gặp gỡ của mình với Nadja. Cuốn tiểu thuyết thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton, với những hình ảnh và ý tưởng kỳ lạ, phi logic. Nadja là một cuốn tiểu thuyết mang tính cá nhân sâu sắc. Nó là một câu chuyện về tình yêu, về sự khao khát tìm kiếm cái đẹp, và về những điều bí ẩn của cuộc sống. Ưu điểm Cuốn tiểu thuyết thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton. Cuốn tiểu thuyết mang tính cá nhân sâu sắc. Cuốn tiểu thuyết có những hình ảnh và ý tưởng kỳ lạ, phi logic. Nhược điểm Cuốn tiểu thuyết không có một cốt truyện rõ ràng. Cuốn tiểu thuyết có thể gây khó hiểu đối với một số độc giả. Kết luận Nadja là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc đối với những ai yêu thích văn học siêu thực. Đây là một cuốn tiểu thuyết độc đáo và ấn tượng, mang đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ. Đánh giá cá nhân Tôi đánh giá cao cuốn tiểu thuyết Nadja. Đây là một cuốn tiểu thuyết xuất sắc, thể hiện rõ phong cách siêu thực của Breton. Tôi rất thích những hình ảnh và ý tưởng kỳ lạ, phi logic trong cuốn tiểu thuyết. Tôi cũng rất ấn tượng với tình yêu của Breton dành cho Nadja, một tình yêu chân thành và mãnh liệt. Tuy nhiên, tôi cũng nhận thấy rằng cuốn tiểu thuyết có thể gây khó hiểu đối với một số độc giả. Cuốn tiểu thuyết không có một cốt truyện rõ ràng, và nó có thể khiến người đọc cảm thấy lạc lõng. Nhìn chung, tôi nghĩ Nadja là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc. Đây là một cuốn tiểu thuyết độc đáo và ấn tượng, mang đến cho người đọc những trải nghiệm mới mẻ.   Mời các bạn mượn đọc sách Nàng Nadja (Tiếng Việt) của tác giả André Breton.
Năm Mươi Người
Trên chiếc bàn thấp rộng rãi không có bất cứ thứ gì đặt trên đó, tôi muốn đổ thật nhiều những miếng ghép hình ra và dành thật nhiều thời gian để ghép chúng lại với nhau. Tôi nghĩ dù là mùa thu hay mùa đông thì cũng đều là những mùa thích hợp để làm việc đó. Khi thử ghép chúng lại với nhau, tôi mới thấy đến cuối cùng, thường chỉ còn lại những mảnh ghép xanh da trời nhạt gần với màu trắng mà thôi. Những mảnh ghép màu xanh da trời có in hình mặt người, hoặc có đường nét rõ ràng của sự vật, hay có màu sắc nổi bật thì dễ tìm được đúng vị trí. Nhưng những mảnh ghép màu xanh da trời nhạt lại chẳng dễ chút nào. Khi cầm những mảnh ghép đó, bỗng dưng tôi có suy nghĩ muốn viết một cuốn tiểu thuyết mà không có nhân vật chính, hoặc là một cuốn tiểu thuyết với khoảng 50 nhân vật chính. Vì tất cả đều là nhân vật chính nên dù mỗi người đều không có gì ngoài màu trắng ngà thì họ cũng sẽ sát cánh bên nhau để tìm ra vị trí của mình. Tôi muốn viết những câu chuyện như thế. Trích từ “Lời tác giả” ĐOẠN TRÍCH TRONG SÁCH Bà đến đặt túi đậu đỏ vào đầu giường con dâu thì thấy con bé đang ngủ. “Đừng đánh thức nó dậy”, bà nghĩ như thế, vậy nên chỉ nhẹ nhàng đặt chiếc túi nhỏ cạnh gối rồi thôi. “Cái này là gì thế mẹ? Bên trong đựng gì vậy ạ?” Chắc mới ngủ chưa sâu nên con dâu của bà đã tỉnh. “Là đậu đỏ đấy.” Nghe xong câu trả lời của bà, Yoon Na đã cười sau một thời gian dài. “Lúc mà con vẫn còn sống một mình trước khi kết hôn ấy, con đã nhận được một cuộc điện thoại từ mẹ vào ngày sinh nhật. Mẹ bảo là dù sao đi nữa cũng hãy ăn món gì đó làm từ đậu đỏ. Mẹ cứ nhắc đi nhắc lại mãi rằng phải như thế mới không bị ma quỷ bám theo. Nhưng hôm ấy, vì công việc kết thúc muộn nên con đã không thể mua được gì ăn cả, rồi mẹ biết con đã ăn gì không?” “Con đã ăn gì?” “Kem Bibibik ạ.” Lần tới đến lượt Ae Seon cười. “Mẹ mua cho con nhé? Kem Bibibik ấy?” “Vâng, con muốn ăn ạ.” Ae Seon vừa đi thang máy xuống cửa hàng vừa ngọ nguậy ngón chân. Vì là thang máy thuỷ lực nên rất chậm. Ở cửa hàng trong bệnh viện không có loại kem ấy nên bà đã phải đi mấy siêu thị gần đó, nhưng chẳng sao cả. Cuối cùng khi tìm mua được kem Bibibik mang về, Ae Seon đã không thể kìm nén mà đung đưa túi đựng đồ trong tay, bệnh viêm dính khớp vai cũng tạm thời phải nhượng bộ. Nếu có ai nhìn thấy cảnh này, chắc hẳn họ sẽ nói đó là điệu nhảy chim sẻ vì trông bà phấn khích quá. “Con à, cười lên đi. Đừng sợ, hãy ném nỗi sợ hãi đi thật xa, giống như những đứa trẻ đang cố gắng để làm vỡ quả bóng hình trái bí trong ngày hội thể dục thể thao. Con hãy chiến đấu nhé, đừng để bị thương và rơi xuống hố.” Khi Ae Seon nói ra những điều đó, bà nhớ lại rằng mình đã từng mong muốn có một đứa con gái đến như thế nào. Khi nghĩ đến hai cô con dâu của mình, bà cảm thấy chúng chẳng khác gì so với con gái ruột. Thật ra là bà có tới bốn đứa con, bốn đấy. Dù cho có trở thành thần Atula chứ không phải Bồ Tát thì những đứa trẻ mà bà muốn bảo vệ cũng vẫn là bốn. Thế nhưng thứ sẽ bảo vệ những đứa trẻ ấy thì không có gì ngoài đậu đỏ, chỉ có duy nhất đậu đỏ mà thôi. Mời các bạn mượn đọc sách Năm Mươi Người của tác giả Chung Serang & Lê Thị Thu Hương (dịch).
Ghost In Love (Tiếng Việt)
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Ghost In Love (Tiếng Việt) của tác giả Marc Levy & Phúc Chi Nhi (dịch). Sau thành công của cuốn tiểu thuyết đầu tay Nếu em không phải là giấc mơ , Marc Levy đã được đông đảo bạn đọc trên thế giới yêu mến. Ghost in love là cuốn tiểu thuyết thứ hai mươi của ông. Ghost in love - bản dịch của Phúc Chi Nhi do Nhã Nam và NXB Hội Nhà văn phát hành năm 2020 khiến độc giả hài lòng với những mẫu thoại hài hước, ngôn ngữ xúc động, câu chuyện kịch tính. Câu chuyện xoay quanh chàng trai Thomas, một nghệ sĩ dương cầm tài năng luôn mang trong mình một nỗi đau, một nỗi cô đơn khó diễn tả. Anh phiêu đắm trong từng bản nhạc nhưng luôn thấy buồn bã vì dư âm của câu chuyện nào đó trong quá khứ, vì những ngổn ngang, hoang mang của hiện tại. Có thể chính sự trống trải đến từ đời sống gia đình, mối quan hệ với cha mẹ hay những ký ức tuổi thơ đã tạo một vết thương lòng sâu sắc. Cha của Thomas là ông Raymond, một bác sĩ phẫu thuật tài giỏi, đào hoa, tính cách cởi mở khác hẳn với cậu con trai. Ông đã mất đột ngột cách đây năm năm, để lại nỗi đau đớn cho cậu con trai duy nhất. Trước đó, cha mẹ Thomas đã không sống cùng nhau. Mỗi người đều có cuộc sống riêng với những đam mê và các mối quan hệ khác biệt, điều duy nhất gắn kết họ chính là cậu con trai. Một ngày, sau khi hút điếu thuốc từ phòng của mẹ, Thomas đã trông thấy hồn ma của cha anh. Vốn dĩ Thomas cứ nghĩ đó là tác dụng của thuốc. Anh thậm chí còn đi gặp bác sĩ tâm thần là bạn thân mình, bạn anh trấn an, tất cả chỉ vì anh căng thẳng nên tưởng tượng ra. Đến khi cha anh thuyết phục để anh tin rằng, thực sự linh