Liên hệ: 0912 699 269  Đăng nhập  Đăng ký

Cuộc Chiến Đi Qua - Kanta Ibragimov

Những năm qua, văn học Nga luôn có một vị trí xứng đáng trong lòng bạn đọc Việt Nam, góp phần quan trọng trong việc nuôi dưỡng nhân sinh quan và thế giới quan của nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam qua các thời kỳ. Nhiều tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ Nga và Liên Xô đã được dịch sang tiếng Việt và trở nên quen thuộc với bạn đọc Việt Nam như Pushkin, Tolstoy, Dostoyevsky, Gogol, Lermontov, Tsekhov, Pasternak, Solzenisyn, Bulgakov, Bunhin, Solokhov, Gorky, Aitmatov, Dumbadze, Kazakov, Bykov, Evtushenko, Astaphiev... Tuy nhiên, kể từ khi Liên bang Xô viết không còn nữa, văn học Nga cũng như một số các loại hình nghệ thuật khác đã bị tác động trong một thời gian, việc sáng tác của các văn nghệ sĩ Nga cũng gặp không ít trở ngại và việc giới thiệu văn học Nga ở Việt Nam cũng bị ảnh hưởng. Về tình trạng này, Vasil Bykov (1924-2003), một trong số những nhà văn Belarus nổi tiếng nhất, Giải thưởng Quốc gia Liên Xô, Giải thưởng Lenin, Anh hùng Lao động XHCN đã phải cay đắng thốt lên: “Các nhà văn vô cùng bối rối: viết về cái gì? Trước kia, suốt nhiều năm họ cứ rên rỉ, nào là bộ phận kiểm duyệt không cho phép, nào là bị o ép. Còn bây giờ, khi không còn kiểm duyệt, không còn bị o ép, hóa ra sự việc lại càng tồi tệ hơn. Chẳng khác gì những con thú, lâu ngày được nuôi trong chuồng, bây giờ thả ra, không biết tự kiếm sống”. Còn các giải thưởng của Nhà nước Nga về văn học nghệ thuật, một nguồn động viên không kém phần quan trọng để tạo cảm hứng cho các văn nghệ sĩ cũng bị hủy bỏ. Tuy nhiên, bất chấp những xáo trộn khi bước vào một thể chế chính trị mới, các nhà văn Nga vẫn tiếp tục lao động sáng tạo nên nhiều tác phẩm, kế thừa và phát huy những giá trị nhân văn cao đẹp đã được kết tinh, vun đắp từ lâu, chỉ khác là giờ đây chúng được cảm thụ và thể hiện dưới một góc nhìn mới, chân thực và khách quan hơn về cuộc sống đương đại. Năm 1993, trước yêu cầu của xã hội, Tổng thống Nga lúc bấy giờ là Boris Elsin đã cho thành lập lại Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật. Và trong số các tên tuổi quen thuộc của văn đàn Nga đã nổi tiếng từ thời Xô viết vẫn được tiếp tục ghi nhận và trao Giải thưởng Quốc gia như Solzenisyn, Evtushenko, Astaphiev, Akhmadulina, Ekimov, Granin... người ta thấy xuất hiện một cái tên hoàn toàn mới - Kanta Ibragimov. Kanta Khamzatovich Ibragimov sinh ngày 9 tháng 7 năm 1960 tại thành phố Grozny, thủ đô nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia thuộc Liên bang Nga, trong một gia đình trí thức có cha là tiến sĩ hóa học. Sau khi tốt nghiệp Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya-Ingushetia năm 1982, Ibragimov về làm việc ở nông trang rồi gia nhập quân đội, hết hạn nghĩa vụ ông lại quay về nông trang làm việc. Sau khi bảo vệ luận án phó tiến sĩ năm 1990, Ibragimov làm việc ở Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng Cộng hòa Chechnya-Ingushetia, rồi Phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu khoa học ứng dụng thành phố Grozny. Năm 1995, ông lên Moskva làm luận án tiến sĩ và bảo vệ thành công trước thời hạn. Từ 1996 đến nay Ibragimov công tác tại Khoa Kinh tế Đại học Tổng hợp Quốc gia