Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Xứ Tuyết

Xứ tuyết  là tiểu thuyết của văn hào Nhật Bản Kawabata Yasunari, được khởi bút từ 1935 và hoàn thành năm 1947. Trước khi xuất bản dưới dạng ấn phẩm hoàn chỉnh, tác phẩm đã được đăng tải thành nhiều kỳ trên nhật báo. Xứ tuyết được đánh giá là quốc bảo của nền văn học Nhật Bản. Cùng với Ngàn cánh hạc và Cố đô, Xứ tuyết đã mang lại cho tác giả giải thưởng Nobel văn học vào năm 1968, nhân kỷ niệm 100 năm (1868-1968) hiện đại hóa văn học Nhật Bản với công cuộc cải cách Minh Trị. Xứ tuyết mang âm hưởng truyền thống lữ hành của các thi nhân văn sĩ Nhật Bản từ xa xưa. Câu chuyện theo bước chân của chàng trai trẻ Shimamura du hành ngoạn cảnh và tắm suối nước nóng. Shimamura, sinh ra và lớn lên ở một khu phố thương mại của Tokyo, đã lập gia đình, nhưng lại say mê với cái đẹp như bị một huyền lực điều khiển, vì vậy chàng đam mê theo học nghệ thuật vũ đạo Tây phương và hoạt kịch. Là một chàng trai tài tử nhàn rỗi thiếu thành khẩn với chính mình, lại có đôi lúc khát vọng tự tìm hiểu bản thân thôi thúc, nên chàng thích lên miền núi một mình và đã ba lần lên xuống xứ tuyết phía Bắc Nhật Bản trong ba mùa khác nhau Xuân - Thu - Đông. Trong lần thứ nhất vào thời điểm mở cửa mùa leo núi, mùa xuân bắt đầu với chồi non xanh thẳm và hương thơm ngát, chàng gặp nàng ca kỹ (geisha) Komako. Komako là một cô gái đại diện cho vẻ đẹp tràn trề nữ tính, mạnh mẽ, tương phản giữa thánh thiện và trần tục, giữa tỉnh táo và đam mê, giữa vẻ đẹp sáng ngời nét thơ ngây bên ngoài và sức trầm lắng của nội cảm. Cảm giác mà nàng đem lại cho Shimamura là sự tươi mát và thanh sạch tuyệt vời. Trong những đêm khi mà nàng giúp vui tiệc tùng bằng cách đánh đàn samisen cho những khách du hành, uống rượu say và mệt lả, nàng về bên Shimamura với sự nồng nhiệt khiến chàng rung động đến tận tơ lòng. Con tàu đưa Shimamura vượt qua đường hầm đến xứ tuyết lần thứ hai để gặp lại Komako vào mùa đông, vài tuần trước khi mở mùa trượt tuyết. Trong ánh sáng mờ ảo, Shimamura mê mẩn ngắm khuôn mặt người thiếu nữ ngồi đối diện với chàng ngời lên trên tấm kính cửa sổ toa tàu, với vẻ đẹp vừa huyền ảo vừa siêu phàm, với sự duyên dáng kỳ lạ của khuôn mặt trôi qua phong cảnh ban đêm. Cô gái đó, chàng còn gặp lại ở vùng băng tuyết, chính là Yoko. Một ca kỹ với vẻ đẹp trong trắng và xa vời, mong manh và mờ ảo, tin cậy và thơ ngây ngay cả trong cách nàng thể hiện tình cảm với Shimamura, với giọng nói "truyền cảm, trong thanh và đẹp đến não lòng", khiến chàng mỗi lần tiếp xúc là mỗi lần khám phá thêm một nét quyến rũ nơi nàng. Rồi những ngày đầu mùa thu với lá phong đỏ thắm, Shimamura lại rời Tokyo để đi nghỉ ở xứ tuyết. Ở đó, giữa hai người con gái xứ tuyết, trong khung cảnh của một vương quốc mà cảnh sắc, con người, phong tục, lối sống đều hồn hậu, chất phác và dịu dàng, chàng mẫn cảm sâu sắc trước cái đẹp nhưng lại đắn đo lưỡng lự giữa hai mối tình, một nặng về thể xác, một nặng về tâm hồn. Say đắm Komako nhưng trong Shimamura luôn hiện diện ánh sáng kỳ ảo lóe lên từ Yoko. Xúc cảm tình yêu của chàng dành cho Yoko ngày càng lớn dần khi chàng cảm nhận được cái mờ ảo và mong manh của vẻ đẹp khó diễn tả ấy, một vẻ đẹp chàng khao khát theo đuổi và nắm bắt cả đời. Trong khi Komako càng đến bên chàng thân thiết, gần gũi, mãnh liệt và hy sinh bao nhiêu, thì cứ mỗi lần rời xa xứ tuyết chàng lại thấy nàng biến mất không còn lưu lại chút dư tình trong tâm trí. Tình yêu của Shimamura với Komako bắt đầu chớm những giận hờn đầu tiên. Komako hoang mang không biết Shimamura còn yêu mình thật hay không, còn chàng cũng không sao hiểu nổi sự lạnh lùng của lòng mình, tại sao mình không thể sống được mãnh liệt, trọn vẹn và hy sinh trong dâng hiến không đòi hỏi chút gì trả lại như nàng. Đúng vào lúc Shimamura quyết định rời xa trạm nước nóng ở xứ tuyết để tránh cơn bão lòng và cắt đứt duyên nợ một cách lặng lẽ thì mọi sự đã kết thúc trong bi thảm. Trong một buổi chiếu bóng tại một nhà kho gần nơi chàng ở, một đám cháy dữ dội đã xảy ra. Mặt đất rừng rực trong tia lửa và tàn tro bốc cao lên tận bầu trời đêm, một bầu trời với dải Ngân Hà lóng lánh trong ánh sáng đẹp một cách ma quái. Yoko, người yêu thuần khiết và mối tình lý tưởng của chàng đã chết trong đám cháy đó. Khi chàng chạy tới thì thấy thân hình bất động của Yoko với gương mặt thanh tú và thánh thiện trên đôi tay Komado, còn Komako thì lời nói như mê sảng và vẻ mặt như sắp hóa điên. Chàng lảo đảo ngẩng mặt lên trời và có cảm giác dải Ngân Hà trôi tuột vào trong người chàng với tiếng gầm thét dữ dội. *** Trong “Xứ tuyết”, thiên nhiên Nhật Bản hiện lên giản dị và tĩnh mịch, mong manh và u huyền. Những tác phẩm của Yasunari Kawabata đã giữ một vị trí đặc biệt trong văn học cận-hiện đại Nhật Bản nói riêng và cho cả nền văn học Nhật Bản nói chung. Trong bộ ba tác phẩm giúp Kawabata dành giải Nobel văn học (Ngàn cánh hạc, Cố đô, Xứ tuyết), tiểu thuyết Xứ tuyết thể hiện quan niệm thẩm mỹ trong truyền thống của người Nhật Bản. Đó là bài thơ về cảnh sắc thiên nhiên, là bài ca về tình yêu, cũng là nơi tìm lại vẻ đẹp Nhật Bản. Nhóm sinh viên khoa Ngữ văn trường ĐH Sư phạm Hà Nội đã thực hiện nghiên cứu khoa học “Thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản trong quan niệm Kawabata”, thông qua tiểu thuyết Xứ tuyết của ông. Biên tập viên Sóng Trẻ xin lược trích chương 2 của báo cáo khoa học, “Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản” ở bài đăng này. Vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ truyền thống Nhật Bản Trong Xứ tuyết, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp xuất phát từ chính những quan niệm thẩm mỹ của Yasunari Kawabata. Cái đẹp phong phú của tự nhiên hiện ra từ chính vẻ đẹp của cảnh sắc thiên nhiên xứ tuyết. Thiên nhiên xứ tuyết là một bài thơ Haiku bằng văn xuôi dung hợp trong đó những quan niệm thẩm mỹ nổi bật nhất của Kawabata. Từ đặc trưng của các nguyên lý thẩm mỹ và nội dung cụ thể của tiểu thuyết Xứ tuyết, chúng