Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Chôn Sống

"Chôn sống" (Body double) là cuốn tiểu thuyết tiêu biểu của nữ văn sĩ Tess Gerritsen. Bà đã bỏ kỳ thực tập với tư cách một bác sĩ nội khoa để nuôi nấng con cái tập trung vào công việc viết lách. Bà đã giành được sự khen ngợi trên khắp nước Mỹ cho cuốn tiểu thuyết đầu tiên của mình về sự ly kỳ mang tính chất y khoa, đó cũng là một trong những sách bán chạy nhất của Thời báo New York - tiểu thuyết "Mùa gặt". Bà cũng là tác giả của các cuốn sách bán chạy như: Biến mất, Khu vườn xương, Tội ác, Chôn sống, Titanic trong vũ trụ... *** Tess Gerritsen là một bác sĩ điều trị và một tác giả nổi tiếng thế giới. Tác phẩm tiểu thuyết đầu tay của bà về sự trì hoãn trong y học đã dành được rất nhiều lời khen ngợi. Harvest là cuốn sách bán chạy nhất theo tờ Thời báo New York. Bà cũng là tác giả của nhiều cuốn sách bán chạy khác như The Mephisto Club, Vanish, Body Double, The Sinner, The Apprentice, The Surgeon, Life Support, Bloodstream và Gravity. Tess Gerritsen sống tại Maine. Có thể ghé thăm website của bà tại địa chỉ www.tessgerrritsen. Là nhà tâm lý giải nghệ nên khi chuyển sang viết lách, nữ nhà văn người Mỹ Tess Gerritsen tỏ ra rất thấu hiểu nội tâm của các nhân vật của mình. Văn phong của bà bị ảnh hưởng bởi xu hướng diễm tình trong những tiểu thuyết mà bà đọc khi còn trẻ, nhưng sau đó đã được chuyển hóa một cách vô cùng mượt mà, hiệu quả sang thể loại trinh thám đen tối hơn. Dù vậy, Tess Gerritsen vẫn giữ được nhiều tình tiết rất ngọt ngào đậm chất phái nữ, giúp cho các tác phẩm như Call After Midnight (1987), Peggy Sue Got Murdered (1994), The Bone Garden (2007)... tạo được ấn tượng lâu dài trong lòng người đọc. Đặc biệt, những kiến thức về hình sự, tội phạm cũng được nữ nhà văn nghiên cứu rất kỹ và chuyển tải đầy đủ, trọn vẹn, hợp lý trong những cuốn sách của mình. Tác phẩm: Nạn Nhân Thứ Tư (Rizzoli & Isles #1) Quái Vật (Rizzoli & Isles #2) Tội Ác (Rizzoli & Isles #3) Chôn Sống (Rizzoli & Isles #4) Biến Mất (Rizzoli & Isles #5) Dấu Của Quỷ (Rizzoli & Isles #6) Mùa Gặt Mạng Sống Mong Manh Khu Vườn Xương Titanic Trong Vũ Trụ ... *** MỞ ĐẦU Cậu ta lại nhìn cô gái. Cô gái Alice Rose mười bốn tuổi cố gắng tập trung vào mười câu hỏi trên bàn nhưng tâm trí cô bé không để vào bài kiểm tra mà dồn vào Elijah. Cô cảm thấy cái nhìn của cậu ấy như ánh nắng lướt qua mặt, cô thấy má mình nóng lên, rõ là cô đang bối rối. Tập trung nào, Alice! Câu hỏi kế tiếp là về kịch và cô phải nhanh chóng tìm ra đáp án. Charles Dicken thường có những cái tên phù hợp với tính tình của nhân vật. Hãy cho một vài ví dụ và miêu tả tại sao những cái tên đó lại phù hợp với các nhân vật? Alice nhai nhai đầu bút chì, cố gắng tìm ra câu trả lời. Nhưng cô chẳng thể nghĩ ra cái gì khi cậu ấy đang ngồi ở bàn bên cạnh, gần đến mức cô có thể ngửi thấy mùi xà bông và khói gỗ từ cậu ấy. Mùi con trai. Dickens, Dickens, ai thèm quan tâm tới Charles Dicken và Nicholas Nickleby cơ chứ và cả ông thầy người Anh trẻ tuổi nữa khi mà Elijah hào hoa đang nhìn cô? Ôi lạy Chúa, cậu ấy đẹp trai quá với mái tóc đen và đôi mắt xanh. Đôi mắt của Tony Curtis. Lần đầu tiên nhìn thấy Elijah, cô đã nghĩ rằng cậu ấy giống Tony Curtis y chang, người có gương mặt đẹp tuyệt vời trong các trang tạp chí Modem Screen và Photoplay, tạp chí yêu thích của cô. Cô cúi đầu, khi tóc mai xõa xuống mặt cô nhìn thấy cậu ta đang lén nhìn mình qua tấm rèm cửa. Trái tim cô đập thình thịch khi cô chắc chắn rằng, cậu ta đang nhìn cô chứ không phải nhìn đám con trai chạy nhảy bên ngoài, những đứa chậm chạp và rắc rối. Những thằng con trai với những lời thì thầm không thể bỏ ngoài tai. Cô biết những lời thì thầm đó là về cô bởi chúng vừa nhìn cô vừa nói. Chúng cũng là những đứa đã dán ảnh bò cái lên tủ để đồ của cô và kêu ò ò khi cô vô tình đụng phải chúng ở đại sảnh. Nhưng Elijah thì nhìn cô theo cách khác. Với đôi mắt sáng, trong vắt. Đôi mắt của một ngôi sao phim trường. Cô bé chậm rãi ngẩng đầu lên và nhìn lại, không phải qua mớ tóc lòa xòa mà với cái nhìn hàm ý - tớ biết cậu nhìn gì rồi. Tờ giấy làm bài của cậu ấy đã được hoàn thành và úp xuống, cái bút chì được để ra xa. Giờ thì cậu ta tập trung toàn bộ sự chú ý vào cô và cô cảm thấy không thể thở được trước cái nhìn ấy. Cậu ấy thích mình. Mình biết mà. Cậu ấy thích mình. Cô đưa tay vuốt dọc từ cổ xuống, đến cúc áo đầu tiên. Những ngón tay cô chạm vào da và để lại một hơi nóng nhẹ. Cô nhớ tới cái nhìn nóng bỏng của Tony dành cho Lana Turner, cái nhìn có thể khiến cho một cô gái líu lưỡi chùn chân. Cái nhìn ấy chỉ có trước một nụ hôn nồng cháy. Đó là khi bộ phim vào lúc cao trào. Tại sao điều này phải xảy ra nhỉ? Tại sao nó cứ rối tung lên khi mình muốn biết rõ nhất...? - Hết giờ rồi, các em. Úp bài xuống. Alice vội vàng quay lại với cái bàn và bài kiểm tra, một nửa câu hỏi vẫn còn nguyên. Ôi không, thời gian trôi đi đâu rồi? Cô biết câu trả lời mà, chỉ cần thêm một chút thời gian thôi... - Alice. Alice! Cô ngước lên và thấy bàn tay của cô Meriweather đưa ra. - Em không nghe tôi nói gì à? Hết giờ rồi, nộp bài thôi. - Nhưng em... - Không lý do lý trấu gì hết. Em phải học cách nghe đi, Alice! Cô Meriweather giật lấy bài kiểm tra của Alice và đi xuống phía dưới. Mặc dù Alice hầu như không nghe thấy rõ nhưng cô biết là các cô gái bên dưới đang bàn tán về mình. Cô quay lại và nhìn thấy họ đang chụm đầu vào nhau, những bàn tay đưa lên che miệng ra chiều bí mật lắm. Alice có thể biết môi chúng ta cử động thế nào đấy, đừng để nó thấy chúng ta đang nói về nó. Giờ thì cả bọn con trai trong lớp cũng cười và chỉ trỏ về phía cô bé. Có cái gì đáng cười nào? Alice nhìn xuống và cô kinh hãi nhìn thấy cúc áo trên cùng bị tuột, giờ thì ngực áo đang phanh ra. Chuông reo, chúng được giải thoát. Alice nhanh chóng gom sách vở vào cặp và ôm nó trước ngực khi rời khỏi phòng học. Cô hầu như không dám nhìn ai, chỉ bước đi, mặt cúi gằm, nước mắt nghẹn ứ. Cô chạy thật nhanh vào phòng vệ sinh và khóa cửa lại. Những đứa con gái khác cũng vào và đứng đó, vừa cười vừa ngắm vuốt trước gương, Alice đứng nấp sau cánh cửa. Cô có thể ngửi thấy mùi nhiều loại nước hoa khác nhau, có thể cảm thấy từng luồng không khí ra vào mỗi khi cửa đóng mở. Những cô gái kiều diễm, với những chiếc áo len hàng hiệu mốt nhất. Họ chẳng bao giờ sợ tuột cúc, họ chẳng bao giờ đến trường với những chiếc váy ngắn cũn và những đôi giầy cứng ngắc. Biến đi, mọi người làm ơn biến đi. Cánh cửa cuối cùng cũng không chuyển động nữa. Đưa tay nhấn vào núm chốt cửa, Alice nín thở nghe ngóng xem còn ai trong nhà vệ sinh nữa không. Thò đầu qua khe hở, cô không thấy còn ai đứng trước gương nữa. Sau đó, cô mới dám ra khỏi nhà vệ sinh. Đại sảnh cũng vắng tanh, mọi người đều đã về lâu rồi. Không còn ai ở đây để trêu chọc hay bắt nạt Alice nữa. Cô bé bước đi, vai gồng lên để tự bảo vệ mình, bước dọc hành lang dài với những dãy tủ để đồ cửa mở ra đập vào và dãy những tấm bảng thông báo buổi khiêu vũ Halloween hai tuần nữa. Có lẽ cô sẽ không đến dự buổi khiêu vũ đó đâu. Sự xúc phạm mà cô gặp phải ở buổi khiêu vũ tuần trước vẫn còn đau nhói và có lẽ sẽ mãi mãi là vết đau trong lòng cô. Hai tiếng đồng hồ đứng dựa lưng vào tường, chờ đợi, hy vọng một cậu bạn nào đó sẽ mời cô ra nhảy. Cuối cùng thì cũng có một đứa tiến đến, nhưng không phải là mời cô nhảy. Thay vì mời cô thì nó đột nhiên nấc lên và nôn vào giày của cô. Sẽ không có buổi khiêu vũ nào hết. Cô