Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco

Cuốn sách Bọn rợ rình ở cổng là câu chuyện có thật về cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh quy và Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và RJ Reynolds. Nội dung chính nói về việc mua lại có đòn bẩy (LBO) của tập đoàn RJR Nabisco với nhịp độ nhanh chóng và chi tiết, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Cuốn sách thể hiện lòng tham đáng kinh ngạc của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông… Việc mua lại diễn ra được mở đầu bằng một cuộc chiến đấu thầu giữa ban lãnh đạo (do CEO Ross Johnson dẫn đầu), KKR, công ty cổ phần tư nhân lâu đời, và một số người chơi “nhỏ hơn”. Việc mua lại có đòn bẩy thường khiến công ty bị mua lại phải gánh rất nhiều nợ, đòi hỏi các nhà quản lý phải cắt giảm chi phí (thường bao gồm cả nhân sự) – đó là lý do tại sao những điều này không được nhân viên, công chúng và giới báo chí ưa chuộng. Khoản mua lại trị giá 25 tỷ đô la này, mà cuối cùng KKR đã giành được bởi cũng không khác gì, đặc biệt vì đây là LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Những người phản đối nỗ lực mua lại công ty của Johnson, Henry Kravis và anh họ của ông ta là George R. Roberts, là những người tiên phong trong việc mua lại có đòn bẩy (LBO). Kravis là người đầu tiên mà Johnson nói chuyện về việc thực hiện LBO và cảm thấy bị phản bội sau khi biết rằng Johnson muốn thực hiện thỏa thuận với một công ty khác, bộ phận Shearson Lehman Hutton trước đây của American Express. Ted Forstmann và công ty mua lại Forstmann Little của ông cũng đóng một vai trò quan trọng. Khi lên nắm quyền điều hành RJR Nabisco và thấy giá cổ phiếu của công ty đang trì trệ, Ross Johnson đã tìm cách để có được giá trị lớn hơn cho các cổ đông của mình và cuối cùng đã được các cố vấn ngân hàng đầu tư (của Lehman Brothers) thuyết phục rằng ông nên thực hiện một vụ mua lại có đòn bẩy. Và ngay sau khi giá thầu được công bố, các nhà thầu cho công ty đã xuất hiện. KKR đã trở thành con mồi đầu tiên của LBO. Hầu như tất cả các ngân hàng đầu tư lớn đều tham gia với tư cách là cố vấn cho thương vụ này. Một số nhân vật quan trọng trong giới tài chính xuất hiện. Bruce Wasserstein, CEO của Lazard đã tham gia, cùng với Joe Perella, Eric Gleacher, Tom Hill.   Sau khi Kravis và Johnson không thể dung hòa được sự khác biệt của họ, một cuộc chiến đấu thầu đã diễn ra mà cuối cùng Johnson sẽ thua. Tác dụng phụ đáng tiếc của việc tăng giá mua đối với các cổ đông là tạo ra mức nợ đáng lo ngại cho công ty. Cuốn sách bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco. Sau đó, nó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật.   Đánh giá của chuyên gia, tổ chức uy tín về cuốn sách cùng các giải thưởng  “Một trong những cuốn sách kinh doanh tuyệt vời nhất từng được biết tới…” — Joe Nocera, New York Times “Một tác phẩm xuất sắc, tái hiện câu chuyện với quy mô ấn tượng… Lối viết hoa mỹ… bố cục chặt chẽ từ đầu đến cuối.” — Scot J. Paltrow, Los Angeles Times Book Review “Nội dung rất ấn tượng… bối cảnh đặc sắc… một tác phẩm có chất liệu điện ảnh nhưng cũng là cuốn sách được viết cực kỳ công phu.” — KeN auletta, New York Daily News “Thật khó để hình dung ra một cuốn sách hay hơn, lột tả hết bản chất của bối cảnh kinh tế những năm 1980… và cũng khó tưởng tượng ra một ai đó có tài viết lách hơn Burrough và Helyar.” — Bill BarNhart, Chicago Tribune *** Hẳn là nhiều người vẫn còn nhớ đến cuộc chiến giành quyền kiểm soát công ty bánh kẹo và thuốc lá Mỹ – RJR Nabisco – nhà sản xuất bánh quy Oreo và thuốc lá RJ Reynolds gây rúng động Phố Wall hơn 30 năm về trước. Việc sáp nhập bắt đầu với quyết định thực hiện mua lại có đòn bẩy (LBO - Leveraged Buyout) của CEO Ross Johnson và kết thúc với chiến thắng trị giá 25 tỷ đô la của công ty cổ phần tư nhân lâu đời KKR, LBO lớn nhất tại thời điểm đó. Toàn bộ những diễn biến của thương vụ đình đám này được Bryan Burrough và John Helyar tái hiện một cách hết sức chân thật trong cuốn tiểu thuyết kinh doanh kinh điển Bọn Rợ Rình Trước Cổng. Đây là cuốn sách đầu tiên cho chúng ta thấy rõ thực hư về những sự kiện gây chấn động một thời, nó đã được chuyển thể thành phim chiếu trên kênh HBO vào năm 1993 và phim tài liệu chiếu trên kênh History vào năm 2002.  Bằng sự chuyên nghiệp và thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự, tính chính xác khi làm việc cho tờ Wall Street Journal, hai tác giả đã không bỏ sót bất cứ chi tiết nào dù là nhỏ nhất, bao gồm cả những cuộc hội thoại riêng cũng như những bí mật trong phòng họp giữa các CEO của các công ty. Bắt đầu chậm rãi với hơn 300 trang xây dựng bối cảnh cho các nhân vật chính và mô tả lịch sử của RJR Nabisco, sau đó đẩy nhanh tốc độ và sự kịch tính qua các cuộc hội thoại, thời gian và giọng điệu của nhân vật, cuốn sách này sẽ khiến chúng ta phải kinh ngạc vì những mánh khóe, thủ đoạn, lòng tham không đáy của các chủ ngân hàng đầu tư, nhà quản lý công ty, nhà đầu tư cổ phần tư nhân, các cổ đông…  Được New York Times Book Review đánh giá là “Một trong những bản tường thuật hay nhất, hấp dẫn nhất về những gì đã xảy ra với các công ty Mỹ và Phố Wall vào những năm 1980”, qua cuốn sách, độc giả sẽ hiểu rõ hơn về các rủi ro khi thực hiện LBO, những sai lầm có thể khiến cả doanh nghiệp lớn sụp đổ trong nháy mắt. Từ đó, rút ra kinh nghiệm cho bản thân. Không những vậy, thất bại của CEO Ross Johnson và hàng loạt nhân vật tiếng tăm trong giới kinh doanh đã trở thành những tấm gương, những bài học đắt giá về cái tâm, cái tầm của các nhà lãnh đạo trên toàn thế giới. Bài học thứ nhất: Bất kỳ thành quách kiên cố nào cũng đều có thể bị phá huỷ từ bên trong, và người dễ dàng làm điều đó nhất, ít bị đề phòng nhất chính là lãnh đạo, chỉ huy của tòa thành ấy. Việc trao quyền cho nhầm người khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả sẽ là nguy cơ tiềm ẩn khôn lường cho doanh nghiệp. Bài học thứ hai: Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Khi người lãnh đạo có được những thứ mình muốn quá dễ dàng thì sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào trong những mưu toan, thủ đoạn trục lợi. Vì thế cuốn sách này sẽ bài học về quản trị nhân sự, tuyển dụng nhân tài sao cho vừa phù hợp, vừa hiệu quả, vừa bền vững. Bài học thứ ba: Thành công của một lãnh đạo không chỉ là xây dựng và phát triển một đội ngũ đủ sức đạt được những thành tích xuất sắc trong nhiệm kỳ của mình mà còn phải tạo ra những người lãnh đạo kế nhiệm đủ tầm khác. Bài học thứ tư: Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn trong một doanh nghiệp. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp của Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. Bài học thứ năm: Cần hơn nữa những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Bọn Rợ Rình Trước Cổng - Bài học đắt giá giành cho những nhà quản lý Đây không chỉ là cuốn sách khiến người đọc phải ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách những người lãnh đạo doanh nghiệp đang trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả nhất định không thể bỏ qua.  *** Bryan Burrough là đặc phái viên của Vanity Fair và cựu phóng viên của The Wall Street Journal, ông đã báo cáo về nhiều chủ đề, bao gồm các sự kiện dẫn đến cuộc chiến ở Iraq, sự mất tích của Natalee Holloway và vụ Anthony Pellicano. Bryan còn là tác giả của nhiều bài phê bình sách và bài báo trên The New York Times, Los Angeles Times và Washington Post. John Helyar là một nhà báo và tác giả người Mỹ. Ông tốt nghiệp Đại học Boston và đã làm việc cho The Wall Street Journal, Fortune, ESPN.com, ESPN The Magazine và Bloomberg News. Bài viết của ông và Bryan Burrough về RJR Nabisco đã mang về cho cả hai giải thưởng danh giá Gerald Loeb. *** LỜI GIỚI THIỆU cho bản tiếng Việt 1 Bất kỳ thành quách hay pháo đài kiên cố nào cũng đều có thể bị phá hủy từ bên trong. Và người thuận lợi nhất, dễ dàng nhất, ít bị đề phòng nhất để phá hủy lại chính là người lãnh đạo của cái pháo đài ấy. Đây không chỉ là cuốn sách để người đọc ồ à ngạc nhiên, tò mò với những thủ thuật tài chính, mua bán sáp nhập hiện đại và nguy hiểm, mà còn là cuốn sách khiến những người lãnh đạo doanh nghiệp như chúng ta nhức nhối và trăn trở về cách thức quản trị tổ chức hiệu quả (corporate governance). Trăm năm là rất dài. Nhưng trăm năm dường như vẫn là chưa đủ để tích lũy độ dày cần thiết giúp cái vỏ trứng mong manh có thể chống chọi được những sự phá hoại từ bên trong. Những câu chuyện “chất như nước cất” về quá trình khởi nghiệp, tạo dựng và phát triển của các đế chế hàng đầu thế giới như Reynolds trong ngành thuốc lá hay Nabisco trong ngành bánh kẹo có lẽ sẽ là động lực hừng hực cho những chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam. Nhưng câu chuyện về sự sụp đổ nhanh chóng của những đế chế trăm năm ấy chỉ trong một thời gian rất ngắn có thể làm cho lãnh đạo của những tập đoàn lớn nhiều nghìn tỷ chúng ta lạnh lưng rợn gáy. Việc cho phép những công cụ tài chính nguy hiểm được hoạt động thiếu kiểm soát lại là trách nhiệm và bài học nhức nhối cho những người quản lý nhà nước. Nhưng trao quyền nhầm người trong khi không có cơ chế kiểm soát đủ hiệu quả có lẽ là nguyên nhân lớn nhất. 2 Quyền lực tuyệt đối sẽ dẫn đến sự sa đọa tuyệt đối. Có lẽ với một số độc giả, Ross Johnson cũng sẽ là một nhà quản lý hiệu quả nếu được sử dụng ở đúng vai trò, vị trí và kèm với một số cơ chế kiểm soát phù hợp. Khi trái ngọt đến quá dễ dàng thì người ta sẽ dễ bị lạc hướng, chìm vào những thủ đoạn chính trị nội bộ, những mua chuộc dối trá và những ê kíp đoàn kết nhất trí ru ngủ… Cuốn sách này vì thế cũng là một bài học về quản trị nhân sự. Tuyển dụng và phát triển nhân tài như thế nào để vừa phù hợp, vừa hiệu quả và bền vững không chỉ là một khoa học mà còn là một nghệ thuật. Không phải cứ nhanh hơn là hay hơn. Không phải cứ trao quyền là tốt hơn. Không hẳn cứ trọng dụng là tiến bộ hơn. Đúng người (Who), đúng việc (What) nhưng còn phải đúng cách (How) nữa. Và cũng vì thế nên trách nhiệm quản trị nhân sự không phải là của trưởng phòng hay giám đốc nhân sự. Trách nhiệm ấy là của Ban điều hành, Hội đồng quản trị và cả Đại hội đồng cổ đông. Đặc biệt là với những nhân sự nòng cốt. 3 Thành công của một lãnh đạo không chỉ giới hạn trong việc xây dựng, phát triển và lãnh đạo đội ngũ đủ sức đạt được những kết quả hoạt động mong đợi trong nhiệm kỳ của mình. Thành công của lãnh đạo còn được đánh giá bởi kết quả của sự chuẩn bị lực lượng kế thừa đủ chất lượng, đủ sức lãnh đạo tổ chức thành công trong các nhiệm kỳ tiếp theo. Trách nhiệm của người lãnh đạo không phải là tạo ra những người đi theo: Họ cần tạo ra những người lãnh đạo đủ tầm khác. Nhìn từ góc độ này, những người lãnh đạo tiền nhiệm của Ross Johnson tại các doanh nghiệp liên quan đều là những người lãnh đạo tồi, cho dù tính cách và phong cách lãnh đạo của mỗi người đều rất khác nhau. 4 Muốn hủy diệt một quốc gia, hãy lấy hết đất đai của họ. Nhưng muốn hủy diệt một dân tộc, chỉ cần làm ô nhiễm hay pha loãng văn hóa của họ. Trong doanh nghiệp cũng vậy. Văn hóa của một doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng cho sự phát triển và trường tồn của doanh nghiệp ấy. Cuốn sách chia sẻ những câu chuyện tuyệt vời về sức mạnh vô địch của văn hóa doanh nghiệp. Không có một văn hóa đủ mạnh thì chắc là cả Nabisco lẫn Reynolds đã sớm chìm vào dòng lịch sử chứ không thể sừng sững với thời gian như vậy. Văn hóa của một tổ chức không phải là thứ mà họ tuyên bố hay tuyên truyền. Văn hóa ấy được bắt nguồn từ những người lãnh đạo cao nhất và thấm nhuần vào suy nghĩ, hoạt động cũng như hành vi hằng ngày của tất cả các cấp lãnh đạo và nhân viên của tổ chức ấy. Văn hóa ấy không nhất thiết phải là “tốt” dưới con mắt của cộng đồng xã hội. Nhưng nhất thiết phải phù hợp với đặc tính ngành nghề, bổ trợ cho sự phát triển của tổ chức và tăng cường gắn kết với những người quan trọng cần thiết cho sự thành công của tổ chức: cổ đông, nhân viên và khách hàng. Câu chuyện về văn hóa doanh nghiệp ở doanh nghiệp thuốc lá Reynolds là một ví dụ không thể thuyết phục hơn. 5 Kết cục đau thương cho những thương hiệu hàng đầu trong câu chuyện đặt ra câu hỏi nhức nhối về công thức truyền thừa của các tổ chức: Làm sao để trường tồn? Văn hóa mạnh: Đúng rồi. Nhưng sẽ đến lúc chính văn hóa ấy cản trở doanh nghiệp thay đổi và phát triển. Lãnh đạo tâm - tầm - tài: Đúng rồi. Nhưng lãnh đạo nào rồi cũng sẽ ra đi, mà có phải lãnh đạo nào cũng minh mẫn suốt đời đâu. Có lẽ sẽ cần hơn nữa những sự cảm nhận và thôi thúc sứ mệnh, những ý thức và cam kết với các giá trị cốt lõi và sự bổ sung thường xuyên của những động lực phát triển mới cho doanh nghiệp. Nhưng khổ nỗi, tất cả những điều ấy đều đến từ hay bị điều chỉnh bởi lãnh đạo. Làm sao để kiểm soát được lãnh đạo, hoặc ít nhất để lãnh đạo tự kiểm soát được chính mình, thì chỉ có những người tạo ra lãnh đạo trả lời được mà thôi. Vài dòng tâm tư khi đọc cuốn sách Bọn rợ rình trước cổngtrong chuyến đi cứu trợ miền Trung năm 2020. Trần Bằng Việt Chuyên gia tư vấn cao cấp Chủ tịch Giải pháp Phát triển Đông A *** LỜI TÁC GIẢ Năm 1989, chúng tôi viết Bọn rợ rình trước cổng kể về các sự kiện đang diễn ra; bây giờ mọi thứ đã trở thành dĩ vãng. Một số cuốn sách có vòng đời dài hơn các cuốn khác. Chúng tôi nghĩ rằng cuốn sách này