Chechnya, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế Liên bang Nga từ 1999 đến năm 2000, hiện là Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu khoa học thành phố Grozny, viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học nước Cộng hòa Chechnya. Có một điều khá lý thú là cho đến trước năm 38 tuổi, Ibragimov chưa một lần xuất hiện trên văn đàn mà chỉ làm công việc chuyên môn thuần túy và chỉ công bố các bài báo, công trình khoa học, sách chuyên khảo và sách giáo khoa về kinh tế (hơn 20 công trình và đầu sách). Tác phẩm văn học đầu tay của ông chính là cuốn tiểu thuyết đồ sộ 700 trang Cuộc chiến đi qua. Sau khi ra đời vào năm 1999, ngay lập tức tác phẩm đã gây tiếng vang lớn, còn tác giả trở nên nổi tiếng và được đọc nhiều nhất không chỉ ở Chechnya mà cả Liên bang Nga. Bốn năm sau, Cuộc chiến đi qua đã được Tổng thống Nga Vladimir Putin trao tặng Giải thưởng Quốc gia Liên bang Nga về văn học nghệ thuật năm 2003. Vậy, Cuộc chiến đi qua là một tác phẩm như thế nào mà được cả bạn đọc và nhà nước Liên bang Nga đánh giá cao như vậy? Chechnya là một vùng đất nằm ở Bắc Kavkaz, ngay từ cuối thế kỷ XV đã phải đương đầu với các thế lực cai trị từ bên ngoài, buộc người Chechnya phải cải theo đạo Hồi. Đến cuối thế kỷ XVIII, Đế chế Nga hoàng đã chính thức đặt Bắc Kavkaz dưới sự bảo hộ và kiểm soát của mình. Thời kỳ Xô viết, vùng đất Chechnya được gộp chung với Ingushetia thành nước cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia vào cuối thập niên 1930, nhưng mối quan hệ giữa Nhà nước Trung ương Liên Xô với những người Chechnya theo đạo Hồi cũng chẳng mấy khi thuận chèo mát mái. Khi Liên bang Xô viết tan rã vào năm 1990, nước Cộng hòa tự trị Chechnya-Ingushetia lại tách ra thành Cộng hòa Chechnya và Cộng hòa Ingushetia với các phong trào ly khai bùng phát thành các cuộc chiến tranh khốc liệt. Lịch sử vùng đất Bắc Kavkaz, kể từ khi chính quyền Xô viết được thành lập tại đây vào năm 1924 và tan vỡ hoàn toàn vào năm 1995 đã được tác giả Ibragimov tái hiện thông qua hình tượng nhân vật chính lấy từ nguyên mẫu cuộc đời đầy thăng trầm và sóng gió của chính ông nội tác giả. Các cuộc chiến tranh đẫm máu trên mảnh đất này đã dẫn đến những cuộc ly tán, đói nghèo, mất mát, rồi sau đó, khi chính quyền Xô viết không còn nữa thì quá trình “tư nhân hóa” đã diễn ra một cách khốc liệt, làm cho người dân vô cùng hụt hẫng vì chưa kịp thích ứng... Nhưng, dù có những biến động dữ dội đến đâu thì điều quan trọng còn lại trên mảnh đất này vẫn là niềm tin vào sức mạnh bất diệt của dân tộc, vào một cuộc sống tốt đẹp hơn đang mở ra cho tất cả mọi thành phần cư dân đang sinh sống tại đây. Tác phẩm Cuộc chiến đi qua có sức bao quát rộng lớn, và thông qua đó, người đọc có thể cảm nhận một cách đầy đủ và chân xác về bản anh hùng ca cùng những tấn bi kịch tại Chechnya và các vùng đất khác nhau trên lãnh thổ rộng lớn của Liên bang Xô viết trước đây. Bản thân tác giả Ibragimov đã trực tiếp trải qua các cuộc chiến tranh đó, và khi được hỏi về những năm tháng này, ông đã thành thật chia sẻ: “Làm người Chechnya trong khoảng mười - mười lăm năm gần đây chẳng dễ dàng chút nào”. Nhưng ông vẫn quyết định quay về với quá khứ trong tác phẩm văn học đầu tay của mình “để không được quên những năm tháng đau thương ấy và thật may là đã trở