chuyển đến thị trấn này hai tháng rồi và cô đã hy vọng mẹ sẽ gói gém đồ đạc và chuyển đi, đến một nơi nào đó họ có thể bắt đầu lại. Nơi mà mọi thứ sẽ khác. Chỉ cần bọn họ không ở đó. Cô bé đi tới lối ra phía trước và hòa vào cái nắng mùa thu. Cô cúi xuống định mở khóa xe đạp mà không hề nghe có tiếng bước chân. Chỉ đến khi bóng của cậu ấy trùm xuống đầu cô thì Alice mới nhận ra Elijah đang đứng bên cạnh. - Chào Alice! Cô đứng sững, cái xe đạp đổ sang một bên. Ôi Chúa ơi, mình mới ngốc làm sao. Sao mình có thể bối rối đến thế nhỉ? - Bài thi thật khó, đúng không? Cậu ấy nói chậm rãi, rành rọt. Lại thêm một điều nữa cô bé thích ở Elijah; không giống những đứa trẻ khác, giọng của cậu ấy rất rõ ràng, không hề bị nuốt từ, khi cậu ấy nói trông môi cậu ấy thật đẹp. Cậu ấy biết bí mật của mình, nhưng vẫn muốn là bạn với mình- cô nghĩ. - Cậu có trả lời được hết các câu hỏi không? Cô gật đầu và dựng cái xe đạp lên: - Tớ biết các câu trả lời, tớ chỉ cần thêm thời gian thôi. Khi cô đứng thẳng lên cô nhận thấy ánh mắt cậu ta dừng lại ở chỗ cái cúc áo bị đứt. Ngại quá, cô lấy hai tay ôm lấy ngực. - Tớ có cái ghim này - cậu ta nói. - Cái gì? Cậu ta đưa tay vào túi áo và móc ra một cái kẹp ghim. - Tớ cũng hay làm mất cúc áo, ngại lắm. Nào, để tớ kẹp lại cho cậu. Cô gái cố gắng thở bình thường khi cậu ấy tiến đến và chạm vào áo của cô, cô hầu như không thể kiểm soát được mình khi ngón tay của cậu ấy luồn vào bên dưới vạt áo để kẹp cái ghim. Cậu ấy có thấy tim mình đang đập loạn lên không nhỉ? Cậu ấy có biết mình phát điên lên khi cậu ấy chạm vào người mình không nhỉ? Khi cậu ta lùi lại, cô mới dám thở mạnh. Cô nhìn xuống và thấy chỗ cúc áo bị mất đã được ghim kín lại. - Tốt hơn chứ hả? - Cậu ta hỏi. - À... ừ. Cô ngừng lại để chuẩn bị tinh thần, để nói với giọng cao quý của một nữ hoàng. - Cảm ơn Elijah, bạn thật chu đáo! Một lát trôi qua. Một làn gió thổi tới, những chiếc lá mùa thu như những ngọn lửa lấp lánh trên cành. - Này, cậu có thể giúp mình một việc không Alice? - Giúp cái gì? Ôi, đồ ngớ ngẩn. Lẽ ra mày phải nói là được! Được! Mình sẽ làm bất cứ điều gì cho cậu, Elijah Lank! - Mình đang có một kế hoạch cho môn sinh học và mình cần có người trợ giúp, mình không biết phải nhờ ai cả. - Kể hoạch gì thế? - Mình sẽ chỉ cho cậu thấy, cậu đến nhà mình chứ? Nhà cậu ấy ư? Cô chưa bao giờ đến nhà đứa con trai nào. Cô gật đầu: - Để mình về nhà cất sách vở đã nhé. Cậu ta kéo cái xe ra khỏi hàng, nó gần giống cái xe của cô. Chắn bùn rách te tua, han rỉ đến tận chỗ ngồi. Cái xe cũ làm cô thích cậu ta hơn bao giờ hết.Chúng ta là một cặp thực sự, cô nghĩ. Tony Curlis và mình. Cả hai đi về nhà cô trước. Cô đã không mời cậu ấy vào nhà, cô ngượng lắm, vì không thể để cậu ấy thấy những đồ đạc lộn xộn và vết sơn loang lổ trên tường được. Cô chạy vào bên trong, vứt cái cặp lên bàn bếp và chạy ra ngay. Thật không may, con chó của thằng em cũng chạy ra. Khi cô ra đến cửa trước, con chó lông đen trắng mới lộ ra. - Buddy — cô hét lên - quay vào ngay! - Nó không biết nghe lời lắm thì phải - Elijah bảo. - Vì nó là một con chó ngớ ngẩn, Buddy! Con vật ngoảnh lại, vẫy đuổi rồi chạy tuốt ra đường. - Ôi không sao đâu, khi nào chán nó sẽ về nhà ngay thôi — cô nói rồi leo lên xe - cậu sống ở đâu? - Trên phố Skyline. Cậu tới đó bao giờ chưa? - Chưa. - Nó ở trên đồi, cậu có đi được không? Cô gật đầu. Tớ có thể làm bất cứ điều gì vì cậu. Chúng đi xa khói nhà cô bé, cô hy vọng cậu ta sẽ đi qua phố chính, qua siêu thị chỗ bọn trẻ con luôn luôn tụ tập sau giờ học để chơi Jukebox và uống Soda. Chúng sẽ thấy mình đi cùng nhau và bọn con gái sẽ không dám lè lưỡi? — Alice đang đi cùng Elijah mắt xanh kìa. Nhưng cậu ta không dẫn cô qua phố chính mà lại đi ngược lên Locust, chỗ chả có mấy nhà cửa, chỉ là con đường phía sau một vài công ty và chỗ đỗ xe của nhân viên xưởng Neptune. Nhưng chẳng phải cô đang đạp xe cùng cậu ta sao? Đủ gần để thấy bắp chân cậu ấy phập phồng và mông cậu ấy trên yên xe. Cậu ta quay lại nhìn cô, mái tóc đen tung bay trong gió. - Cậu ổn chứ Alice? - Mình ổn. Sự thật là cô đang sắp hết hơi vì chúng đã bỏ xa ngôi làng và giờ đang leo lên núi. Elijah hẳn là đã đi xe đạp lên Skyline hàng ngày và quen rồi, cậu ta hầu như chỉ hơi bị ngược gió, chân vẫn đạp đều như những tay đua xe đầy sức lực. Nhưng cô thì đã phải nhổm dậy để dồn sức xuống bàn đạp. Một sợi lông bay vào mắt. Cô nhìn sang bên và thấy Buddy đang theo sau họ. Nó có vẻ mệt, lưỡi thè ra thở lấy thở để. - Về nhà mau. - Cậu bảo sao? - Elijah ngạc nhiên. - Là con chó ngớ ngẩn ấy mà. Nó vẫn theo chúng ta... nó sắp... sắp hụt hơi rồi. Alice lừ mắt nhìn Buddy nhưng con chó vẫn tiếp tục hớn hở chạy bên cạnh. Được rồi, mày cứ chạy đi, mày mệt lăn ra đấy tao cũng kệ - cô bé nghĩ. Cả hai tiếp tục đạp lên núi, gió thổi nhè nhẹ. Qua những rặng cây cô có thể nhìn thấy khung cảnh quen thuộc của cảng Fox xa xa phía dưới, nước lóng lánh như đồng dưới ánh sáng mặt trời buổi chiều. Sau đó những hàng cây trở lên dầy hơn và cuối cùng cô chỉ thấy cánh rừng trong màu đỏ và cam sáng, con đường đầy lá vòng vèo trước mặt. Cuối cùng thì Elijah cũng ngừng đạp, chân của Alice mệt đến nỗi cô không thể đứng thẳng mà không run run. Buddy biến đâu mất, cô mong là con chó có thể tìm thấy đường về nhà vì cô không chắc là mình có thể đi tìm con chó chết tiệt đó không. Giờ thì Elijah đang đứng đây, mỉm cười với cô, đôi mắt trìu mến làm sao. Cậu ấy dựa cái xe vào một cái cây và quàng cái cặp lên vai. - Nhà cậu đâu? - Đó là đường vào đấy - cậu ta chỉ xuống con đường, tới một cái hộp thư đứng chơ vơ. - Không phải chúng ta tới nhà cậu à? - Không. Em họ mình ốm và nó nôn mửa suốt cả đêm qua, thôi đừng vào nhà nhé. À mà kế hoạch của mình ở ngoài kia, chỗ mấy cây gỗ ấy. Bỏ cái xe của cậu ở đây đi, chúng ta đi bộ. Cô dựng cái xe của mình vào xe của cậu ta và đi theo cậu ta. Chân cô vẫn còn mỏi nhừ vì vừa đạp xe lên núi. Cả hai đi sâu vào rừng. Cây ở đây rất to, lá rụng thành tấm thảm dày bao phủ mặt đất. Cô đi theo cậu ta, vừa đi vừa xua xua mấy con muỗi. - Em họ cậu ở với cậu à? - Ừ, nó đến ở với nhà mình năm ngoái. Chắc là ở nhà mình luôn, chẳng có chỗ nào để đi mà. - Bố mẹ cậu không phiền lòng sao? - Chỉ bố thôi, mẹ tớ chết rồi. - Ôi! Cô chẳng biết phải nói sao cả, cuối cùng cô cũng thì thào được một câu đơn giản. - Tớ rất tiếc. Nhưng có vẻ cậu ta không nghe thấy. Lá dưới chân dày hơn và những cạnh khô sắc cứa vào đôi chân trần của cô bé. Theo kịp cậu ta quả là mệt. Cậu ta vẫn tiếp tục đi trước, bỏ mặc cô với cái váy mắc vào cây mâm xôi. - Elijah! Cậu ta không trả lời, vẫn tiếp tục đi như một nhà thám hiểm kiên cường, cặp sách khoác trên vai. - Đợi tớ với. - Cậu có muốn xem không? - Có nhưng mà... - Thế thì nhanh lên. Giọng nói của cậu ta tỏ ra mất kiên nhẫn và cô bắt đầu thấy sợ. Cậu ấy chỉ đứng cách cô vài thước và nhìn cô, cô thấy bàn tay cậu ta đang nắm chặt. - Được được - Cô vội vàng — Tớ tới đây. Xa xa chỉ chục mét, những cây gỗ đột nhiên thưa ra thành một khoảng trống. Cô nhìn thấy một cái nền đá cũ kỹ, như kiểu một trang trại đã bị phá lâu rồi. Elijah quay lại nhìn có, mặt cậu ta đỏ lên dưới nắng chiều. - Ở ngay đây thôi. - Cái gì vậy? Cậu ta cúi xuống và nhặt hai cành cây vứt qua một bên, bên dưới là một cái hố sâu. - Xem này, tớ phải đào nó mất ba tuần đấy. Alice tiến tới chỗ cái hố một cách chậm chạp và nhìn xuống. Ánh nắng buổi chiều giờ đang lấp lánh sau lùm cây, ở đáy hố với om. Cô gạt mấy cái lá ra