hồn của ông đã được quay về để gặp anh, Thomas hết sức xúc động nhưng cũng bối rối, bực mình xen lẫn. Đời sống hôn nhân của cha mẹ anh không hạnh phúc. Họ tôn trọng nhau nhưng không gắn bó, không có tình cảm với nhau. Dù rằng, ông Raymond từng say đắm mẹ anh khi còn trẻ. Với bản tính đào hoa, thông minh, hoạt ngôn, vị bác sĩ này khi còn sống đã có khá nhiều người tình, trong đó có một người đã khiến ông yêu say đắm cả khi chết đi rồi. Ông trở về để thỉnh cầu con trai giúp một việc khá táo bạo, nếu làm vậy, ông và người tình có thể bên nhau mãi mãi. Thật khó để đưa ra quyết định, giúp hồn ma của cha mình gắn kết với người tình của ông ư, điều này quá sức tưởng tượng của Thomas. Anh trở thành người kỳ lạ trong mắt người khác khi bị bắt gặp nói chuyện một mình, cư xử kỳ quặc. Sau cùng, Thomas đã quyết định giúp cha, thực hiện hành trình ba ngày ngắn ngủi từ Paris đến San Fransico để giúp cha hội ngộ với tình nhân. Trong hành trình đó, Thomas đã gặp lại Manon, cô chính là con gái của bà Camille, người tình của bố anh. Anh nhớ lại hồi ức tuổi thơ, ông bố của anh và bà mẹ của cô đã lén lút gặp nhau, họ đem theo hai đứa con của mình để che mắt thiên hạ. Tình yêu của bố anh và bà Camille là vĩnh cửu, dù sai trái. Họ vẫn duy trì gia đình vì con cái, họ bên vợ bên chồng để tránh con mình tổn thương nhưng thực tâm lúc nào cũng nhớ thương nhau. Mỗi nhân vật trong cuốn tiểu thuyết này đều có câu chuyện và nỗi lòng riêng, dù được nhắc đến nhiều hay ít. Mẹ của Thomas, người đàn bà biết rõ trái tim chồng mình đã thuộc về người khác nhưng chọn cách bình thản đối diện dù rằng bà có một đời sống náo động. Cha của Manon, người chồng bị phản bội lại chọn cách níu giữ và áp đặt, kéo vợ về phía mình, dù biết rằng điều đó là bất khả. Manon cũng như Thomas, họ thương người cha người mẹ đã khuất của mình và tình yêu sai trái của họ. Khi thực hiện di nguyện của cha mẹ, chính họ đã nhận ra những bài học lớn về tình yêu và hôn nhân. Tôi cực kỳ thích những mẫu đối thoại hài hước của hai cha con Thomas. Thi thoảng, người cha lại khuyên bảo, chỉ dạy con trai bằng vài lời hóm hỉnh. Ông bảo vấn đề của con trai mình là ít cười quá. Thomas trả lời “Con thừa biết bố sắp nói với con những gì: người ta chỉ sống có một lần”. “À, không, chuyện ấy cũng là một cú lừa ngoạn mục. Sự thật là người ta chỉ chết một lần thôi, bù lại, ngày nào người ta cũng sống”. Người cha tiếc nuối vì đã quá tập trung vào công việc, dành ít thời gian cho gia đình, cho con trai. Trước sự ra đi của mình, ông mong con trai chỉ “buồn ở mức tối thiểu, buồn ở mức cần thiết thôi”. Suy cho cùng thì khi giã từ cuộc sống, mỗi người đều có những trăn trở và nuối tiếc riêng. Được trở lại nhân gian để thực hiện ước nguyện, gặp người thân và nói lời từ biệt, ấy là mong muốn của hầu hết những linh hồn đang tồn tại ở một thế giới nào khác. Ghost in love là câu chuyện hư ảo, mang màu sắc kỳ diệu để người đọc có cái nhìn hòa ái hơn về tình yêu, về tình phụ tử, về những ước mơ trong cuộc đời. *** Đánh giá Ghost in love là một cuốn tiểu thuyết lãng mạn, nhẹ nhàng, mang màu sắc kỳ ảo. Câu chuyện xoay quanh tình yêu của hai cha con Thomas và Raymond, tình yêu của Thomas và Manon, và tình yêu của cha mẹ Manon. Ưu điểm Truyện được