tôi tiến hành phân loại và tìm hiểu vẻ đẹp thiên nhiên Xứ tuyết trong quan niệm thẩm mỹ của Kawabata với 4 nội dung: 1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống (Wabi) 2. Thiên nhiên mang vẻ cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian (Sabi) 3. Thiên nhiên trong cảm nhận về sự mong manh, u buồn (Aware) 4. Thiên nhiên mang vẻ đẹp u huyền (Yugen) 1. Vẻ đẹp giản dị, gần gũi với cuộc sống 1.1. Thiên nhiên với những sự vật nhỏ bé Trong cảm nhận của Shimamura, bên cạnh những giây phút thiên nhiên hiện ra với vẻ lung linh kì ảo thì đó là hình ảnh thiên nhiên với vẻ đẹp giản dị, mộc mạc: “Lưng chừng dốc trên lùm cỏ cao và đám bụi rậm, là một bụi tre lùn rậm rạp mà cành tỏa ra mọi phía. Gần ngay cửa sổ, có một vuông vườn với những luống khoai lang, củ cải, khoai tây vươn thẳng. Mảnh vườn thật bình thường lại rực rỡ ánh ban mai khiến Shimamura được hưởng lần đầu tiên thứ màu xanh tươi tắn lạ, như được đánh bóng lên trong buổi sáng mát lành”. Hình ảnh bụi tre, vườn tược với những luống khoai lang, củ cải… giống như những biểu tượng của một làng quê hồn hậu, giản dị. Vẻ đẹp trong sáng, thuần khiết của vùng đất phương Bắc băng giá hiện lên từ chính những hình ảnh giản dị này. Thiên nhiên xứ tuyết dường như mất đi cái lạnh lẽo, cô đơn trong mỗi trận bão tuyết mà trở về với vẻ đẹp thường ngày. Hình ảnh thiên nhiên phương Bắc đối lập với sự hoa lệ, ồn ào của Tokyo chính là những gì mà người lữ khách Shimamura đang tìm kiếm. Dường như có một sự cách biệt rất lớn giữa cuộc sống thành thị và thiên nhiên ở xứ tuyết. “Đó cũng là khoảng cách giữa hai cõi: thế giới loài người đang chìm đắm trong chiến tranh, trong lối sống chạy theo dục vọng tầm thường, tâm hồn chai sạn do ảnh hưởng của nền công nghiệp cơ khí hiện đại và thế giới thiên nhiên hoang sơ, trinh bạch còn lưu những giá trị truyền thống”. Qua nhận định trên của TS. Nguyễn Thị Mai Liên, vẻ đẹp Wabi hiện lên trong hình ảnh thiên nhiên xứ tuyết cũng chính là giá trị của cái đẹp theo quan niệm thẩm mỹ Nhật Bản – cái đẹp đơn sơ, giản dị. [...] 1.2. Thiên nhiên trong nhịp sống thường nhật Thiên nhiên xứ tuyết hiện lên trong nhịp điệu cuộc sống thường ngày, phập phồng hơi thở của cuộc sống con người. Thiên nhiên thấp thoáng bóng dáng của con người, của những ngày sống đơn điệu mà đẹp đẽ, yên bình. Trong xứ tuyết, vẻ đẹp của ngày mùa, của những bông lúa hiện lên với tất cả những gì thanh bình, ấm áp. Đó là cuộc sống con người, cuộc sống của vùng núi phía Bắc – một cuộc sống giản đơn êm ả bên cạnh sự lạnh lẽo, dữ dội của những ngày tuyết phủ: “Lúa khô cũng phơi trên sào trước nhà yoko trong cánh đồng thoai thoải ngăn cách với đường. Một dãy dài treo thành một bức rèm giữa đám cây hồng, trước bức tường trắng bao quanh khu vườn đến tận lỗi vào nhà bên cạnh, một dãy khác, ở góc phải, men theo rìa cánh cổng trước vườn, chìa ra một góc để lấy lối đi lại. Trong đồng lúa, những cây khoai sọ vẫn đang xanh tốt, tàu khỏe, lá cứng cáp; ngược lại, những đóa thược dược và những hoa hồng thì đã héo tàn. Chiếc ao sen nuôi cá vàng lấp lõ phía sau những tầng lúa…”. Vẻ đẹp giản dị của thiên nhiên xứ tuyết đã tái hiện nguyên vẹn nhịp sống thường ngày của con người nơi đây. Đó là những vẻ đẹp vẫn luôn tồn tại trong đời sống, vẻ đẹp của mỗi ngày trôi qua ở vùng đất phương Bắc. Nhưng dưới con mắt của Shimamura, nó hiện ra tràn đầy hơi thở, tràn đầy sức sống, nhịp sống chảy trôi, tràn đầy bóng dáng của con người. 2. Vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch và dấu ấn thời gian 2.1. Thiên nhiên mang vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch Sabi được Kawabata khơi dậy trong thiên nhiên Xứ tuyết giống với vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch trong mỹ học Nhật Bản trung đại với những vần thơ của Basho. “Tác phẩm không chỉ mang phong cách haiku mà còn gợi nhớ đến tập nhật kí du hành của Basho là Oku no hosomichi (Con đường sâu thẳm). Cả hai đều tìm kiếm cái đẹp trong sâu thẳm thiên nhiên ở tận phương Bắc: Oku của Basho và Xứ tuyết của Kawabata. Cả hai đều tìm kiếm cái tố phác chưa bị những hội chợ phù hoa làm vẩn đục”. Nhận định trên đây của Nhật Chiêu đã đặt vẻ đẹp ấy trong sự đối sánh với những “Hội chợ phù hoa” của phương Tây. Có thể nói, vẻ đẹp cô đơn, tĩnh mịch của thiên nhiên là vẻ đẹp dường như ngưng đọng trong không gian xứ tuyết, không pha lẫn sự ồn ào, náo nhiệt mà trái lại là vẻ đẹp của sự yên tĩnh, thâm trầm. Sabi với vẻ cô đơn, tĩnh mịch hiện lên trong thiên nhiên xứ tuyết là hình ảnh những cây bá hương và sự yên tĩnh của những khu rừng bá hương. “Thân của những cây bá hương ở đằng sau phiến đá cô ngồi vút lên thẳng tắp, cao đến nỗi anh phải ngửa người ra, tựa lưng vào phiến đá, mới dõi mặt được đến tận ngọn cây. Bầu trời bị che khuất bởi một lớp gần như màu đen những hàng cây mọc sít, những cành cây và những lớp lá kim xanh thẫm dày đặc. Yên tĩnh và thanh bình như một bài thánh ca”. Sự cô đơn, tĩnh mịch của rừng cây được gợi tả bằng những cảm nhận nhãn quang về màu sắc: đen, xanh thẫm. Những gam màu tối ấy khiến thiên nhiên xứ tuyết không hiện lên rực rỡ, thanh khiết mà cô đơn, trầm lặng, tĩnh mịch. “Những cây bá hương phủ một làn voan trắng mỏng nổi lên trên nền tuyết, dù không hề trộn vào nhau vẫn tạo thành một khối sẫm, mà cây nào cây ấy, hiện ra với dáng nét riêng biệt rõ ràng”. Những cây bá hương vào mùa thu hiện lên với màu trắng. Tuy không phải là những gam màu tối mà Shimamura đã cảm nhận khi lần đầu ngắm nhìn những cây bá hương nhưng sắc trắng này vẫn mang lại cho thiên nhiên một vẻ đẹp cô đơn. Sự mờ ảo lẫn vào khu rừng bá hương cũng chính là vẻ cô đơn, tĩnh mịch không lời của thiên nhiên xứ tuyết. Có thể nói, Sabi với vẻ đẹp không lời của sự cô đơn và tĩnh mịch đã hiện lên nguyên vẹn trong thiên nhiên xứ tuyết. Sự tĩnh mịch gần như ngưng đọng của thiên nhiên xứ tuyết khiến cho cảm nhận về thời gian ở đây dường như không trôi chảy. Đó cũng chính là vẻ đẹp mà thời gian đã ban tặng cho thiên nhiên