và thấy dưới đó có một sợi dây thừng vắt qua miệng hố. - Đây là bẫy gấu hay cái gì? - Có thể. Nếu tớ mà để vài cành cây vào để che miệng hố thì tớ có thể bẫy được nhiều thứ lắm, kể cả nai nữa - Cậu ta chỉ xuống hố - Cậu nhìn thử xem? Cô cúi xuống gần hơn và thấy cái gì đó trắng nhợt bên dưới, có một đám trắng hếu bên dưới đám lá khô. - Cái gì thế? - Kế hoạch của tớ đấy - Cậu ta nói và kéo sợi dây lên. Ở đầu kia của sợi dây, lá rơi xuống và khi nó được kéo hẳn lên thì Alice vội vàng nhìn chằm chặp xuống trong khi Elijah lôi nó lên. Một cái rổ. Cậu ta kéo nó ra khỏi hố và đặt nó xuống đất. Gạt bỏ hết đám lá mục sang một bên, Elijah đã lần tới đầu trắng của sợi dây. Đó là một cái đầu lâu nhỏ. Khi cậu ta rũ tất cả lá ra thì cô bé nhìn thấy một ít lông đen và một cái xương sống. Mấy cái xương ống chân của con gì đấy. - Thấy hay không? Nó còn không bốc mùi nữa kìa — cậu ta nói - Nó được chôn dưới đó bảy tháng rồi đấy. Lần trước tớ kiểm tra thì vẫn còn một ít thịt dính vào. Giờ thì tất cả hết sạch rồi, nó bắt đầu phân hủy nhanh hơn khi trời ấm lại vào tháng Năm. - Nhưng nó là cái gì? - Cậu không đoán được à? - Không. Nhặt cái đầu lên, cậu ta giơ nó lên cao một chút rồi vung về phía Alice. - Đừng! - Cô hét lên. - Meeo! - Elijah! - Hả, chẳng phải cậu hỏi nó là cái gì à? Cô nhìn vào hốc mắt trống hoác. - Mèo à? Cậu ta lôi ra một cái hộp từ cặp xách và đặt cái đầu vào trong đó, rồi lần lượt bỏ xương vào. - Cậu làm gì với bộ xương đó thế? - Là kế hoạch khoa học của tớ. Từ một con mèo thành bộ xương khô này mất bảy tháng. - Cậu kiếm đâu ra con mèo đó. - Tớ tìm thấy nó. - Cậu tìm thấy một con mèo chết à? Cậu ta ngước lên, đôi mắt xanh mỉm cười. Nhưng không phải là đôi mắt của Tony Curtis nữa, đôi mắt đó làm cô sợ. - Ai nói nó chết? Tim cô đột nhiên đập mạnh, cô lùi lại một bước. - Ờ... mình nghĩ là mình phải về nhà đây. - Tại sao? - Bài tập. Mình phải làm bài tập. Giờ thì cậu ta đứng dậy, nụ cười tắt ngấm, thay vào đó là cái nhìn kỳ vọng lặng lẽ. - Tớ sẽ... gặp lại cậu ở trường nhé... Cô nói và quay lưng lại nhưng nhìn cả hai phía trái phải đều thấy giống nhau. Trời ơi họ đã đi đường nào vậy? Cô sẽ đi đường nào về đây? - Nhưng cậu vừa mới đến mà Alice. Cậu ta nói, hình như đang nắm cái gì đó trong tay. Chỉ khi cậu ta giơ nó lên ngang đầu cô mới biết đó là cái gì. Một hòn đá. Cô khuỵu xuống, cô cào xuống đất, giờ cô thấy với đen, tay chân tê cứng lại. Cô không thấy đau, chỉ có sự thất vọng mà cậu ta mang đến vừa đánh gục cô. Cậu ta tiến đến, lôi cô dậy và đẩy ngửa ra. Mặt cô va xuống đất khi cậu ta lôi chân cô đi. Cô cố hết sức vùng vẫy la hét nhưng miệng cô đầy bùn đất và cành lá khi cậu ta kéo cô tới phía cái hố. Khi đã rơi xuống đáy hố rồi, cô mới thấy chân mình lủng lẳng. - Đi thôi, Alice - cậu ta nói. - Kéo tớ lên! Kéo lên đi! - Tớ nói, đi thôi! Cậu ta vứt hòn đá đi. Cô bé cố gắng trèo lên nhưng lại tuột xuống. Rơi xuống thảm lá mục dầy đặc bên dưới. - Alice, Alice! Bị đau vì rơi xuống, cô ngước lên bầu trời hình vòng tròn bên trên và nhìn thấy cái đầu cậu ta, đang cúi xuống nhìn. - Tại sao cậu làm thế? Tại sao? - Chẳng việc gì là không có lý do cả. Tớ chỉ muốn xem mất khoảng bao lâu thôi. Bảy tháng cho một con mèo, cậu nghĩ cậu mất bao lâu? - Cậu không thể làm thế với tớ được! - Bye bye, Alice! - Elijah! Elijah! Tấm gỗ đã che mặt hố, che lấp ánh sáng. Hình ảnh về bầu trời biến mất. Điều này không phải là sự thật, cô nghĩ. Đây chỉ là trò đùa thôi. Cậu ấy chỉ cố gắng làm mình sợ thôi. Cậu ấy chỉ bỏ đi vài phút và sau đó sẽ quay lại kéo mình lên, tất nhiên là cậu ấy sẽ quay lại rồi. Và rồi cô bé nghe thấy có tiếng gì đó bên trên nắp hố. Đá. Cậu ta đang chèn đá lên trên miệng hố. Cô bé đứng dậy và cố gắng trèo lên khỏi hố, cô cào vào lớp đất cát, nhưng không thấy một bàn tay nào, không thể nhích lên một phân nào. Tiếng la hét chìm vào bóng tối. - Elijah! Chỉ có tiếng đá chuyển động đáp lại.   Mời các bạn đón đọc Chôn Sống của tác giả Tess Gerritsen & Vũ Thị Tâm (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu
Ngôi trường nữ học danh giá nhất nước Anh xảy ra liên tiếp nhiều vụ án mạng. Với nhiều học sinh xuất thân từ hoàng tộc và gia đình giàu có, liệu nhà trường có liên quan đếm âm mưu nào lớn hơn? Giữa những nữ sinh và giáo viên nữ hiền lành, kẻ sát thủ giấu mặt như con mèo rơi vào giữa đàn bồ câu. *** Review Phong: Trước khi lên đường ra nước ngoài nhằm tránh khỏi cuộc cách mạng của phe nổi dậy, vị Quốc vương của Ramat là Ali Yusuf đã tin tưởng giao số đá quý trị giá bảy trăm năm mươi ngàn bảng cho viên phi công riêng là Bob Rawlinson. Sau khi cân nhắc, Bob đã tìm đến chị gái Sutcliffe của anh đang nghỉ dưỡng tại một khách sạn của Ramat. Nhưng khi đến nơi thì người chị gái đã đi ra ngoài, không có thời gian chờ đợi vì cuộc cách mạng có thể diễn ra bất cứ lúc nào, bằng cách nào đó Bob đã đưa được số đá quý vào hành lý trong phòng người chị kèm theo một lời nhắn. Sau này, con gái của Sutcliffe là Jennifer được nhận vào học tại Meadowbank, trường nữ sinh danh giá nhất của nước Anh, cùng nhập học với cô bé còn có cái tên đáng chú ý: Công nương Shaista, em họ của Quốc vương Ali Yusuf. Cũng kể từ đây, liên tiếp những vụ giết người với đối tượng hướng đến là các cô giáo trong trường đã khiến danh tiếng của Meadowbank gần như hoàn toàn sụp đổ chỉ sau vài tuần bắt đầu kì học mới. Cuốn thứ 7 của tác giả Agatha Christie mà mình đọc. So với những cuốn rất hay của bà mình đọc gần đây thì cuốn này chỉ dừng ở mức đọc được, bà viết cuốn này khi đã 69 tuổi nên mình thấy thế là được rồi. Vụ án không hấp dẫn, có nhiều hơn một cái chết nhưng tình tiết rất bình thường chứ không nhanh và hấp dẫn như những cuốn mình đọc trước đây như “Ngôi nhà quái dị”, “Án mạng trên sông Nile” hay “Tận cùng là cái chết”. Phần phá án của Hercule Poirot có lẽ là phần mình thấy thú vị duy nhất trong truyện. Mình thích truyện kết thúc ở chương 24 hơn, đúng với phong cách những điều bất ngờ dồn dập đến ở khoảng 20 trang cuối của bà. Chương 25 giúp giải quyết toàn bộ vấn đề còn lại được đưa ra, mình đọc thấy hơi dài dòng và cũng không hứng thú lắm nhưng mình tôn trọng toàn bộ dụng ý mà bà đưa ra trong truyện. Cuốn này thực sự là một thảm họa về khâu biên tập, xứng đáng là cuốn sách đáng xấu hổ nhất của Trẻ mà mình hiện có. Trẻ là một NXB lớn, nắm bản quyền các tác phẩm của Agatha Christie nhưng tại sao họ có thể phát hành một cuốn sách đầy lỗi thế này thì mình không biết, những cuốn trước cuốn nào không ít thì nhiều cũng có lỗi, nhưng dày đặc thế này thì mình mới thấy lần đầu. Mình có kiểm tra lại lời nói đầu, thì đúng là họ cam kết đem đến những bản dịch tốt, hình thức đẹp chứ không nói gì đến việc biên tập kĩ lưỡng. Khi mình đề cập vấn đề này với admin fanpage NXB Trẻ thì nhận được phản hồi như hình dưới. Vậy hóa ra mỗi lần tái bản NXB chỉ in lại chứ không hề rà soát lỗi biên tập, trong khi việc này đã phải làm kĩ ngay khi phát hành. Không nói ra thì không chịu được vì sách của tác giả mình yêu thích lại không được quan tâm biên tập cho đúng mực, mà nói ra rồi lại thấy ức hơn vì giờ phải đọc lại toàn bộ sách, ghi chú lỗi lại với hy vọng ở lần tái bản sau, cuốn sách này sẽ được chăm chút tốt hơn. Tương lai nào cho những đứa con tinh thần của Agatha Christie khi được xuất bản tại Việt Nam … *** Review Lucy:   Tại Ramat sắp có cuộc bạo động và quốc vương nước này được sắp xếp tẩu thoát ra nước ngoài. Ông đưa cho bạn thân đồng thời là phi công