kể một cách hấp dẫn, lôi cuốn, với những tình tiết bất ngờ và hài hước. Các nhân vật được xây dựng chân thực và sinh động, với những tính cách, suy nghĩ và cảm xúc đa dạng. Truyện đề cập đến những vấn đề nhân sinh sâu sắc, như tình yêu, tình phụ tử, và những ước mơ trong cuộc đời. Nhược điểm Một số tình tiết trong truyện có phần hơi phi lý, khó tin. Cốt truyện có phần hơi đơn giản, chưa có nhiều đột phá. Kết luận Ghost in love là một cuốn tiểu thuyết đáng đọc, mang lại cho người đọc những phút giây thư giãn và suy ngẫm. Một số điểm nổi bật của tác phẩm Tình yêu của hai cha con Thomas và Raymond: dù đã qua đời, tình yêu của cha dành cho con vẫn vẹn nguyên. Ông luôn mong muốn được gặp con trai và giúp con tìm được hạnh phúc. Tình yêu của Thomas dành cho cha cũng rất sâu đậm. Anh sẵn sàng làm mọi thứ để giúp cha thực hiện ước nguyện. Tình yêu của Thomas và Manon: tình yêu của họ nảy nở một cách tự nhiên, từ sự thấu hiểu và đồng cảm. Họ đã cùng nhau vượt qua nhiều khó khăn để đến với nhau. Tình yêu của cha mẹ Manon: tình yêu của họ là một tình yêu sai trái, nhưng lại vô cùng mãnh liệt và thủy chung. Họ đã dành cả cuộc đời để yêu thương và trân trọng nhau. Kiến nghị Nếu bạn là người yêu thích thể loại tiểu thuyết lãng mạn, nhẹ nhàng, thì Ghost in love là một cuốn tiểu thuyết mà bạn không nên bỏ qua. Mời các bạn mượn đọc sách Ghost In Love (Tiếng Việt) của tác giả Marc Levy & Phúc Chi Nhi (dịch).
Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích)
Tóm tắt & Review (Đánh Giá) sách Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) của tác giả Franz Kafka & Lê Chu Cầu (dịch). “Tác phẩm là nhát búa phá vỡ biển cả đã đóng băng trong chúng ta.” - Franz Kafka Cập cảng New York trên một con tàu lớn khủng khiếp, Karl Roßmann, kẻ tội đồ từng gây tội lỗi tình ái ở quê hương được chào đón bởi Nữ thần Tự do giương cao thanh kiếm giữa bầu trời lồng lộng. Cảnh tượng bỗng đột nhiên trở nên chói lọi. Từ đây, Karl rơi thẳng vào vòng xoáy rủi may may rủi đến chóng mặt. Karl đã trải nghiệm cuộc sống lên voi xuống chó khôn lường dở cười dở khóc nơi miền đất của những cơ hội thần kỳ. Và tương lai của cậu là gì? Điều đó không ai biết, bởi vì tiểu thuyết đã dừng bước ngay khi chuyến tàu đưa nhân vật chính đến vùng đất có cái tên hư hư thực thực – Oklahama – chỉ vừa mới khởi hành...  Nước Mỹ (Kẻ mất tích) - tiểu thuyết đầu tiên, và hài hước nhất của Franz Kafka như tia sáng lẻ loi bên ngoài chùm tác phẩm đã trở thành huyền thoại vẫn thường được nhắc đến là Hóa thân, Vụ án và Lâu đài. E. L. Doctorow – nhà văn đương đại lớn hàng đầu nước Mỹ đánh giá đây là câu chuyện hiện đại, mang tầm tư tưởng lớn về nước Mỹ như một nơi chốn chưa ai từng thấy, trong một thời kỳ lịch sử không thể nhận dạng, vì nó được Kafka, dù chưa từng đặt chân đến Mỹ, viết nên từ những yếu tố thần thoại trong chính tâm trí thiên tài của ông  “Để nêu danh một nhà văn đã đặt dấu ấn sâu đậm lên thời đại của chúng ta không kém gì Dante, Shakespeare hay Goethe, thì với các thế hệ đương thời, đó nhất định là Kafka.”  - W.H.Auden *** Những sáng tác của Franz Kafka, đến nay được ra mắt công chúng toàn cầu, đều được phát lộ trong tình trạng bản thảo bởi những người yêu quý văn tài của ông. Song, diệu kỳ thay, những trang văn tưởng chừng dở dang trong hành trình đến với độc giả ấy, qua sự kiểm duyệt khắc nghiệt của thời gian, đến tận hôm nay vẫn là những tác phẩm được cả giới nghiên cứu lẫn độc giả phổ thông đánh giá là đạt đến sự hoàn hảo cao độ. Tiểu thuyết Nước Mỹ (Kẻ mất tích) là một sự dở dang hoàn hảo ám ảnh người đọc như thế. Chàng trai người Đức Karl Roßmann - nhân vật chính của tác phẩm - bị gia đình tống khứ khỏi nhà và bắt đầu một cuộc sống mới trên đất Mỹ. Để rồi từ đây, với những pha độc thoại triền miên, với những giả thiết hoàn toàn xa lạ so với cách nghĩ thông thường, Kafka xây dựng hình ảnh một chàng thanh niên Karl Roßmann thông minh, sâu sắc, luôn quan sát cuộc sống tỉ mỉ và có những so sánh, liên tưởng thú vị. Dễ nhận thấy lối văn chú thích của Kafka trong những trang viết đầy rẫy những câu văn dài, thậm chí rất dài, như thể là “hóa thân” của những suy tư phức tạp, đa diện về cuộc sống. Dẫu chưa từng đặt chân đến nước Mỹ, nhưng với Nước Mỹ (Kẻ mất tích), Franz Kafka đã cho thấy sự tưởng tượng phong phú của ông. Và điều đáng nói là những vấn đề mà Kafka đề xuất trong quyển tiểu thuyết đầu tay này của ông vẫn vẹn nguyên tính thời sự trong thời đại ngày nay. Sự tiên cảm lạ lùng ấy càng khiến cho văn chương của ông “quyến rũ” độc giả hôm nay và mai sau. Sách do Lê Chu Cầu dịch, NXB Hội Nhà Văn ấn hành. *** Tóm tắt Tiểu thuyết Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) của Franz Kafka kể về hành trình của Karl Roßmann, một chàng trai trẻ người Đức, đến nước Mỹ để bắt đầu một cuộc sống mới sau khi bị gia đình tống khứ khỏi nhà vì lý do tình ái. Tại Mỹ, Karl gặp phải vô vàn khó khăn và thử thách. Anh bị đuổi việc khỏi cửa hàng bách hóa, bị bắt vào tù, và phải đối mặt với những kẻ lừa đảo. Tuy nhiên, Karl vẫn không ngừng tìm kiếm cơ hội để lập nghiệp và tìm kiếm hạnh phúc. Đánh giá Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) là một tác phẩm phức tạp và khó hiểu, nhưng cũng vô cùng hấp dẫn và lôi cuốn. Tác phẩm đã khắc họa một cách chân thực những khó khăn và thử thách mà người nhập cư phải đối mặt khi đến một đất nước mới. Tiểu thuyết cũng thể hiện những suy tư của Kafka về cuộc sống, về con người và về thế giới. Kafka cho thấy rằng cuộc sống là một hành trình đầy rẫy những bất trắc và khó khăn, nhưng con người vẫn luôn có thể tìm thấy niềm hy vọng và hạnh phúc. Một số điểm nổi bật Cốt truyện hấp dẫn và lôi cuốn Nhân vật được xây dựng chân thực và đáng nhớ Ngôn ngữ giàu chất thơ và triết lý Kết luận Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) là một tác phẩm kinh điển của văn học thế giới. Tác phẩm xứng đáng được đọc và suy ngẫm bởi bất cứ ai quan tâm đến cuộc sống, con người và thế giới. Một số nhận xét của độc giả "Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) là một cuốn sách tuyệt vời. Tác phẩm đã khiến tôi phải suy ngẫm rất nhiều về cuộc sống." "Câu chuyện của Karl Roßmann rất cảm động và đáng suy ngẫm. Tôi rất thích cách tác giả đã khắc họa nhân vật và bối cảnh." "Tác phẩm có lối viết độc đáo và hấp dẫn. Tôi rất ấn tượng với những suy tư của tác giả về cuộc sống." Mời các bạn mượn đọc sách Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) của tác giả Franz Kafka & Lê Chu Cầu (dịch).