thành dĩ vãng và để không bao giờ lặp lại những sai lầm khủng khiếp đó nữa”. Theo nhận xét của các nhà phê bình văn học Nga, sự thành công của Cuộc chiến đi qua là nhờ vốn hiểu biết sâu sắc và khách quan của tác giả về lịch sử miền đất quê hương ông, hòa quyện một cách hữu cơ với những sáng tạo nghệ thuật độc đáo. Chính vì vậy mà tác phẩm đã đạt đến một sự “hấp dẫn” đối với đông đảo bạn đọc khó tính mà không cần phải nhờ đến một thủ pháp giả tạo nào. Có thể, lời bộc bạch của chính tác giả trong bài trả lời phỏng vấn trên Cánh đồng Nga sẽ làm sáng tỏ thêm nhận xét này: “Tôi bắt đầu cầm bút viết văn lúc 37 tuổi, và viết tiểu thuyết ngay. Chỉ có điều xin đừng nghĩ, tôi chỉ đơn giản ngồi vào bàn là viết xong một cách dễ dàng. Để làm được điều đó, tôi đã phải lặn lội khắp nơi để lấy tư liệu và học hỏi cho đến tận bây giờ. Tôi không học chuyên ngành ngữ văn và dĩ nhiên là còn nhiều lỗ hổng kiến thức, nhưng mặt khác, tôi nghĩ mình cũng có thế mạnh riêng là tôi không bị ràng buộc bởi bất cứ khuôn khổ, công thức hay phương pháp sáng tác nào cả, và điều đó không chỉ tồn tại trong văn học mà còn ở tất cả mọi lĩnh vực”. Tiếp theo tác phẩm đầu tay, Ibragimov liên tiếp cho ra mắt nhiều tác phẩm khác và cũng được bạn đọc đánh giá cao, như Kavkaz già nua (2001), Thầy giáo lịch sử (2003), Thế giới trẻ em(2005), Truyện cổ phương Đông (2007), Ngôi nhà hỗn tạp (2009), Avrora (2012)... Kanta Ibragimov được kết nạp vào Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Hội Nhà văn Liên bang Nga, rồi được bầu làm Chủ tịch Hội Nhà văn Cộng hòa Chechnya và Chủ tịch Chi hội nhà văn Nga tại Chechnya. Hiện tại, Ibragimov vẫn tiếp tục làm công tác khoa học và vẫn sáng tác văn học. Và như lời ông nói: “Công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy là để nuôi sống tôi và gia đình cùng với năm đứa con, còn văn chương là để nuôi dưỡng tâm hồn. Những lo toan thường nhật chiếm rất nhiều thời gian của tôi. Nhưng ai mà không có những lo toan thường nhật ấy, nhất là trong thời kỳ suy thoái kinh tế như hiện nay?”. Tại Việt Nam, nhà văn Ibragimov hầu như chưa được biết tới và chưa có tác phẩm nào của ông được dịch sang tiếng Việt. Hy vọng, Cuộc chiến đi qua sẽ mang lại cho bạn đọc một làn gió mới lạ từ một vùng đất xa xôi nhưng cũng rất thân quen với nhiều thế hệ bạn đọc Việt Nam. Mời các bạn đón đọc Cuộc Chiến Đi Qua của tác giả Kanta Ibragimov.

Nguồn: dtv-ebook.com

Xem

Ảo Vọng - Pearl S. Buck
Pearl Buck, nữ nhà văn Mỹ, được tặng giải thưởng Nobel Văn học vì các tác phẩm mô tả cuộc sống đa diện mang tính sử thi của người dân Trung Quốc trong những biến động dữ dội đầu thế kỉ XX và vì những kiệt tác tự truyện. Bà là nhà hoạt động xã hội tích cực, được coi là một chiếc cầu nối văn hóa Đông-Tây. Pearl Buck (tên thật là Pearl Comfort Sydenstricker, có tên Trung Quốc là Trại Chân Châu) là con một nhà truyền giáo người Mỹ. Sau khi ra đời chưa đầy 5 tháng, bà đã được cha mẹ đưa sang Trung Quốc sinh sống. Từ nhỏ và suốt cả cuộc đời bà yêu mến và thích tìm hiểu cuộc sống của người dân Trung Quốc, cảm thông với những người dân địa phương bị nhiều tầng áp bức. Năm 15 tuổi, bà được gửi trọ học tại một trường dạy Anh văn ở Thượng Hải. Năm 17 tuổi, cha mẹ cho Pearl Buck về Mỹ, học tại Trường Đại học Randolph Macon (tiểu bang