một chiếc túi chứa đầy kim cương dặn dò tìm cách đưa số kim cương này thoát ra khỏi Ramat. Bởi quốc vương nhận thấy cuộc tẩu thoát lành ít dữ nhiều và ông không muốn kẻ thù nhặt lấy nó từ xác của mình. Chàng phi công đã lén nhét vào hành lí của cô cháu gái Jennifer vì cô sắp về Anh để đi học. Đúng như dự đoán. Máy bay bị gài bom phát nổ, quốc vương và phi công lao vào núi rồi chết. Số kim cương cùng cô cháu gái đến trường Meadowbank một ngôi trường nữ sinh danh giá nhất nước Anh. Tại đây xảy ra hàng loạt vụ bắt cóc, giết người nhằm mục đích chiếm đoạt số kim cương mà Jennifer vẫn không hay biết mình đang giữ. Chương mở đầu khá là rối vì giới thiệu một loạt nhân vật giáo viên, công nhân viên, học sinh, phụ huynh. Các nhân vật nối tiếp nhau xuất hiện khiến người đọc không nắm bắt kịp. Chương mở đầu không cung cấp manh mối gì nhiều chủ yếu dùng để phô chất riêng của tác giả. Nhưng cũng đừng lo vì chương sau đó sẽ tóm tắt lại các nhân vật chính và vai trò chủ chốt. Có nhiều tình tiết khá là dài dòng như chuyện cô Bulstrode dự định nghĩ hưu lặp lại suốt, đọc ngán luôn.Nhân vật ấn tượng nhất cũng là cô Bulstrode, một người hiệu trưởng thực sự có bản lĩnh và luôn ghét từ "tẻ nhạt" Mình chấm tác phẩm này 6/10 điểm. Cảm thấy bình thường, không quá thất vọng nhưng cũng không được như kỳ vọng *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Hôm ấy là ngày khai giảng kì học hè ở trường Meadowbank. Ánh chiều tà đổ xuống con đường lát sỏi rộng thênh trước tòa học xá. Cửa trước rộng mở vui đón khách, và ngay ở cửa, tương xứng một cách đáng ngưỡng mộ theo đúng tỉ lệ kiến trúc thời Georgia của tòa nhà là cô giáo Vansittart, tóc gọn gàng, áo khoác và váy được cắt may không chê vào đâu được. Một số bậc phụ huynh không biết rõ đã nhầm bà với bà Bulstrode, mà đâu hay bà Bulstrode có lệ rút lui vào cấm cung, ở đấy chỉ số ít bậc phụ huynh chọn lọc được hưởng đặc quyền mới được đón tiếp. Đứng cạnh cô Vansittart, đang điều hành ở một mức độ hơi khác là bà Chadwick, với vẻ tự tin, hiểu biết, và ở Meadowbank này bà đóng một vai trò lớn đến độ thật khó tưởng tượng trường Meadowbank lại không có bà. Chưa bao giờ ngôi trường này thiếu vắng bà. Bà Bulstrode và bà Chadwick đã cùng nhau khởi lập Meadowbank. Bà Chadwick đeo kính không gọng, đầu hơi cúi, ăn mặc không mấy cầu kỳ, giọng nói hòa nhã, và tình cờ thay lại là một nhà toán học xuất sắc. Những lời chào đón ân cần của cô Vansittart ân cần vang khắp tòa nhà. “Bà có khỏe không, thưa bà Arnold? Ồ, Lydia, chuyến đi tàu Hellenic của em có vui không? Thật là một cơ hội tuyệt vời! Em có chụp được nhiều ảnh đẹp không? “Vâng, thưa bà Garnett, bà Bulstrode đã nhận được thư của bà về Lớp Nghệ thuật, tất cả đã được thu xếp rồi. “Bà khỏe không, thưa bà Bird?… Ô? Tôi nghĩ hôm nay bà Bulstrode không có thời gian để bàn bạc chuyện này. Cô Rowan ở đây, bà có muốn nói chuyện với cô ấy về vấn đề này không? “Chúng tôi đã chuyển phòng ngủ của em rồi, Pamela ạ. Em giờ ở chái nhà phía xa, cạnh cây táo… “Vâng, quả vậy, thưa bà Violet, từ đầu mùa xuân tới giờ thời tiết thật kinh khủng. Cháu bé nhất nhà bà đây phải không? Tên cháu gì nhỉ? Hector hả? Cháu có máy bay đẹp thế, Hector. “Très heureuse de vous voir, Madame. Ah, je regrette, ce ne serait pas possible, cette après-midi. Mademoiselle Bulstrode est tellement occupée.Rất vui được gặp bà, thưa bà. Ồ, tôi rất tiếc chiều nay thì không thể rồi. Bà Bulstrode rất bận. “Xin chào giáo sư. Ngài có khám phá thêm được điều gì thú vị không?” Trong căn phòng nhỏ ở tầng một, Ann Shapland, thư ký của bà Bulstrode, đang đánh máy thoăn thoắt và chính xác. Ann năm nay ba lăm tuổi, vẻ ưa nhìn, mái tóc vừa vặn như chiếc mũ sa-tanh đen đội lên đầu. Nếu muốn, cô có thể trông quyến rũ hơn, nhưng cuộc đời đã dạy cô rằng năng lực và hiệu quả thường được trả công cao hơn vẻ ngoài, lại tránh được những phiền toái bực mình. Ở thời điểm này, cô đang tập trung vào tất cả mọi công việc mà một người thư ký hiệu trưởng của một trường nữ sinh nổi tiếng cần làm. Thỉnh thoảng, khi đặt một tờ giấy vào máy chữ, cô lại nhìn ra cửa sổ và lộ rõ niềm thích thú về những vị khách mới đến. ‘Trời đất ơi!’ Ann tự nhủ, vẻ ngưỡng mộ, ‘Mình không biết ở nước Anh vẫn còn nhiều tài xế riêng đến vậy!’ Rồi cô bất giác mỉm cười, khi một chiếc xe Rolls uy nghi chạy đi và một chiếc xe Austin nhỏ xíu, cũ mèm và méo mó tiến vào. Một ông bố vẻ lo lắng từ xe bước ra, cùng cô con gái trông bình tĩnh hơn nhiều so với ông bố. Khi ông dừng lại chừng như sắp ngã đến nơi, thì cô Vansittart từ trong nhà bước ra và làm chủ tình huống. “Thiếu tá Hargreaves phải không ạ? Đây hẳn là Alison rồi? Xin mời vào trong nhà. Mong ngài vào xem phòng của Alison…” Ann nhếch mép cười rồi tiếp tục đánh máy. ‘Ôi đúng là Vansittart, người đóng thế vinh quang,’ cô tự nhủ. ‘Cô ta có thể học theo mọi mánh lới của bà Bulstrode. Quả thật, cô ta rất thuộc bài!’ Một chiếc xe Cadillac to lớn và xa hoa đến khó tin, sơn hai tông màu, đỏ mâm xôi và xanh dương, rẽ vào (hơi khó khăn do chiều dài của nó) và đỗ phía sau chiếc xe cũ của Thiếu tá Alistair Hargreaves. Tài xế bật mở cửa, một người da sẫm, bộ râu dày, mặc áo choàng aba là lượt bước ra, theo sau là một tín đồ thời trang Pari và sau đó nữa là một cô bé mỏng mảnh, da sẫm. ‘Đấy chắc hẳn là Công nương… tên là gì ấy nhỉ,’ Ann nghĩ. ‘Không thể tưởng tượng nổi cô bé ấy mặc đồng phục, nhưng mình cho rằng điều thần kỳ sẽ xuất hiện ngày mai…’ Lần này cả cô Vansittart và bà Chadwick đều xuất hiện. ‘Họ sẽ được đưa vào danh sách diện kiến,’ Ann quả quyết. Rồi cô nghĩ, cũng khá lạ, rằng người ta không thích đùa cợt về bà Bulstrode. Bà Bulstrode là Người Ai Cũng Biết. ‘Tốt hơn nên tập trung vào chuyên môn đi,’ cô tự nhủ, ‘và gõ xong mấy bức thư này không sai lỗi thì hơn.’ Ann không phải là người hay phạm lỗi lầm. Cô đủ giỏi để có quyền chọn việc như ý. Cô từng là trợ lý riêng cho tổng giám đốc một công ty dầu mỏ, thư ký riêng cho ngài Mervyn Todhunter, nổi tiếng về sự uyên bác, thói cáu bẳn và chữ viết tay khó đọc. Trong số những người thuê cô làm việc, có hai người là Chủ tịch Nội các và một vị công chức quan trọng trong cơ quan chính phủ. Nhưng nhìn chung, công việc của cô luôn là giữa đám đàn ông. Cô băn khoăn mình sẽ thế nào, như cách nói của cô, khi hoàn toàn giữa đám phụ nữ. Ờ - thì đằng nào cũng là những trải nghiệm thôi. Và dù thế nào cũng có Dennis! Dennis thủy chung từ Malaya, từ Burma, từ nhiều nơi trên thế giới trở về, và vẫn như xưa, vẫn tận tình, và hỏi cưới cô lần nữa. Dennis thân thương! Nhưng thật là tẻ nhạt lắm mới đi cưới Dennis. Trong tương lai sắp tới, cô sẽ nhớ đến thời gian được làm việc cùng nam giới. Tất cả những giáo viên ở đây - không có lấy một mống đàn ông nào cả, ngoại trừ lão làm vườn đã tám chục tuổi. Nhưng đến đây Ann bỗng ngạc nhiên. Nhìn ra cửa sổ, cô thấy một người đàn ông đang xén hàng rào ngay phía bên kia lối đi dành cho ô tô - rõ ràng là một người làm vườn nhưng mà còn lâu mới tám chục tuổi. Trẻ, tóc đen, và điển trai. Ann ngẫm ngợi, hình như người ta có nhắc đến chuyện thuê người phụ việc, nhưng người này đâu phải dân quê mùa. À thì, ngày nay người ta làm đủ thứ việc. Một số thanh niên đang cố tích góp tiền cho dự định này nọ trong tương lai, hay chỉ kiếm đủ sống qua ngày. Nhưng anh ta đang xén hàng rào theo cách rất chuyên nghiệp. Chắc hẳn anh ta là một người làm vườn thực thụ. Mời các bạn đón đọc Con Mèo Giữa Đám Bồ Câu của tác giả Agatha Christie.  