nơi đây. 2.2. Thiên nhiên cổ sơ mang dấu ấn thời gian Những thiên tiểu thuyết của Yasunari Kawabata thường xuất hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong cảm quan về thời gian. Trong Xứ tuyết, dấu ấn thời gian hiện lên rõ nét qua hệ thống những biểu tượng của vẻ đẹp thiên nhiên. Từ đó, Sabi lại được cảm nhận dưới vẻ đẹp được tạo nên từ thời gian trôi chảy – vẻ đẹp cổ sơ mang màu dấu ấn thời gian. Trước hết, vẻ đẹp cổ sơ hiện lên từ những hình ảnh biểu tượng của thiện nhiên xứ tuyết. Trước hết, vẻ đẹp đó hiện ra từ hình ảnh con tàu. Ngay từ đầu tác phẩm, con tàu đã hiện lên với tư cách là một phương tiện đến với xứ tuyết – một vùng đất gần như riêng rẽ, tách biệt: “Còn các toa tàu cũ kĩ, chúng như đã trút bỏ trong đường hầm bộ áo lóng lánh của sương giá tuyết băng. Tàu chạy xuống một thung lung, ở đây, những khoảng tối hơi nhuốm màu hoàng hôn và ngập đầy những vực thẳm xen giữa các ngọn núi chồng lên nhau”. “Con tàu với ba hoặc bốn toa cũ rích và cổ lỗ, chẳng giống gì những đoàn tàu nhanh ở các chuyến lớn trung tâm, khiến ta tưởng như đang ở trong một con tàu của xứ sở khác hoàn toàn xa lạ”. Con tàu của xứ tuyết cũng mang dáng vẻ của vùng đất này – đó là dáng vẻ của cổ sơ, cũ kỹ trên nền băng tuyết. Con tàu cổ lỗ này giống đã đi xuyên thời gian, xuyên qua quá khứ để đưa con người đến đây. Kawabata đã đặc biệt khắc họa hình ảnh “con tàu của xứ sở hoàn toàn khác lạ” như một vật thể thuộc về vùng đất xứ tuyết, thuộc về thiên nhiên cổ sơ. Tiếp đến, vẻ đẹp cổ sơ, cũ kỹ từ sự trôi chảy thời gian hiện lên trong những ngôi nhà ở xứ tuyết với bóng dáng của những mái nhà, mái chùa với vẻ cũ kĩ của lớp bụi thời gian. Khu suối nước nóng mà Shimamura chọn làm điểm nghỉ ngơi với những dãy hành lang hiện rõ thời gian mà nó tồn tại: “… Mỗi bước chân anh trên lớp sàn gỗ cũ kĩ làm kính ở các cánh cửa ra vào rung lên”. Lớp sàn gỗ là dấu ấn của thời gian, là lớp thời gian đã bao trùm lên xứ tuyết. Âm thanh của những cánh cửa là tiếng kêu của thời gian. Dường như đó là vẻ đẹp tích tụ theo dòng chảy của thời gian, vẻ đẹp ngưng đọng từ quá khứ. Vẻ đẹp cổ sơ của thiên nhiên xứ tuyết còn hiện lên qua hình ảnh những mái nhà, mái chùa với những lớp lợp cũ kĩ: “… Một ngôi nhà cũ, mái đã trĩu xuống với một cửa sổ sơn đã bong vì mưa nắng... Phần lớn lợp bằng gỗ, có chẹn đá, các mái nhà trông như những dãy giống nhau, các hòn đá song song với con đường, những hòn đã to, tròn và nhẵn, trắng xóa những tuyết ở phía bóng râm và sáng loáng ở phía có nắng, đen như mực, chúng bóng loáng không hẳn vì ướt mà chủ yếu vì chúng được bào nhắn bởi băng giá, gió mưa”. Vẻ đẹp của những ngôi nhà, những mái gỗ chẹn đá được Shimamura nhìn nhận dưới những tác động của thời gian. Thời gian đã làm những ngôi nhà, những chiếc mái trở nên cũ kĩ, hao mòn nhưng chính thời gian cũng tạo nên vẻ đẹp cổ kính đặc trưng của những ngôi nhà xứ tuyết. Đó là vẻ đẹp của thiên nhiên, của thời gian đã đi qua vùng đất này, của “mưa nắng”, “băng giá” và “gió mưa”. Đó cũng chính là Sabi, là vẻ đẹp hiện lên từ những gì cũ kĩ, hoen gỉ. [...] Thiên nhiên mang vẻ đẹp Sabi trong Xứ tuyết còn hiện lên dưới cảm thức thời gian (ảnh: internet) Trong tác phẩm của Yasunari Kawabata, rất ít khi thời gian chính xác được đề cập trong các chi tiết truyện. Tuy nhiên, thời điểm mùa trong năm luôn được thể hiện rõ nét qua những đặc trưng, dấu ấn của mùa. Điều này giống với cách gợi cảm thức thời gian trong thơ Haiku. Khi Basho viết: “Một đám mây hoa/ Chuông đền Ueno vang vọng/ Hay đền Asakusa” thì thời điểm mùa xuân hiện lên chính từ hình ảnh “Đám mây hoa” đó. Điều này cho thấy sự gắn bó giữa thơ Haiku Nhật Bản và Kawabata trong quan niệm về thời gian. Những dấu hiệu về thời gian trong ngày hay dấu hiệu về mùa trong Xứ tuyết cũng là một yếu tố khắc họa vẻ đẹp của thiên nhiên, tạo vật trong tác phẩm và đặc biệt, nó thể hiện rõ dấu ấn thời gian trong nguyên lý thẩm mỹ Sabi. “Cái đẹp của tuyết, cùa các mùa và phụ nữ luôn luôn lấp lánh qua từng trang văn, đẹp như thơ”. [...] 3. Vẻ đẹp u buồn, mong manh Trong cảm nhận của người Nhật Bản, vẻ đẹp của thiên nhiên có lẽ cũng đi liền với sự buồn bã, mong manh. Điều này thể hiện ở chính việc lựa chọn quốc hoa của đất nước này, đó là hoa anh đào. Hoa anh đào đẹp nhất là khi chúng nở rộ, nhưng dù hoa có nở đẹp đến đâu đi chăng nữa thì nó vẫn mang một nỗi buồn phảng phất bởi một lẽ, anh đào sẽ rụng vào đúng lúc nó nở rực rỡ nhất. Như vậy, ngay từ trong cảm quan của mình, người Nhật đã đã để cho hai khái niệm “đẹp” và “buồn” song hành với nhau. Ngay cả với thiên nhiên, cái đẹp cũng gắn với cái buồn. Đây cũng chính là một trong những quan niệm thẩm mỹ truyền thống của Nhật Bản. […] 3.1. Thiên nhiên trong sự lạnh giá Thiên nhiên xứ tuyết mang một sự lạnh giá đến gay gắt. Tuyết ở đây rơi rất nhiều và mạnh, “tuyết rơi nhiều đến nỗi các đoàn tàu luôn bị những khối tuyết lở chặn lại”. Không chỉ có tuyết bao phủ “dày hai, ba mét, đôi khi đến hơn bốn mét” mà ở nơi đây, nhiệt độ cũng xuống rất thấp: “năm ngoái, nhiệt độ ở đây xuống đến hơn hai mươi độ âm”. Khí hậu khắc nghiệt đã tạo cho xứ tuyết một cái lạnh không giống với bất kì một nơi nào khác, “sờ vào vật gì, ta cũng thấy nó lạnh khác lắm”. Xứ tuyết lạnh giá tạo nên một vẻ buồn man mác. Sự lạnh lẽo ấy thấm hết vào cảnh vật, khiến chúng cũng trở nên khác biệt với Shimamura. Cái lạnh của xứ tuyết không chỉ thể hiện trực tiếp ở khí hậu nơi đây mà còn thể hiện gián tiếp qua sự hòa hợp của ánh sáng, bóng tối. Cứ mỗi lần sáng, tối lồng vào nhau, là một lần tạo cho người ta cảm giác hoài vọng, nuối tiếc và u buồn. Bóng tối đang hiện hữu thì ánh sáng cũng xuất hiện. Ngay khi đang nồi trên tàu, dưới con mắt tinh tế của Shimamura hay của chính Kawabata, bầu trời đêm hiện lên và để lại ấn tượng thật đặc biệt: “Phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Bóng đêm đã bao trùm lên xứ tuyết nhưng ở đằng xa, ánh sáng vẫn còn hiện hữu. Dù có ở trong toa tàu hay bên cánh cửa sổ, Shimamura vẫn luôn