Virginia). Năm 1917 bà kết hôn với một mục sư và theo chồng đi truyền giáo tại miền Bắc Trung Hoa. Từ năm 1922, bà dạy ở Đại học Nam Kinh và Kim Lăng. Năm 1925, Pearl Buck bắt đầu viết cuốn tiểu thuyết đầu tiên Gió Đông, Gió Tây (do chạy loạn Quốc dân đảng, năm 1930 mới xuất bản được). Sau đó hàng loạt tiểu thuyết nổi tiếng khác về đề tài Trung Quốc ra đời, như Đất Lành, Những Người Con Trai, Một Nhà Chia Rẽ, Người Mẹ, Những Đứa Trẻ Chậm Lớn… trong đó tiểu thuyết Đất Lành được nhận giải Pulitzer năm 1931. Năm 1933, bà được Đại học Yale tặng bằng Cử nhân Văn chương Danh dự. Năm 1938, bà được Đại học West Virginia và Đại học St. Lawrence trao tặng bằng Tiến sĩ Văn chương Danh dự. Năm 1938 Pearl Buck nhận giải thưởng Nobel vì các tác phẩm mô tả đời sống nông thôn Trung Hoa một cách phong phú và xác thực (chủ yếu với tiểu thuyết Đất Lành và hai cuốn tự truyện Người Tha Hương (1936) viết về người mẹ và Thiên Thần Chiến Đấu (1936) viết về cha của bà). Sau khi nhận giải, Pearl Buck tiếp tục sáng tác rất nhiều, ngoài văn xuôi bà còn viết kịch, kịch bản phim, tiểu luận và sách cho thiếu nhi. Bà cũng là người đã dịch Thủy Hử (All men are brothers) và một số tác phẩm văn học Trung Quốc sang tiếng Anh. Trong Thế chiến II, Pearl Buck viết nhiều sách báo chính luận chống chủ nghĩa phát xít. Những năm 50, bà xuất bản một số tác phẩm về đề tài gia đình và xã hội Mỹ, kí bút danh I. Sedge. Năm 1951, Pearl Buck được bầu làm thành viên Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn học Hoa Kỳ. Năm 1955, bà li dị chồng và tục huyền với giám đốc một hãng quảng cáo. Cuối đời, bà quan tâm đến đề tài các nhà bác học nguyên tử buộc phải chế tạo vũ khí giết người hàng loạt. Đồng thời, bà tích cực tham gia các hoạt động từ thiện, xã hội như: sáng lập ra tổ chức không vụ lợi Hiệp hội Đông Tây (The East and West Association, 1941) nhằm truyền bá những hiểu biết giữa các dân tộc trên thế giới; cùng chồng lập nên tổ chức Căn nhà tình nghĩa (Welcome Home, 1949) giúp trẻ mồ côi; lập ra Quỹ Pearl S. Buck (The Pearl S. Buck Foundation, 1963) và tặng cho quỹ này 7 triệu đôla. • Tác phẩm đã dịch ra tiếng Việt: Gió Đông, gió Tây; Ảo vọng; Sống vì đất; Tiếng gọi đồng quê; Lá thư Bắc Kinh; Tình yêu sau cùng; Người mẹ; Nhớ cảnh nhớ người; Yêu muộn; Nạn nhân buổi giao thời; Mấy người con trai Vương Long; Đứa con người yêu; Một phút một đời; Một lòng với em; Một cuộc hôn nhân; Lưu đày; Lưu đày biệt xứ; Cánh hoa e ấp; Đông phương huyền bí qua truyện cổ thần tiên; Truyện Đông phương; Người vợ tiên; Những người đàn bà tuyệt vời trong gia đình Kennedy; Những người đàn bà trong gia đình Kennedy; Tà áo xanh; Nỗi buồn nhược tiểu; Người yêu nước; Ngoài chân mây; Hứa hẹn; Bão loạn; Mẫu đơn; Quỷ địa ngục chẳng bao giờ ngủ; Yêu mãi còn yêu; Ba người con gái của Lương phu nhân; Trái tim kiêu hãnh; Một trái tim tự hào; Biên giới tình yêu; Tình cõi chân mây; Nô tì Mẫu Đơn; Đóa hoa ẩn mình; Trang; Người thành phố; Bí mật đời nàng; Người yêu nước; Thiên Hậu; Người cung nữ; Từ Hi Thái hậu; Con rồng linh diệu; Hạt giống của rồng; Vương Nguyên; Đất lành; Chuyện Kinh Thánh; Những người con của tiến sĩ Lương; Tiếng nói trong nhà; Tử thần và rạng đông; Người mẹ già; Những mảnh hồn sầu xứ.” *** Ngôi nhà đồ sộ đứng sừng sững trên một đỉnh đồi ven biển thành phố