là một trong số đó. Nó vẫn được dùng để giảng dạy về nhiều chủ đề cho sinh viên trong các trường đào tạo kinh doanh lớn, từ đạo đức kinh doanh đến nghiệp vụ ngân hàng đầu tư. Năm 1993, cuốn sách được chuyển thể thành phim và chiếu trên kênh HBO. Năm 2002, 14 năm sau khi gây chấn động, cuộc chiến RJR lại được chuyển thể thành một bộ phim tài liệu chiếu trên kênh History. Sự đón nhận này của công chúng là những gì chúng tôi chưa từng dám nghĩ tới khi bắt tay viết cuốn sách. Trên thực tế, mục tiêu chính của chúng tôi chỉ đơn giản là kiểm tra năng lực của chính mình, xem liệu chúng tôi có thể tự viết một cuốn sách hay không; cả hai chúng tôi đều chưa từng thử viết sách. Bọn rợ rình trước cổng cũng không phải là cuốn sách được các nhà xuất bản tranh giành. Trên thực tế, trong số hơn chục nhà xuất bản chúng tôi đã tiếp xúc, chính xác chỉ có nhà xuất bản Harper & Row (nay là nhà xuất bản Harper Collins) tỏ ra quan tâm một chút. Mọi người đã chán ngấy với các câu chuyện xuất hiện nhiều tuần trên những mặt báo về RJR. Còn ai muốn đọc thêm nữa? Là phóng viên của tờ Wall Street Journal, chúng tôi đã cố gắng làm cho Bọn rợ rình trước cổng thấm nhuần các chuẩn mực về tính thời sự và tính chính xác mà chúng tôi đã nắm vững khi viết báo. Thật sự, Bọn rợ rình trước cổng sẽ không thể ra đời nếu không có sự khích lệ mà hai biên tập viên của cuốn sách này, Norman Pearlstine và Paul Steiger, dành cho chúng tôi. Không chỉ vậy, chúng tôi còn được nghỉ phép không lương trong tám tháng để thực hiện cuốn sách này. Tháng 10 năm đó, khi câu chuyện về RJR bùng nổ, tôi là phóng viên của Wall Street Journal, tờ báo đầu tiên đưa tin về vụ sáp nhập và mua lại đình đám ở Phố Wall; còn John, sống tại Atlanta, phụ trách viết bài về công ty. Chúng tôi đã cùng nhau viết về mọi ngóc ngách của trận chiến RJR kéo dài sáu tuần. Chỉ đến khi trận chiến kết thúc, chúng tôi mới thống nhất cùng nhau viết sách, thế là chúng tôi gặp nhau. John giơ một cuốn tạp chí Timelên, trên trang bìa là bức ảnh đáng hổ thẹn của Ross Johnson, để tôi có thể nhận ra anh ở sân bay Atlanta. Chúng tôi thường có chút ngại ngùng khi thừa nhận đã nghiên cứu và viết Bọn rợ rình trước cổng trong tám tháng ngắn ngủi, từ tháng Một đến tháng Tám năm 1989. Đó là quãng thời gian buồn vui lẫn lộn với chúng tôi. Tôi sống trong một căn hộ không có điều hòa ở khu phố Park Slope, quận Brooklyn. Tôi đi tàu điện ngầm đến Manhattan để thực hiện sáu cuộc phỏng vấn mỗi ngày; chúng tôi nhất trí với nhau rằng tất cả các cuộc phỏng vấn nên được thực hiện trực tiếp. Buổi tối, tôi trở về nhà, kiểm tra, đối chiếu thông tin và viết lại những ghi chú trong buổi phỏng vấn. Đôi khi, vì trời mùa hè quá nóng, tôi chỉ mặc chiếc quần bơi và áo phông. John phải di chuyển rất nhiều, qua lại giữa Atlanta, Bắc Carolina và New York để khớp nối các câu chuyện về con đường tiến thân đến đỉnh cao quyền lực của Ross Johnson. Chúng tôi làm việc độc lập, trừ khi có các cuộc phỏng vấn quan trọng với chính Johnson, đã có các cuộc phỏng vấn dài không chính thức ở Atlanta và Manhattan, có thêm bánh pizza và nước ngọt. Khi đang viết sách, chúng tôi đã lo rằng câu chuyện về RJR sẽ bị lu mờ bởi một số thương vụ đình đám hơn, khắc nghiệt hơn. Giữa những kẻ tập kích công ty, các nghệ sĩ LBO và những nhà tài phiệt đầu tư vào trái phiếu rác, toàn bộ giới kinh doanh của những năm 1980 như phát điên. Những cuộc đột kích man rợ diễn ra sau Bọn rợ rình trước cổng có thể làm cho trận chiến RJR từ bản anh hùng ca chỉ còn là vài dòng chú thích. (Đó là lý do tại sao Harper muốn ra mắt cuốn sách thật nhanh.) Chúng tôi đã sẵn sàng cho ngày đen tối đó, nhưng nó không bao giờ đến. Hóa ra cuộc chiến giành RJR vừa xác lập và kết thúc một kỷ nguyên. Trong gần một thập kỷ sau đó, vụ trúng thầu trị giá 25 tỷ đô-la của KKR vẫn được xem là thương vụ lớn nhất mọi thời đại. Có một số yếu tố kết hợp với nhau làm giảm quy mô của các giao dịch trong vài năm. Cỗ máy kiếm tiền siêu đẳng đằng sau LBO - trái phiếu rác - đã ngắc ngoải, và có lúc gần như dừng hoạt động. Mike Milken bị bắt giam; Drexel Burnham phá sản, và trong thời kỳ suy thoái đầu thập niên 1990, các công ty ốm yếu sử dụng đòn bẩy quá mức đã gây tiếng xấu cho LBO. Henry Kravis thôi không nhòm ngó các cuộc chơi lớn nữa. Ông ta còn bận với việc chăm sóc sức khỏe và ăn uống - cũng như chuyện nợ nần của RJR. Những ngôi sao khác của Phố Wall trong thập niên 1980, những kẻ từng chinh chiến để giành lấy RJR đã kiêu ngạo quá mức và trở nên quá đỗi nhạt nhòa. John Gutfreund bị hất cẳng vào năm 1991, khi đang là chủ tịch của Salomon Brothers, sau một vụ bê bối giao dịch trái phiếu kho bạc. Chủ tịch Tom Strauss cũng phải từ chức. Ông này từng tham gia với Peter Cohen trong vụ nhập nhèm ở một quỹ phòng hộ. Những người khác cũng chuyển sang các công ty quản lý quỹ, bao gồm Tom Hill ở tập đoàn Blackstone và Steve Waters ở một quỹ đầu tư tư nhân của châu Âu có tên Compass Partners. Nhân vật duy nhất nổi lên như một ngôi sao trong vụ Bọn rợ rình trước cổng là Steve Goldstone. Vị luật sư từng làm cho Ross Johnson cuối cùng đã trở thành CEO của RJR Nabisco. Nhưng ngay cả việc Goldstone leo lên được vị trí này cũng chủ yếu nhờ sự sụp đổ của công ty hùng mạnh một thời. Năm 1999, ông bán Nabisco cho Phillip Morris, thoái vốn khỏi hoạt động kinh doanh thuốc lá quốc tế của RJR, và đưa công ty trở lại điểm xuất phát: một công ty thuốc lá Mỹ có trụ sở tại Winston-Salem, Bắc Carolina. Kohlberg Kravis đã rời khỏi RJR ngay sau đó, với những khoản lợi nhuận khiêm tốn. Nhưng ngay khi những sát thủ Phố Wall của thập niên 1980 lặng lẽ lùi dần vào sau ánh hoàng hôn, họ đã mở ra buổi bình minh của thập niên 1990 thậm chí còn hỗn độn hơn. Ban đầu, các CEO của Mỹ bị sốc và kinh hoàng bởi những gì bọn rợ đã làm, nhưng cuối cùng lại theo chân họ. Từ vụ RJR, họ đã hiểu những gì mà những kẻ giàu sụ dễ dàng kiếm được. Họ bắt đầu lao vào giành lấy phần của mình. “CEO của các tập đoàn đã học được hai điều từ các vụ LBO,” Dick Beattie, người vẫn tiếp tục với các thỏa thuận lớn cho đến những năm 1990, nói. “Trước tiên, cách để có một khối tài sản kếch xù là thông qua sở hữu cổ phần, chứ không phải là dựa vào tiền lương và tiền thưởng, và thứ hai, anh không cần phải làm LBO mới có trong tay cổ phiếu. Anh có thể cho mình quyền mua bán cổ phiếu. Với cách làm phổ biến đó, các CEO của những năm 1990 đã thu về bộn tiền khiến Ross Johnson phải bối rối và lây lan tính tham lam trên cả Phố Main* lẫn Phố Wall. Tính tham lam đó thậm chí còn lây lan đến cả những công ty kế toán vốn ù lì, nay biến thành các công ty tổ chức sòng bạc hơn là làm công việc kiểm toán. “Lỗi là ở các nhân viên ngân hàng đầu tư,” Paul Volcker gào lên. Ông là cựu Chủ tịch Fed, người đã rất nỗ lực giải cứu Arthur Andersen nhưng bất thành trong một vụ bê bối gây nhiều tranh cãi. Lúc ông mới đến Phố Wall vào đầu năm 2002, những tay đầu cơ cổ phiếu ở đây đã có ảnh hưởng sâu sắc đến đám đông nhân viên kiểm toán thường đội mũ lưỡi trai màu xanh lá cây để che nắng này*. Volcker kể lại: “Các kế toán viên cảm thấy thế này: ‘Chúng ta cũng giỏi như bọn họ, và chúng ta đang làm mọi việc.’ Bầu không khí bao trùm nơi đây là: ‘Tiền ở đó, đến mà lấy.”’ Hãy gọi đó là “chiến thắng của bọn rợ” cho đó là lý do để cuốn sách này vẫn mãi liên hệ đến những con người của hiện tại. Các CEO khét tiếng ngày nay như Dennis Kozlowski và Bernie Ebbers thực sự là những phiên bản Ross Johnson thời hiện đại. Họ đã phát triển những gì mà ông tiên phong: CEO chỉ là những kẻ tư lợi, không phải là người của công ty. Các CEO như những tay giang hồ liều lĩnh và là những kẻ trơ tráo tước đoạt tài sản của công ty. Chỉ khác là các thương vụ họ thực hiện ở quy mô, tầm vóc lớn hơn, trong thị trường bò (bull market) và thời kỳ bong bóng công nghệ của những năm 1990, khi số cổ phiếu và lượng tiền chiếm đoạt lớn hơn rất nhiều. Ngay cả những kẻ bất tài như Henry Samueli và Henry Nicholas, đồng chủ tịch của một công ty có tên Broadcom, cũng thu về mỗi người 800 triệu đô-la lợi nhuận. Họ bán cổ phiếu thưởng lấy tiền mặt khi ngành viễn thông vẫn còn đang “nổi”. So với số tiền đó, chiếc dù vàng đáng xấu hổ một thời trị giá 53 triệu đô-la của Ross Johnson vẫn còn là ít. Nhưng ngay cả khi có các thương vụ đã vượt qua Bọn rợ rình trước cổng về quy mô tiền mặt, chúng cũng không được dựng thành phim. Và nguyên nhân không nằm ở tài năng của các tác giả, có Chúa mới biết. Đó là vì trong sáu tuần chinh chiến vào năm 1988 đó, khi một nhóm các ông trùm kinh doanh mới phất lên giành giật quyền sở hữu một công ty lớn và trở thành những ông chủ lớn thống trị Phố Wall, trật tự hoàn hảo của thế giới mới đã được thiết lập. Hệ tư tưởng của một thời đại đã được thể hiện đầy đủ trong cuộc chiến giành RJR: những cảm xúc thô thiển xung đột kịch liệt với tính tự cao tự đại: cốt truyện không hề bị méo mó và các nhân vật lại càng không. Các tác giả khác đã cùng viết nên những cuốn sách đáng tự hào, những thiên tiểu thuyết về kinh doanh. Cuốn Indecent Exposure (tạm dịch: Để lộ âm tàng) của David McClintick là khuôn mẫu cho tất cả chúng ta, nhưng không có cuốn sách nào lại đặc biệt với nhiều tư liệu rùng rợn đến vậy. Chúng tôi viết về những nhân viên ngân hàng đầu tư vừa nuốt vội bánh Milk Bone, vừa chạy như bay đến khu trung tâm Manhattan, hạ giá thầu vào phút cuối. Chúng tôi viết về một CEO, người có con chó được sắp xếp bay trên một chiếc máy bay phản lực với khẩu hiệu sống: “Cứ mỗi giây qua đi, vài triệu đô-la lại trở thành quá khứ xa vời.” Chúng tôi mãi mãi biết ơn họ đã cho chúng tôi nguồn tư liệu quý để viết nên cuốn sách này. Bạn không thể cảm nhận được điều đó đâu. Mời các bạn đón đọc Bọn Rợ Rình Trước Cổng: Mua Lại Có Đòn Bẩy Và Thương Vụ Đình Đám RJR Nabisco của tác giả Bryan Burrough & John Helyar & Hoàng Thị Ngọc (dịch).

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Người Thông Minh Không Làm Việc Một Mình - Rodd Wagner & Gale Muller
Sinh ra để hợp tác cùng nhau ** Hãy nhận thức điều đó. Nó sẽ giúp ích cho các mối quan hệ hợp tác của bạn. C húng ta lầm tưởng tất thảy chúng ta đang ở cạnh nhau, tương tác với nhau qua các phương tiện liên lạc như tivi, thư điện tử, máy nghe nhạc cá nhân, điện thoại di động, radio gắn trên xe và máy tính, song kỳ thực mỗi người vẫn là một ốc đảo riêng biệt. Ta chen chúc ở nơi làm việc, sân bay, tàu điện ngầm, chỉ cách mọi người một tầm tay với, thế nhưng ta lại thường hoạt động đơn lẻ. Chúng ta có điện thoại không? Có chứ. Chúng ta có kết nối Internet? Dĩ nhiên rồi. Thế còn việc hợp tác với nhau thì sao? Chẳng nhiều nhặn cho lắm. Con người sinh ra là để hợp tác cùng nhau. Chúng ta thích âm nhạc bởi những bài dân ca đã giúp ông cha ta đồng lòng hăng say làm việc. Huyết áp của chúng ta tăng cao hay xuống thấp tùy thuộc vào tâm trạng người bên cạnh. Chúng ta ăn nhiều hay ít tùy thuộc vào hành động của người cùng bàn. Chúng ta cười đôi khi không phải vì một lý do gì vui vẻ, mà bởi vì nụ cười là chất keo giúp gắn kết con người lại với nhau - khi ở bên người khác, người ta có xu hướng cười nhiều gấp 30 lần so với khi ở một mình. Khi bạn quan sát một người, các tế bào trong não bộ của bạn sẽ phản chiếu lại việc người đó đang làm, giúp bạn hiểu được cách nhìn nhận vấn đề từ quan điểm của họ. Ví dụ như trong cuộc đối thoại, một người sử dụng từ xanh ngọc lam để chỉ màu sắc đồ vật thì những người khác cũng sẽ có xu hướng sử dụng tính từ đó thay vì xanh lục. Như vậy, một cách vô thức, chúng ta đang điều chỉnh từ ngữ của mình sao cho phù hợp với người kia. Điều đó ngầm phát ra thông điệp “Tôi đồng ý với bạn”. Một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng việc bắt chước này “mang tính tự động và trên thực tế, con người vốn được sinh ra là để đối thoại hơn là độc thoại”. Việc có một cộng sự cùng chung tay gánh vác trách nhiệm sẽ làm thay đổi nhận thức của chúng ta về hiện thực. Trong một thí nghiệm, các tình nguyện viên được đề nghị ước tính trọng lượng của giỏ khoai tây trước khi nhấc nó lên. Những ai được rỉ tay rằng “sẽ có người giúp” thì ước lượng giỏ khoai nhẹ hơn so với những người được biết rằng họ phải tự nhấc lấy. “Kế hoạch hành động ta đưa ra một phần được quyết định bởi ý nghĩ ta có thể đạt được gì cùng với người khác”, - một nhà nghiên cứu tiến hành cuộc thử nghiệm trên kết luận. Trong một thế giới luôn chú trọng và đề cao những thành tựu cá nhân – với các mĩ từ như vị giám đốc điều hành thành công, chuyên gia hàng đầu, hoặc ngôi sao – chúng ta thường có xu hướng quên rằng lý do tổ tiên ta sinh tồn được là vì họ không hành động đơn độc. Trải qua hàng ngàn năm tôi luyện bản năng con người, họ không chỉ cần đến trí khôn và sức mạnh cá nhân mà còn cần cả khả năng hợp tác để phân định, tin tưởng, hy sinh, đồng cảm và cùng chung lưng đấu cật một cách khôn ngoan. Một nhà bình luận đã viết: “Quá trình tiến hóa của loài người diễn ra phần lớn là do con người biết điều chỉnh, thích nghi với nhau”. Những người thợ săn biết đồng tâm hợp lực sẽ sớm mang được chiến lợi phẩm về. Các thành viên biết tương trợ lẫn nhau có thể cộng hưởng sức mạnh để chống lại kẻ thù chung. Tuy vậy, qua thời gian, con người đã tạo ra nhiều tiện nghi đến nỗi giờ đây chúng ta có thể sống mà không cần đến người khác. Chúng ta ở trong nhà nhiều hơn là bước chân ra môi trường bên ngoài. Chúng ta ăn những bữa tối được hâm