cảm nhận được sự xen kẽ sáng tối này. […] Cũng chính từ căn phòng mình, Shimamura nhìn thấy “ở đáy thung lũng, nơi thường tối sớm, đã bắt đầu tối. Nhô cao ở bên ngoài vùng tối, các ngọn núi ở đằng kia rực rỡ nắng chiều, chúng như gần hơn bởi chúng tương phản với những hõm tối và màu trắng của chúng như ánh lân quang dưới bầu trời đỏ ối”. Và Shimamura “cảm thấy mỗi lúc một buồn”. Bóng tối và ánh sáng cùng nhau xuất hiện trên khung cảnh thiên nhiên xứ tuyết, sự tồn tại song song của cả bóng tối lẫn ánh sáng làm cho thiên nhiên như lạnh hơn, tạo nên một khung cảnh băng giá đầy u buồn, hoài vọng. 3.2. Thiên nhiên mang vẻ đẹp mong manh Trong quan niệm của người Nhật Bản, cái đẹp và cái hư vô, mong manh luôn đi cùng với nhau. Điều này được thể hiện khá rõ qua thơ Haiku. Nhà thơ Shiki đã từng viết: “Đẹp lạ lùng Ai mà không ghen tị Lá đỏ rời cành phong” Vẻ đẹp mong manh ấy hiện lên trong Xứ tuyết là thiên nhiên ngập trong sắc trắng. Màu trắng cũng là màu sắc được nhắc tới khá nhiều trong Kinh Phật. Màu trắng là biểu tượng của sự tinh khiết, thanh cao và cũng là màu của sự hư ảo. Trong Xứ tuyết, rất nhiều lần tác giả nhắc tới sắc trắng. Có khi, cảnh vật trở nên mềm mại hơn khi được che phủ bởi sự nhẹ nhàng của tuyết: “Xa xa, trên các ngọn núi, tuyết trông như một lớp kem mềm mại được bao phủ một làn khói nhẹ”. Tuyết cũng làm cho mọi thứ trở nên nặng nề, chật hẹp và cô đơn: “Sự chật hẹp của cái thung lũng bé xíu bị ép chặt giữa những ngọn tuyết phủ dày. Nơi đây chẳng khác gì một cái túi tối om, một cái hốc xiết bao đơn độc giữ lòng núi hẻo lánh này”. [...] Thiên nhiên xứ tuyết là nơi “cư ngụ” của những kiếp phù du như những loài côn trùng. Màu xanh của loài bướm đêm đã gây một ấn tượng cho anh. Với anh, đó là “màu xanh ngỡ ngàng, đơn độc, ngược ngạo thay, nhuốm màu chết chóc”; “nó rơi xuống như một chiếc lá khô, chậm và nhẹ buông rơi, lúc lên lúc xuống, trước khi chạm đất” hay lời tự hỏi “không biết con côn trùng đã chết chưa”. Chúng chỉ là những sinh mệnh mang kiếp phù du, bay lượn trong không trung rồi lìa đời nhanh chóng. Cuộc đời của những kiếp phù du luôn là như vậy. Cõi đời này sẽ không lưu lại được gì từ những vẻ đẹp ấy. [...] 4. Vẻ đẹp u huyền, kì ảo Trong các tác phẩm của Kawabata, thiên nhiên thường xuyên xuất hiện trong gương. Thiên nhiên qua những tấm gương hiện lên rất sống động nhưng cũng manh đầy vẻ siêu thưc, huyền ảo. Thiên nhiên vẫn luôn là bí ẩn mà con người luôn muốn tìm kiếm và chinh phục. Thông qua chiếc gương soi, thiên nhiên bỗng trở nên kỳ ảo hơn, khó nắm bắt hơn bao giờ hết. Với Xứ tuyết, Shimamura không chỉ cảm nhận được vẻ đẹp u huyền con người mà còn cảm nhận được cả vẻ u huyền của thiên nhiên nơi xứ tuyết. Gương phản chiếu hình ảnh của tuyết, làm cho tuyết kỳ ảo hơn rất nhiều: “Tuyết bỗng sáng rực thêm nữa trong gương, chẳng khác gì ở đó có một đám cháy băng giá”. Tấm gương khiến cho lớp tuyết trắng “bỗng sáng rực”, đây vừa là hình ảnh tự nhiên của tuyết nhưng cũng lại là hình ảnh tuyết được “cải biến” trong thế giới gương soi. Từ trong gương soi, thiên nhiên đã đổi khác. Thiên nhiên không chỉ hiện lên với vẻ đẹp tự thân của nó mà vẻ đẹp ấy còn được nhân lên, đưa con người vào một thế giới mới với những khung cảnh vừa thực mà vừa hư: “Trong bầu trời đêm, phía trên những quả núi, hoàng hôn còn để lại vài vệt đỏ sậm, muộn màng và ở tít xa, trên đường chân trời, còn có thể nhận ra được mấy ngọn núi tách biệt”. Thiên nhiên trong gương soi được Shimamura cảm nhận không chỉ với hình ảnh đơn lẻ mà nó còn hòa vào vẻ đẹp của con người xứ tuyết. Thiên nhiên và con người như soi chiếu vào nhau: Cảnh đêm và điểm sáng đều được Shimamura nhìn qua tấm kính của toa tàu. Chúng ở phía xa và ở đằng sau, chúng mang những cái đẹp lung linh và huyền ảo. Shimamura cảm nhận được những vẻ đẹp ấy và anh cũng không thể rời mắt khỏi Yoko: “Anh bàng hoàng khi một ánh lửa tít xa trong núi bỗng lóe sang ở giữa gương mặt đẹp của người đàn bà trẻ, khiến cho vẻ đẹp không thể nào tả xiết ấy đạt đến đỉnh điểm”. Trong tấm gương soi, thiên nhiên và con người cùng tồn tại, vẻ đẹp thiên nhiên làm nổi bật vẻ đẹp con người. Chính và thế mà vào một buổi sáng, khi nhìn thấy vẻ đẹp của Komako hiện lên trong gương và trên nền tuyết, Shimamura đã nhớ lại vẻ đẹp của Yoko được phản chiếu lại trên cửa kính của toa tàu. Vẻ đẹp của Komako cùng với vẻ đẹp của tuyết trắng tạo nên một điểm nhấn cho bức tranh. Ở đây, tuyết trắng như làm nền cho Komako. Cụ thể hơn, vẻ đẹp của tuyết làm nổi bật đôi má đỏ hồng của cô. Shimamura hay chính Kawabata đã “mượn những chiếc gương soi để tạo lập nên một thế giới huyền ảo chưa từng có nhưng lại làm cho chúng ta tin tưởng vào đấy”. Thiên nhiên trong gương soi mang một vẻ đẹp của sự hư ảo, của sương khói bao phủ và của tuyết trắng. Chính bản thân Shimamura cũng giống như một chiếc gương. Ở đó ta có thể nhìn thấy sự mơ hồ của anh cũng giống như lúc anh nhìn thấy sự mơ hồ, kì ảo của thiên nhiên qua tấm gương.   Mời các bạn đón đọc Xứ Tuyết của tác giả Yasunari Kawabata.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn - Ma Văn Kháng
Tác phẩm Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn là sự tổng hợp, sự thu hút vào nó những thủ pháp của tiểu thuyết tư liệu - nghiên cứu, tiểu thuyết tự thuật và kỹ thuật dòng ý thức, bút pháp tượng trưng, v.v... Nếu ở những chương đầu của Đồng bạc trắng hoa xòe, ông tuân thủ lối viết của người kể chuyện biết hết, tác phẩm bị lấn át bởi một giọng điệu kể thì đến Gặp gỡ ở La Pan Tẩn, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng đã là một thực thể sinh động biết bao: tác phẩm có nhiều tầng lớp ý nghĩa, chứa nhiều ẩn dụ nghệ thuật, hư và thực, tiềm thức, vô thức đan cài với ý thức sáng rõ có chủ đích; thế giới hiện thực hiện hữu và thế giới tâm linh, huyền thoại bổ sung vào nhau, nhòe mờ các ranh giới, mà tư duy trừu tượng muốn phân định rạch ròi. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Gặp Gỡ Ở La Pan Tẩn của tác giả Ma Văn Kháng.
Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng - Ngô An Kha
Tiểu thuyết "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" của Ngô An Kha sẽ đưa bạn đến với cuộc phiêu lưu của những người trẻ, tới một hành tinh mới lạ, hành trình đi tìm bản ngã hay ước mơ cuộc đời. Câu chuyện kể về hành trình đi tìm thế giới khao khát của 3 nhân vật: L, R, F. Ba người trẻ trong câu chuyện đều cảm thấy buồn chán, cô đơn, mất phương hướng trong cuộc sống. Họ có ước mơ nhưng đều gặp rắc rối với ước mơ của mình. Người có ước mơ nhưng bị xã hội cản trở, người mất dần ước mơ, người lại dang dở với quá nhiều mơ ước. Và họ đã cùng nhau đi tìm thế giới khao khát - một thế giới không có sự hiện diện của nỗi đau. Đó cũng là hành trình đi tìm giá trị bản thân mỗi người và trả lời cho câu hỏi “Chúng ta sống trên đời này để làm gì?”. Với không gian truyện hiện đại, lạ lẫm, cách xây dựng tình huống phong phú, với bối cảnh là nhiều địa danh nổi tiếng thế giới như Roma, Paris và Barcelona, "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" sẽ dẫn dắt chúng ta đến với những mảnh đất mới, khám phá văn hóa, con người cùng vô vàn điều mới lạ. Tác phẩm mang đến cho độc giả những phương châm và bài học sâu sắc trong tình yêu và cuộc sống. Khi đấu tranh giữa những ước mơ, khó khăn của cuộc đời, con người thường tìm về thế giới không có thực để trốn thoát. Nhưng nỗi thống khổ của con người là không thể tránh khỏi, có tối tăm mới có ánh sáng. Tối tăm sẽ dẫn đường, làm nền tảng của ánh sáng. Câu chuyện còn mang đến bài học về tình yêu mà ở đó, sự chân thành và thấu hiểu luôn chiến thắng. Ngoài ra, bằng các yếu tố khoa học, tác giả muốn ngợi ca những phát minh vĩ đại của loài người, đồng thời lên tiếng về hệ lụy của chúng đối với môi trường sống mà chúng ta đang rất cần bảo tồn, cải thiện. "Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng" tạo cảm hứng cho các bạn trẻ đang loay hoay đi tìm bản ngã, mục đích sống thêm động lực để trưởng thành và biết cách để vượt qua nỗi cô đơn. Quá trình đi tìm thế giới trong mơ của những người trẻ trong câu chuyện cũng là hành trình đi tìm lại vẻ đẹp tâm hồn và niềm tin yêu cuộc sống. *** Roma, 4 giờ 30 chiều. L ngước nhìn lên. Lỗ hổng trên trần nhà mở to. Trần nhà hóa thành trời xanh xanh ngắt, những đám mây trắng tinh bồng bềnh trôi. L đưa tay ra, chới với, anh muốn chạm vào một đám mây. Mọi chuyển động của L lúc này chậm rãi, chậm rãi. Những đám mây xa L quá, anh đưa tay với mãi, với mãi nhưng chẳng thể nào chạm đến được. L thu tay về, mười ngón tay dài đặt trên vầng trán cao, vuốt xuống đôi mắt lúc này đã nhắm nghiền, từ từ rà dọc cánh mũi, rồi qua miệng, đến lúc cả hai bàn tay đều yên vị trên ngực trái - nơi con tim anh vẫn uể oải, chầm chậm đập những nhịp không thành tiếng. Bỗng chốc, hình xăm bàn tay của Chúa và Adam trên lưng anh bật dậy, nổi lên thành hình thành khối, bay lơ lửng giữa không trung, bay lên miền mây trời vừa trắng vừa xanh trên cao kia. Anh vẫn chưa biết đây là mơ hay thực. Anh đang ở thế giới nào? Liệu đây đã phải là hành tinh Dương Vô Cùng chưa? L trở mình thức dậy giữa căn phòng tối, cửa sổ mở toang. Cứ vài phút, ô tô chạy qua hắt ánh đèn vàng lên bức tường đối diện mà mắt anh đang dán vào, giờ đây đó là thứ ánh sáng duy nhất. L đã ngủ được gần bốn tiếng, có lẽ đó là bốn tiếng dài nhất cuộc đời anh. Chợt nhận ra đã cận kề với việc muộn giờ diễn, L bật dậy như sóc, nhanh chóng mặc quần áo. Anh diện quần jeans cùng chiếc áo phông cổ tròn cỡ rộng quen thuộc, tất cả đều màu đen. Từ trước đến giờ, L hiếm khi mặc màu nào khác ngoài màu đen. L vội vã chải những sóng tóc dài buông xõa quá vai với chiếc lược bằng chính bàn tay gầy guộc của mình. Thế là xong, anh chỉ cần nhặt chiếc áo khoác da biker đen lên, và mang cây đàn guitar cùng màu trên vai là rời khỏi nhà được rồi. Quãng đường đến quán bar L thường đàn hát cách căn xép nhỏ anh ở trọ tầm hai bến tàu, nhưng L thích đi bộ. Anh bước trên những con đường đá của Roma đến nát cả đôi bốt cao bằng mắt cá chân. Ánh đèn vàng sáng lòa của khối nhà cao trung trung, của ô tô, của xe Vespa hắt lên lưng L, để lộ hình xăm bàn tay của Chúa và Adam hững hờ sau chiếc áo đen cổ rộng anh đang mặc. Tempo là một quán bar không lớn nhưng cũng không nhỏ nằm trong một con hẻm tại thủ đô nước Ý, mà phải rồi, những quán bar kèm không gian chơi nhạc như thế có bao giờ lớn đâu chứ. L chơi nhạc ở đây cũng đã được hơn năm năm rồi. Những ca khúc indie pop của anh kén người nghe đến oải. Dẫu rằng đó là thứ âm nhạc tuyệt đẹp, trong trẻo, khát khao và đầy đam mê. Khi L cất tiếng hát, giọng anh sang sảng, những quãng ngân dài sâu hun hút, tưởng chừng như bất tận. Nỗi niềm tự sự vang lên, thủ thỉ kể từng câu chuyện nhỏ. L không giấu giếm điều gì, khi anh hát, anh bộc bạch hết lòng mình. Anh hát với cả con tim, lòng nhiệt thành và đam mê cháy bỏng. Trái với những ca khúc đậm chất trữ tình, nội tâm mà anh sáng tác từ năm mười mấy tuổi, L là một chàng trai vui vẻ, hoạt bát, ở ngoài nói nhiều hơn nghĩ, và nghĩ nhanh hơn nói. ... Mời các bạn đón đọc Những Người Mơ ở Hành Tinh Dương Vô Cùng của tác giả Ngô An Kha.
Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên - Ma Văn Kháng
Mười chín tuổi, thầy Quang Tình người miền xuôi xung phong lên dạy học ở một tỉnh miền núi. Ra đi như “cờ bay trong gió, như lửa thốc trong lò”, người thanh niên nọ đã đem hết niềm say mê lý tưởng, cuộc đời để làm công việc mang đến ánh sáng văn hóa cho con em các dân tộc. Sau một thời gian dạy học ở các làng bản, do đã tích lũy được nhiều kinh nghiêm và có uy tín trong nghề nghiệp, thầy Quang Tình được điều về dạy học ở trường Bổ túc Văn hóa Công Nông, nơi chuyên dạy văn hóa cho các cán bộ xã cơ sở nông thôn miền núi của tỉnh. Đứng đầu cơ sở giáo dục này là một người thô bạo, có thiên kiến nặng nề với những ai xuất thân từ các tầng lớp khác không phải là công nông. Giữa hai người bất đồng nối tiếp bất đồng, và kết quả là thầy Quang Tình bị sa thải, phải ra khỏi ngành. Vợ thầy cũng bị liên lụy. Ra khỏi ngành, nghề nghiệp không, tiền bạc không, đất đai không, lại vợ dại con thơ, sống thế nào đây? Thầy Quang Tình, sẵn ý chí bất khuất, bắt tay vào công cuộc mưu sinh vô cùng gian khó. Sau một thời gian phải làm cả những công việc nguy hiểm và bẩn thỉu, thầy quyết định học nghề mộc. Sẵn ý chí không chịu thua hoàn cảnh và tố chất khéo léo, cùng với lòng kiên trì, ham học hỏi, lần lần thầy đã nắm vững được kỹ thuật nghề mộc, vượt qua được tình trạng bị dồn vào bước đường cùng, nuôi được vợ con. Tuy nhiên quan trọng ở đây là thầy đã tìm ra con người mình. Tìm ra ở chính cái cuộc sống mà thầy đã rơi xuống. Sau những gì qua đi, còn lại là cốt cách thanh tao, nhân cách cao cả của thầy. Tiểu thuyết  không chỉ dừng lại ở việc miêu tả cuộc sống với những mảng màu sắc thái khác nhau, sinh động và hấp dẫn, mà còn phát ngôn một thái độ, một triết học nhân sinh, một quan niệm thẩm mỹ về cuộc đời, con người. Sự trải nghiệm sâu sắc về cuộc đời cũng như khả năng quan sát thấu đáo của Ma Văn Kháng đã làm nên những trang văn tỉ mỉ, tinh tế, công phu. *** Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Người Thợ Mộc Và Tấm Ván Thiên của tác giả Ma Văn Kháng.
Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe - Ma Văn Kháng
Ma Văn Kháng lao động văn chương như một người H'Mông trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị. Không ồn ào to tiếng với ai. Nét mặt anh cũng có cái vẻ chất phác núi rừng, ít nói, ít tranh luận, nghe ai nói nhiều chỉ gật đầu, hơi như ngơ ngác nữa. Độc giả văn chương quen biết anh bằng tập Xa phủ (1969), tập truyện đầu tay, xinh xinh và đáng yêu như những chú thỏ non trong rừng rậm. Và sau đó thì đều đặn, năm in một tập, năm in hai tập, ở các Nhà xuất bản Văn học, Thanh niên, Phụ nữ, Công an nhân dân, Lao động và Kim đồng. Tính đến Đồng bạc trắng hoa xòe là ấn phẩm thứ mười một của anh trong vòng thập niên trở lại đây, thuần về miền núi. Văn học miêu tả dân tộc miền núi, nói nghiêm túc, mới chỉ có sau Cách mạng tháng Tám, trong kháng chiến Việt Bắc. Những tiểu thuyết đường rừng của Lan Khai trước kia (Tiếng gọi của rừng thẳm, Truyện đường rừng, Suối đàn), ít nhiều của Thế Lữ (Vàng và Máu, Một đêm trăng), chỉ là những truyện mượn rừng núi nhằm gây một cảm giác ly kỳ rùng rợn. Người đặt nét bút đầu tiên khai phá vùng núi cao trong văn học Việt Nam phải kể là Nam Cao với Ở rừng (1948). Đấy mới chỉ là những phác thảo trong những trang nhật ký duyên dáng của anh, nhưng bóng dáng người miền núi hiện ra đã thật là có tình và đáng yêu. Rồi Nam Cao mất, chưa kịp làm gì thêm cho miền núi nữa. Cùng sống với Nam Cao là Tô Hoài, có Núi Cứu quốc (1948). Vẫn chỉ là những nét phác thảo. Phải đến năm 1953, cái vùng đất biên cương núi non trùng điệp vòng phía Tây Bắc Tổ quốc mới lấp lánh trong văn học Việt Nam với Mường Giơn giải phóng và Vợ chồng A Phủ. Và sau nữa thì tiểu thuyết Miền tây (1967) khẳng định mảng văn học miền núi trong bức tranh toàn cảnh văn học cách mạng Việt Nam là không thể không chú ý được, là đã đóng chốt vào rồi. Nhà văn Tô Hoài với ngọn bút lão luyện và tài hoa, đã chấm phá bức tranh thủy mạc về người về cảnh miền núi chinh phục chúng ta từ nhiều năm nay. Con dế mèn phiêu lưu đã xòe cánh trên vùng Tây Bắc... một lời khen rất có duyên về anh, và chứng tỏ cái uy thế tuyệt đối của anh về địa bàn miền núi. Lúc ấy Ma Văn Kháng vẫn còn là cậu học trò cần cù học, đọc và lầm lũi như chú bé dân tộc theo mẹ đi chợ, đi theo con đường của Nam Cao, Tô Hoài khai phá. Tiếp bước cha anh... đấy là truyền thống dân tộc. Đọc xong Đồng bạc trắng hoa xòe có cái mừng là thấy lớp người sau đã kế tục được lớp người trước. Và còn nhiều hy vọng vì còn trẻ, còn khỏe, còn như con ngựa mới chạy nước kiệu trên một quãng đường. Ma Văn Kháng, tên thật là Đinh Trọng Đoàn, gốc người làng Kim Liên, khu Đống Đa, Hà Nội, tham gia cách mạng năm mười hai tuổi, do thói quen chung hồi ấy, đổi tên là Nguyễn Kháng, cho nó bí mật tông tích. Lên dạy học Lao Kay kết nghĩa anh em với một cán bộ huyện họ Ma, và để tỏ sự quyết tâm sống bám vùng đất này, theo lời một cán bộ tỉnh ủy khuyên: “Vùng này không thua gì Sông Đông êm đềm đâu. Cậu muốn viết văn hãy cố sống ở đây hết một giai đoạn”. Kháng đã đổi họ Ma, và sống trên đó gần một phần tư thế kỷ. Hai mươi hai năm ròng sống, làm việc, quan sát, và viết. Ma Văn Kháng tích lũy tư liệu cần cù đúng như một con kiến tha mồi vào tổ, mỗi ngày một ít, mỗi tháng một ít. Anh tham gia biên soạn lịch sử Đảng bộ Lao Kay, tham gia tổ chức hội nghị tỉnh ủy nghiên cứu chuyên đề thổ ty. Nhiều tư liệu ngấm vào anh thật tự nhiên, do việc cọ sát hàng ngày với những cán bộ H'Mông cùng cơ quan, những buổi công tác xuống huyện, xuống xã, đi tham dự các sinh hoạt dân tộc, những lễ ăn thề, lễ nào sồng, những phiên chợ, có mặt cả đám cưới đám ma các dòng họ H'Mông... Anh đọc nhiều và lấy làm biết ơn đã thừa hưởng thành quả những công trình nghiên cứu về dân tộc học, về phong tục tập quán, về ngôn ngữ H'Mông của Doãn Thanh, của Nông Trung, Lục Bình Thủy, Phạm Xuân Phúc, v.v... Anh thu thập cả những tài liệu nước ngoài viết về H'Mông như của Savina người Pháp, chuyên gia nghiên cứu H'Mông, có những nhận định về chính sách, cai trị vùng H'Mông: “H'Mông bao giờ cũng vẫn là H'Mông. Thổ ty là tất cả. Người Pháp phải tạo ra được các thủ lĩnh dân tộc ở từng địa phương và qua họ, mà cai trị đời đời ở các vùng miền núi". (Histoire des Miaos). Cho đến khi ra mắt bạn đọc hôm nay, Đồng bạc trắng hoa xòe được viết đi viết lại bốn lần. Tôi đã nhìn thấy đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh, giấy đánh máy, chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề... Công việc văn chương! Đáng thương biết mấy!