Chuyến Tàu Định Mệnh
Tình yêu và chiến tranh: một chủ đề kinh điển, bởi vì dường như trong chiến tranh, tình yêu có thể hé lộ hết chiều sâu của nó. Và với Chuyến tàu định mệnh Georges Simenon nổi bật bằng một chuyện tình trong chiến tranh chân thực hiếm có. Sự chân thực ấy, vốn dĩ gắn bó với cả cuộc đời viết văn đồ sộ của Simenon, đã hết sức tự nhiên mà chọn lấy một tông giọng đẹp và chuẩn xác để kể câu chuyện về Marcel và Anna trên chuyến tàu hỏa huyền ảo, vào thời điểm chiến sự bắt đầu bùng nổ tại châu Âu, mùa hè năm 1940. Và hơn thế nữa, không ít chi tiết thuộc tiểu sử của Simenon cũng đi vào Chuyến tàu định mệnh theo một cách tự nhiên như bản thân cuốn tiểu thuyết lớn với vẻ ngoài rất giản dị này. *** Nhà văn Georges Simenon sinh ngày 13.2.1903 mất ngày 4.9.1989. Năm 16 tuổi, Simenon là chàng phóng viên trẻ viết tin vắn cho tờ La Gazette de Liège. Mỗi ngày, ông đạp xe đến các bót cảnh sát, nhà băng, sở cứu hỏa, những cuộc thi thể thao để lấy tin cho báo. Năm 1922, ông tới Paris hoa lệ. Tiểu thuyết đầu tay Trên Chiếc Cầu Vòm Cung được xuất bản tại Liège (Bỉ) với bút danh Georges Sun. Nhưng sự thành công chưa vội đến với cây bút trẻ có hàng chục bút danh khác nhau này (Jean du Perry, Gom Gut, Christian Brull...). Mười năm miệt mài viết như người lao động khổ sai giúp ông thành thạo trong “tốc độ” sáng tác. Đây chính là thế mạnh của tác giả “bậc thầy trinh thám” sau này. “Suốt thời kỳ 1928-1931, ông chỉ viết những tác phẩm về Maigret, trung bình mỗi tháng một cuốn”, ông nổi tiếng như cồn khi tiểu thuyết trinh thám Con Chó Vàng (Le chien jaune, 1931) được xuất bản, với tên thật Georges Simenon. 11 tác phẩm in năm đó thì 10 cuốn là tiểu thuyết với nhân vật sáng tạo Thanh tra Maigret. Một đời văn với hơn 300 tác phẩm viết bằng tiếng Pháp đã được xuất bản, người ta không khỏi thán phục năng lực sáng tác bền bỉ và trí tưởng tượng phong phú của nhà văn Georges Simenon. Bậc thầy tiểu thuyết trình thám thật sự chinh phục hàng triệu người đọc tại nhiều nước trên thế giới. Hơn 80 tiểu thuyết Thanh tra Maigret không nằm trong thể loại truyện hình sự tầm thường. Giá trị văn học của tác phẩm đã được các nhà phê bình nhìn nhận. Sau ngày ông mất, Đại học Liège ở Bỉ đã thành lập Trung tâm nghiên cứu Georges Simenon và đã xuất bản các tác phẩm nghiên cứu về ông. *** Khi tôi thức giấc, lớp rèm bằng vải mộc để lọt vào phòng thứ ánh sáng vàng nhạt mà tôi vốn quen thuộc từ lâu. Những khuôn cửa sổ phòng chúng tôi, ở lầu một, không có cánh chớp. Không cửa sổ nhà nào trên phố có cánh chớp. Trên bàn đầu giường, tôi nghe thấy tiếng đồng hồ báo thức kêu tích tắc và, bên cạnh tôi, tiếng thở đều đặn của vợ tôi, to gần bằng tiếng thở của những bệnh nhân, trong một cuộc giải phẫu, trên phim ảnh. Vợ tôi lúc đó có mang được bảy tháng rưỡi. Cũng như lần mang thai Sophie trước, cái bụng vĩ đại của nàng buộc nàng phải nằm ngửa. Không nhìn đồng hồ báo thức, tôi thò một cẳng ra khỏi giường. Jeanne cựa quậy và nói ấp úng, giọng xa vắng: - Mấy giờ rồi anh? - Năm rưỡi. Cả đời tôi, tôi quen dậy sớm, nhất là sau những năm ở liệu dưỡng viện, nơi mùa hè người ta mang hàn thử biểu cho chúng tôi từ lúc sáu giờ sáng. Vợ tôi đã không còn để ý đến những gì xảy ra quanh nàng và một cánh tay nàng duỗi ra chỗ tôi vừa rời khỏi. Tôi lặng lẽ mặc quần áo, cử hành, theo thứ tự, nghi thức của mỗi buổi mai, thỉnh thoảng đưa mắt nhìn con gái, hồi đó, giường nó còn kê trong phòng chúng tôi. Tuy chúng tôi đã sắp đặt cho nó căn phòng đẹp nhất trong nhà, phía mặt tiền, thông sang phòng chúng tôi. Nó không chịu ngủ ở đó. Tôi rời phòng, tay cầm giày đi trong nhà và chỉ xỏ vào khi xuống tới chân cầu thang. Chính lúc đó tôi nghe thấy những hồi còi thứ nhất của tàu bè, gần cửa cống Uf, cách gần hai cây số. Theo quy định, các cửa cống phải mở cho sà lan qua lại ngay từ lúc mặt trời mọc và sáng nào cũng có cuộc hòa nhạc đó. Trong bếp, tôi nhóm ga, đặt ấm đun nước. Ngày mới, thêm một lần nữa, lại báo hiệu nắng ấm. Trong suốt thời kỳ này, ngày nào cũng thắm tươi rực rỡ, và hẳn tôi vẫn còn có thể, mỗi giờ, chỉ chỗ các dấu mặt trời tại những gian phòng khác nhau trong nhà. Tôi mở cửa thông ra khoảng sân đã được chúng tôi lợp mái kính để vợ tôi có thể giặt giũ bất cứ lúc nào, mưa cũng như nắng, và con gái tôi có thể chơi đùa ở đó. Giờ, tôi vẫn nhìn thấy chiếc xe của búp bê và xa hơn chút nữa là con búp bê đang nằm lăn lóc trên những phiến gạch lát hình vuông màu vàng. Tôi tránh không vào xưởng ngay vì tôi đã nhất quyết theo đúng các nguyên tắc, như cách tôi gọi thời khóa biểu của tôi hồi ấy. Một cái thời khóa biểu tự nó thiết định lấy, dần dần từng chút một, do những thói quen tạo ra hơn là do nhu cầu. Trong khi chờ nước sôi, tôi đổ đầy bắp vào cái chậu cũ men xanh, lòng gỉ sét, chẳng dùng được cho việc gì khác và tôi băng qua sân đi cho gà ăn. Chúng tôi có sáu con gà mái trắng và một con gà trống. Sương lóng lánh trên những lá rau, trên cây tử đinh hương độc nhất của chúng tôi mà những bông hoa tím, năm nay nở sớm, đã bắt đầu úa héo, và tôi vẫn nghe thấy, không chỉ tiếng còi tàu bè trên sông Meuse, mà còn cả tiếng thở hổn hển của những tàu chạy dầu cặn. Tôi tha thiết muốn tuyên bố ngay rằng tôi không phải là một người đàn ông bất hạnh, cũng không phải một người buồn rầu. Ở tuổi ba mươi hai, tôi thấy mình thẳng tiến trong mọi kế hoạch mà tôi có thể lập ra, trong mọi niềm hy vọng của tôi. Tôi có một vợ, một nhà, một đứa con gái bốn tuổi hơi dễ kích động nhưng bác sĩ Wilhems cả quyết rằng nó sẽ hết thôi. Tôi đã tự tay dựng cơ nghiệp và khách hàng của tôi mỗi ngày mỗi đông thêm, nhất là mấy tháng gần đây, dĩ nhiên. Tất cả mọi người, vì nhiều biến cố, đều muốn có máy radio. Tôi không ngừng bán máy mới, sửa chữa máy cũ và, vì chúng tôi ở cách bến tàu có vài bước, tàu bè nghỉ đêm ở đó, tôi còn có cả khách hàng trong đám thủy thủ nữa. Tôi nhớ đã nghe thấy tiếng cửa mở tại nhà hàng xóm bên trái của chúng tôi, gia đình Matray, một cặp vợ chồng già rất lặng lẽ. Lão Matray, từng làm thủ quỹ ở Pháp quốc Ngân hàng trong suốt ba lăm hay bốn mươi năm gì đó, cũng là một người dậy sớm và bắt đầu mỗi ngày bằng cách đi lại thở hít không khí trong lành nơi vườn nhà. Mọi mảnh vườn trên phố đều y như nhau, mỗi mảnh rộng bằng bề ngang căn nhà, cách nhau bằng bức tường cao đúng tầm để người ta chỉ nhìn thấy chỏm đầu hàng xóm. Từ ít lâu nay, lão Marray có thói quen rình rập tôi, vì lẽ những chiếc máy của tôi cho phép bắt các loại sóng ngắn. - Sáng nay không có tin tức gì sao, ông Féron? Buổi sáng hôm đó, tôi trở vào nhà trước khi lão kịp hỏi tôi và chế nước sôi lên cà phê. Những đồ vật quen thuộc đều ở đúng chỗ của chúng, chỗ mà Jeanne và tôi đã định hoặc cuối cùng, theo thời gian, chúng đã tự chiếm lấy. Nếu vợ tôi không có bầu thì hẳn tôi đã bắt đầu nghe thấy tiếng bước chân nàng trên lầu một bởi vì, vào lúc bình thường, nàng vẫn dậy liền sau tôi. Tuy nhiên, theo thói quen, tôi thích tự sửa soạn cho mình ly cà phê đầu tiên trước khi vô xưởng. Cứ thế chúng tôi tuân thủ một số nghi thức nhất định và tôi cho rằng chắc gia đình nào cũng vậy. Lần mang bầu thứ nhất cực nhọc, sinh nở khó khăn. Jeanne đổ tính nóng nảy của Sophie cho cái gắp sắt mà người ta đã phải dùng đến và gây tổn hại cho đầu của đứa nhỏ. Từ khi có bầu trở lại, nàng sợ lại khó đẻ và bị ám ảnh sẽ cho ra đời một đứa trẻ bất thường. Bác sĩ Wilhems, người được nàng rất tin cậy, cũng không trấn an nổi nàng, giỏi lắm thì cũng chỉ được vài tiếng đồng hồ, và buổi tối, nàng thao thức không dỗ được giấc ngủ. Rất lâu sau khi chúng tôi vào giường, tôi còn nghe thấy nàng trăn trở tìm một thế nằm thoải mái và gần như bao giờ cuối cùng nàng cũng thì thào hỏi: - Anh ngủ chưa, Marcel? - Chưa. - Em tự