nóng bằng lò viba và không cùng với bạn bè, người thân đi cắm trại, bắt cá. Chúng ta không còn quây quần trò chuyện bên bếp lửa mà bật tivi xem những người xa lạ đóng phim, diễn kịch. Văn phòng làm việc lúc trước dù chật hẹp, không lấy gì làm thoải mái, nhưng chí ít chúng ta vẫn gặp gỡ nhau ở hành lang hay tụ tập vào giờ ăn trưa. Còn giờ đây, ai nấy đều làm việc tại nhà, trao đổi qua điện thoại và báo cáo công việc qua thư điện tử. Một vị giám đốc đang tuyển nhân sự phàn nàn rằng các ứng viên “quá lạm dụng văn bản, và họ thậm chí không biết cách chuyện trò, thăm hỏi người khác”. Chúng ta là những sinh vật cộng sinh trong một thế giới tự-ai-nấy-làm. Sự đơn độc có hại cho bạn. Theo nghiên cứu, sự đơn độc gây nguy hiểm cũng nghiêm trọng như hút thuốc, bệnh huyết áp cao, nồng độ cholesterol cao, chứng béo phì, hay thói quen thiếu luyện tập thể dục. Việc đơn độc làm việc hoặc các mối quan hệ gay gắt của những người chủ chốt trong công ty, nhất là trong những tập đoàn lớn, còn có thể gây ra nhiều hệ lụy cho toàn thể nhân viên và cổ đông công ty. Ngược lại, càng có nhiều mối quan hệ hợp tác tốt đẹp, bạn càng có thể trải nghiệm nhiều niềm vui, học được nhiều điều thú vị và luôn cười đùa vui vẻ. Đó là thước đo hạnh phúc của bạn. Ở nơi làm việc, trong số các nhân viên có sự hợp tác thì 29% nói rằng họ sẽ tiếp tục cống hiến cho công ty vào năm tới và hơn 42% dự định gắn bó với vị sếp hiện tại trong suốt sự nghiệp của mình. Những người cảm nhận được tình đồng đội sẽ gắn bó hơn trong công việc, duy trì năng suất làm việc cao, phát huy tính sáng tạo, tạo ra lợi nhuận cho công ty, đồng thời nâng cao mức độ hạnh phúc cho chính bản thân họ. Câu hỏi đặt ra là tại sao có một số người làm việc ăn ý với nhau, trong khi số khác lại bất hòa, xung đột? Tại sao một số người có rất nhiều mối quan hệ hợp tác tốt đẹp, trong khi số khác lại không? Những mối quan hệ hợp tác tốt đẹp không tự nhiên mà có. Dù sứ mệnh chung của bạn là giúp xây dựng doanh nghiệp thành công, huấn luyện các thành viên trong nhóm, nâng cao hệ thống quản lý, thu hút sự chú ý trong công tác từ thiện, hay bất kỳ mục tiêu tốt đẹp nào khác, thì tất cả các mối quan hệ hợp tác thành công đều chứa đựng những thành tố quan trọng giống nhau. Cuộc nghiên cứu của Gallup đã xác định được 8 yếu tố của một mối quan hệ hợp tác bền vững. Đó là: 1. Sức mạnh cộng hưởng: Một trong những lý do thuyết phục nhất của việc lập nhóm là bạn sẽ làm việc với những người giỏi những lĩnh vực mà bạn còn yếu kém, và ngược lại. Cả hai có thể cùng nhau vượt qua rào cản mà tự mỗi người không thể nào làm được. Một người khó mà giỏi toàn diện, nhưng một đôi thì có thể. 2. Sứ mệnh chung: Khi mối quan hệ hợp tác thất bại, nguyên nhân gốc rễ thường là do hai người theo đuổi hai vấn đề riêng biệt. Ngược lại, khi cả hai cùng có chung một mục tiêu, họ sẽ có xu hướng hy sinh nhu cầu cá nhân để thực hiện điều đó đến cùng. 3. Công bằng: Con người có nhu cầu bản năng về lẽ công bằng và không ai thích bị lợi dụng hay thua thiệt trong giao dịch. Đó cũng là một đặc tính quan trọng trong mối quan hệ cộng tác bền vững. 4. Tín nhiệm: Hợp tác với người khác đồng nghĩa với việc mạo hiểm. Bạn không thể dốc hết sức nếu cho là người cộng sự chưa làm hết mình. Cả hai cần đặt niềm tin vào nhau rằng mỗi người đều vì quyền lợi của người kia. Nếu không có sự tín nhiệm, tốt hơn là hãy làm việc một mình. 5. Chấp nhận: Mỗi người nhìn thế giới qua một lăng kính riêng. Điều bình thường với người này rất có thể lại là sai lầm nghiêm trọng đối với người khác. Vì thế, sẽ dễ xảy ra mâu thuẫn nếu cả hai không học cách chấp nhận các đặc tính của nhau. 6. Tha thứ: Con người không ai là hoàn hảo cả. Họ mắc lỗi và đôi khi làm điều sai trái. Nếu không có sự tha thứ, mối thù hằn xuất phát từ bản năng bạn-hoặc-thù của chúng ta sẽ che lấp mọi lý do để cả hai có thể tiếp tục mối quan hệ hợp tác, và không sớm thì muộn mối quan hệ ấy cũng sẽ sụp đổ. 7. Trao đổi thông tin: Biện pháp duy nhất để hai cách suy nghĩ có thể nhất quán trong cùng một nhiệm vụ phụ thuộc vào chất lượng mối giao tiếp giữa họ. Ban đầu, việc giao tiếp giúp tránh hiểu lầm và bảo đảm sự tin cậy nơi đối tác, còn về sau là giúp hai thành viên trong nhóm hòa hợp, mang lại hiệu quả cho công việc. 8. Sẵn sàng cho đi: Nhiều người bắt đầu các mối quan hệ hợp tác vì quyền lợi riêng, bởi khi cộng tác, họ sẽ hoàn thành công việc tốt hơn khi làm việc độc lập. Tuy nhiên, một khi mối lo ngại bản năng về quyền lợi biến thành sự hài lòng khi thấy người cộng sự thành công, thì điều đó trở thành mối quan hệ “tương hỗ”. Người đạt đến cấp độ này cho hay mối quan hệ hợp tác như vậy trở thành khía cạnh thỏa mãn nhất trong cuộc sống của họ. Theo họ, một người có thể hoàn thành được mục tiêu lớn lao, nhưng thành tựu cá nhân không thể đem so sánh với thành tựu to lớn mà một đội cùng nhau thực hiện. Khi tất cả những yếu tố trên kết hợp với nhau, mối quan hệ hợp tác phát huy hiệu quả không chỉ trong việc hoàn thành nhiệm vụ chung mà còn trong các thành quả cá nhân. Rich Karlgaard, chủ bút của tờ Forbes, đã viết: “Nếu tôi vẫn còn giảng dạy về điều kiện làm chủ doanh nghiệp, tôi sẽ chỉ cho các em sinh viên thấy rằng rất nhiều doanh nghiệp lớn trong 30 năm trở lại đây đã khởi sự chỉ với hai người. Đằng sau hiện tượng này ẩn chứa một quy luật: Lấy điểm mạnh làm nền tảng. Bằng cách lấy ưu bổ khuyết từ những người cộng sự, chúng ta sẽ giảm bớt những điểm yếu mà ai trong chúng ta cũng có”. Nếu có thể khai thác bản năng cộng sinh giúp tổ tiên xa xưa tồn tại và phát triển, bạn sẽ còn tận hưởng được niềm hạnh phúc to lớn hơn. Bạn có thể giảm nhẹ trách nhiệm, tận dụng được điểm mạnh của bản thân và đạt được thành công chưa từng có chỉ bằng cách chia sẻ sứ mệnh với một người khác. Hãy tháo bỏ tai nghe, rời mắt khỏi màn hình máy tính, bước ra khỏi phòng làm việc và giải phóng sức mạnh của một đội hai người. *** RODD WAGNER là tác giả loạt sách bán chạy trên The New York Times, đồng thời là người đứng đầu của Gallup. Ông tư vấn cho các nhà điều hành cấp cao về những phương thức tối ưu để thắt chặt quan hệ đối tác, tăng cường sự gắn bó của nhân viên và cải thiện lợi nhuận. Ông cùng với James K. Harter là đồng tác giả của “12: The Elements of Great Managing”, cuốn sách bán chạy nhất ở Mỹ và Canada, đã được dịch sang 10 thứ tiếng.   GALE MULLER là Phó Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc của Gallup World Poll. Trong hơn 35 năm làm việc tại Gallup, Muller vận hành một mạng lưới hơn 300 cố vấn và các nhà nghiên cứu ở hơn 40 quốc gia trên toàn thế giới. Mời các bạn đón đọc Người Thông Minh Không Làm Việc Một Mình của tác giả Rodd Wagner & Gale Muller.
Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? - Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry
Bằng chứng khoa học thuyết phục nhất về đời sống sau cái chết : "Có đời sống sau cái chết không?"... Bác sĩ chuyên khoa xạ trị ung thư Jeffrey Long lý luận: "Nếu bạn tìm hiểu các bằng chứng khoa học thì câu trả lời ở đây chắc chắn là có. "Nghiên cứu nội dung các trải nghiệm cận tử suốt hàng chục năm qua... ông rút ra kết luận gây nhiều tranh cãi đó." "Cuốn sách giá trị tìm hiểu về trải nghiệm cận tử này trình bày những bằng chứng thuyết phục cho thấy rằng ý thức con người không bị ràng buộc bởi những hoạt động của não bộ." *** Paul Perry là một nhà báo và nhà sản xuất phim tài liệu nổi tiếng. Ông là thành viên của Trung tâm Nghiên cứu Truyền thông Gannett tại Đại học Oregon ở Eugene, Oregon, Mỹ và là Tổng biên tập của tạp chí American Health. Paul Perry từng được Hoàng gia Bồ Đào Nha phong tặng *** Năm 1984, tôi tình cờ đọc được khái niệm về Trải nghiệm Cận tử (TNCT) trong một tạp chí y học nọ. Vài năm sau, tôi lại nghe vợ của một người bạn kể về TNCT khi cô ấy sắp qua đời do phản ứng sốc thuốc trong lúc được gây mê. Hơn mười năm sau, năm 1998, tôi bắt đầu nghiên cứu về vấn đề này và thành lập Tổ chức Nghiên cứu về Trải nghiệm Cận tử (NDERF: Near Death Experience Research Foundation) và trang web NDERF.org ra đời từ đó. Một trong những mục tiêu của tôi khi thành lập trang web này là thu thập nhiều TNCT rồi tổng hợp lại bằng 1 bảng câu hỏi để dễ phân loại và nghiên cứu từng yếu tố liên quan đến TNCT. Với bảng câu hỏi này, tôi có thể nghiên cứu các yếu tố độc lập trong TNCT hoặc toàn bộ TNCT. Tôi nghĩ rằng mình phải rất nỗ lực mới có thể mong thành công phần nào, cuối cùng hóa ra tôi lại thành công trên mức mong đợi. Trong 10 năm đầu tiên, hơn 1.300 người trải nghiệm TNCT đã dành nhiều thời gian quý báu để tham gia trả lời hơn 100 câu hỏi chi tiết trên trang web NDEFR. Họ là những người đến từ nhiều chủng tộc, tín ngưỡng, và hầu như khắp mọi nơi trên trái đất. Việc có nhiều người sẵn lòng chia sẻ TNCT của mình cùng người khác cho thấy rằng các trải nghiệm này thực sự ảnh hưởng lớn đến từng cá nhân. Họ mô tả trải nghiệm của mình bằng nhiều cách khác nhau, có người cho rằng “không thể nói được” không thể tả được “không bao giờ quên được”, “trên cả tuyệt vời”,... Hơn 95% cảm thấy TNCT của mình là “rất thật”, trong khi những người còn lại thì cho rằng “có thể thật”. Không một ai cho rằng “hoàn toàn không thật”. Một số người cho rằng không những họ đã trải qua những sự kiện rất thật mà còn xem đó là một sự trải nghiệm kỳ diệu trong đời mình. Dưới đây là chia sẻ của một người suýt chết trong một lần tự sát: Tôi cảm thấy bình yên. Không chút đau đớn. Tôi thấy cuộc đời mình tràn ngập tình yêu của Chúa. Tôi không còn chút bận tâm nào với những gì tôi đã làm thậm chí với cả hành động tự sát vừa rồi. Sức mạnh của tình yêu thật sự đã thay đổi hành vi của tôi. Chính hồng ân của Chúa, chấp nhận hoàn toàn, và tình yêu trọn vẹn đem lại niềm vui trong tôi. Tôi tìm được tình yêu trong tôi không chỉ từ ánh sáng của Chúa rọi vào tim tôi, mà tình yêu đó chính là một phần gắn liền con người tôi. Trong tôi tràn ngập tình yêu. Tôi cảm nhận được sự hân hoan trong khoảnh khắc ấy. Tôi không thể diễn tả hết cảm xúc kỳ diệu này. Tôi đã nghe sự mô tả như thế này từ nhiều người có TNCT. Bạn hãy hình dung xem - một trải nghiệm khởi đầu bằng nỗi khiếp sợ khi sự sống bị đe dọa và hóa thành một sự kiện kỳ diệu và bí ẩn? Tôi là một nhà khoa học, và vì thế NDERF của tôi cũng làm việc rất khoa học. Tại NDERF, chúng tôi nghiên cứu tất cả các yếu tố của TNCT nơi hơn một nghìn người khác nhau. Để có được kết luận chính xác chúng tôi luôn tuân thủ nguyên tắc cơ bản của khoa học là: những gì có thật sẽ không thay đổi trong mọi tình huống khác nhau. Theo kết quả nghiên cứu từ NDERF, có một điều rất đáng lưu ý nơi nội dung TNCT. Những nghiên cứu ở đây cho thấy rằng những gì người ta khám phá qua TNCT về Thượng đế, tình yêu, kiếp sau, những khó khăn trần tục, sự tha thứ, và nhiều khái niệm khác không hề chịu sự tác động của sự thay đổi về nền văn hóa, chủng loài, và tín ngưỡng của từng cá nhân. Đồng thời, những khám phá này không phải là những niềm tin đã tồn tại trước đó, không phải là các giáo điều xưa cũ, hay bất kỳ sự hiểu biết trần tục nào. Trong một thế giới hiện đang tồn tại quá nhiều thứ gây tổn hại đến tâm hồn con người như thế này, khám phá trên quả là một tin tốt lành. Những vấn đề của cá nhân và xã hội mà nhân loại hiện đang phải đối mặt - ma túy, nghiện rượu, trầm cảm, bạo lực, lo lắng, xung đột tôn giáo, phân biệt chủng tộc v.v... - có thể bị ảnh hưởng sâu sắc bởi một trải nghiệm phổ biến và có tác động mạnh như thế. Vì TNCT xảy ra với mọi người trên thế gian, TNCT sẽ là yếu tố tâm linh đưa chúng ta xích lại gần nhau, trải nghiệm này nhắc nhở chúng ta về tính tương tác tâm linh giữa người và người. Ít ra thì tổ chức nghiên cứu NDERF cũng góp phần nâng cao kiến thức của chúng ta về mối quan hệ tâm linh này. Những nghiên cứu của NDEKF cũng rất đáng giá khi nó giúp chúng ta có được sự hiểu biết sâu sắc về những gì sẽ xảy ra khi chúng ta qua đời. Đã từ lâu tôi không còn tin rằng chết là chấm dứt sự tồn tại. Tôi đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu vấn đề này. Tôi được sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa học. Cha tôi là trưởng khoa Dược lý tại Đại học Iowa và đã từng được đề cử giải Nobel. Chính cha tôi và những thành viên khác trong gia đình đã giúp tôi phát huy tối đa niềm đam mê khoa học của mình. Tôi đã vận dụng khoa học để nghiên cứu hơn 1300 trường hợp chia sẻ cùng NDERF, tôi tin rằng với 9 loại bằng chứng được trình bày trong quyển sách này sẽ chứng minh một điểm chung là: có sự sống sau cái chết. Bảng câu hỏi và những tài liệu khác trong sách này đều có trên website NDERF (http://www.nderf.org/afterlife). Bảng câu hỏi này tập trung vào các khái niệm được trình bày trong suốt quyển sách này. Do vậy tôi khuyến khích bạn đọc hết quyển sách này trước khi bạn điền vào bảng câu hỏi. ĐIỀU GÌ XẢY RA TRONG TRẢI NGHIỆM CẬN TỬ Trước khi tiếp tục, tôi cần phải giải thích Trải nghiệm Cận tử là gì. Trải nghiệm Cận tử (TNCT) là những sự kiện xảy ra với một người sắp chết, hoặc chết lâm sàng. Người có Trải nghiệm Cận tử được gọi là các(cận tử nhân". Năm 1975, tiến sĩ Raymond Moddy là người đầu tiên nghiên cứu và mô tả lại một cách khoa học về Trải nghiệm Cận tử trong quyển sách tiên phong trong lĩnh vực này, cuốn Life after Life, sau đó các bác sĩ và các nhà nghiên cứu khác cũng tiếp tục nghiên cứu sâu hơn hiện tượng này. Không có một định nghĩa nào về Trải nghiệm Cận tử được chấp nhận hoàn toàn. Nghiên cứu của NDERF định nghĩa rõ hai từ “cận tử” và “trải nghiệm”. Tôi cho rằng một người được xem là “cận tử” khi họ có nguy cơ chết nếu sự tổn hại về thể xác của họ không được khắc phục kịp thời. Các cận tử nhân thường rơi vào trạng thái hôn mê và chết lâm sàng, có nghĩa là không còn nhịp tim và hơi thở. Còn “trải nghiệm” phải diễn ra ngay thời điểm họ sắp chết. Ngoài ra, trải nghiệm này cũng phải thật rõ ràng, không phải là những mảnh ký ức được chắp vá rời rạc. Quyển sách này sẽ trình bày kết quả nghiên cứu của tổ chức nghiên cứu Trải nghiệm Cận tử NDERF. Nghiên cứu này là kết quả của cuộc khảo sát 613 cận tử nhân mới nhất đã điền đầy đủ vào bảng câu hỏi mới nhất của NDERF. Phiên bản này bao gồm rất nhiều câu hỏi được sắp xếp theo cấp độ trải nghiệm TNCT khác nhau. Bảng câu hỏi gồm có 16 câu hỏi về nội dung của sự trải nghiệm và là phương pháp nghiên cứu hợp lý nhất để phân biệt đâu không phải là TNCT và đâu chính là TNCT. Tất cả 613 các cận tử nhân mà tôi sẽ trình bày dưới đây đều có điểm từ 7 trở lên, là số điểm được cho là phù hợp với Trải nghiệm Cận tử. Khảo sát đầu tiên của NDERF nghiên cứu phản ứng của 413 cận tử nhân. Bảng câu hỏi điều tra theo cấp độ này đã không được sử dụng trong lần khảo sát đầu tiên. Không có 2 Trải nghiệm Cận tử nào giống hệt nhau. Tuy nhiên, khi nghiên cứu nhiều Trải nghiệm Cận tử, chúng ta nhận thấy các yếu tố chung thường xảy ra ở TNCT. Những yếu tố này thường xảy ra theo trật tự cố định. Các nhà nghiên cứu kết luận rằng TNCT có thể có một số hoặc tất cả 12 yếu tố sau: 1. Trải nghiệm thoát xác (OBE): linh hồn thoát ra khỏi cơ thể. 2. Dâng trào cảm xúc. 3. Xuất hiện các tình cảm tích cực mãnh liệt. 4. Đi vào hoặc xuyên qua một đường hầm. 5. Đi vào vùng ánh sáng rực rỡ huyền bí. 6. Gặp các linh hồn khác, các nhân vật huyền bí hoặc người thân và bạn bè quá cố. 7. Cảm giác không gian hoặc thời gian bị biến đổi. 8. Hồi tưởng lại cuộc đời. 9. Bước vào một thế giới thoát tục (“giống thiên đàng”). 10. Có được những hiểu biết đặc biệt. 11. Tiếp cận một ranh giới hay một rào cản. 12. Trở về thể xác dù tự nguyện hoặc không tự nguyện.   Mỗi yếu tố trên đều được mô tả một cách tỉ mỉ qua từng trường hợp cụ thể cũng như tỷ lệ sẽ các cận tử nhân đã từng trải qua yếu tố trên mà tôi đã thu thập qua hơn mười năm nghiên cứu. Mời các bạn đón đọc Giải Mã Tâm Linh -Sự Sống Sau Cái Chết Linh Hồn - Có Hay Không? của tác giả Jeffrey Long, M.D. & Paul Perry.
Mặt Dày Tâm Đen - Chin-Ning Chu
Có một bí quyết ẩn trong mọi thành công. Các lãnh chúa thời xưa nắm rõ nó. Những người Mỹ tiên phong nắm rõ nó. Các doanh nhân Châu Á sử dụng nó. Giờ đây, Chin-Ning Chu, chuyên gia hàng đầu thế giới về tư duy kinh doanh phương Đông, giải thích quy luật tự nhiên kiên kết giữa tư tưởng và thành tựu cụ thể. Kết hợp cả triết lý phương Đông và phương Tây, Mặt Dày – Tâm Đen chỉ ra cách thức giải phóng và tận dụng sức mạnh tích cực lớn lao ẩn trong mỗi chúng ta. Mặt dày, Tâm đen là cuốn sách của tác giả Chin - Ning - Chu một chuyên gia về tư duy kinh doanh. Chin - Ning - Chu đã vận dụng cả triết lý phương Đông và phương Tây để giải thích quy luật tự nhiên liên kết giữa tư tưởng và thành tựu cụ thể. Khi đọc "Mặt dày, Tâm đen" bạn sẽ tìm thấy cách thức giải phóng và phát huy sức mạnh ẩn giấu trong con người mình. Hơn thế nữa, tác giả còn chia sẻ bí quyết thành công của các vị vua chúa, của những người Mỹ tiên phong và của các doanh nhân châu Á. *** "Chin-ning Chu đã viết những bài học hứng thú về cách xây dựng sức mạnh tinh thần. Những câu chuyện lôi cuốn và những nguyên lý chính xác được rút ra từ trong lịch sử Trung Quốc huyền hoặc và trong giới doanh nghiệp Mỹ ngày nay. Vừa huyền bí vừa thiết thực, cuốn sách này sẽ sắp xếp lại đầu óc bạn và nạp lại năng lượng cho tinh thần bạn." _ Ducan Anderson, biên tập viên tạp chí Success "Thật kinh ngạc... 100 chiến lược để thành công hơn trong đời sống cá nhân và công việc của bạn. Đó là một cuốn sách cần được nghiền ngẫm chứ không phải chỉ đọc thôi!" _ Tiến sĩ Sonya Friedman, phụ trách chương trình Sonya Lia, CNN "Cuốn sách này dành cho bà nội trợ và tổng giám đốc điều hành (CEO), võ sỹ quyền Anh bại trận và vị tổng tư lệnh chiến thắng. Nó có vẻ tham lam và nhẹ nhàng, vừa về vật chất, vừa về tư tưởng, và trên hết, tràn đầy tinh thần muôn thuở. Nếu bạn đã có bao giờ tìm kiếm những hạt giống từ đó nảy mầm đam mê, tình thương và thành công, vào bất cứ thời điểm nào và lứa tuổi nào, bạn sẽ muốn đọc cuốn sách này." _ Thom Calandra, San Francisco Examiner "Một cuốn sách đầy khiêu khích có thể tác động đến mọi thứ từ những quyết định kinh doanh cho đến chuyện tình cảm lãng mạn. Nó gợi tư duy đáng kể trong khi cung cấp những ví dụ cụ thể." _ Seattle Times “Chin-ning Chu, một nhà chiến lược kinh doanh hàng đầu đồng thời là tác giả có sách bán chạy nhất ở châu Á và vành đai Thái Bình Dương, là chủ tịch Công ty Marketing châu Á và Viện nghiên cứu chiến lược. Quyển sách này đánh thức khát vọng lao động hết mình, đó chính là sức mạnh không thể lay chuyển để vượt qua trở ngại và lòng dũng cảm dám theo đuổi điều mình tin tưởng. Một nguồn cảm hứng cho tất cả các nhà quản lý và các doanh nhân”. _ Ph.D Kenneth Blanchard, đồng tác giả của The One - Minute Manager "Đây là một cuốn sách phi thường, đầy những mẹo nhỏ thiết thực về cách biến nghịch cảnh thành thắng lợi. Bạn phải đọc cuốn này!" _ George "Sparky" Anderson, huyền thoại bóng rổ. *** Chin-ning Chu là chủ tịch công ty Tư Vấn Tiếp Thị Á Châu (Asian Marketing Consultants, Inc.) và là một diễn giả quốc tế, một chuyên gia đào tạo, một tư vấn, và cũng là tác giả cuả cuốn “The Chinese Mind Game and The Asian Mind Game” (Trò Đấu Trí Trung Hoa và Đấu Trí Á Châu).  Được coi là chuyên gia hàng đầu trên thế giới về lãnh vực hiểu biết tâm lý kinh doanh ở châu Á, cô cũng là tác giả viết sách kinh doanh bán chạy nhất ở châu Á.  Sinh tại tỉnh Tienjin, Trung Quốc, cô Chu đã cùng gia đình bỏ trốn sang Đài Loan sau khi Trung Hoa Lục Điạ rơi vào tay Cộng Sản.  Ở tuổi 16, cô đã vào một tu viện Công giáo để chuẩn bị trở thành một nữ tu. Nhưng cha cô đã bắt cô ra khỏi tu viện để ép cô dấn thân vào học vấn ở bậc cao học.  Những tác phẩm cuả cô Chu đã được giới truyền thông quốc tế ca ngợi nồng nhiệt, trong đó phải kể đến các Hãng CNN, báo USA Today, báo The London Financial Times, Nhân Dân Nhật Báo Trung Quốc; những ấn bản châu Á cuả các tạp chí People, Bazaar,Vogue, v.v…  Cô đã tiết lộ một số những công ty đa quốc nổi tiếng thế giới đã từng là thân chủ cuả cô, và trong Đại Hội Đảng Dân Chủ Tranh Cử Tổng Thống Mỹ năm 1996, cô đã được tổ chức quốc tế mang tên “Women of the World” (Phụ Nữ cuả Thế Giới) tôn vinh là Phụ Nữ Xuất Sắc Nhất Năm (Woman of the Year) cuả nước Mỹ.  Cô đã trình bày triết lý đấu tranh cuả châu Á, như là kim chỉ nam tiên phong để quán triệt tư duy chiến lược trong thế giới kinh doanh cũng như trong đời sống thường.  Là một con người khao khát suy tư, cô đã kết hợp được khôn ngoan và tâm linh bất diệt cuả nhân loại với những chiến thuật kinh doanh thực dụng để khắc phục những thách thức muôn hình vạn trạng cuả cuộc sống thực tế Theo tôi nghĩ, trước khi đọc một tác phẩm, thiết tưởng tìm hiểu đôi chút về tác giả của nó, cũng là một sự cần thiết không thể thiếu được để quán triệt nội dung sách. Mời các bạn đón đọc Mặt Dày Tâm Đen của tác giả Chin-Ning Chu.