Manhester, trong vùng Vermont. Đó là một trang viên cũ kỹ xây cất từ một thế kỷ nay, trước khi người đàn bà cuối cùng của dòng họ Winsten qua đời, và trước ngày người con gái của bà, cô Elinor kết hôn với ông William Asher. Dù ngôi nhà từ đó đã qua tay chủ khác, vẫn được người trong vùng gọi bằng tên cũ ngày xưa. Ông William đâu bận tâm về điều đó. Đánh mất danh hiệu của mình trong một ngôi nhà đã mang tên người khác, đó là điều ông không nghĩ đến. Ông thích ngôi nhà vì nó là như vậy. Nhờ có tâm hồn quảng đại mà ông giữ được bản lĩnh thoát mọi ảnh hưởng khách quan, và vui vẻ hòa mình vào sự nghiệp của bà Elinor. Tại Long Island còn có một ngôi nhà của dòng họ Asher, ông William có thể giữ nó lại với tư cách là con trai duy nhất trong gia đình, song ông đã bán đi sau ngày cha mẹ ông qua đời mà không hối tiếc. Ông đã trải qua những mùa hè dịu dàng và xanh mượt, thời thơ ấu tại xứ Vermont, nên ông đã làm quen và ưa thích thành phố Manchester với những ngọn đồi yên tĩnh bao quanh. Ngôi nhà của dòng họ Winsten rất kiên cố và rộng mênh mông, các thế hệ đã nối tiếp nhau sinh sống ở đó, không phải sửa sang gì thêm. Người sáng lập, ông Adam Winsten, từ đầu thế kỷ 19, trước khi qua đời đã tự cho mình có trách nhiệm phải có đủ chỗ cho con cái ông: tất cả 12 đứa, trong đó có 9 đứa đã đến tuổi trưởng thành. Mặc dù ông có ý mở rộng thêm ra mãi, các cháu ông vẫn cảm thấy thiếu chỗ ở, và thiên cư gần hết về hướng Tây. Nhờ mỏ vàng và thiếc lộ, các cháu ông đã làm giàu nhanh chóng, đến độ về sau họa hoằn mới nhớ đến nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Trong thế kỷ trước, dòng họ Winsten, người này kế tiếp người kia, cho đến đời ông Adam Winsten, là người cuối cùng có vóc dáng của cây du khô héo trong mùa đông, và là thân sinh của cô Elinor. Không đứa nào trong các con ông muốn giữ một gia cư quá rộng như thế, đến nỗi kẻ đến xin giúp việc trong nhà, chỉ nhìn thấy những mái nhà vô tận, cũng tự động rút lui. Các con trai và con dâu của ông từ chối giữ lại bà già nấu ăn, tên là Bertha, vì bà đã ở quá lâu năm trong nhà. Dần dần tất cả đều bỏ đi, trừ cô Elinor, người con út, mẹ cô và bà Emma, người chị em bạn dì già yếu, là ba người sống luôn luôn ở đó. Trong thời gian ấy, hết mùa hè nọ đến mùa hè kia, ông William ngày một say mê cô Elinor tha thiết. Họ đã kết hôn cách rất đơn giản ít lâu sau khi bà Winsten qua đời: Bà này đã bị sốc mạnh trong một buổi chiều xuân, khi bà cố sửa những bụi hoa hồng rậm rạp của bà. Sau đám cưới của họ, bà Emma tuyên bố ý định về sống ở New York. Bà luôn ước mơ điều ấy, và với số tiền bà Winsten quá cố đã để lại cho bà, đủ để bà thực hiện ước vọng đó. Cô Elinor và cậu William thừa hưởng ngôi nhà. William rất ưa thích ngôi nhà này, vì ông yêu mến xứ sở này. Trước kia ông thường tiếc rẻ vì trong mùa hè chỉ đến đó chốc lát với gia đình thôi. Ông mở một văn phòng nhỏ ở Manhester, cạnh cổng trường luật Harvard, và ông tiếp tục giữ nó vì lý do tình cảm, mặc dù hiện tại và nhiều năm về sau, là một luật sư nổi tiếng, văn phòng chính của ông đặt tại New York. Ông đã do dự khi chọn giữa Boston và New York, nhưng dòng họ Asher đến từ New York và tiếp tục đời sống luật sư ở đó, tạo nên một liên hệ mật thiết giữa xưa và nay. ... Mời các bạn đón đọc Ảo Vọng của tác giả Pearl S. Buck.