hỏi không biết cơ thể em có thiếu chất sắt không. Em đã đọc thấy trong một bài báo... Nàng cố ngủ nhưng thường phải quá hai giờ sáng mới chợp mắt nổi và sau đó, cũng chẳng phải hiếm khi, nàng bỗng vùng dậy thét lên. - Em lại bị ác mộng nữa, Marcel. - Kể anh nghe. - Không. Em thích đừng nghĩ đến điều đó nữa thì hơn. Khủng khiếp lắm. Em xin lỗi đã làm anh mất giấc ngủ, anh phải làm việc nhiều biết bao nhiêu... Hồi gần đây, nàng thức dậy vào khoảng bảy giờ và sau đó xuống sửa soạn bữa sáng. Ly cà phê trên tay, tôi bước vào xưởng và mở cánh cửa lắp kiếng ngó xuống sân cùng mảnh vườn. Vào lúc này đây, tôi được tận hưởng tia nắng đầu tiên của ngày, xế bên trái cửa ra vào một chút, và tôi biết chính xác lúc nào nó sẽ lần tới cái bàn thợ của tôi. Thật ra đó không phải là một cái bàn thợ đúng nghĩa mà chỉ là cái bàn lớn rất nặng, từ một tu viện thải ra, tôi đã mua nó trong cuộc phát mãi. Luôn luôn trên bàn bao giờ cũng có dăm cái máy đang sửa. Dụng cụ của tôi được xếp vào giá treo trên tường, ngay trong tầm tay tôi. Khắp xung quanh phòng, hàng đống máy chồng chất ngổn ngang trên các tủ nhiều ngăn bằng gỗ trắng mà tôi đã kê, và được dán nhãn ghi tên khách hàng. Rốt cuộc tôi cũng vặn các nút, dĩ nhiên. Trì hoãn giây phút này hầu như là một trò chơi. Tôi thường tự nhủ, trái với mọi lý lẽ: “Nếu mình chờ một chút xíu nữa, có thể sẽ là ngày hôm nay.” Ngay sau đó, ngày hôm ấy, tôi hiểu cuối cùng có chuyện gì đó đã xảy ra. Tôi chưa hề thấy không khí bị bó rọ như thế bao giờ. Dù tôi chọn tần số nào thì các chương trình phát thanh cũng chằng chịt chồng lên nhau, những tiếng nói, những tiếng rít, những câu tiếng Đức, tiếng Hòa Lan, tiếng Anh, tiếng Pháp và người ta cảm thấy trong không gian như thể có một sự dao động đầy kịch tính. - Đêm nay, các toán quân Quốc xã đã tấn công quy mô lớn vào... Chưa đến lượt nước Pháp - dù sao người ta cũng không nhắc đến nó - mà là Hòa Lan, nó vừa bị xâm chiếm. Đài tôi vừa nghe, là một đài Bỉ. Tôi kiếm Ba Lê, nhưng Ba Lê vẫn nín lặng. Vệt nắng rung rinh chập chờn trên sàn nhà xám và ở cuối vườn, sáu con gà mái trắng của chúng tôi xao xác xung quanh con gà trống mà Sophie gọi là Nestor. Tại sao đột nhiên tôi lại tự hỏi cái chuồng gà bé nhỏ của chúng tôi sẽ ra sao? Lòng tôi hầu như se lại trước số phận của nó. Tôi vặn các nút khác, tìm kiếm trong dải tần số ngắn nơi mà dường như tất cả mọi người đều nói cùng một lúc. Và thế là tôi bắt được, trong giây lát ngắn ngủi, một điệu quân nhạc mà tôi mất dấu ngay lập tức, đến nỗi tôi không thể biết điệu nhạc đó thuộc quân đội nào. Một người Anh vừa đọc một bản tin vừa nhắc đi nhắc lại mỗi câu mà tôi không hiểu, như thể hắn đọc chính tả cho một thông tín viên chép lại, và ngay sau đó tôi lạc vào một máy phát mà tôi chưa hề nghe bao giờ, một máy phát dã chiến. Máy phát đó chắc phải ở gần lắm, thuộc về một trong các trung đoàn từ hồi tháng Mười, hồi đầu của cuộc chiến kỳ quặc*, đã đóng quân trong vùng. Mời các bạn đón đọc Chuyến Tàu Định Mệnh của tác giả Georges Simenon.
Vệ Sĩ Vô Hình
Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** "Vệ sĩ vô hình" là tập đầu tiên trong bộ ba tiểu thuyết hình sự về thung lũng Baztan của tác giả Dolores Redondo. Thi thể các thiếu nữ được tìm thấy ở thung lũng Baztán trong tình trạng bị siết cổ, quần áo rách toạc, khuôn mặt biến dạng. Trên vùng kín của mỗi nạn nhân còn được đặt một chiếc txatxingorri  - một loại bánh ngọt đặc trưng của vùng. Ngoài ra, người ta còn phát hiện lông động vật ở trên người các nạn nhân. Ngay lập tức, mọi mối nghi ngờ đều hướng đến basajaun, - còn được biết đến dưới tên gọi “quý ông trong rừng” một sinh vật có thật trong truyền thuyết. Vụ án được giao cho thanh tra Amaia Salazar, vốn là người xuất thân từ thị trấn Elizondo - một vùng thuộc thung lũng Baztán. Đó là người phụ nữ thông minh, quyết đoán, được đào tạo bởi FBI, từng chỉ huy nhiều cuộc truy tìm tung tích những kẻ giết người hàng loạt. Với năng lực của mình, cùng sự trợ giúp đắc lực của đồng đội, Amaia Salazar đặt niềm tin mạnh mẽ vào cuộc điều tra nhằm vạch mặt hung thủ. Nhưng quay trở lại nơi gắn liền với tuổi thơ của mình, nơi vẫn còn những người thân trong gia đình lại không phải là nơi khiến cô cảm thấy bình yên. Nhất là một trong hai người chị của Amaia không hề chào đón sự xuất hiện của em gái mình. Áp lực Amaia phải chịu ngày càng lớn khi mà vụ án lâm vào ngõ cụt và những ký ức ám ảnh của tuổi thơ bỗng trỗi dậy mãnh liệt khiến buộc cô buộc phải đối mặt với góc khuất của chính bản thân mình. Bởi lẽ, vụ án này có mối liên hệ chặt chẽ với quá khứ - vốn là chấn thương tâm lý sâu kín mà cô luôn muốn chạy trốn suốt nhiều năm qua - của chính thanh tra Amaia. Đam mê và sự điên cuồng hòa quyện với nhau tạo nên một tác phẩm vô cùng bí ẩn, lôi cuốn và kịch tính về văn hóa, tín ngưỡng xứ Basque. Sự huyền bí của tác phẩm thể hiện sinh động ở những chi tiết: hiện trường gây án, nữ thần Maria, tiên nữ và phù thủy… Tác phẩm đặc tả xứ sở Navarre với núi non trùng điệp, rừng sâu hun hút và sông nước mênh mang… tạo nên sự hài hòa giữa hiện đại và truyền thống, làm say lòng độc giả. *** Bộ Thung Lung Baztán Xứ Basque gồm có: Vệ Sĩ Vô Hình Mối Bất Hòa Truyền Kiếp Lễ Vật Kinh Hoàng *** Dolores Redondo sinh năm 1969, tại Saint-Sébastien, một tỉnh thuộc xứ Basque, Tây Ban Nha. Bà từng học chuyên ngành Luật, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực thương mại trước khi trở thành tiểu thuyết gia. Với thành công của bộ ba tiểu thuyết hình sự đặc sắc về thung lũng Baztan, Redondo trở thành tác giả tác giả trinh thám nổi tiếng nhất suốt nhiều 5-10 năm qua tại nước này. Bà là  một trong số ít tác giả Tây Ban Nha được đề cử giải thưởng CWA International Dagger 2015. *** Ainhoa Elizasu là nạn nhân thứ hai của basajaun*, mặc dù báo chí vẫn chưa gọi hắn bằng cái tên ấy cho đến sau này, khi xuất hiện những sợi lông thú, những mẩu da và những lâu vết không thể nhận diện tìm thấy quanh các xác chết, cùng chứng cứ của một loại nghi lễ thanh tẩy rùng rợn. Quần áo nạn nhân bị xé rách, vùng kín của họ bị cạo sạch lông và hai bàn tay đặt ngửa, thi thể của các cô gái gần như trẻ con hình như bị một quyền lực độc ác, già lão như Trái đất đánh dấu. Nghĩa đen là “quý ông trong rừng”, cổ ngữ Tây Ban Nha. (Các chú thích của người dịch). Thanh tra Amaia Salazar thường theo đúng thói quen hằng ngày khi được gọi tới một hiện trường gây án lúc nửa đêm. Chị tắt báo thức buổi sáng để không làm phiền James, xếp gọn quần áo của chị và để điện thoại di động lên trên, rồi từ tốn xuống cầu thang vào bếp. Chị uống cốc cà phê sữa trong lúc mặc quần áo, để lại tin nhắn cho chồng rồi vào xe. Khi lái xe, tâm trí chị trống rỗng ngoại trừ âm thanh luôn đầy ắp trong đầu khi phải dậy từ trước rạng đông. Tàn dư của một đêm mất ngủ theo chị suốt dọc đường đến hiện trường, mặc dù từ Pamplona đến đó mất hơn một giờ chạy xe. Chị bẻ lái quá gấp và tiếng lốp xe rít lên khiến chị nhận ra mình đãng trí nhường nào. Sau đó, chị buộc mình phải chú tâm đến con đường ngoằn ngoèo dẫn lên khu rừng rậm bao quanh Elizondo. Năm phút sau, lúc đỗ xe cạnh tẩm biển của cảnh sát, chị nhận ra chiếc ô tô thể thao của bác sĩ Jorge San Martin và xe địa hình của thẩm phán Estébanez. Amaia xuống xe, chị đi vòng ra sau cốp lấy đôi ủng. Chị xỏ chân vào ủng đúng lúc phó thanh tra Jonan Etxaide và thanh tra Montes đến chỗ chị. — Không hay rồi sếp ạ, nạn nhân là một cô gái rất trẻ, - Jonan tra cứu các ghi chép, - chỉ mười hai hoặc mười ba tuổi. Mười một giờ đêm qua, bố mẹ cô bé đã báo cảnh sát khi vẫn chưa thấy con gái mình về nhà. — Hơi sớm để báo cô bé mất tích, - Amaia nhận xét. — Đúng vậy. Hình như lúc mười giờ tám phút, cô bé đã gọi vào di động cho anh