Sức Mạnh Tiềm Thức - Joseph Murphy
Là một trong những quyển sách về nghệ thuật sống nhận được nhiều lời ngợi khen và bán chạy nhất mọi thời đại, Sức mạnh tiềm thức đã giúp hàng triệu độc giả trên thế giới đạt được những mục tiêu quan trọng trong đời chỉ bằng một cách đơn giản là thay đổi tư duy. Sức mạnh tiềm thức giới thiệu và giải thích các phương pháp tập trung tâm thức nhằm xóa bỏ những rào cản tiềm thức đã ngăn chúng ta đạt được những điều mình mong muốn. Sức mạnh tiềm thức không những có khả năng truyền cảm hứng cho người đọc, mà nó còn rất thực tế vì được minh họa bằng những ví dụ sinh động trong cuộc sống hằng ngày. Từ đó, Sức mạnh tiềm thức giúp độc giả vận dụng năng lực trí tuệ phi thường tiềm ẩn trong mỗi người để tạo dựng sự tự tin, xây dựng các mối quan hệ hòa hợp, đạt được thành công trong sự nghiệp, vượt qua những nỗi sợ hãi và ám ảnh, xua đi những thói quen tiêu cực, và thậm chí còn hướng dẫn chúng ta cách chữa lành vết thương về thể chất cũng như tâm hồn để có được sự bình an, hạnh phúc trọn vẹn trong cuộc sống. *** Tôi đã từng chứng kiến phép lạ xảy đến với rất nhiều người thuộc những tầng lớp khác nhau trên thế giới. Và tôi đoan chắc điều kỳ diệu cũng sẽ đến với bạn nếu bạn biết cách vận dụng sức mạnh thần kỳ của tiềm thức. Quyển sách này sẽ giúp bạn hiểu được rằng chính lối suy nghĩ và những hình tượng quen thuộc sẽ định hình và tạo nên số phận của bạn; vì đơn giản là suy nghĩ trong tiềm thức của một người thế nào thì họ sẽ như thế ấy. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao người này buồn rầu còn người kia thì vui vẻ? Tại sao người này sung sướng và thành đạt còn người khác thì nghèo đói và khốn khổ? Tại sao người này sợ hãi và lo lắng còn người kia lại tràn đầy lòng tin và sự tự tin? Vì sao người này có nhà cửa khang trang, lộng lẫy trong khi người kia sống cuộc đời cùng khổ trong một khu nhà ổ chuột? Tại sao người này cực kỳ thành công còn người kia thất bại thảm hại? Tại sao người này đạt được nhiều thành tựu trong công việc trong khi người kia lao nhọc vất vả cả đời mà chẳng làm nên trò trống gì? Tại sao rất nhiều người lương thiện phải chịu những nỗi thống khổ đày đọa tinh thần và thể xác? Tại sao có nhiều kẻ đồi bại và vô đạo lại thành công, giàu sang và có sức khỏe tráng kiện? Tại sao cuộc hôn nhân của người này hạnh phúc còn của người kia thì bất hạnh? Phải chăng trong sự vận hành của ý thức và tiềm thức sẽ có câu trả lời cho những vấn đề này? Dĩ nhiên là có. Và chính niềm mong mỏi sâu xa được chia sẻ những đáp án mà tôi đã khám phá ra là động lực thôi thúc tôi viết quyển sách này. Tôi đã cố minh giải những điều căn bản và lớn lao về tâm trí bằng một ngôn ngữ giản dị, đời thường nhất có thể. Tôi tin rằng sau khi nghiền ngẫm và áp dụng những phương pháp được đề cập trong quyển sách này, bạn sẽ nắm giữ một sức mạnh thần diệu để tự vực mình dậy khỏi bối rối, khổ sở, u sầu và thất bại. Nó sẽ dẫn đưa bạn đến vị trí đích thực của bạn, giúp bạn giải quyết những khó khăn, ngăn bạn khỏi sự câu thúc về xúc cảm và thể chất, và đặt bạn trên con đường thẳng tắp dẫn đến tự do, hạnh phúc và sự thanh thản tâm hồn. Năng lực thần diệu của tiềm thức tồn tại trước khi chúng ta được sinh ra. Những chân lý và nguyên tắc vĩnh cửu vĩ đại trong cuộc sống cũng được hình thành từ lâu đời. Chính vì vậy mà tôi rất muốn bạn hãy vận dụng sức mạnh biến đổi huyền diệu, thần kỳ này để chữa lành những vết thương trong tâm hồn và thể xác, giải phóng bạn khỏi những hạn định của sự nghèo khổ, thất bại, cơ cực… Tất cả những gì bạn phải làm là hợp nhất tinh thần và cảm xúc với những điều tốt đẹp nhất mà bạn mong muốn, sức mạnh của tiềm thức sẽ đáp ứng phù hợp. Hãy bắt đầu ngay hôm nay. Để những điều kỳ diệu xảy đến trong đời bạn! *** Giáo sư Joseph Murphy (1898 - 1981), đã viết sách, giảng dạy, tư vấn và diễn thuyết cho hàng ngàn người trên thế giới. Ông từng là Phó chủ tịch của Hội nhà thờ Thánh khoa học ở Los Angeles trong 28 năm, nơi các bài diễn thuyết của ông có từ 1300 đến 1500 người đến nghe mỗi Chủ nhật. Tư tưởng của ông ảnh hưởng từ Ernest Holmes và Emmet Fox - những tác giả nổi tiếng theo nguyên tắc New Thought. Ông viết hơn 30 quyển sách, đưa ra những kĩ thuật đơn giản nhưng được chứng minh một cách khoa học, và đưa một sự thật đầy kinh ngạc là sức mạnh trong tiềm thức mỗi người có thể mang đến những điều vô cùng kì diệu, chữa lành mọi vết thương tâm lý. Một số quyển sách nổi tiếng của ông có thể kể đến như “Peace within yourself” (1956), “Your infinite power to be rich” (1966), “Within you is the power” (1977), “The power of your subconscious mind” (1963). Các tác phẩm nổi tiếng: - Khai Thác Sức Mạnh Tiềm Thức - Sức mạnh của tiềm thức - Phép màu của tâm trí - Câu trả lời hoàn hảo - Tình yêu là sự tự do - Điều kỳ diệu của niềm tin - Sức mạnh vũ trụ bên trong bạn Mời các bạn đón đọc Sức Mạnh Tiềm Thức của tác giả Joseph Murphy.