Emily ở trang trại Trăng Non - Lucy Maud Montgomery
“Mọi người không bao giờ đúng khi nói tôi là Anne. Nhưng trên một số phương diện, họ sẽ đúng nếu cho rằng tôi là Emily.” - Lucy Maud Montgomery Khi biết tin cha chỉ còn sống được vài tuần nữa, Emily quyết tâm dành toàn bộ khoảng thời gian ít ỏi hai cha con còn được bên nhau để yêu thương cha bằng tất cả trái tim, khiến hai tuần cuối đời của ông Douglas Starr trở thành những ký ức đẹp và quý báu nhất. Nhưng, Emily ngây thơ, mơ mộng và dạt dào tình cảm sẽ sống thế nào khi hai tuần ấy đã qua đi, khi cô đã mồ côi cả cha lẫn mẹ lúc mới mười một tuổi, khi phải rời mái nhà nhỏ bé ấm cúng giữa thung lũng lòng chảo để đến với trang trại Trăng Non rộng mênh mông và quá xa lạ, với những người họ hàng đã căm ghét cha cô và chối bỏ mẹ cô, với những tâm hồn khô khan quá giàu lòng kiêu hãnh và những trái tim đã quá quen khép cửa? Đẹp, xúc động, giàu tính nhân văn và phảng phất màu sắc bí ẩn, Emily ở trang trại Trăng Non là tiểu thuyết thiếu nhi dành cho mọi lứa tuổi, một tác phẩm kinh điển của nền văn học Canada đủ sức chinh phục trái tim độc giả trên khắp thế giới - một cuốn sách vẫn vẹn nguyên sức hút bất chấp sự tàn phá khốc liệt của thời gian. *** Lucy Maud Montgomery (30/1/1874 – 24/4/1942), được biết đến rộng rãi dưới tên L.M. Montgomery. Bà là nhà văn người Canada nổi tiếng với sê-ri truyện viết về cô bé Anne tóc đỏ (hai trong số đó đã được dịch ra tiếng Việt). Bà tiếp tục viết 20 cuốn tiểu thuyết cùng với khoảng 500 truyện ngắn và thơ. Lucy Maud Montgomery sinh ngày 30/1/1874 tại Cliffon (nay là New England), thuộc đảo Hoàng Tử Edward, Canada. Mẹ của bà là Clara Woolner Macneill Montgomery mất vì bênh lao khi bà mới 21 tháng tuổi. Bố của bà, Hugh Montgomery, gửi bà cho ông bà ngoại chăm sóc. Mặc dù sống với ông bà nhưng tuổi thơ của bà khá đơn độc, vì vậy bà thường tạo ra một thế giới tưởng tượng xung quanh để vơi đi nỗi cô đơn, và từ đó trí tưởng tượng phong phú của bà được phát triển. Tháng 11 năm 1890, Lucy Maud Montgomery viết bài đầu tiên cho một tờ báo địa phương ở Charlottetown là Daily Patriot. Năm 1883, bà được nhận vào trường đại học Prince of Wales ở Charlottetown. Năm 1895 và 1896, bà theo học khoa văn tại trường đại học Dalhousie ở Halifax, Nova Scotia. Bộ Emily gồm có: Emily ở trang trại Trăng Non Emily Trên Dải Cầu Vồng Emily Và Ngôi Nhà Không Còn Tuyệt Vọng Mời các bạn đón đọc Emily ở trang trại Trăng Non của tác giả Lucy Maud Montgomery.
Chàng Công Tước Đáng Ghét - Barbara Cartland
Công tước vùng Selchesler - Theron Royd đẹp trai, kiêu hãnh, dũng cảm, giàu có và từng là một sĩ quan ngoan cường, đang trên đường đến miền quê Copper Hall thăm gia trang ngài Upminster mà chàng bị hiểu lầm là đến cầu hôn tiểu thư Charmine Upminster. Trên đường chàng tình cờ gặp Verena Winchcombe là cháu gái của vị tướng Sir Alexander Winchcombe lừng danh mà công tước rất khâm phục - bạn của Charmine, nàng đứng chờ xem mặt vị công tước đáng ghét đi cầu hôn bạn mình - nàng không biết mình đã gặp chính vị công tước ấy và Theron cũng không tiết lộ thân phận. Công tước vì hiếu kỳ đã theo Verena đột nhập vào chỗ cất giấu của cải của bọn cướp vàng. Nàng lành lặn thoát được nhưng chàng thì bị đánh lén 1 cú gần chết đành phải tá túc lại gia trang của nàng. Ở đây chàng biết được Verena đang yêu người anh họ của mình mà không biết hắn là 1 tên vô lại, ông của Verena trước khi mất để lại toàn bộ tài sản cho nàng và lo ngại về tên đào mỏ ấy. Sau khi khoẻ mạnh về lại London, công tước luôn lo lắng cho Verena và tìm đủ mọi cách để được giúp đỡ nàng. Tình cờ chàng phát hiện ra tổ tiên của dòng họ chàng và Verena từng có mối liên hệ hôn nhân, dựa vào đó chàng âm thầm hoàn tất thủ tục để trở thành người giám hộ của nàng mặc cho Verena tức điên lên. Dựa vào quyền giám hộ, công tước đã tìm đủ cách loại người anh họ của Verena ra khỏi đời nàng và biến nàng thành công tước phu nhân. Công tước yêu Verena nhưng lại thích chọc nàng nổi đóa, còn Verena yêu Theron bao nhiêu thì có lúc cũng ghét chàng bấy nhiêu. Tuy nhiên sự đời đâu dễ dàng thế, vì cái tính thích làm nữ anh hùng của mình và để bảo vệ tính mạng của công tước mà nàng đẩy chính mình vào nguy hiểm, còn công tước thì bao phen đứng tim vì lo cho nàng.  *** Barbara Cartland tên đầy đủ là Maria Barbara Cartland Hamilton sinh ngày 9/7/1901 là một nhà văn người Anh. Bà được coi là một trong những cây bút sáng tác mạnh mẽ nhất của thế kỷ 20 và luôn có tên trong sách kỷ lục Guinness như một trong những nhà văn xuất bản nhiều tác phẩm nhất trong một năm. Sự nổi tiếng của bà gắn liền với những cuốn tiểu thuyết lãng mạn hư cấu dưới bút danh Barbara Cartland, ngoài ra bà cũng sáng tác dưới bút danh sau khi đã lập gia đình là Barbara McCorquodale. Ước tính lượng sách bán được lên đến hơn một tỷ bản đã khiến bà trở thành một trong những biểu tượng xã hội của thành phố London cũng như một trong những nhân vật được giới truyền thông Anh săn đón nhiều nhất. Điểm đặc trưng nhất trong phong cách của Barbara Cartland là đoạn kết với tuyên ngôn tình yêu sẽ chinh phục mọi thử thách. "Những nhân vật nữ chính luôn là chìa khóa trong mọi tình huống. Họ là những phụ nữ độc lập, thông minh và tự tin vào bản thân. Barbara Cartland đã tạo ra sức hấp dẫn cho những câu chuyện bà kể bằng công thức vô cùng đơn giản: Luôn là một kết thúc có hậu nhưng trong suốt chiều dài câu chuyện người đọc lại luôn bị thu hút bởi ý nghĩ liệu nút thắt có bao giờ được cởi bỏ thành công" – Miller nói. Trong suốt sự nghiệp của mình Barbara Cartland đã viết khoảng 723 cuốn sách được dịch sang 38 ngôn ngữ. Quãng thời gian sáng tác dồi dào nhất của bà phải kể đến 650 tiểu thuyết lãng mạn được viết trong 20 năm cuối đời. Ngày 21/5/2000 bà qua đời ở tuổi 98 sau khi hoàn thành cuốn tiểu thuyết cuối cùng chỉ một năm trước đó. *** Mãi 1 lúc sauVerena vẫn chưa thốt ra được 1 lời nào vì những ngón tay của Jasper vẫn còn siết trên cổ họng nàng. Sau 1 hồi ngạc nhiên Giles nhảy ra khỏi chỗ nấp sau 1 hộp vàng thốt lên - Verena em làm gì ở đây vậy hả? Tại sao em lại theo bọn anh? Thần ác hơi nới tay ra và Verena đưa 2 tay lên xoa xoa lên chỗ bị bầm, cố trả lời - Em nghĩ... anh sẽ... mong em... cùng anh... - Cô chẳng hề nghĩ như thế. Jasper quát, hãy nói thật đi, cô đang theo dõi chúng tôi phải không? Verena nhìn mặt hắn và biết nàng phải cố tự giải thoát mình khỏi nguy hiểm mà nàng đang gặp phải - Không... dĩ nhiên là không, nàng nói, những lời cuối cùng được kết thúc bằng tiếng khóc vì hắn tát mạnh vào má nàng. - Cô đang nói dối, hắn buộc tội, chính cô là người đã báo cho Theron biết trước sẽ bị tấn công ở Hamstead Heath. Lúc đó tôi đã nghi ngờ rồi nhưng giờ thì tôi tin chắc. Cô biết quá nhiều rồi đó tiểu thư Winchcombe ạ, giờ chỉ còn 1 thứ duy nhất dành cho cô thôi Giọng hắn đầy vẻ đe doạ đến độ Verena phải cố hết sức để khỏi phải tỏ ra sợ sệt, nàng là con gái 1 người lính cơ mà. Nàng phải không được tỏ ra nhát gan trước 1 gã đàn ông như vậy - Mày định làm gì thế Jasper, Giles hỏi - Tao có ý nói là, Jasper trả lời, em họ của mày sẽ bị dìm chết 1 cách đáng tiếc, vì những tin tức của cô, tiểu thư Winchcombe, chúng tôi sẽ giữ cái đầu của cô dưới nước cho đến khi cô chết rồi ném xác cô xuống sông. Chẳng còn gì đáng nói trong trò chơi gian trá này đâu Verena thở sâu, nàng biết Jasper có ý nói gì, hắn rất có thể chuyển ý định của mình thành hành động lắm chứ. Không 1 lời nài xin của nàng hay ai khó có thể làm hắn thay đổi quyết định được. Nàng đang là nguy cơ khiến cho âm mưu của hắn bị tiết lộ vì thế nàng phải chết trừ phi công tước có thể đến đây được trong lúc này. ... Mời các bạn đón đọc Chàng Công Tước Đáng Ghét của tác giả Barbara Cartland.