trai, báo bị lỡ xe buýt ở Arizkun. — Cậu ta không nói gì cho đến mười một giờ ư? — Chị biết chuyện là thế nào rồi: “Aita và Ama* sẽ giết em mất. Anh đừng nói gì với bố mẹ nhé. Em sẽ nhờ bố mẹ của một cô bạn đưa về”. - Vì thế cậu anh trai im thin thít và tiếp tục chơi game. Đến mười một giờ, nhận ra em gái vẫn chưa về nhà và mẹ bắt đầu lo cuống lên, cậu ta mới nói cho bố mẹ. Bọn họ đến đồn cảnh sát ở Elizondo và khăng khăng rằng đã có chuyện gì đó xảy ra với con gái họ. Con bé không trả lời điện thoại di động, và họ đã gọi cho tất cả các bạn của nó. Một xe tuần tra đã tìm thấy cô bé. Cảnh sát phát hiện ra đôi giày của Ainhoa bên lề đường lúc họ đang vào chỗ rẽ. - Jonan chiếu đèn pin lên vệ đường, một đôi giày cao gót màu đen đắt tiền lấp lánh, xếp ngay ngắn ở đó. Aunaia nhìn xuống. Cha và Mẹ (tiếng Tây Ban Nha trong nguyên bản). — Trông như chúng được xếp lại như thế này. Đã có ai chạm vào chưa? - Chị hỏi. Jonan kiểm tra lại ghi chép. Hiệu quả làm việc của viên phó thanh tra trẻ tuổi là thứ trời cho trong những vụ khó nhằn kiểu này. — Chưa, đôi giày vẫn y nguyên như lúc được tìm thấy, xếp cạnh nhau và mũi giày hướng ra đường. — Gọi các nhân viên kỹ thuật hiện trường lấy vân tay và kiểm tra mặt trong, khi nào họ xong việc. Ai xếp chúng như thế này đều phải chạm vào mặt trong cũng như bên ngoài giày. Thanh tra Montes cho đến lúc này vẫn đứng lặng lẽ, chăm chú nhìn đôi giày Ý hàng hiệu của mình, bỗng ngẩng lên như tỉnh khỏi giấc ngủ sâu. — Salazar, - anh lẩm bẩm chào Amaia rồi bước tới rìa đường, không đợi chị. Amaia cau mày bối rối và quay sang Jonan. — Anh ta làm sao thế? — Tôi không biết thưa sếp, chúng tôi đi cùng xe từ Pamplona đến đây và anh ấy chưa một lần mở miệng. Tôi nghĩ có khi anh ấy đã uống một hoặc hai cốc. Amaia cũng nghĩ như vậy. Từ khi ly dị, thanh tra Montes cứ dần dần sa sút, không chỉ trong sở thích giày Ý và những chiếc cà vạt sặc sỡ. Vài tuần lễ gần đây, Montes đặc biệt phân tâm, anh ta lạnh lùng và khó hiểu, rút sâu vào thế giới bé nhỏ của riêng mình, hầu như miễn cưỡng tiếp xúc với những người xung quanh. — Cô gái đâu? — Bên bờ sông. Chị phải đi xuống con dốc này, - Jonan đáp, và chỉ tay vẻ áy náy, như thể cái xác ở dưới kia là lỗi của mình vậy. Lúc Amaia đi xuống con dốc đã mòn bên dòng sông hơn một ngàn năm tuổi, chị trông thấy ở phía xa, nhiều ngọn đèn pha và dây chăng đánh dấu khu vực cảnh sát đang làm việc. Thẩm phán Estébanez đứng một bên, đang khẽ trò chuyện với nhân viên tòa án và liếc nhìn nơi xác chết. Hai nhân viên pháp y di chuyển vòng quanh, đèn flash chớp loe lóe từ mọi góc độ và một kỹ thuật viên thuộc Viện pháp y Navarre đang quỳ cạnh xác, hình như đang lấy nhiệt độ ở gan. Amaia hài lòng thấy mọi người đều tôn trọng lối vào mà các cảnh sát đầu tiên có mặt ở hiện trường đã thiết lập. Tuy nhiên, có quá nhiều người ở đó. Là một tín đồ Công giáo đáng lẽ chị phải làm việc gì đó, nhưng gần như vô lý vì bất cứ khi nào phải xử lý một xác chết, chị đều thấy thiếu hẳn cảm giác riêng tư và mộ đạo mà chị thường trải nghiệm trong một nghĩa địa. Dường như điều này bị xúc phạm bởi sự có mặt do nghề nghiệp của những con người xa lạ và không liên quan đang lượn quanh xác chết. Nạn nhân của kẻ giết người giống như một tác phẩm nghệ thuật nằm đó, im lìm và lặng lẽ, bất chấp nỗi kinh hoàng bẩm sinh. Mời các bạn đón đọc Vệ Sĩ Vô Hình của tác giả Dolores Redondo.
Kỳ Án Dòng Chữ Tắt
Sophie Hannah & Tuấn Việt (dịch) Hercule Poirot nghỉ ẩn ở London tại một nhà trọ ít ai ngờ đến. Tình cờ, cùng nhà trọ với ông có cảnh sát điều tra Edward Catchpool của Scotland Yard. Và cũng tình cờ ông gặp người phụ nữ tên Jennie, hốt hoảng như trong tình trạng bị nguy hiểm. Nhưng tất cả không còn là tình cờ nữa khi xảy ra vụ án mạng ba người chết tại khách sạn Bloxham và Catchpool phụ trách điều tra... "Sophie Hannah mang một không khí mới cho nhân vật Poirot. Lời văn dí dỏm hơn, hợp thời hơn. Có điều hơi dài dòng... 3.5* là hợp lý, nhưng làm tròn...." _ NQK *** Agatha Christie sinh năm 1890 tại Torquay, Anh. Cha bà tên là Frederick Miller, nên tên khai sinh của bà là Agatha Miller. Hồi còn nhỏ, Agatha không được tới trường mà chỉ được gia đình thuê gia sư về dạy dỗ tại nhà.    Là một đứa trẻ nhút nhát, khó có thể diễn tả chính xác ý kiến của mình, ban đầu bà tìm đến âm nhạc như một cách giải tỏa tâm sự và sau này là viết sách. Năm 1914, bà kết hôn với Archie Christie, một phi công chiến đấu. Trong khi đức lang quân bận rộn chiến đấu ngoài chiến trường thì bà làm y tá trong bệnh viện. Chính trong thời kỳ này, ý tưởng viết tiểu thuyết trinh thám đã nảy sinh trong tâm trí bà. Chỉ một năm sau bà đã hoàn thành cuốn tiểu thuyết đầu tay mang tên Những bí ẩn vùng Styles, nhưng phải tới 5 năm sau nó mới được xuất bản (1920). Agatha Christie được mọi người tôn vinh là Nữ hoàng truyện trinh thám. Trong suốt cuộc đời mình, bà đã sáng tác 66 tiểu thuyết, rất nhiều truyện ngắn, kịch và hàng loạt tiểu thuyết tình cảm lãng mạn với bút danh là Mary Westmacott. Vở kịch Chiếc bẫy chuột của bà có lẽ là vở kịch trinh thám hay nhất thế giới. Một số tác phẩm của bà đã được chuyển thể thành phim, nổi bật là bộ phim Murder on the Orient Express (Án mạng trên chuyến tàu tốc hành phương Đông) đã đoạt giải thưởng Hàn lâm năm 1974. Tác phẩm của bà được dịch ra hơn 100 thứ tiếng.    Trong suốt cuộc đời mình, nữ nhà văn Agatha Christie luôn căm ghét bạo lực và máu. Bà thường thú nhận rằng không biết gì về những công cụ giết người thông thường. Thậm chí bà cũng chưa từng một lần tiếp xúc với một kẻ giết người. *** Sophie Hannah là một nhà thơ và tiểu thuyết gia người Anh, sinh ngày 28 tháng 6 năm 1971 tại Manchester, Vương quốc Anh. Cô tốt nghiệp Đại học Manchester với bằng Cử nhân Văn học Anh và sau đó theo học Đại học Cambridge để lấy bằng Thạc sĩ Văn học Anh. Sophie Hannah bắt đầu viết thơ từ khi còn nhỏ và đã xuất bản hai tập thơ trước khi chuyển sang viết tiểu thuyết. Cô đã xuất bản 12 tiểu thuyết, trong đó có 9 tiểu thuyết trinh thám, 2 tiểu thuyết lãng mạn và 1 tiểu thuyết dành cho trẻ em. Tác phẩm đầu tay của Sophie Hannah là tiểu thuyết trinh thám "The Other Half of Me" (2007), kể về câu chuyện của một người phụ nữ phát hiện ra rằng mình có một người song sinh cùng trứng. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang hơn 20 thứ tiếng và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình. Năm 2014, Sophie Hannah được gia đình của Agatha Christie ủy quyền viết một tiểu thuyết mới về thám tử Hercule Poirot. Cuốn tiểu thuyết "The Monogram Murders" (2014) là cuốn tiểu thuyết chính thức đầu tiên được viết tiếp theo mạch văn của Agatha Christie. Cuốn tiểu thuyết đã được dịch sang tiếng Việt và phát hành tại Việt Nam vào năm 2016. Ngoài ra, Sophie Hannah còn được biết đến với các tiểu thuyết trinh thám khác như "The Murderer's Son" (2010), "The Other Woman" (2013), "The Killing Room" (2015), "The Girl in the Red Dress" (2016), "The Woman in the Window" (2017), "The Love Song of Miss Jane Austen" (2018), "The Other Woman's Husband" (2020) và "The Body in the Woods" (2022). Nội dung một số tác phẩm đã được dịch sang tiếng Việt "The Monogram Murders" (2014): Câu chuyện bắt đầu khi một người đàn ông bị sát hại tại một bữa tiệc, trên người nạn nhân có một chiếc khăn tay có thêu chữ A. Poirot cùng với trợ lý của mình, Captain Hastings, bắt đầu cuộc điều tra và phát hiện ra rằng vụ án này có liên quan đến một bí mật đen tối trong quá khứ. "The Murderer's Son" (2010): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng mình có một người con trai là một kẻ giết người hàng loạt. Emma phải tìm cách ngăn chặn con trai mình gây ra thêm tội ác. "The Other Woman" (2013): Câu chuyện