*. Ông Goóc-ki có nói với bạn đọc, đại ý, ông khuyên những ai cho nghề viết văn là nhàn nhã, nắng không đến đầu, mưa không tới gáy, mà dấn thân vào thì thật là một lầm lẫn to lớn ở đời. Nghề viết văn thuộc lao động cực nhọc nhất trên thế gian này. Miếng da lừa (Balzac) có chín bản thảo khác nhau. Quan thanh tra (Gogol), năm bản. Người mẹ (Gorki) sáu bản, bản đầu và bản cuối cách nhau hai mươi năm. Riêng phần tả điệu múa Xalômê của Flô-be có mười bản, bản nào cũng gần như tuyệt vời. Với số tuổi như Ma Văn Kháng, ta sẽ phải hình dung anh đã vật lộn cực nhọc như thế nào để đẻ ra nổi hơn sáu trăm trang giấy, tái hiện một giai đoạn lịch sử ngắn ngủi, nhưng rắc rối vào bậc nhất của cách mạng Việt Nam hiện đại, tiến hành trên một vùng núi phong kiến thế tập phiên thần nghèo nàn và lạc hậu, lấy cái không gian tỉnh biên giới Lao Kay hừng hực, hỗn loạn, phức tạp, rối ren, bọc trong cái bối cảnh lịch sử ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc: Nhật thua, Tưởng vào, Quốc dân Đảng về phá rối, Pháp trở lại xâm chiếm Nam Bộ, rồi vào Hà Nội với Hiệp định mồng 6 tháng 3, v.v... Giai đoạn lịch sử này ở miền núi lần đầu tiên được đưa vào tiểu thuyết. Có lẽ đã đến lúc rồi, chúng ta đã có điều kiện về thời gian, về khoảng cách lùi xa đủ tầm nhận thức những khúc ngoặt lịch sử có tính chất quyết định, mà tái hiện lại trong văn học đi thôi. Để cho tương xứng với tầm vóc những hy sinh to lớn, những đổi thay vĩ đại mà cuộc cách mạng theo học thuyết Mác — Lênin đã được những người cộng sản Việt Nam tiến hành trên đất nước này, cũng là lần đầu tiên trên thế giới. Và chỉ có loại hình tiểu thuyết mới kham nổi dung lượng ấy mà thôi. Ma Văn Kháng đã cảm thấy thế. Từ một câu chuyện định viết về tiễu phỉ năm 1955, anh đã chuyển sang tiểu thuyết, khi bắt được tia chớp hai cán bộ Việt Minh đơn độc vào vùng các châu miền đông Lao Kay: Bắc Hà, Pha Long, Mường Khương, thuyết phục thổ ty Hoàng Yên Chao, La Văn Tờ, ba anh em viên tri châu họ Nông... cùng tham gia đánh Pháp, đánh Việt Nam Quốc dân Đảng, giải phóng Lao Kay 1946 (Sau này vào truyện anh có đổi tên đi ít chút, cho nó được thoải mái trong sự sáng tạo). Cuốn truyện mở ra trước chúng ta cái thị xã biên giới Lao Kay đang bị bọn tranh giành quyền lợi Việt Nam Quốc dân Đảng chiếm đóng, rút chạy từ Vĩnh Yên, từ Việt Trì, từ Yên Bái dồn lại sống thoi thóp ở đây, thất vọng chán chường, vỡ mộng, nhưng vẫn đầy mưu mô xưng bá đồ vương, nhờ sự hà hơi của bọn Tàu Tưởng, theo Hiệp nghị, đã phải về bên kia biên giới. Những cán bộ Việt Minh được Đảng điều lên vận động quần chúng làm hậu thuẫn cho lực lượng vũ trang nhân dân: Vệ quốc đoàn, đã tiến đến Yên Bái, đang dừng lại chuẩn bị kế hoạch tấn công giải phóng thị xã Lao Kay. Người đọc hào hứng đi theo hai cán bộ Việt Minh, cưỡi hai con ngựa, gần như tay không, vào một vùng đất lâu đời nơi biên cương heo hút, với các chế độ thổ ty kỳ quặc từ bao thế kỷ, những phong tục tập quán thật kích thích và lạ lùng, và nhất là với tâm hồn người dân tộc thiểu số anh em đáng thương và đáng quí mà chúng ta chưa được biết là bao. Những đốm lửa cách mạng đã được đốt lên trên vùng hoang vắng trùng điệp núi non này, lòng yêu nước được khơi động, và quần chúng nhân dân anh em đã tề tựu dưới lá cờ Tổ quốc, cùng Vệ quốc đoàn tiến vào giải phóng Lao Kay, thành lập chính quyền Dân chủ nhân dân chậm nhất trong các tỉnh miền Bắc, nhưng đã thành công. Cuốn truyện đóng lại vào cuối năm 1947, trong một trận đánh trên đèo Mã Yên Sơn, lúc này bọn thổ ty đã phản bội, liên kết với thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, hành quân chiếm đóng Lao Kay. Thị xã đã lệnh sơ tán, tiêu thổ kháng chiến, theo chủ trương trường kỳ kháng chiến bấy giờ. Cuốn sách dừng lại ở đầu một khúc ngoặt mới: Cuộc kháng chiến chín năm chống Pháp, có ngụ ý mở cửa cho một cái gì sau này nữa đây. Và Đồng bạc trắng hoa xòe đã dựng lên hàng loạt nhân vật, lối đa tuyến bình đồ, không ai là chính cả, hay nói một cách khác, nhân vật nào cũng có đường dây riêng, phát triển tâm lý và tính cách như là một nhân vật chính. Những tuyến nhân vật đan chéo nhau rối rắm như một mớ tơ vò, với những tâm trạng, những số phận, những cảnh ngộ nhiều hình nhiều vẻ, nhưng rồi cái nào vẫn kéo ra cái ấy, giống như một sợi tơ chuốt nõn trong tay người quay sa kéo ra từ đống tơ vò nọ. Không gian chuyển dịch luôn luôn, tạo một cảnh tượng rộng lớn cho bức tranh văn học, có điều kiện để các nhân vật thỏa sức vẫy vùng. Nhịp độ nhanh, nhiều sự việc, nhiều hành động. Lối dựng này đáp ứng được dung lượng rộng lớn của những cơn lốc cách mạng, hàng loạt người lột xác hoặc thoái hóa, sự đổ vỡ của những giá trị cố hữu, những ngã ba đường, sự đụng độ giữa chân thiện mỹ với những thế lực hắc ám đã tàn tạ. Lối dựng này rất ít thấy trong tiểu thuyết nước ta. Viết Rừng động, Mạc Phi đã rất công phu thu thập tư liệu, muốn dựng lên một bức tranh lớn về những đổi thay của đồng bào Thái Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chuyển mình chín năm của dân tộc. Anh đã có những thành công về vùng người Thái. Cũng như Nguyên Ngọc đã có những thành công về miêu tả dân tộc anh em Tây Nguyên trong Đất nước đứng lên. Ma Văn Kháng đặc biệt thành công về các nhân vật người H'Mông. Nhiều người đọc sách anh cứ đinh ninh tác giả là người dân tộc. Dân tộc H'Mông, tất nhiên. Không phải lòe thiên hạ bằng những ngôn từ cụ thể lối so sánh chất phác với cái tên cây cối trong rừng, ví von với con hươu con nai bằng tiếng gọi địa phương là lạ, hoặc đôi lúc nhét một vài từ dân tộc trong lời thoại cho nó có sắc thái là người miền núi. Nghe cứ tức anh ách. Ma Văn Kháng học theo lối sử dụng cách nói miền núi của nhà văn Tô Hoài. Và cái chính là anh đã sống nhiều năm với người miền núi. Sống có tình. Anh mô tả các dân tộc Lao Kay bằng một thứ tình cảm chồng vợ, anh em ruột thịt. Những con người xa lạ tưởng như khó hiểu và man rợ trên vùng núi biên cương, bỗng nhiên thành gần gũi thân quen, đúng là anh em một nhà. Những cảnh sắc tưởng như buồn tẻ, hoang sơ, từ khai thiên lập địa, bỗng rực rỡ đẹp... Ma Văn Kháng đã làm như nhà văn Tô Hoài, chấm phá vẩy hồn vào cảnh vật, khiến chúng lung linh, rực rỡ, hấp dẫn, kích thích làm sao! Và tôi đoán chắc rằng, những ai thường ngần ngại khi được điều lên công tác Lao Kay, đọc xong cuốn truyện, hẳn sẽ an tâm đi nhận công tác, trút thoát được cái nặng nề trong tâm khảm vô căn cứ, khi đã đeo con mắt của tác giả Đồng bạc trắng hoa xòe. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây che chỉ lộ ra những khúc lượn vàng son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ thanh thoát của toàn bộ con rồng. Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng lối uống rượu sớm mai. Độ rượu chỉ đủ để gây ngây ngất, quá nữa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất mới là người biết uống rượu. Trong văn chương biết dừng lại là quí hóa lắm. Nghệ thuật viết văn của Đông Tây kim cổ thâu tóm lại cũng chỉ trong ba tiếng biết dừng lại mà thôi. Một lao động văn chương nghiêm túc thường có nhiều tác dụng lắm. Thử đeo đôi mắt một chính khách, đọc Đồng bạc trắng hoa xòe, bỗng nhận ra rằng: Thì ra bọn Pháp trước đây, bọn Mỹ vừa rồi, bọn phản động hiện nay đều chú ý đến vấn đề người H'Mông vùng Đông Nam Á chính vì thế đấy. Người H'Mông sống trên núi cao vùng giáp giới các nước Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Thái Lan, Miến Điện, móc nối nhau như một tam giác — khu tam giác vàng theo từ ngữ của Mỹ. Dân tộc H'Mông gan dạ và kiên nghị nhưng bị vây hãm bằng ngu dốt và man dại trong lịch sử, tạo cho họ một mặc cảm kỳ thị chủng tộc nặng nề, một niềm mong ước tự trị tha thiết run rẩy, đã góp phần hình thành một tính cách H'Mông đặc biệt. Phần thiếu sót của cuốn sách không đáng kể. Có chăng ở cảm giác đọc hơn một trăm trang đầu chưa thú vị lắm. Lối dựng các nhân vật phản diện Quốc dân Đảng theo một đường mòn thường thấy, đã là phản động thì xấu từ bên trong ra đến diện mạo, ăn mặc lố lăng, ngôn ngữ đểu cáng, rượu, gái, sợ chết, lại thường bị đẩy vào những tình huống tức cười ngớ ngẩn (Buổi họp thị trấn. Cảnh đón Vũ Khanh. Buổi họp ở nhà Cercle khiến chúng như một hành thi (thây ma đi, từ Đông y) đẩy ngón tay út cũng ngã. Có thể ở những đoạn mô tả các quán ăn chơi bời trước kia, tác giả chỉ được nghe kể lại, phải tưởng tượng ra nhiều hơn là từng trải (Quán Biên thùy). Có thể ở cả tâm trạng các loại người cũ, cũng thanh khí nhưng khác lạ hẳn lớp người anh, mà anh động chạm tới họ bằng những khắc họa ước lệ (Ngọc, Trọng). Sự thiếu sót này chỉ đáng ví như người đứng xem tranh thấy một vài nét màu vulgaire (tầm thường) lẫn lộn trong bức tranh sắc độ màu rất noble (cao nhã) của anh. Điều đáng tiếc thứ hai, bút lực của anh, sao mà không nhấn thêm, đậm hơn lên cái đoạn mô tả cảnh Pao lao động. Anh có thể làm được lắm! Như anh đã mô tả những đoạn tuyệt hay về cảnh hành quyết người Mèo, cảnh Pao vật ngựa, cảnh Châu Quán Lồ dạy ngựa, cảnh ngày hộ sư các lực lượng vũ trang dân tộc... Với quan điểm yêu quí người lao động như anh, bút pháp của anh, mà chỉ chấm phá vài nét cảnh Pao đi cày, thật đáng tiếc. Anh có cho biết là sợ trùng lặp với một cuốn sách khác của anh, đã mô tả kỹ cảnh này, có trích học trong sách giáo khoa. Đừng câu nệ, anh Ma Văn Kháng ạ. Cứ phải cho vào đây, để hoàn chỉnh một bức tranh đẹp, chặt chẽ về mặt nội dung tư tưởng. Công phu ra thì vẽ lại với một nuance (sắc độ) khác càng hay. Cuốn sách chưa kết thúc, nó chỉ nên coi là tập I. Chắc tác giả sẽ còn cho các nhân vật gặp nhau trong tập II, giai đoạn cuộc kháng chiến chín năm sẽ có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn, xung đột gay cấn hơn nữa. Số phận của Châu Quán Lồ, của Pao, Lử, anh em Seng, Tếnh; những Chính, Đắc, Ngọc; những Triệu Đại Lộc, Phô-rô-pông, các viên thổ ty... còn biết bao là tâm trạng, là cảnh ngộ, là tính cách, sẽ va chạm nảy lửa.* Nếu coi đây là kết thúc thì cuốn sách lộ ra một nhược điểm lớn. Nhiều nhân vật xử lý chưa hết mức. Có những nhân vật xuất hiện ở phần một rồi mất hút (ông lão Lìu, bào lãi Lìu, sĩ quan cận vệ Mộng Huyền, võ sĩ Vận). Nếu chỉ thế thì tác giả giống như một phù thủy non tay quyết, gọi âm binh lên dày đặc, nhưng không đủ sức sai phái chúng làm hết việc, để chúng rơi vãi, thậm chí quên cả chúng đi. Ma Văn Kháng còn sung sức. Chúng tôi tin là anh còn đủ sức dắt dẫn nhân vật đi tiếp trong văn học, cho chúng ta thưởng thức những trang sách hay hơn nữa. Với Đồng bạc trắng hoa xòe, Ma Văn Kháng đã khẳng định là đứng được trong loại hình tiểu thuyết. Nó có thể coi như một cái mốc trên bước đường văn học của anh tính từ Xa phủ. Một phần năm thế kỷ sống ở miền núi, và quan sát, và viết. Một phần năm thế kỷ ấy thật đáng giá với Ma Văn Kháng. Và sự trân trọng của bạn đọc hôm nay với các tác phẩm của anh, đặc biệt với Đồng bạc trắng hoa xòe là một sự trả giá đầy ý nghĩa. Tác phẩm Đồng bạc trắng hoa xòe (tiểu thuyết, 1979 Vùng biên ải (tiểu thuyết, 1983) Trăng non (tiểu thuyết 1984) Phép lạ thường ngày Thầy Thế đi chợ bán trứng Mưa mùa hạ (tiểu thuyết 1982) Mùa lá rụng trong vườn (tiểu thuyết, 1985) Võ sỹ lên đài Thanh minh trời trong sáng Hoa gạo đỏ Côi cút giữa cảnh đời (tiểu thuyết 1989) Đám cưới không giấy giá thú Đám cưới không có giấy giá thú (tiểu thuyết, 1989) Chó Bi, đời lưu lạc (tiểu thuyết 1992) Ngày đẹp trời (truyện ngắn 1986) Vệ sĩ của Quan Châu (truyện ngắn 1988) Giấy trắng (tiểu thuyết) Trái chín mùa thu (truyện ngắn 1988) Heo may gió lộng (truyện ngắn 1992) Trăng soi sân nhỏ (truyện ngắn 1994) Ngoại thành (truyện ngắn 1996) Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tuyển tập 1996) Vòng quay cổ điển (truyện ngắn 1997) Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương (hồi ký 2009) Một mình một ngựa (Tiểu thuyết 2007) Một Chiều Dông Gió Một Nhan Sắc Đàn Bà Trốn Nợ Mời các bạn đón đọc Đồng Bạc Trắng Hoa Xòe của tác giả Ma Văn Kháng.