Phương Nào Bình Yên - Kim Hài
Chuyến xe đò thả Nghi xuống rồi lại rú máy tiếp tục đoạn đường. Bầu không khí đột nhiên yên tĩnh. Vài người dân quê lom khom gặt lúa ở thửa ruộng cạnh như không biết đến sự hiện diện của Nghi. Và nhất là không biết được lòng Nghi đang nôn nao hồi hộp đến chừng nào. Con đường đất nhỏ xuyên qua những cánh đồng vàng lúa chạy dài khuất lấp sau mấy dãy núi thấp. Nghi chờ một chuyến xe lam đưa chàng vào trong ấy. Ðiếu thuốc tỏa khói trên môi. Nghi ngẩng nhìn bầu trời cao vừa trong xanh. Mùa thu đã về. Những đám mây lởn vởn đằng cuối chân trời. Nghi hấp háy mắt khi nhớ đến nụ cười của người con gái năm nào trong thung lũng hoang tàn mà Nghi đã từng qua. Nụ cười ấy vướng vít chân Nghi, nên bây giờ chàng trở lại. Chiến tranh đã qua rồi. Nghi trở về đời sống dân sự. Chàng không nhớ đến những ngày cực nhọc gian khổ đời lính, mà lại nhớ đến bóng dáng của người con gái chấc phác, đã len lỏi trong tim Nghi bằng chính tình yêu đầu đời. Tuổi trẻ của Nghi đã mất mát vì chinh chiến. Thời gian qua đi, ai có thể tìm hay níu kéo lại được tuổi xuân. Thế nhưng, tí nữa đây, qua hình bóng người yêu, Nghi sẽ sống lại những ngày tươi trẻ của chàng. Có tiếng xe lam nổ ròn đằng kia. Nghi xách hành lý lên tay và ra dấu cho xe ngừng. Người tài xế ngước đầu khỏi tấm mica chắn ra hiệu cho Nghi lên ngồi cạnh tay lái. Những cánh đồng chạy dài và mấy dãy núi xanh lại gần. Qua đoạn đường len giữa hai dãy núi thấp, Nghi đã trông thấy một phần ngôi làng với những mái nhà ẩn hiện trong những vòm cây xanh non, và ngọn đồi trọc lấp lánh trong ánh nắng. Ði ngang qua vùng đất ngày xưa Nghi đã từng đóng quân chàng chợt có ý nghĩ muốn dừng lại nơi nầy. Nhìn đồng hồ hãy còn sớm, Nghi đập vai người tài xế: - Ông cho tôi xuống đây. - Uả, không vô làng sao? Nghi cười: - Chút nữa. Chiếc xe chậm dần. Nghi nhảy xuống trả tiền, chờ cho xe chạy khuất sau ngọn đồi. Những đôi mắt mở to ngạc nhiên nhìn anh. Nghi mỉm cười với họ. Không còn dấu vết gì ghi lại lần dừng quân của tiểu đoàn Nghi cách đây hai năm tròn. Sim dại mọc đầy. Sát đồi, những vườn sắn xanh um rậm lá. Tất cả đều thay đổi. Không còn vẻ tiêu sơ, hoang tàn dạo nào. Những người dân quê đã trở về làng họ và tái tạo đời sống mới. Nghi lửng thửng leo lên ngọn đồi trọc. Không còn là đồi trọc như Nghi nghĩ. Nhà cửa đã được cất xây lại. Vài mái ngói đỏ au mới tinh. Những đụn rơm vàng ánh, nhưng sâu thóc đầu chứng tỏ sự trù phú của làng. Nhưng Nghi vẫn không thấy lạ, bởi chàng đã nhìn thấy đằng xa con lạch nhỏ nằm quanh co len lỏi qua những hàng cây rậm rạp như quen thuộc như thân tình. Bước chân Nghi đột nhiên cuống quýt. Có đôi mắt nào đang đợi chành bên kia bờ lạch. Nghi kêu tên người yêu thầm trong cổ. - Nhan ơi, Nhan ơi, anh về tìm Nhan đây. ... Mời các bạn đón đọc Phương Nào Bình Yên của tác giả Kim Hài.