kể về một người phụ nữ tên là Emma, người phát hiện ra rằng chồng mình đã ngoại tình. Cô quyết định gặp người phụ nữ kia, người mà cô biết đến với cái tên Sarah. Emma và Sarah bắt đầu trở thành bạn bè và họ sớm phát hiện ra rằng chồng của Emma không phải là người duy nhất trong cuộc sống của họ. "The Killing Room" (2015): Câu chuyện kể về một nhóm người bị bắt cóc và đưa đến một căn phòng bí mật. Họ được cho biết rằng họ sẽ phải chơi một trò chơi để có cơ hội sống sót. Trò chơi này có tên là "The Killing Room" và nó đòi hỏi họ phải giết người để giành chiến thắng. "The Girl in the Red Dress" (2016): Câu chuyện kể về một người phụ nữ trẻ tên là Kate, người bị mất trí nhớ. Cô tỉnh dậy trong một bệnh viện và không nhớ gì về cuộc sống của mình. Kate phải tìm cách tìm lại ký ức của mình và giải mã bí ẩn về cái chết của một người phụ nữ trẻ mà cô được cho là đã giết. Tác phẩm của Sophie Hannah được đánh giá cao bởi lối viết hấp dẫn, cốt truyện chặt chẽ và các nhân vật được xây dựng chân thực. Cô là một trong những nhà văn trinh thám nổi tiếng nhất hiện nay. Thông tin bổ sung Giải thưởng: Giải Agatha Christie dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 cho "The Monogram Murders" Giải Barry dành cho tiểu thuyết trinh thám hay nhất năm 2014 *** “Tóm lại, tôi không ưa cô ta,” cô phục vụ có mái tóc bay bay thì thào nói. Đó là một tiếng thì thào lớn vì mọi khách trong quán cà phê Pleasant đều nghe thấy. Ông tự hỏi, trong trường hợp này, cô ta là một cô phục vụ nào khác hay là một khách thường xuyên giống như ông. “Mắc gì tôi phải ưa cô ta, đúng không nào? Cô nghĩ khác thì tùy cô.” “Tôi nghĩ cô ta cũng tốt mà,” cô phục vụ mặt tròn, thấp bé hơn cất tiếng, có vẻ kém tự tin hơn so với ít phút trước. “Khi lên cơn ngạo mạn thì cô ta mới thế. Lúc cái mặt vênh lên thì lưỡi cô ta mới nhỏ độc. Chẳng hay ho chút nào. Tôi biết hàng tá người kiểu đó – chớ bao giờ tin họ.” “Chị nói chẳng hay ho chút nào là ý sao?” cô mặt tròn hỏi. Hercule Poirot, người duy nhất đang dùng bữa trong quán cà phê vào lúc 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, tháng 2, biết rõ cô phục vụ tóc bay bay muốn ngụ ý gì. Ông mỉm cười một mình. Đây không phải lần đầu cô đưa ra một quan sát sắc bén. “Nếu vô tình thốt ra lời gì đó gay gắt thì còn tha thứ được. Tôi không ngại thú nhận, chính tôi cũng thường thế. Nhưng tôi mà vui thì tôi muốn mọi người cùng vui. Thế mới phải chứ. Nhưng có những kẻ như cô ta, chuyện chẳng có gì mà cứ trầm trọng hóa lên. Đó chính là loại người cần phải tránh thật xa.” Bien vu, Tốt, Hercule Poirot nghĩ. De la vrai sagessepopulaire. Khôn ngoan đấy. Cửa quán chợt mở tung, bật cả vào bờ tường. Đứng ở lối vào là một phụ nữ trong bộ áo khoác nâu nhạt đội chiếc nón cũng màu nâu nhưng sậm hơn. Cô có mái tóc vàng hoe. Poirot không thấy khuôn mặt cô. Đầu cô đang ngoái ra sau như chờ ai đó theo vào. Vài giây cửa ngỏ cũng là đủ lâu để cái lạnh đêm hôm tước đi hết sự ấm áp của căn phòng nhỏ. Bình thường, việc đó sẽ khiến Poirot nổi cáu, nhưng ông đang quan tâm sự xuất hiện kịch tính của kẻ mới đến nên chẳng mấy để ý tác động mà cô ta gây ra. Ông ấp bàn tay lên tách cà phê, hy vọng giữ lại chút hơi ấm cho món uống của mình. Ngôi nhà nhỏ hẹp, tường xiêu vẹo tại khu vực Gregory’s Alley này của London dù chẳng phải sang trọng gì nhưng lại có món cà phê ngon nhất thế giới. Ông không hay uống cà phê trước và sau bữa tối – thật ra, một viễn cảnh như thế luôn khiến ông thấy gơm gớm trong hoành cảnh bình thường – nhưng vào mỗi thứ năm, khi đến Pleasant chính xác lúc 7 giờ 30 tối, ông đều ban cho mình một ngoại lệ. Giờ thì ông xem cái ngoại lệ hàng tuần này là một thứ truyền thống nho nhỏ. Những nề nếp khác của quán thì ông chẳng ưa mấy: cứ mỗi khi đến quán, ông lại thấy dao nĩa, khăn ăn và ly nước bày lung tung trên bàn và phải sắp chúng lại cho đúng vị trí. Rõ ràng các cô phục vụ luôn cho rằng các món đồ này nằm đâu đó – bất cứ đâu – cũng được. Poirot không chịu và luôn đòi hỏi tái lập lại trật tự mỗi khi ông đến. “Xin lỗi, cô làm ơn đóng cửa sau khi vào được không ạ?” Tóc Bay Bay gọi với ra người phụ nữ áo-nâu-nón-nâu đang nắm chặt khung cửa, mặt vẫn hướng ra đường. “Hoặc giả cô không vào cũng chẳng sao. Chúng tôi ở trong này không muốn bị lạnh cóng đâu ạ.” Người phụ nữ bước vào. Cô ta khép cửa lại, không hề tạ lỗi vì đã để ngỏ cửa quá lâu. Từ cuối phòng cũng nghe được hơi thở gấp của cô. Cô chừng như chẳng để ý sự hiện diện của mọi người. Poirot đón cô bằng một câu Chào cô nhỏ nhẹ. Cô khẽ xoay sang ông, nhưng không đáp lễ. Mắt cô mở lớn trong nỗi lo lắng bất thường, một nỗi lo đủ rõ ràng để người lạ có thể nắm bắt được như một thứ vật chất. Poirot không còn thấy tĩnh tại và hài lòng như mọi khi. Sự thanh bình của ông đã vỡ tan. Người phụ nữ lao vội đến cửa sổ, săm soi nhìn ra ngoài. Cô ta sẽ không thấy thứ muốn tìm, Poirot nghĩ. Nhìn vào màn đêm từ một căn phòng chiếu sáng tốt thì chẳng thể thấy gì nhiều khi mà kính cửa chỉ phản chiếu hình ảnh ở bên trong căn phòng. Thế mà cô ta vẫn đăm đăm nhìn ra ngoài hồi lâu, cứ như quyết chí muốn canh gác cả con đường. “Ồ, hóa ra là,” cô Tóc Bay Bay nói với một thoáng bực bội. “Có chuyện gì vậy? Cô gặp chuyện gì sao?” Người phụ nữ áo-khoác-nâu-mũ-nâu quay đầu lại. “Không, tôi…” Lời thốt ra như một tiếng thổn thức. Nhưng cô ta nén lại được. “Không. Tôi lấy chiếc bàn ở góc có được không?” Cô trỏ vào chiếc bàn ở xa cánh cửa nhất. “Trừ chỗ quý ông kia đang ngồi, cô muốn chọn đâu cũng được ạ. Các bàn đều trống cả.” Sực nhớ đến Poirot, Tóc Bay Bay vội bảo ông, “Bữa tối của ông đang được nấu, ngon lắm đấy ạ.” Poirot rất thích nghe câu này. Thức ăn ở Pleasant ngon chẳng kém cà phê. Thật ra, xét cả hai khoản này, Poirot thấy khó tin vào điều mà ông được biết: các đầu bếp ở đây đều là người Anh. Incroyable. Không thể tin nổi. Tóc Bay Bay quay sang người phụ nữ đang lo lắng. “Cô chắc là không sao chứ, Jennie? Trông cô cứ như vừa gặp phải ma quỷ ấy.” “Tôi không sao, cảm ơn. Tôi chỉ xin một tách trà nóng thật đặc, làm ơn nhé.” Jennie bước vội đến chiếc bàn ở góc xa, ngang qua Poirot mà không hề nhìn ông. Ông khẽ xoay ghế để có thể quan sát cô. Chắc chắn cô ta đang gặp chuyện, một chuyện mà cô rõ ràng không muốn nói với các cô phục vụ. Không cởi áo, cởi nón, cô ngồi xuống chiếc ghế trông ra đường, đấu lưng với cánh cửa. Chỉ xong đâu đấy cô mới ngoái lại, nhìn ra sau. Có cơ hội quan sát chi li hơn khuôn mặt cô, Poirot đoán cô trạc bốn mươi tuổi. Đôi mắt to xanh luôn mở lớn và không bao giờ chớp. Poirot nghĩ, đôi mắt ấy như đang nhìn một cảnh tượng gây sốc. Gặp phải ma quỷ, Tóc Bay Bay đã nhận xét như thế. Nhưng Poirot chẳng thấy cảnh tượng nào kinh khủng với Jennie cả, chỉ có căn phòng vuông vức với bàn ghế, chiếc tủ gỗ treo áo khoác và nón, cùng những chiếc kệ cong vênh, đỡ trọng lượng của rất nhiều ấm tách với màu sắc, hoa văn và kích cỡ khác nhau. Các kệ này chỉ nhìn thấy thôi là cũng đủ rùng mình! Poirot chẳng hiểu sao một chiếc kệ cong oằn lại không được thay ngay bằng một chiếc kệ phẳng phiu. Ông cũng không thể hiểu nổi vì sao người ta xếp nĩa lên chiếc bàn vuông mà lại không chịu đặt nó song song với cạnh bàn. Tuy vậy, không phải ai cũng suy nghĩ như Hercule Poirot và từ lâu ông đã chấp nhận điều đó, cả mặt thuận lợi lẫn bất lợi mà nó gây ra. Ngồi nhấp nhổm trên ghế, người phụ nữ – Jennie – đăm đăm nhìn ra cửa như chờ đợi ai đó xông vào bất cứ lúc nào. Cô đang run rẩy, chắc một phần vì lạnh. Không – Poirot đổi ý – hoàn toàn không vì lạnh. Quán đã ấm lại rồi. Do muốn canh chừng cánh cửa, Jennie ngồi quay mặt về phía đó, giữ khoảng cách tối đa, dấy là kết luận hợp lý duy nhất. Mời các bạn đón đọc Kỳ Án Dòng Chữ Tắtcủa tác giả Agatha Christie.